GÀ, LỢN TRONG TRANH ĐÔNG HỒ
Phùng Hồng Kổn
“Con gà cục tác lá chanh
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi”
Gà và lợn là hai con vật được nhắc tới đầu tiên trong bài ca dao về ẩm thực của người xưa. Bài này hẳn là được sinh ra từ những làng quê đất Việt, nơi những người nông dân trồng lúa nước, chăn nuôi gia cầm, gia súc. Có một làng quê như thế, nhưng không chỉ nhìn gà, lợn dưới góc độ ẩm thực, mà cao hơn nhiều, đưa gà lợn lên tranh – với bao ước mơ, khát vọng gửi gắm vào bức tranh đó.
Phùng Hồng Kổn
“Con gà cục tác lá chanh
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi”
Gà và lợn là hai con vật được nhắc tới đầu tiên trong bài ca dao về ẩm thực của người xưa. Bài này hẳn là được sinh ra từ những làng quê đất Việt, nơi những người nông dân trồng lúa nước, chăn nuôi gia cầm, gia súc. Có một làng quê như thế, nhưng không chỉ nhìn gà, lợn dưới góc độ ẩm thực, mà cao hơn nhiều, đưa gà lợn lên tranh – với bao ước mơ, khát vọng gửi gắm vào bức tranh đó.
Làng Đông Hồ (nay gọi là Đông Khê, thuộc xã Song Hồ huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh) có nghề làm tranh từ thế kỉ thứ XVI. Tranh được in màu trên giấy Dó quét điệp. Màu được chế từ những chất liệu thiên nhiên: Đen từ lá tre; Trắng từ con Điệp ở biển; Xanh từ lá Chàm; Đỏ từ gỗ cây Vang hoặc đất đỏ ; Vàng từ hoa hòe…. Đề tài của tranh Đông Hồ rất phong phú, bài viết này chỉ đề cập tới hai con vật Gà và Lợn.
Trước đây làng Đông Hồ có tên là
Đông Mại (gọi Nôm là làng Mái) thuộc Tổng Đông Hồ, huyện Siêu Loại phủ Thuận An
trấn Kinh Bắc. Kinh Bắc là miền đất có bề dầy lịch sử văn hiến: Luy Lâu (nay là
xã Thanh Khương thuộc Thuận Thành) là phủ thủ của quận Giao Châu thời Bắc
thuộc, chùa Dâu (Thuận Thành ) là cái nôi của Phật Giáo Việt nam; Đình Bảng (Từ
Sơn) là quê hương của nhà Lý, một vương triều thịnh trị thời phong kiến…Những
hoạt động văn hóa dân gian ở Kinh Bắc vô cùng pong phú và đa dạng, xin điểm qua
một vài hoạt động có liên quan đến tranh Đông Hồ.
Thi Nuôi gà béo ở Lạc Thổ (tổng Đông Hồ huyện Thuận Thành) và Đại Bái
(Gia Lương): Gà được chọn những con chân cao, mình dài, khung xương ức rộng, cổ
cao, đầu to, mỏ khoằm, cứng, mào săn. Gà được nuôi trong cũi, chia từng
ngăn, cho ăn viên bột gạo độn cám mịn, mối trắng (nuôi bằng rơm rạ) - có con nặng tới 7, 8 kg, béo tròn đến
mức khi gà bước đi hai âu cánh xệ xuống rung rung theo nhịp bước. Giống gà này
gọi là gà Hồ, từ xưa đã là một trong ba giống gà nổi tiếng khắp nước là gà Hồ
(Bắc Ninh), gà Mía (Sơn Tây) và gà Đông Tảo (Hưng Yên).
Thi
nuôi lợn thờ ở Ném Thượng (Tiên Sơn): Từ
tháng 7 năm trước, mỗi giáp phải nuôi một con - thường là lợn ỉ. Chiều tối mồng
5 tháng giêng mang ra đình làm lễ. Những “ông lợn” được chọn béo húp híp, ục
ịch, da láng bóng lang hồng, nặng hàng tạ. Trưa mồng 6 là lễ chém lợn: Quan Đám
làm lễ xong lấy hai con dao thờ trao cho hai thanh niên dã được lựa chọn trong
hai giáp. Hai thanh niên này bước lên trước hương án làm lễ rồi lùi về, mỗi
người đứng bên một cũi lợn. Hiệu lệnh bằng trống, chiêng vừa dứt thì các quan
viên mở nhiễu điều phủ cũi, xua lợn ra. Mỗi thanh niên phải chém một nhát đứt
đôi một con lợn, nhát chém phải cắt ngang lợn, sát hai chân trước, không được
làm đứt lòng.
Những con gà, con lợn mang giải cho chủ
nhân của nó chắc hẳn rất đẹp. Nhưng các nghệ nhân Đông Hồ vẽ gà lợn vào tranh
đã không tả thực như nó vốn có mà đã cách điệu rất nhiều. Màu sắc, đường nét
rất thô mộc, dân dã nhưng mang tính ước lệ cao. Những con gà, con lợn trên
tranh Đông Hồ đã cõng trên lưng mình cả một bầu tâm tư, khát vọng của những
ngời nông dân thuở trước.
Đông Hồ có nhiều loại tranh gà:
Gà mẹ
con : Gà mẹ và mười chú gà con được bố cục gọn ghẽ trong một hình chữ nhật
nằm ngang, mỗi chú gà con một vẻ, con nào cũng “nghịch”- đang rỉa lông rỉa cánh
hay đang nghỉ ngơi trên lưng mẹ - bỗng dỏng cổ sau tiếng cục cục của gà
mẹ, hướng về phía con mồi của mẹ. Cái
“động” của gà con kết hợp với cái “tĩnh” của gà mẹ, lại đặt trong cái tĩnh của
hình chữ nhật. “Động” biểu thị cho
“dương”, “Tĩnh” biểu thị cho “âm”. Tông màu nóng (đỏ, vàng) là chủ đạo, khiến
cho đàn gà thêm rực rỡ trong bầu trời tràn ngập nắng. Cũng như tranh lợn đàn,
bức tranh này biểu trưng cho mong ước của người nông dân: “con đàn cháu đống”,
gia đình đông vui, hạnh phúc.
Gà Đại cát - Nghinh xuân (đón xuân tốt lành): Hai con gà đối xứng nhau, hình thể, lông cánh, lông
đuôi mang tính ước lệ hơn là tả thực. Chữ đại cát được tác giả đưa vào tranh đã
đúc kết mong ước từ ngàn năm và cũng là mong ước hàng ngày của mọi người nông dân. Người nông dân trồng
lúa nước chỉ mong mưa thuận gió hoà; chăn nuôi thì chỉ mong các con vật hay ăn
chóng lớn, cuộc đời chỉ mong khoẻ mạnh, con đàn cháu đống v.v... tất cả đều là
những ước mơ giản dị - điều lành lớn.
Đôi tranh này có bố cục khác hẳn tất cả các tranh còn lại.
Trong những tranh
khác, chữ - tuy cũng là một phần trong bố cục của tranh, những chỉ chiếm một
phần nhỏ, còn ở đây chữ và các hoa văn trang trí chiếm nửa bức tranh - tác giả
đã nhấn mạnh ước vọng của người nông dân - đồng thời đó cũng là lời chúc tụng
trong dịp xuân mới.
Gà
dạ xướng - Nhật minh : Một chú gà trống đứng co một chân (Kim kê độc lập -
tư thế giống gà đại cát), mào, cánh, đuôi, lông mã được cách điệu rất đẹp. Trên tranh có chữ “Dạ xướng ngũ canh hoà” (Đêm gáy năm
canh đều đặn). Vế kia của tranh, vẫn chú gà đó quay trở lại, và dòng chữ “Nhật minh tam tác thuỵ” (Ngày mang tới
ba điều lành). Theo quan niệm xưa, tiếng gà gáy xua tan tà ma, quỷ quái, mang
tới may mắn.
Kê
cúc (gà trống bên cây cúc): Chú gà hùng dũng, một chân gân
guốc xoạc ra, chân kia bám vào tảng đá, vươn mình lên như sắp gáy- mà cũng như
sắp bước vào một trận quyết chiến. Nói theo cách của hội hoạ hiện đại, bức
tranh này sử dụng bảng màu “tương túc” (tương phản và bổ túc). Hai màu tương
phản: đỏ - xanh (tuy đỏ đã ngả nâu) và màu trung gian: vàng. Những chiếc lông
cánh, lông đuôi của con gà: xanh - vàng - đỏ, rồi xanh - đỏ - vàng, có chỗ lại:
xanh - đỏ - xanh cùng những mảng vàng
lớn - khiến cho thị
giác người xem bị cuốn hút mạnh mẽ, chỉ có ba màu mà ta cảm thấy màu sắc như
trùng trùng điệp - ấn tượng rất mạnh.Theo các nghệ nhân cao tuổi, hình ảnh gà
trống oai phong, hùng dũng tượng trưng năm đức tính của người đàn ông: Văn, võ, dũng nhân, tín.
- Cái mào đỏ tựa như chiếc mũ
cánh chuồn - tượng trưng cho Văn.
- Chân gà có cựa sắc nhọn như
kiếm, dùng để chọi - tượng trưng cho Vũ.
- Thấy địch thủ, gà trống dũng
cảm xông vào, chiến đấu đến cùng - biểu thị của Dũng.
- Kiếm được mồi cùng gọi nhau ăn
- biểu thị của Nhân.
- Hàng ngày gà gáy sang canh
không bao giờ sai, nó đánh thức mọi
người dạy đúng giờ - biểu thị của Tín.
Trên tranh không có chữ gì nhưng một bài thơ vịnh chú gà
này của nghệ nhân Hiền Năng lại được truyền tụng. Bài thơ có tám câu mà đã sử
dụng tới bốn câu phương ngôn về gà:
Gà trống
Xưa vốn cùng chung một mẹ mà
Khôn ngoan đá đáp với người ta
Gáy lên bạn hỡi xem trời sáng
Báo để người nghe tỉnh giấc ra
Rõ vẻ giống tông đầu mỏ thế
Lẽ đâu ăn quẩn cối xay nhà
Mặc ai vờ vịt trông ra quốc
Thực giống Hồ đây chẳng phải pha.
Xưa vốn cùng chung một mẹ mà
Khôn ngoan đá đáp với người ta
Gáy lên bạn hỡi xem trời sáng
Báo để người nghe tỉnh giấc ra
Rõ vẻ giống tông đầu mỏ thế
Lẽ đâu ăn quẩn cối xay nhà
Mặc ai vờ vịt trông ra quốc
Thực giống Hồ đây chẳng phải pha.
Các cụ kể lại, năm ấy (khoảng 1915) cụ Chánh
Hoàn gả con gái cho anh Phán Vinh, cụ Đám Giác đã mừng đám cưới bằng một mẫu
tranh mới: Gà thư hùng : Một gia đình
gà gồm gà trống, gà mái và đàn con. Trên tranh có dòng chữ nôm “Lắm con nhiều cháu, giống cánh giống lông”-
một lời chúc thật sâu sắc! (Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh). Gà
mái có bố cục theo Đường xoắn ốc - tạo nên sự nũng nịu. Gà trống được đặt trong
một hình thang, đáy lớn nằm trên - tạo nên tư thế chủ gia đình,
che trở cho gà mái và đàn con. Bức tranh gợi không khí hạnh phúc , đầm
ấm trong một gia đình.
Tranh lợn có: Lợn đàn , Lợn độc, Lợn ăn dáy - tất cả đều béo mũm mĩm - “mõm gầu giai, tai lá mít, đít lồng bàn”. Những
bức tranh lợn được diễn tả bằng ngôn ngữ ước lệ nhưng cũng chứng tỏ cá nghệ
nhân đã quan sát rất kĩ nguyên mẫu, đó là giống lơn ỉ thuần chủng. Giống lợn
này thường có màu đen hoặc lang hồng, lưng võng, bụng xệ, trên thân thường có
những đám lông mọc thành khoáy tròn. Theo kinh nghiệm của nhà nông thì những
con lợn nào mà trên lưng có dải lông mọc khác chiều với chỗ khác thì đó là
giống tốt. Điều này đã được các nghệ nhân nhấn mạnh bằng một vệt màu sẫm. Để làm nổi bật cái má và cái
đùi nung núc mỡ, họa sỹ vẽ hẳn một mảng màu hình lưỡi liềm. Điều thú vị nữa là
cái mũi, nếu ta nhìn nghiêng – để trông thấy cả mình con lợn – thì không thể
trông thấy hai lỗ mũi của nó. Ơ đây tác giả đặt điểm nhìn từ cả phía bên cạnh
lẫn phía trước, vì vậy đã thể hiện rõ cái “mõm gầu giai” của con lơn. Chúng ta
thấy rõ những tranh lợn này có mối liên hệ với tục nuôi lợn thờ ở Niệm Thượng
Từ Sơn. Dù thời gian trôi đi, các bản khắc có thể mòn, sứt nét, hỏng - nhiều
nghệ nhân đã khắc những bản mới, có thể
thay đổi đôi chút - nhưng một điểm bất biến ở tranh lợn là: Trên mỗi con
đều có hai cái khoáy đựơc thể hiện bằng biểu tượng âm
dương.
Từ xa xưa, con người ở phương đông, qua
trải nghiệm cuộc sống đã đúc rút ra triết lý âm dương. Ban đầu là những khái
niệm rất cụ thể: Giống cái : âm, giống đực: dương, Đất : âm (biểu tượng là hình
vuông), Trời : dương (biểu tượng là hình tròn), dần dần người ta đã suy ra
nhiều cặp đối lập phổ biến khác: Phía bắc, lạnh - thuộc âm, phía nam, nóng -
thuộc dương; Mùa đông : âm, mùa hè : dương; Đêm : âm, ngày; dương và còn rất
nhiều cặp âm dương khác: Mềm - cứng; Tĩnh - động; Chậm - nhanh; Tối - sáng; Đen
- đỏ; Thấp - cao...
Về sau người ta lại phát hiện ra những quy
luật cơ bản của nguyên lý âm dương:
- Không có gì hoàn toàn âm hoặc
hoàn toàn dương, trong âm có dương, trong dương có âm.
- Âm và dương luôn gắn bó mật
thiết với nhau, vận động và chuyển hoá cho nhau, âm phát triển đến cùng cực thì
chuyển thành dương; dương phát triển đến cùng cực thì chuyển thành âm.
Tranh cổ Đông Hồ luôn có đôi, bản thân
hình thức đôi tranh đã thể hiện triết lý âm dương. Nội dung tranh lại càng làm
rõ điều này: Ông tơ - bà nguyệt (ông tơ-dương, bà nguyệt -
âm; Văn trường - Vũ trường (văn - âm, vũ - dương); Hứng dừa - đánh ghen (hứng
dừa: êm đềm, hạnh phúc - âm, đánh ghen: bất hạnh, náo động - dương); Dạ xướng
ngũ canh hoà - Nhật minh tam tác thuỵ (đêm - âm, ngày - dương) v.v...
Riêng các tranh lợn thì các nghệ nhân Đông Hồ vẽ hẳn biểu
tượng âm dương lên mình mỗi con.
Lợn đàn - biểu hiện sự sinh sôi nảy nở - phản ánh tín ngưỡng phồn thực, lợn độc - “nhất khoảnh anh hùng”, lợn ăn dáy - quy luật sinh tồn, tất thảy đều hoà hợp âm dương - đó là quy luật của cuộc sống.
Lợn đàn - biểu hiện sự sinh sôi nảy nở - phản ánh tín ngưỡng phồn thực, lợn độc - “nhất khoảnh anh hùng”, lợn ăn dáy - quy luật sinh tồn, tất thảy đều hoà hợp âm dương - đó là quy luật của cuộc sống.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét