Chủ Nhật, 2 tháng 12, 2018

Trần Văn Chánh: TRẦN TRỌNG KIM - HỌC GIẢ



Trần Trọng Kim học giả 

Trần Văn Chánh
Đông Tác giao lưu

Thuộc thế hệ tuổi trên dưới 60 như chúng tôi, ở miền Nam, hễ có quan tâm ít nhiều tới chuyện sách vở thì hầu như không ai không biết đến nhân vật Trần Trọng Kim (1883-1953), một học giả tên tuổi, có thời gian ngắn tham gia chính trị với tư cách Thủ tướng của Đế quốc Việt Nam (1945), và là người tiên phong cho một số công trình biên khảo có giá trị lâu dài thuộc nhiều lĩnh vực học thuật khác nhau, như Việt Nam sử lược, Nho giáo, Truyện Thúy Kiều...


Khởi đầu sự nghiệp trứ tác từ năm 1914 khi phụ trách mục “Học khoa” trên Đông Dương Tạp Chí, với loạt bài viết có tính giáo khoa về luân lý và về khoa sư phạm học, nếu tính đúng và đủ, Trần Trọng Kim là tác giả của tất cả những công trình đã in thành sách, liệt kê theo thứ tự thời gian như sau: Sơ học luân lý (Nhà in Trung Bắc Tân Văn, Hà Nội, 1914), Sư phạm khoa yếu lược (Trung Bắc Tân Văn, 1916), Việt Nam sử lược (2 quyển Thượng và Hạ, Trung Bắc Tân Văn, 1919), Truyện Thúy Kiều chú giải (1925, soạn chung với Bùi Kỷ), Quốc văn giáo khoa thư (3 tập: lớp Đồng ấu, lớp Dự bị, và lớp Sơ đẳng), Luân lý giáo khoa thư, Sử ký giáo khoa thư (cả ba loại giáo khoa thư này xuất bản năm 1926, và đều soạn chung với Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận, do Nam Sơn Nguyễn Văn Thọ vẽ minh họa), 47 điều giáo hóa của nhà Lê (Trung Bắc Tân Văn, 1928, dịch “Lê triều giáo hóa điều luật tứ thập thất điều” ra tiếng Pháp: Les 47 articles du Catéchisme moral de l’Annam d’autrefois), Nho giáo (Trung Bắc Tân Văn, 1930, ba quyển; sau in gộp lại thành hai quyển, 1932-1033), Việt thi (sao lục và chú giải), Phật lục (NXB Lê Thăng, Hà Nội, 1940), Phật giáo (Tân Việt xuất bản), Vương Dương Minh (1940), Việt Nam văn phạm (Lê Thăng, Hà Nội, 1941, soạn chung với Phạm Duy Khiêm, Bùi Kỷ), Tiểu học Việt Nam văn phạm (Tân Việt xuất bản), Phật giáo thủa xưa và Phật giáo ngày nay (Tân Việt, 1953; “Lời mở đầu” của tác giả đề tháng 10.1952), Hạnh thục ca (Tân Việt xuất bản), Đường thi (Tân Việt xuất bản), Lăng ca kinh (Tân Việt, 1964), Một cơn gió bụi (Hồi ký, viết từ năm 1949, xuất bản năm 1969 tại Sài Gòn do NXB Vĩnh Sơn).

Ngoài những sách đã in chính thức trên đây, Trần Trọng Kim còn có loạt bài biên khảo dài về Đạo giáo (Đạo Lão Tử) đăng nhiều kỳ trên Nam Phong Tạp Chí (từ số 67 năm 1923), chưa xuất bản thành sách. Vũ trụ đại quan Thiên văn học là 2 công trình biên khảo khác nữa nhưng dường như chỉ ở dạng bản thảo đã bị thất lạc trong thời kỳ chiến tranh Việt-Pháp (1946-1954). Quyển đầu thấy tác giả có nhắc qua trong một bức thư gởi Hoàng Xuân Hãn mới được công bố gần đây; còn quyển sau, chỉ được biết qua sự ghi nhận của nhà văn-nhà báo Lãng Nhân Phùng Tất Đắc trong tập hồi ký Nhớ nơi kỳ ngộ (do Ziên Hồng xuất bản ở Hoa Kỳ năm 1997). Riêng cuốn Pháp bảo đàn kinh nói là do ông dịch, chúng tôi chỉ thấy giới thiệu sau bìa lưng một quyển sách khác do NXB Tân Việt in năm 1964, nên chưa thể xác định.

Nếu xét trên phương diện đề tài thì tác phẩm của Trần Trong Kim bao quát một phạm vi rất rộng, từ giáo khoa nhiều môn học sang các lĩnh vực Văn, Triết, Sử, Tôn, và đều có tính cách tiên phong đi đầu trên mỗi lĩnh vực học thuật trong giai đoạn chuyển giao từ nền cựu học sang tân học, trong số đó riêng Việt Nam sử lược từ khi ra đời đã được đánh giá là một trong những quyển sử quy mô đầu tiên của Việt Nam viết bằng chữ quốc ngữ, vừa có phong cách ngắn gọn, súc tích, vừa đầy đủ dễ hiểu, đọc rất hấp dẫn, và được tái bản cho đến nay có đến chục lần.

Điều khá đặc biệt là những cuốn giáo khoa tiểu học nêu trên do ông chủ trì biên soạn đều là những sách viết rất hay, mà một số bài trong đó đến nay lớp người từng học tiểu học khoảng nửa trước thế kỷ XX vẫn còn thuộc nằm lòng. Một số câu, đề bài đã trở thành nhưng câu khẩu ngữ rất quen thuộc: Ai bảo chăn trâu là khổ… Xuân đi học coi người hớn hở... Cách biên soạn đơn giản, dễ nhớ như thế của nhóm soạn giả Trần Trọng Kim rất có giá trị thuyết phục, mà ngày nay có lẽ còn phải phấn đấu học hỏi nhiều nữa giới sư phạm mới có thể vượt lên hơn được.

Trong Việt Nam văn học sử yếu, GS Dương Quảng Hàm xếp Trần Trọng Kim vào chương “Các văn gia hiện đại” cuối sách, ở tiểu mục “Khuynh hướng về học thuật”, chỉ với 3 dòng nhận xét rất ngắn gọn nhưng đủ khái quát hết sự nghiệp học thuật của ông: “Trần Trọng Kim (hiệu Lệ Thần) là một nhà sư phạm đã soạn nhiều sách giáo khoa có giá trị và một học giả đã có công khảo cứu về Nam sử và các học thuyết cổ của Á Đông” (Bộ Giáo dục-Trung tâm học liệu, Sài Gòn, 1968, tr. 450).

Đến Nhà văn hiện đại (4 tập, Tân Dân, Hà Nội, 1942-1945), nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan (1902-1987) xếp Trần Trọng Kim vào “Các nhà văn lớp đầu”, nhóm biên khảo (cùng với Bùi Kỷ, Lê Dư, Phan Khôi, Nguyễn Quang Oánh, Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn Văn Tố, Đào Duy Anh), đã giới thiệu khá tỉ mỉ văn nghiệp của ông (chiếm đến 30 trang giấy). Đặc biệt giới thiệu, phân tích, phê bình một cách tập trung, chi tiết vào 3 quyển Việt Nam sử lược, Nho giáo Việt Nam văn phạm. Riêng Việt Nam sử lược, Vũ Ngọc Phan cho rằng “tuy gọi là ‘lược’ nhưng cũng đủ được mọi việc trong thời kỳ đã qua của nước nhà và đáng coi là một bộ sách giá trị” (NXB Văn Học-Hội Nghiên Cứu Và Giảng Dạy Văn Học TP. HCM, 1994, tập I, tr. 181). Rồi đi tới một kết luận chung cho toàn bộ sự nghiệp biên khảo của Trần Trọng Kim: “Đọc tất cả các văn phẩm của Trần Trọng Kim, người ta thấy tuy không nhiều, nhưng quyển nào cũng vững vàng chắc chắn, không bao giờ có sự cẩu thả.

“Ông có cái khuynh hướng rõ rệt về loại biên khảo; chỉ đọc qua nhan đề các sách của ông, người ta cũng có thể thấy ngay: hết lịch sử, đến đạo Nho, đến đạo Phật, rồi lại đến mẹo luật tiếng Việt Nam. Ông là một nhà giáo dục, nên những sách của ông toàn là sách học cả.

“Văn ông là một thứ văn rất hay, tuy rất giản dị mà không bao giờ xuống cái mực tầm thường; lời lời sáng suốt, giọng lại thiết tha như người đang giảng dạy. Lối văn ấy là lối văn của một nhà văn có nhiệt tâm, có lòng thành thật” (sđd, tr. 208-209).

Lại đến Việt Nam văn học sử giản ước tân biên của Phạm Thế Ngũ, tập III, phần Văn học hiện đại 1862-1945 (Quốc Học Tùng Thư, Sài Gòn, 1965), nhà nghiên cứu văn học rất tài hoa uy tín này tiếp tục xếp Trần Trọng Kim vào hàng ngũ các nhà biên khảo tiêu biểu của giai đoạn 1907-1932, chung với Phan Kế Bính (1875-1921), Nguyễn Hữu Tiến (1874-1941) (hai tác giả đã được Vũ Ngọc Phan xếp vào nhóm Đông Dương Tạp Chí và nhóm Nam Phong Tạp Chí) và Phan Khôi (1887-1959). Phạm Thế Ngũ gọi Trần Trọng Kim là nhà giáo dục mới, lần lượt điểm qua các tác phẩm tiêu biểu, trước khi đi đến nhận định tổng quát có thể bổ sung được cho sự đánh giá của hai nhà vừa nêu trên: “Ở Trần Trọng Kim ta thấy một đặc điểm là mặc dù sớm theo Tây học, lại sang cả Pháp du học, song ông đã có với văn hóa Đông phương một mối kính cẩn sâu xa. Có thể nói ông chủ trương bảo tồn, thủ cựu hơn cả Phạm Quỳnh. Về đường trước tác thì có thể nói ông đã thực hiện đúng cái đường lối... là đem tất cả cái gia tài văn hóa của ông cha mà bàn giao lại cho thế hệ mới... Tuy có Tây học song ông tự đặt mình vào phái cũ, đem cái phương pháp mới học được của Tây học mà làm những công trình bàn giao ấy cho được rõ ràng hơn hoàn bị hơn. Sự phối hợp giữa một phương pháp biên khảo mới mẻ và một kho kiến thức phong phú cộng thêm vào một thiện chí theo đuổi “cúc cung tận tụy” đã khiến cho những công trình của ông có một giá trị vững bền và đặt ông vào hàng đầu các nhà biên khảo ở giai đoạn này.

“Về hành văn thì ông có một lối văn đặc biệt bình dị... Không ưa những hình ảnh cao kỳ, lối sắp đặt đối ngẫu, sự bay bổng hay hào hoa, chỉ muốn dùng cách thông thường nhất dễ hiểu nhất, để dẫn giải ôn tồn cho người ta hiểu. Văn bình đạm song có khí có lực, cũng như con người vậy” (tr. 301-302).

Trần Trọng Kim, còn có bút hiệu Lệ Thần, sinh năm 1883 (Quý Mùi) tại làng Kiều Lĩnh, xã Đan Phổ (nay là Xuân Phổ, trước thuộc tổng Đan Hải), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

Theo Vũ Ngọc Khánh, họ Trần của Trần Trọng Kim là một họ lớn ở Đan Phổ (lúc đầu gọi Đan Phố, sau theo cách phát âm mới đọc Phổ), cụ thân sinh ra Trần Trọng Kim là Trần Bá Huân, có tham gia phong trào Cần Vương. Em gái ông tên Trần Thị Liên là một cán bộ Xô Viết, hoạt động năm 1930 (mất năm 1964). Ngoài ra, ông còn có người con gái hiện đang ở Pháp (xem “Bàn thêm về Trần Trọng Kim”, Tạp chí Văn Hóa Nghệ An, 26.11. 2009). Riêng vợ ông là em gái nhà nghiên cứu văn học Bùi Kỷ.

Xuất thân trong một gia đình Nho giáo, ông học chữ Hán từ nhỏ. Năm 1897, học chương trình Pháp ở Trường Pháp-Việt Nam Định. Năm 1900, thi đỗ vào Trường thông ngôn, tốt nghiệp năm 1903. Năm 1904, làm Thông sự ở Ninh Bình.

Ít ai biết rõ thuở hàn vi của Trần Trọng Kim ra sao, vì ngay trong tập hồi ký viết cuối đời, cuốn Một cơn gió bụi (tên phụ “Kiến văn lục”, NXB Vĩnh Sơn, Sài Gòn, 1969), cũng không thấy kể. Chỉ biết ông nhà nghèo, nên năm 1906 mới nhờ bạn học cũ là Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) giúp, khi ông Vĩnh được nhà nước bảo hộ Pháp giao trách nhiệm tổ chức đi dự cuộc Hội chợ Marseille ở Pháp (hồi đó gọi là “đấu xảo”), sắp xếp cho ông đi theo với tư cách thợ khảm, mà thật ra mục đích chính chỉ để tranh thủ ở lại Pháp học thêm: “Thì mục đích mình là kiếm đường du học, chứ tôi có biết khảm khiếc gì đâu!” (Lãng Nhân, sđd., tr. 84).

Từ đó ông trải qua học trường Thương mại ở Lyon, rồi được học bổng vào trường Thuộc địa Pháp. Năm 1909, vào học trường Sư phạm Melun, tốt nghiệp ngày 31 tháng 7 năm 1911 rồi về nước, do học bổng của mọi sinh viên lúc đó đột nhiên bị bãi. Sau đó, lần lượt dạy ở Trường trung học Bảo hộ (Trường Bưởi), Trường Hậu bổ và Trường nam Sư phạm.

Ông là nhà giáo mẫu mực, có uy tín trong xã hội, từng giữ nhiều chức vụ trong ngành giáo dục thời Pháp thuộc như: Thanh tra các trường tiểu học Pháp-Việt (1921), Trưởng ban Soạn thảo Sách giáo khoa Tiểu học (1924), giáo viên Trường Sư phạm thực hành (1931), Giám đốc các trường nam tiểu học tại Hà Nội (1933). Ngoài ra ông còn là Phó trưởng ban Ban Văn học của Hội Khai trí Tiến Đức và Nghị viên Viện Dân biểu Bắc Kỳ. Bắt đầu về hưu năm 1942 khi vừa tròn 60 tuổi.

Theo sự kể lại của Lãng Nhân, một người được Trần Trọng Kim coi là bạn trẻ khá thân thiết, thì ông người vóc đậm nên trông hơi thấp, nước da ngăm ngăm, đi đứng khoan thai vững vàng, tuy gốc Nghệ Tĩnh nhưng ở Bắc lâu nên giọng nói nhẹ nhàng. Thấy ông là nhà giáo đạo mạo, lại chuyên viết những công trình nghiêm túc gần như giảng đạo, ít ai nghĩ Trần Trọng Kim là người có óc trào lộng, thích kể chuyện tiếu lâm, và cũng theo Lãng Nhân cho biết, cuốn sách nhỏ do nhà Ích Ký phố Hàng Giấy xuất bản năm 1910, có những chuyện “xứ Nghệ” xem vỡ bụng cười, đều do ông Trần kể lại với tác giả Thọ An, tức Phạm Duy Tốn (1883-1924), một nhân vật trọng yếu của nhóm Nam Phong.

Tính ông vui vẻ, cởi mở, xuềnh xoàng dễ gần và không quan cách, kể cả khi sau này ở địa vị đứng đầu chính phủ, như có lần chào tạm biệt một nhà báo khi nhà báo này vừa làm xong cuộc phỏng vấn: “Ta cũng là anh em, trước ông biết tôi là Kim nay cứ gọi Kim, xin đừng xưng hô kiểu cách” (xem Nguyễn Duy Phương, Lịch sử độc lập và nội các đầu tiên Việt Nam, Hà Nội, 1945, tr. 33).

Có những chi tiết rất lý thú về nền nếp sinh hoạt hằng ngày của ông. Cũng theo Lãng Nhân, “Sở dĩ ông thực hiện được những tác phẩm có giá trị cả về phẩm lẫn lượng, là nhờ sự kê cứu tỉ mỉ công phu cùng đức tính cần cù, nhẫn nại và cương quyết ít thấy ở ai khác. Thật vậy, nhà ông, trên lầu, riêng một căn làm thư phòng, giữa kê một bàn giấy lớn, sách vở bày trên từng chồng xếp đặt ngay ngắn, bên đèn bên quạt điện, trước bàn là một ghế bành gỗ gụ không có nệm. Điều khác thường là bao nhiêu đó được vây kín trong một khung hình lớn lúc nào cũng buông xùm xụp để tránh muỗi. Mỗi ngày cơm chiều xong là ông tản bộ đi chơi, đi thăm hỏi bạn bè, khi chuyện trò trong hội Khai Trí, nhưng nghiêm luật bất di bất dịch là đúng 10 giờ đêm, dù mưa gió bão bùng, thế nào ông cũng có mặt nơi ‘bàn mùng’ để căm cụi dùi mài cho đến 2 giờ sáng” (sđd., tr. 84-85).

Trần Văn Chánh, TS

2 nhận xét :

  1. Người miền Nam VN trước 1975 nhờ tới cụ Trần trọng Kim là nhớ tới những tác phẩm của cụ . Nhớ tới một nhà mô phạm mẫu mực, một nhà Nho chân chính, một người nhiệt tâm yêu nước không có tham vọng chính trị , của cải vật chất ! Cụ rất xứng đáng được tôn vinh !

    Trả lờiXóa
  2. Nhớ Tiên sinh xưa,

    Trí dõi sáng mặt trời,
    Học noi sâu lòng bể,
    Dẫu theo Tây thức văn minh,
    Vẫn giữ Đông Phương phong thế..
    Cười nói nhân nghĩa,
    Đứng phép, ngồi khuôn,
    Đầm ấm xuân phong,
    Êm đềm hoà khí..


    Việt nam sử lược, mà không sơ lược,
    Từ Thượng Cổ, chí cho đến Cận Kim,
    Mọi chi tiết đều tra cứu, kiếm tìm,
    Rồi ghi chép,rõ ràng cẩn thận.
    Biết đâu thì ghi đến đó,
    Để người Việt rõ, các triều đại tiên nhân.



    Nho Giáo, Phật Giáo, các công trình,
    Các ý kiến, nhận xét, đều chừng mực, phân minh.
    Tiếng Việt biên niên, ghi chú đầy đủ,
    Tiếng Hán, tiếng Tây, đều ghi xuất xứ..
    Đồ sộ như cuốn Tự điển Toàn thư..



    Quốc Văn Giáo khoa, rồi Luân Lý Giáo Khoa,
    Các sách Giáo Khoa, Sử Ký, viết ra,
    Những cẩm nang, những kho tàng vô giá.
    Cho đạo đức bao thế hệ, trẻ già.
    Ngẫm nhìn lại nay, mà xót xa!


    Tiểu học văn phạm, rồi Việt nam văn phạm,
    Từ nhớn đến bé, đã bao năm.
    Học sách của Tiên sinh, nhà sư phạm.
    Hậu sinh nay, tiếng Việt tiến hoá thế nào,
    Cũng nhờ Tiên sinh, góp công lao!

    Ôi! Biết bao công lao, công vun đắp,
    Chỉ mấy chục năm, mà chực biến mất.
    Nhường chỗ cho những vụn vặt, đê hèn,
    Nền "Văn hoá" "Mới", từ dưới đất mọc lên
    Đưa con người xuống chỗ đất đen!
    Bên cái xã hội "mới", lật úp đảo điên..

    "Văn chương" thì đủ màn trí trá, giai cấp.
    "Đạo đúc" đủ trò lường gat, quen tai.


    Ôi!Tài chẳng gặp thời, Tuổi không kịp chí.
    Tâm tình thì để lại trên ngàn trang sử ký..
    Lúc đât nước vận hội, thì ra tay tỷ thí,
    Cống hiến kiến thức mình cho vua, cho dân!


    Tháng 8 về, nhớ các bậc tiên nhân,
    Hồi tưởng, hậu sinh, lòng thành mến mộ!



    Trả lờiXóa