Thứ Ba, 5 tháng 12, 2017

TÌM LÀNG NGHỀ HÀ TÂY TRÊN PHỐ NGHỀ THĂNG LONG HÀ NỘI


Tìm dấu tích làng nghề Hà Tây
trên phố nghề Hà Nội


Nguyễn Xuân Diện


Xưa nay, những trung tâm lớn đều giữ vai trò vừa có sức hút, vừa có sức lan toả trong tương quan với xung quanh (dân gian gọi là tứ chiếng: Đông, Nam, Đoài, Bắc). Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội là một trung tâm như vậy.


Vừa thâu nhận vừa lan toả, văn hoá Thăng Long không ngừng được tô điểm. Và Sơn Nam thượng cùng xứ Đoài xưa, nay là Hà Tây vẫn luôn cùng Thăng Long song hành trên những bước đường văn hoá. Hà Tây vẫn thường trao và nhận cùng Thăng Long bao hiền tài, nghề khéo, nghệ thuật và thi ca.

Kề bên Thăng Long - Hà Nội, Hà Tây không chỉ là nơi có nhiều phong cảnh đẹp, nhiều lễ hội, nhiều sinh hoạt văn hoá dân gian đặc sắc và có nhiều làng vui chơi, làng ca hát nức tiếng cả nước mà còn là đất trăm nghề. Các nghề có nguồn gốc từ quê hương Hà Tây đã thâm nhập đất Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội - một trung tâm văn hoá lâu đời và tiêu biểu của văn hoá người Việt ở đồng bằng Bắc bộ.

Sức hút của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội đối với các làng nghề 

Hà Tây là nơi có hàng trăm nghề khéo và là một trong những tỉnh có nhiều nghề, nhiều làng nghề cổ truyền nhất trong cả nước. Hơn nữa, có rất nhiều mặt hàng của Hà Tây thuộc loại hàng tinh xảo, giá thành cao không phù hợp với nhu cầu của người nông dân nghèo trong khu vực. Nhu cầu về thị trường đã khiến cho những người làm nghề thủ công mỹ nghệ trên đất Hà Tây tìm ra Thăng Long để làm ăn.
.
Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội có nhiều lợi thế trong việc quy tụ các làng nghề. Trước hết đây là chốn hội thủy tức là nơi tập trung của các đường nước, là điều kiện vô cùng thuận lợi cho giao thông - giao thương. Đây là một điều khá quan trọng cho việc mua bán, chuyên chở, tập kết, nguyên - vật liệu cũng như các sản phẩm của các làng nghề truyền thống. Giao thông, giao thương trên sông nước thuận lợi cũng tức là sản phẩm được lưu truyền nhanh chóng trong thị trường rộng rãi. Đó là chưa nói tới sự thuận lợi của sông nước đối với một số nghề cổ truyền trong quá trình sản xuất phải cần có nhiều nước (giấy, sơn mài, nhuộm, gốm).

Thăng Long - Hà Nội là nơi đông dân, dân phần đông là dân buôn bán hoặc quan lại, người làm nghề thủ công nên họ khá sành điệu trong việc chơi và mua sắm và nói chung họ có thị hiếu khá cao. Nơi đây do vậy là thị trường lớn, có nhu cầu tiêu thụ sản phẩm cao. Ta cũng biết từ rất sớm Thăng Long đã có hệ thống các chợ là nơi mua bán trao đổi trung chuyển nguyên vật liệu, sản phẩm cuả các làng nghề, phố nghề Hà Nội cũng như của tất cả các miền quê có quan hệ buôn bán với Thăng Long. Có lẽ cũng không có một nước nào trên thế giới mà thủ đô lại có những con phố, những dãy phố có tên gọi chỉ một nơi bán một mặt hàng như ở Hà Nội. Mỗi một chữ hàng trong một tên phố đã xác định địa điểm tập kết nguyên vật liệu hay sản phẩm của một mặt hàng nào đó. Chính đặc điểm nổi bật của Thăng Long như vậy đã quy định cho kiến trúc nhà ở dân dụng của cả kinh đô này. Và trong con mắt của dân tứ chiếng thì Hà Nội chính là một cái chợ khổng lồ được gọi bằng cái tên là Kẻ Chợ. Tôi nghĩ rằng chắc các nhà nghiên cứu và quy hoạch khu phố cổ nói riêng, các nhà quy hoạch thủ đô nói chung sẽ không quên đặc điểm này.

Ngoài những khu phố hay chợ còn phải kể đến các chợ ở bến sông, bến đò nhộn nhịp trên bến dưới thuyền kẻ mua người bán suốt quanh năm.

Với những điều kiện như vậy, Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội là nơi tiêu thụ lớn, là nơi sàng lọc thử thách các sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống. Đó cũng chính là sức hút lớn của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội. 

Từ làng nghề Hà Tây đến phố nghề Hà Nội 

Hà Tây là tỉnh có nhiều làng nghề nổi tiếng cả nước. Sản phẩm của các làng nghề cổ truyền của Hà Tây cũng đã có mặt ở Thăng Long từ rất sớm. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thừa Hỷ thì hai thế kỷ XVII và XVIII, “với cuộc di cư của các thợ thủ công từ các làng chuyên nghiệp thuộc các trấn lân cận về hành nghề tại Kẻ Chợ, số lượng các tiểu chủ - thương nhân ở đây đột ngột tăng lên” (Thăng Long - Hà Nội thế kỷ XVII - XVIII - XIX. Hội Sử học Việt Nam, Hà Nội, 1993, tr.140).

Theo tôi, người thợ thủ công Hà Tây nói riêng, thợ tứ trấn nói chung trên hành trình hội nhập với Thăng Long thường là theo các bước sau: Bán hàng - Mở xưởng - Lập làng, lập phố. 

Bán hàng là bước mở đầu của mỗi làng nghề thủ công truyền thống. Đưa hàng ra Kinh bán là nhằm hội nhập, thử sức trong một thị trường mới vừa rộng lớn, vừa khó khăn đòi hỏi sự vươn lên rất lớn của mỗi phường buôn, hay mỗi làng nghề. Ngay từ rất sớm ta đã thấy có các mặt hàng thủ công, mỹ nghệ của Hà Tây được lưu thông trên thị trường Thăng Long - Hà Nội. Chỉ tính riêng mặt hàng dệt được mang tới từ La Cả, La Khê, Đại Mỗ, Vạn Phúc... cũng đã thấy được hàng hóa Hà Tây đã chiếm lĩnh thị trường Hà Nội như thế nào.

Từ việc bán hàng, những người thợ thủ công Hà Tây đã tính không cần đem nguyên vật liệu từ Kinh về quê mình nữa, cũng không phải đem hàng hóa, sản phẩm từ làng quê mình ra Kinh nữa, mà họ làm nghề và bán hàng ngay tại Kinh đô. Nhiều xưởng được mở ra, ngay tại kinh đô, hoặc các vùng ven đô. Việc mở những xưởng ngay tại kinh đô có ảnh hưởng nhất định trong việc thúc đẩy sự phát triển của nghề thủ công cổ truyền ở Thăng Long. ở đây ta thấy manh nha của kinh tế hàng hóa. Vừa sản xuất vừa bán sản phẩm, quan hệ của những nhóm người làm nghề thủ công vừa là quan hệ trong phường và giữa phường này với phường kia (trong buôn bán), vừa là quan hệ trong cùng một hiệp hay giữa hiệp này với các hiệp khác (trong sản xuất). Điều này khiến cho quan hệ của những người dân xa quê làm ăn sinh sống trên xứ người vừa đa dạng vừa gắn bó.

Từ chỗ Thăng Long Hà Nội chỉ là nơi bán hàng, có thể theo các phiên chợ có bán các mặt hàng, thời gian lưu lại kinh không nhiều, quan hệ giữa những người cùng đến đây là phường hội, theo kiểu “buôn có bạn bán có phường”; đến khi đặt xưởng mở lò ngay tại Kinh, quan hệ thêm gắn bó qua các tổ chức phường hiệp, nghề cổ truyền Hà Tây đã thâm nhập vào Thăng Long trong một diện mới.

Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, những người thợ thủ công Hà Tây đã tính đến chuyện lập làng ở Kinh và cùng định cư sinh sống lâu dài tại Thăng Long. Đến khi ấy, quan hệ giữa những người làm nghề còn sâu sắc hơn nữa, trong mối quan hệ văn hoá. Những người thợ thủ công quần tụ bên nhau, làm thành các làng, các phố nghề. Tại đây họ đã cùng nhau xây dựng những nhà thờ tổ nghề (thường cũng là vị thành hoàng làng họ ở bản quán), rước chân nhang từ nơi quê nhà về Kinh để thờ vọng tổ nghề. Việc thờ cúng tổ nghề cũng gắn liền với việc tổ chức các lễ hội, các sinh hoạt văn hoá dân gian đặc sắc. Lại có những phố nghề tổ chức thường xuyên việc rước xách từ làng quê cũ ra Kinh, mà dân phường thêu ở phố Yên Thái (có gốc từ làng Quất Động, Thường Tín) là một ví dụ khá tiêu biểu. 

13 nghề thủ công Hà Tây trên đất Thăng Long - Hà Nội 

Theo các nhà nghiên cứu thì tại Hà Nội đã có các nghề thủ công sau có nguồn gốc từ Hà Tây. Đó là các nghề sau: 

Nghề thêu gốc ở các làng Quất Động, Hướng Dương, Đào Xá, huyện Thường Tín. Nghề thêu do cụ Lê Công Hành sáng lập khoảng năm 1650. Nơi cư trú của các nghệ nhân thêu là các thôn Tự Tháp, Yên Thái. Nay là khu vực phố Yên Thái, và cuối phố Hàng Trống. Tại số 2A Yên Thái còn di tích Tú Đình thị là gian bán hàng của thợ thêu thưở xưa. 

Nghề làm lọng gốc ở thôn Đào Xá, huyện Thường Tín cũng do cụ Lê Công Hành sáng lập. Nơi cư trú của người làm lọng là thôn Khánh Thuỵ Hữu, Vĩnh Xương, xung quanh khu vực hồ Hoàn Kiếm hiện nay. 

Nghề mộc, đồ gỗ: gốc ở làng Liễu Viên (làng này còn nổi tiếng có nhiều con gái đẹp), làng Phượng Dực, huyện Thường Tín. Nghề này bắt đầu có từ cuối thế kỷ XVIII. Dân làng mộc cư trú tại Trang Lâu mà nay là khu vực phố Lò Sũ. 

Nghề tiện có nguồn gốc làng Nhị Khê, huyện Thường Tín do cụ Đoàn Tài. sáng lập vào thế kỷ XVIII. Dân nghề tụ họp quanh các khu phố Tả Khánh Thuỵ, Hàng Tiện, Tô Tịch. Nay là các phố Hàng Hành, Hàng Gai, Tô Tịch Giờ đây ở số nhà 11 Hàng Hành còn có Nhị Khê vọng từ thờ tổ nghề. 

Nghề sơn có gốc ở các làng Bình Vọng, Hà Vỹ, huyện Thường Tín. Nghề này do cụ Trần Lô lập nên vào thế kỷ XIX. Xưa dân nghề sơn cư trú tại phố Cổ Vũ. Nam Ngư, nay thuộc phố Hàng Hòm. Nay còn miếu thờ Tổ nghề vẽ sơn là Trần Lô. 

Nghề chạm khảm có gốc ở làng Chuyên Mỹ, huyện Phú Xuyên, do Nguyễn Kim sáng lập ra vào khoảng thế kỷ XIX (nhưng theo thần tích ở Chuyên Mỹ thì nghề khảm do cụ Trương Công Thành thời Lý sáng lập). Người làm nghề khảm cư trú tại làng Cựu Lâu (nay là phố Hàng Khay). 

Nghề làm bồ có gốc từ các làng Ngọc Trục, Đại Mỗ, huyện Hoài Đức. Người làm nghề tụ họp ở phố Xuân Hoa mà nay là Hàng Bồ. 

Nghề làm nón xuất phát từ làng Chuông (Phương Trung), huyện Thanh Oai, Nay khu vực Hàng Nón chính là nơi tụ tập của người làm nón xưa. 

Nghề làm quạt chính gốc làng Vác(Canh Hoạch), huyện Thanh Oai. Ngoài nổi tiếng về nghề làm quạt, làng Vác còn nổi tiếng bởi làng sinh ra hai vị Trạng nguyên, cũng là hai cậu cháu với nhau. Nơi cư trú của người làm quạt ở Hàng Quạt, Lương Văn Can. Nay còn di tích Xuân Phiến thị ở số 4 Hàng Quạt. 

Nghề rèn có gốc từ làng Đơ, thị xã Hà Đông. Nghề rèn tập trung ở khu Đồng Xuân – Bắc Qua. 

Nghề may áo dài có gốc ở làng Trạch Xá, xã Hòa Lâm, huyện ứng Hòa, được lập ra từ đầu thế kỷ XX. Thợ may áo dài tụ hội quanh khu vực phố Cầu Gỗ, Lương Văn Can. Những người thợ may áo dài có nguồn gốc từ Trạch Xá đều lấy tên cửa hiệu bắt đầu bằng chữ Trạch. 

Nghề làm giò chả bắt nguồn từ làng Ước Lễ, huyện Thanh Oai, Hà Tây. Những người làm nghề giò chả tập trung ở khu phố Lê Văn Hưu, Lý Quốc Sư hiện nay. 

Nghề làm ảnh là một nghề mới mẻ ở Việt Nam. Làng nghề nhiếp ảnh duy nhất nước ta là làng Lai Xá, xã Kim Chung, huyện Hoài Đức. Nghề do cụ Nguyễn Đình Khánh (Nguyễn Văn Xuân ) sáng lập đầu thế kỷ XX. Các hiệu ảnh gia truyền ở Hà Nội đều tôn vinh tổ nghề và hàng năm lại về Lai Xá để giỗ tổ nghề.

Tìm hiểu nghiên cứu về các làng nghề Hà Tây nói riêng, các làng nghề khắp nơi có mặt tại Thăng Long nói chung, cũng như diễn biến, sự phát triển của nó trong lịch sử không chỉ có ý nghĩa như một nghiên cứu hồi cố, đi sâu vào việc biểu dương ca ngợi cái đẹp, cái dụng công công phu của nghề cổ truyền mà còn làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế xã hội cho thủ đô và các tỉnh xung quanh Hà Nội. Hiểu sâu về nghề truyền thống cũng là tìm hướng giải quyết mối quan hệ hài hòa và tác động qua lại tích cực giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn, giữa truyền thống và hiện đại...

Tìm hiểu mọi khía cạnh của làng nghề, phố nghề ở Thăng Long - Hà Nội là đã tìm hiểu về văn hoá, xã hội của một Hà Nội cổ, làm cơ sở cho việc xây dựng và phát triển thủ đô ngàn năm văn hiến của chúng ta. 
2005
 

5 nhận xét :

  1. Ô, đọc bài này tôi mới hiểu ra từ "tứ chiếng" trong thành ngữ "giang hồ tứ chiếng" nghĩa là gì và xuất xứ từ đâu. Thành ngữ trên khá quen thuộc với người miền Nam trước 1975.

    Và đọc ba bài liên tiếp về các Đình thờ Tổ nghề, các ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống, cùng với cách thức mà cha ông chúng ta chuyển từ sinh hoạt nông thôn ra cuộc sống thành thị... tôi bất giác nhớ lại câu thơ ngậm ngùi của Bà Huyện Thanh Quan: "Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo / Nền cũ lâu đài bóng tịch dương".

    Các nhà thám hiểm, nhà buôn, nhà truyền giáo phương Tây xưa từng bày tỏ sự ngạc nhiên và thán phục khi chứng kiến sự tấp nập, sầm uất, sung túc của kinh thành Thăng Long và các vùng phụ cận, ngay từ thời Hậu Lê chứ chẳng phải đợi đến thế kỷ 18. Nói chung, trước cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật (từ thế kỷ 16 trở đi) thì phương Đông văn minh và giàu mạnh hơn phương Tây. Định mệnh lạ lùng nào đó của lịch sử - mà không ít học giả đã kết luận là một sự thể bất ngờ, một sự ngẫu nhiên khó đoán trước - đã trao ngọn đuốc khoa học này vào tay người châu Âu.

    Tuy nhiên, năm sáu thế kỷ rực rỡ của khoa học kỹ thuật vừa qua vẫn chỉ là một đoạn ngắn trên hành trình lịch sử văn minh dài dằng dặc của loài người. Sau vài trăm năm rất hài lòng với những tiến bộ đạt được, chúng ta ngày càng thấy rõ những thử thách lớn lao ở phía trước con đường mà nhân loại đang đi tới. Hiểm họa chiến tranh hạt nhân chưa hề tắt hẳn (chỉ vì đã "quen" rồi nên chúng ta bớt nhớ tới đó thôi). Rồi mối họa chiến tranh sinh học, chiến tranh môi trường, cũng như sự gia tăng khủng bố và bạo lực ở khắp nơi. Rồi nạn nhân mãn, khủng hoảng lương thực, khí hậu trái đất nóng lên, môi trường ô nhiễm... Chỉ một trong các mối họa trên cũng đủ đe dọa nghiêm trọng nền văn minh trên hành tinh này rồi, huống hồ là tất cả những cái đó cộng lại một lúc!

    Hơn lúc nào hết, mỗi nước mỗi dân trên trái đất cần phải quay lại học hỏi cái túi kinh nghiệm tích lũy ngàn đời của lịch sử riêng mình cũng như lịch sử toàn thế giới; nghiền ngẫm lại quá trình cha ông đã xoay sở thế nào để học sống hài hòa với nhau và với thiên nhiên hầu tránh những thảm họa tập thể; và ngẫm nghĩ xem cái trực giác nào đã giúp tổ tiên mình chọn lựa con đường phát triển bền vững và an toàn hơn cả để duy trì sự tồn tại của dòng dõi loài người giữa thiên nhiên bao la bí ẩn...

    Thành ra tôi rất đồng ý với đoạn kết của bài viết. Sự nghiên cứu nghiêm túc và cẩn trọng về mọi khía cạnh của cuộc sống cổ xưa không phải là một thứ thú vui hoài cổ vô bổ mất thì giờ đâu. Đó chính là một cơ sở khoa học cực kỳ cần thiết để giúp chúng ta hoạch định hướng phát triển khôn ngoan cho tương lai - một sự khôn ngoan "có tính cách sống còn", cho từng dân tộc cách riêng và cho cả loài người nữa.

    Trả lờiXóa
  2. Ngày xưa có câu: "Trai tứ chiếng, gái giang hồ" bác ạ. hiiii

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Ô hô! Đúng rồi. Bác Tễu nhắc mới nhớ. Ôi, cái câu này thì nghe hơi... kinh! Hi hi...

      Xóa
  3. Hay quá, hôm nay nhờ bài này của Bác Diện mà em biết rõ xuất xứ của chữ "tứ chiếng". Cảm ơn Bác nhiều !

    Trả lờiXóa
  4. Rất thích các bài của Xuân Diện về chủ điểm này. Trong bài có đoạn 'làng Vác còn nổi tiếng bởi làng sinh ra hai vị trạng nguyên'. Xin Xuân Diện viết thêm trong đó Nguyễn Thiến là viễn tổ của Nguyễn Du, làng Vác là làng duy nhất có đến 2 trạng nguyên, cũng như làng Mía của anh là làng duy nhất có tới 2 vua và 1 tể tướng.

    Trả lờiXóa