Thứ Tư, 25 tháng 1, 2012

Lê Thiết Cương: RỒNG TRONG MỸ THUẬT CỔ

 
Kho Rồng
 
Thật là lạ trong thập nhị địa chi tương ứng vơi 12 con vật biểu tượng thì có mỗi rồng là không có ngoài đời thực. Thế nhưng rồng lại xuất hiện nhiều nhất trong lịch sử mỹ thuật Việt suốt từ thế kỷ thứ 10 đến cuối thế kỷ 19.

Giai đoạn 1000 năm Bắc thuộc và trước nữa là thời Đông Sơn thì không có hoặc tới nay vẫn chưa tìm thấy một hiện vật nào hình rồng. Na ná rồng như giun, cá sấu… thì có. Nhưng gần mười thế kỷ sau đó, cùng với sự lên ngôi của Lý‎ Công Uẩn, hình tượng rồng lại trở nên quen thuộc. Có phải là các thế hệ nghệ sĩ cha ông ta thích đề tài rồng, thích vẽ, nặn, khắc con vật này hơn 11 con khác trong 12 con giáp và những con khác hay không? Hay vì rồng là một con vật đặc biệt?
 
Hình r
Hình rồng mây lửa khắc gỗ, điêu khắc đình thế kỷ 17

Trọng trách của rồng


Điều đặc biệt trước tiên như đã nói, rồng là con vật của tưởng tượng. Quan trọng hơn, rồng là con vật cùng một lúc mang (bị mang) hai biểu tượng rất “nghiêm trọng”: biểu tượng quyền lực, từ Lý‎ đến Nguyễn đời nào cũng vậy. Không thấy một ông vua nào khi lên ngôi nghĩ hẳn ra một con vật hoàn toàn khác làm biểu tượng, cũng không thấy ông vua nào chọn một con vật có sẵn khác như trâu hay hươu nai làm biểu tượng. Biểu tượng thứ hai mà rồng phải mang vác là biểu tượng của tín ngưỡng vì rồng nằm trong bộ tứ long, ly, quy, phượng. Sự chọn lựa này chắc cũng ngẫu nhiên thôi bởi vì chẳng ai giải thích được thấu đáo và hợp lý  lý do của sự chọn lựa bốn con vật này tại sao lại linh hơn những con vật khác.


Ấy là còn chưa kể rồng còn phải mang biểu tượng của một trong 12 con giáp (tương đương dân chủ và bình đẳng với lợn gà dê bò…), biểu tượng này của rồng khá “dễ thở”, là tháng thổ đầu tiên trong năm đóng vai trò chuyển êm từ xuân sang hè.


Rồng một lúc phải đóng nhiều vai cho nên rồng xuất hiện nhiều, có thể nói là nhiều nhất so với các con vật khác cũng là dễ hiểu. Ngai vàng, quần áo, mũ mãng, dao kiếm của vua phải có hình rồng, cánh cửa chùa (chùa Phổ Minh), bệ đá chùa (chùa Bối Khê) cũng rồng, cho đến trán bia ở đình đền miếu (ví dụ bia Văn Miếu) cũng vẫn rồng.
 
Rnfg chầu
Rồng chầu mặt nguyệt, sơn son thiếp vàng thế kỷ 1

Nhưng trong đời sống làm gì có con rồng. Cái ga khởi hành trong hiện thực không có sẵn. Các nghệ sĩ cha ông chúng ta đã “làm thay công việc của Chúa”. Đó là sáng tạo ra hiện thực. Trên cơ sở những con vật như giun, rắn, cá sấu, giao long, chim muông, thú, cua cá, họ nhào nặn, cộng trừ nhân chia them bớt… tạo ra một con vật và gọi nó là con rồng rồi áp đặt cho nó vài ba đức tính nọ kia. Đó là công cuộc sáng tạo thứ nhất. Khó khăn, quan trọng nhưng chưa đủ. Cuộc sáng tạo lần hai hay hơn, tức là đưa cái hiện thực không có thực đó, cái hiện thực mình vừa tạo ra đó thành tác phẩm.

Có một kho rồng


1000 năm trải qua các thời kỳ (từ Lý, Trần, Hồ, Lê Sơ, Mạc, Lê Trung Hưng, Lê Mạt, Nguyễn) hình tượng Rồng đã có nhiều thay đổi từ tạo hình, bố cục, chất liệu. Dễ nhận thấy những nét chính như sau: rồng Lý mượt mà, tinh tế, uốn lượn mềm mại. Rồng Trần nhìn bề mặt giống Lý nhưng tinh thần thì khác, thô và khỏe hơn. Rồng Mạc bỏ hẳn lối uốn khúc hình sin của Lý Trần, tuy ít uốn lượn nhưng vẫn mềm mại gây cảm giác mộc mạc, giản dị. Rồng Lê Trung Hưng và Lê Mạt có hai đột phá là phần thân ở đoạn giữa có thêm một nhịp võng xuống tạo thành hình yên ngựa và thứ hai là hình mây lửa ở đuôi, bờm hoặc kết hợp rồng và những đám mây lửa hòa cùng nhau. Rồng Nguyễn là vẻ đẹp của cầu kỳ, kỹ lưỡng, trau chuốt.
 
Hạ tết
Họa tiết rồng yên ngựa, phần dưới của chân đèn gốm thế kỷ 17

Cách thức thể hiện rồng qua các thời kỳ từ đục đẽo, chạm khắc cho đến đúc, gò, đắp nổi và chủ yếu ở dạng phù điêu. Rồng có mặt trên tất cả các chất liệu: đá, đất nung, gỗ, gốm, đồng, sơn mài. Rồng có ở nhiều dạng bố cục: chữ nhật, tròn, lá đề, bán nguyệt.

Phương pháp tạo hình rồng kết hợp với những đề tài khác làm hình tượng rồng càng trở nên phong phú.


Ví dụ: cá hóa rồng (tháp Đăng Minh đời Trần, đình Lỗ Hạnh đời Mạc).


Rồng hóa mây (lan can đá ở cổng vào Văn Miếu).


Tiên nữ cưỡi rồng (đình Lỗ Hạnh thời Mạc và ở chùa Keo thời Lê Trung Hưng)


Rồng ôm chữ phúc (chùa Bối Khê, thời Lê Trung Hưng)


Rồng ngậm chữ thọ (đền Phú Đa, thời Lê Mạt)


Rồng chầu chữ Phật (chùa Kim Liên, Tây Hồ thời Lê Sơ)


Trong giai đoạn hiện đại, rồng rất hiếm khi xuất hiện vì chức năng thể hiện thần quyền và pháp quyền của nó không còn nữa, chỉ là một đề tài như muôn đề tài khác. Đó là nguyên nhân chính dẫn đến sự vắng bóng rồng trong hội họa và điêu khắc hiện đại.


Trong nghệ thuật trang trí và kiến truc hiện đại cũng vậy, rất ít đất cho rồng. Đình chùa miếu mạo đều có tu sửa cũng chỉ là bồi, đắp, tô, trát lại. Nếu xây mới thì cũng chép lại theo mẫu rồng cũ, không sáng tạo thêm được gì. Giả sử nếu muốn sáng tạo thì rất khó có thể vượt được cha ông – những người đã khai thác rất kĩ hình tượng rồng từ chất liệu, đề tài, bố cục, cách tạo hình để góp vào mĩ thuật truyền thống Việt Nam cả một… kho rồng qu‎ý báu.


Trong nghệ thuật có hai phần nội dung và hình thức. Đề tài thuộc nội dung là phạm trù ít thay đổi hơn so với hình thức. Những đề tài nào mất đi tức là nhu cầu cuộc sống không cần đến  nữa, đó là quy luật. Rồng là đề tài như vậy. Nhưng xem rồng, nghiên cứu học hỏi, thưởng thức rồng thì không thể có gì thay được vì đó đã là một tác phẩm tiêu biểu trong kho tàng nghệ thuật của dân tộc.


Theo
Lê Thiết Cương (Tuổi Trẻ số Xuân)

NHỮNG ĐỨA CON CỦA RỒNG


9 con của rồng

TTCT - Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dáng và sở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau. 

1-Bị hí
(Tên khác là bá hạ, bát phúc, thạch long qui) là con trưởng của rồng - linh vật có hình dáng thân rùa, đầu rồng. Bị hí có sức mạnh vượt bậc, chịu được trọng lượng lớn nên thường được chạm khắc trang trí làm bệ đỡ cho các bệ đá, cột đá, bia đá...

2- Li vẫn
(Còn gọi là si vẫn) - con thứ hai của rồng, là linh vật có đầu rồng, miệng rộng, thân ngắn. Tương truyền li vẫn thích ngắm cảnh và thường giúp dân diệt hỏa hoạn nên được chạm khắc làm vật trang trí trên nóc các cung điện cổ, chùa chiền, đền đài... ngụ ý cầu trấn hỏa, bảo vệ bình yên cho công trình.

3- Bồ lao
Con thứ ba của rồng, là linh vật thích âm thanh lớn, thường được đúc trên quai chuông với mong muốn chiếc chuông được đúc có âm thanh như ý muốn.

4- Bệ ngạn
(Còn gọi là bệ lao, hiến chương) là con thứ tư của rồng, có hình dáng giống hổ, răng nanh dài và sắc, có sức thị uy lớn. Theo truyền thuyết, bệ ngạn rất thích lý lẽ và có tài cãi lý đòi sự công bằng khi có bất công, nhờ vậy bệ ngạn thường được đặt ở cửa nhà ngục hay pháp đường, ngụ ý răn đe người phạm tội và nhắc nhở mọi người nên sống lương thiện.

5- Thao thiết
Con thứ năm của rồng, là linh vật có đôi mắt to, miệng rộng, dáng vẻ kỳ lạ. Thao thiết tham ăn vô độ, được đúc trên các đồ dùng trong ăn uống như ngụ ý nhắc nhở người ăn đừng háo ăn mà trở nên bất lịch sự.
6-Công phúc

Con thứ sáu của rồng, là linh vật thích nước nên được khắc làm vật trang trí ở các công trình hay phương tiện giao thông đường thủy như cầu, rãnh dẫn nước, đập nước, bến tàu, thuyền bè... với mong muốn công phúc luôn tiếp xúc, cai quản, trông coi lượng nước phục vụ muôn dân.
7-Nhai xế
Con thứ bảy của rồng - là linh vật có tính khí hung hăng, thường nổi cơn thịnh nộ và ham sát sinh, thường được chạm khắc trên các vũ khí như đao, búa, kiếm, xà... ngụ ý thị uy, làm tăng thêm sức mạnh và lòng can đảm của các chiến binh nơi trận mạc.
8-Toan nghê
(Còn gọi là kim nghê) - con thứ tám của rồng - linh vật có mình sư tử, đầu rồng, thích sự tĩnh lặng và thường ngồi yên ngắm cảnh khói hương tỏa lên nghi ngút. Toan nghê được đúc làm vật trang trí trên các lò đốt trầm hương, ngụ ý mong muốn hương thơm của trầm hương luôn tỏa ngát.

9-Tiêu đồ
(Còn gọi là phô thủ) - con thứ chín của rồng - là linh vật có tính khí lười biếng, thường cuộn tròn nằm ngủ, không thích có kẻ lạ xâm nhập lãnh địa của mình. Tiêu đồ được khắc trên cánh cửa ra vào, đúng vào vị trí tay cầm khi mở, ngụ ý răn đe kẻ lạ muốn xâm nhập nhằm bảo vệ sự an toàn cho chủ nhà.

* Ngoài chín con nói trên, gia đình rồng còn có một số linh vật khác như: Tù Ngưu - linh vật giỏi về âm nhạc; Trào Phong - linh vật được gắn trên nóc nhà ngụ ý chống cháy và thị uy kẻ xấu (giống li vẫn); Phụ Hí - linh vật bảo vệ bia mộ. 
Tù ngưu


Trào phong


Phụ hí

Th.S NGUYỄN NGỌC THƠ (Đại học KHXH&NV)
Nguồn: Tuổi Trẻ

Thứ Ba, 24 tháng 1, 2012

Nguyên Ngọc: CON RỒNG ĐÁ KỲ LẠ Ở CHI NHỊ

Con rồng đá kỳ lạ ở Chi Nhị
Nhà văn Nguyên Ngọc

Năm 1993, trước ngôi nghè Chi Nhị, nơi thờ thái sư Lê Văn Thịnh triều Lý, ở thôn Bảo Tháp, làng Thị Xá, xã Cách Bi, huyện Quế Võ, Bắc Ninh, cách cổng nghè chừng vài chục mét, chắc là do mưa gió (thậm chí mới đó mà đã thành truyền thuyết: qua một đêm mưa to gió lớn chưa từng có …) bà con lối xóm bổng thấy nhô lên một mõm đá, moi ra đôi chút thì đoán có thể là bộ phận của một khối hay một tượng đá lớn. Người ta đã rất cẩn thận đào đất chung quanh, thậm chí không dùng đến cuốc xẻng, chỉ lấy tay moi từng chút một. Cuối cùng, lộ ra một tượng rồng khổng lồ. Có lẽ là pho tượng rồng kỳ lạ nhất, chưa từng thấy kiểu tượng rồng nào giống thế, đẹp nhất, không chỉ ở nước ta. Làng liền cho đốn tre, lấy toàn cật tre già tết thành thừng to như cổ tay, 18 trai tráng lực lưỡng khiêng làm 9 đòn, hè lớn một tiếng mới nhấc được khối đá khổng lồ lên khỏi mặt đất, nhưng bà con bảo, thật lạ, sau đó lại thấy nhẹ bâng, cứ thế trân trọng và thong thả rước “Ngài” vào nghè, và lập miếu thờ. Tượng rồng vừa phát lộ ắt liên quan trực tiếp đến vị thành hoàng được thờ trong chính nghè này, thái sư Lê Văn Thịnh.

Lê Văn Thịnh, ai có quan tâm đến sử đôi chút hẳn đều biết, là nhân vật có lẽ có số phận cũng kỳ lạ nhất ở nước ta, qua gần một nghìn năm mà sự đánh giá của người đời vẫn chưa xong, vụ kỳ án của ông gần suốt một thiên niên kỷ vẫn còn được phán xét theo hai cách hoàn toàn đối lập. Ông sống âm thầm trong lòng kính trọng và thương yêu của nhân dân, “dân đen”. Nhưng không chỉ những bộ lịch sử trịnh trọng của các sử gia bệ vệ như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Việt Nam sử lược đều nhất loạt lên án ông nặng nề, mà đến một tác giả sân khấu hiện đại tài ba và nghiêm túc là Tào Mạt cũng liệt ông vào hàng phản diện xấu xa trong các vỡ chèo lịch sử nổi tiếng và rất phổ biến của mình. Còn ông, gần một thiên niên kỷ, thì vẫn nằm đó, dấu mình sâu dưới lòng đất quê hương, cho đến sau khi Tào Mạt đã mất được mấy năm mới chịu hiện lên cho trai tráng làng Bảo Tháp moi đất tìm ra và đưa trở lại với đời. Tôi nói vậy bởi pho tượng rồng kỳ lạ nọ chính là tượng Lê Văn Thịnh. Tượng chân dung của ông, quả vậy.

Vậy Lê Văn Thịnh là ai và vụ kỳ án của ông là thế nào?

Năm Canh Tuất 1070, vua Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu, trường đại học đầu tiên của nước ta ở Thăng Long. Năm năm sau, Ất Mão 1075, vua Lý Nhân Tông cho mở khoa thi Minh Kinh Bác Sĩ và Nho Học Tam Trường. Lê Văn Thịnh, sinh năm 1050 ở làng Đông Cữu, huyện Gia Lương, Bắc Giang, đi thi và đổ đầu, là vị trang nguyên đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, được tôn là “Trạng khai khoa”. Ông được vời vào cung dạy vua, vị vua đó chính là Lý Nhân Tông. Rồi thăng chức Thị lang Bộ Binh. Con người ấy không chỉ văn võ toàn tài, còn là một nhà ngoại giao kiệt xuất. Năm Canh Tuất 1076, nhà Tống sai Quách Quỳ “đem quân 9 tướng”, hợp với Chiêm Thành và Chân Lạp, xâm lấn nước ta để trả thù việc Lý Thường Kiệt đã từng tấn công các châu Ung, Liêm, Khâm của nhà Tống, như một đòn đánh phủ đầu chặn trước mưu đồ tiến binh của đối phương. Lần này, trên chiến tuyến sông Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt lại đánh tan Quách Quỳ. Quân Tống tháo chạy nhưng lại chiếm lấy châu Quảng Nguyên, tức Cao Bằng, Lạng Sơn ngày nay. Năm 1078, vua sai Đào Tống Nguyên sang đòi, nhà Tống đồng ý trả lại phần lớn đất đai, nhưng ngoan cố giữ những vùng đất đai mà thổ dân địa phương đã dâng cho họ, gồm cả hai động Vật Dương và Vật Ác. Lần này, năm 1084 đến lượt thị lang Bộ Binh Lê Văn Thịnh đi đòi. Ông đến tận trại Vĩnh Bình, cùng bàn việc cương giới với người Tống. Họ bám lấy đất đã cướp, lấy cớ là của thổ dân tự ý đem nộp chứ không phải do họ chiếm. Lê Văn Thịnh dõng dạc biện luận cùng Thành Trạc, sứ giả nhà Tống: “ Đất thì có chủ, các quan viên giữ đất ấy đem nộp cho người khác và trốn đi thì đất ấy thành vật ăn trộm của chủ. Sự chủ giao mà lấy  trộm đã không tha được, mà trộm của hay “tàng trữ” thì luật pháp cũng không cho phép, huống chi nay lại mang đất lấy trộm dâng để làm dơ bẩn sổ sách nhà vua”.  Lý lẽ ràng buộc chặt chẽ khúc chiết, đến luật pháp hiện đại hẳn cũng chỉ rành rọt được đến thế, mà lại còn mắng thẳng vào mặt sứ thần một nước lớn, cay đến gan ruột mà khéo léo vô cùng. Quả khoa thi đại học đầu tiên của nước Việt đã chọn thật đúng một vị trang nguyên khai khoa! Nhà Tống buộc phải trả 6 huyện 3 động, mà còn lấy làm rất xấu hổ …

Về sau, Lê Văn Thịnh được thăng làm thái sư, ở chức đến 12 năm, cho đến khi nổ ra vụ án hồ Dâm Đàm. Dâm Đàm tức Hồ Tây ngày nay. Tháng 3 năm Bính Tý 1096, vua Trần Nhân Tông cùng thái sư đi thuyền chơi hồ, xem đánh cá. Bổng nhiên sương mù nổi lên dày đặc, rồi có tiếng chèo rào rào của một chiếc thuyền xáp đến. Vua cầm giáo phóng, thì sương tan, trên chiếc thuyền xáp đến nọ thấy một con hổ chực vồ vua. Có người chài lưới là Mục Thận quăng lưới chụp lấy, thì trong lưới hoá ra lại chính là … Lê Văn Thịnh! Ông bị bắt ngay, lẽ ra phải tội tru di, nhưng vua xét người có công, “thương tình” cho đi đày biệt xứ, đến tận ngày qua đời …

Lịch sử đôi khi cũng rất buồn cười, nếu không là xàm bậy. Ngay tác giả Khâm định Việt sử thông giám cũng không hề ngần ngại giải thích vụ án hồ Dâm Đàm: “Văn Thịnh có tên gia nô người nước Đại Lý (một địa phương đâu đó ở bên Tàu). Tên này có pháp thuật lạ, nhân đó Văn Thịnh manh tâm mưu sự khác …”. Gần một nghìn năm trước, một vụ dựng chuyện bỉ ổi trắng trợn đến thế để hại một người tài ba lỗi lạc kể cũng chẳng phải lạ. Nhưng vẫn còn câu hỏi: Vì sao chính Lý Nhân Tông, học trò của Lê Văn Thịnh, lại manh tâm trừ khử ngay người thầy của mình? Trong nhiều cách giải thích, tôi đặc biệt chú ý một lý giải: Thời đó bên Trung Quốc có phái biến pháp, gọi là Tân pháp, do Vương An Thạch đứng đầu, đề xuất chủ trương cải cách toàn diện chế độ kinh tế - xã hội – quân sự. Cuộc vận động lớn này thất bại do phần đông các đại thần trong triều bị động chạm lợi ích kịch liệt chống lại. Vương An Thạch rốt cuộc phải về vườn sớm. Có phải thái sư Lê Văn Thịnh, con người kinh bang tế thế, có hiểu biết rộng xa, có tầm nhìn lớn, từng biết đến cuộc cải cách ở nước láng giềng, và cũng đã nung nấu những ý tưởng nào đó về một con đường đi mới cho dân tộc mình? Nghĩa là, gần một nghìn năm trước, từng có một cuộc đổi mới lớn đã bị nhấn chìm tàn nhẫn ở Hồ Tây, một người anh hùng kiệt xuất của dân tộc, một con rồng Việt anh minh đã từng bị chết đứng tại đây, nơi nay hằng ngày ta vẫn dửng dưng đi qua mà nào có hay? …

Có một người nghệ sĩ vô danh, không biết tự bao giờ - có người bảo là ngay vào thời Lý, có người lại bảo ấy là vào thời Hậu Lê - đã quyết định thể hiện hình tượng con rồng vĩ đại ôm mối hờn oan ngàn năm ấy, để lại cho muôn đời. Hôm tôi đến nghè Chi Nhị, có cả nhà sử học nổi tiếng Lê Thành Khôi cùng đi. Ông bảo suốt cuộc đời nghiên cứu và sưu tầm của ông, chưa bao giờ được thấy một pho tượng rồng độc đáo đến thế. Ấy là một con rồng lớn, khoanh mình thành hình tròn, đường kính đến hơn một mét, thân hình vạm vỡ, lớp lớp vảy dày và lớn, đầu rồng nhô lên cao mà lại cúi xuống, miệng rồng răng rất sắc tự cắn sâu vào chính thân mình, sâu ngoắm, đến chừng có thể toé máu, chân rồng móng vuốt nhọn hoắc tự bấu vào da thịt chính mình, như muốn tự xé nát chính thân mình, sâu đến tận ruột gan. Có lẽ trong lịch sử nghệ thuật Đông Tây, chưa bao giờ nổi oan câm lặng nghìn năm của con người lại được thể hiện quyết liệt, dữ dội đến thế. Vậy mà vẫn còn chưa thôi. Hai tai rồng, được tạc rất rõ, bên tai phải rổng, thông, tai trái lại bịt kín. Dường như từ nghìn năm trước, con người tài ba xuất chúng mà số phận đau thương đó đã dự liệu được bao tiếng thị phi của các thế hệ nối tiếp người đời, ông muốn chỉ nghe một nửa, một nửa khinh bỉ gạt ra ngoài tai. Kể cả những phán quyết đầy quyền uy của những kẻ được thời thế đưa lên làm chủ lịch sử, cho đến tận ngày nay.

Người nghệ sĩ vô danh đã tạc nên pho tượng kỳ lạ này là ai vậy? Đương nhiên hẳn ông vô cùng ngưỡng mộ người anh hùng Lê Văn Thịnh và đồng cảm vô cùng sâu sắc với nổi oan muốn xé tung trời đất của người xưa. Nhưng có phải chỉ có vậy? Nghệ thuật bao giờ cũng thế, nó cần những nguyên mẫu, nhưng là để nói về cả cái nhân quần rộng lớn, những nổi đau lớn của con người chân chính suốt lịch sử trường tồn của giống loài. Con rồng đá Chi Nhị là một tác phẩm như vậy. Đấy là bức tượng chân dung kỳ lạ của một con người, vị thái sư tài ba và hàm oan Lê Văn Thịnh. Mà cũng là chân dung của Con Người. Con Người tự cắn xé đến muốn nát chính thân mình, trong quá trình đau khổ biết bao để có được một cuộc sống làm người cho ra Người.

*Bài do tác giả gửi trực tiếp cho NXD-Blog.
Xin chân thành cảm ơn nhà văn Nguyên Ngọc.

CHÙM THƠ KHAI BÚT XUÂN NHÂM THÌN CỦA ĐỘC GIẢ BỐN PHƯƠNG

Nguyễn Xuân Diện-Blog trân trọng giới thiệu:
Chùm thơ Khai bút đầu Xuân Nhâm Thìn:

Hạ Thái Trần Quốc Phiệt:
KHAI BÚT NĂM NHÂM THÌN

Khai bút tân niên quyết vẽ rồng
Vươn mình bay lượn giữa tầng không
Phun châu nhả ngọc trời trong sáng
Thâu gió đùn mây cảnh hạnh thông
Tiễn bước sơn hà qua khổ nạn
Tháo chân hiền sĩ khỏi oan còng
Bức tranh thi họa càng tao nhã
Treo khắp muôn phương mới thỏa lòng.
Jan- 23-2012.
Mồng một Tết Nhâm Thìn
Hạ Thái Trần Quốc Phiệt

Ưng Sơn Hạ:
Ngoái về quá khứ - Hướng tương lai
Phải có "TẦM NHÌN" suốt cả hai
Ôn cố tri tân xây dựng NƯỚC
Huy hoàng sẽ đến với ngày mai
Chùm thơ nữ sĩ Trần Lệ Khánh gửi từ bến Ninh Kiều:
GIÓ XUÂN

Cây trái cựa mình bật sắc xanh
Muôn hoa đón gió nở tươi cành
Bừng lên vạn vật trào hương sắc
Ngàn tía muôn hồng họa bức tranh.

MƯA XUÂN
Mưa theo cùng nắng gió vào xuân
Ấm áp muôn lòng khắp thế nhân
Tổ quốc quê hương tràn sức sống
Cỏ cây hòa quyện tiếng chim ngân.

NẮNG XUÂN
Nắng chiếu cờ hồng bay ngất ngây
Công – Nông –Binh – Trí nối vòng tay
Nhâm Thìn vận hội phong vân tiếp
Chim Việt vươn tầm sải cánh bay.

Trần Lệ Khánh
Chùm thơ Kính họa thơ cụ Nguyễn Trọng Vĩnh:
XUÂN KHÍ
Cao tuổi lại càng chí khí cao
Lão già tỏa sáng một ngôi sao
Tấm thân muôn dặm còn nguyên vẹn
Cốt cách mười phân đáng tự hào
Ích Nước mưu cầu nền độc lập
Vì dân gánh vác việc binh đao
Sơn Hà Xã Tắc xuân chưa trọn
Còn phải xông pha bút ngại nào
Ưng Sơn Hạ


Lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh

Chín sáu tuổi đời, kể đã cao,
Đau lưng, mỏi gối cũng không sao.
Thương dân, mắt sáng xua tăm tối,
Yêu nước, lòng son đáng tự hào.
Sông núi nguy nan, cầm vũ khí,
Quê hương yên ổn, cất gươm đao.
Nhìn ra xã hội, còn trăn trở,
Ngọn bút xông pha, chẳng ngại nào.
23-1-2012 (1 tết Nhâm Thìn)
Phan Liên Khê (Thượng tá Cựu chiến binh, thành phố Hồ Chí Minh)

Kính tặng lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh

Mười năm đi sứ ở bên Tàu,
Biết rõ ngọn ngành cuộc bể dâu.
Cố đế bá quyền nghìn kế hiểm,
Thâm căn bành trướng vạn mưu sâu.
Miệng hô “đồng chí” tươi trên mặt
Tay đấm “anh em” vỡ cả đầu.
Dân Việt xưa nay không khuất phục
Đã từng giáng trả những đòn đau.
Trọng Nghĩa (Tp Hồ Chí Minh)

THƠ VIẾT TRƯỚC GIAO THỪA - thơ Trần Trương

Thơ viết trước giao thừa…
Trần Trương

Gió đổ rét về làng, về phố những ngày cuối năm
Biển đổ sóng dìm con tàu Vinaline Qeen xuống biển
Ở Tiên Lãng có một ngày hắc ám
Cuộc mưu sinh bình dân mà hóa nỗi kinh hoàng…

Trong “cung điện” người ta đang nói biết bao điều tâm huyết
Những “cung chúc tân xuân” nặng trĩu lá phong bì
Những cuộc cờ cá cược cả đời mình vào một cô bán cám
Nhà chất ngất tầng mà dân nghèo vẫn thiếu chỗ nương thân

Đấy là năm CON MÈO mải mê rình chuột
Nhưng chuột bây giờ lại nghễu nghện rung râu
Có phải lỗi “hệ thống”  mà bao con đường tắc nghẽn
Tại ở đường ray, hay tại phía đầu tàu?

Tôi lại nghĩ về cái cống ngầm của Giăng-van Giăng ngày trước
Giữa muôn nỗi bần cùng ,ông vẫn sống vị tha
Lòng thành thật để cứu đời thành thật
Thì dưới cống ngầm ông vẫn có đường ra…

Ta nói đời để nói lòng ta
Không phù phiếm ,không sa hoa lời hứa
Hãy mang đến hòn than để hồng thêm bếp lửa
Hay lại chờ mùa đổi kíp thay ca…?

                                       23g tháng chạp Tân mão-2g ngày 1 tháng giêng Nhâm Dần

BƯỚC ĐƯỜNG CÙNG ĐÓ SAO? - thơ Nguyễn Vũ Tiềm


Nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm

Bước đường cùng đó sao?

Đắp đê, ngăn biển, khơi đầm
Mồ hôi nước mắt mấy tầng đất sâu
Khi mờ sáng, lúc đêm thâu
Ngập trong bùn đất dãi dầu nắng mưa
Dầm trong nước mặn đồng chua
Bao năm vật lộn thắng thua với trời.

Chỉ mong góp với cuộc đời
Con tôm hạt thóc nổi trôi nhọc nhằn
Chỉ mong góp với đồng bằng
Một trang chua mặn thành trang mỡ màu.
Chỉ mong thoát cảnh cơ cầu
Đẹp giàu Tiên Lãng là điều ước ao.

Vậy mà không hiểu vì sao
Người nông dân phải lao đao cùng đường
Bàn tay cày cuốc khơi mương
Phải tìm thuốc nổ làm phương cứu mình
Chế lấy súng, tạo ra mìn
Hỡi ôi cốt nhục chi tình hại nhau.

Ai thả lưới, ai giăng câu
Để gây nên cảnh thương đau tù đầy?
 
TP. Hồ Chí Minh giáp Tết Nhâm Thìn

Thứ Hai, 23 tháng 1, 2012

Nguyễn Trung: KHAI BÚT XUÂN NHÂM THÌN

“Khép lại quá khứ, Không ngoái lại quá khứ”[1]
(Khai bút xuân Nhâm Thìn)

Nguyễn Trung

Bước vào năm mới, khép lại chuyện cũ, hướng vào những việc phải làm phía trước. Suy nghĩ này đến với tôi gần như một bản năng.

Gạn đục khơi trong, trân trọng từng hy sinh mất mát dân tộc ta đã phải chịu đựng, chắt chiu mọi thành quả - kể từ  từng giọt mồ hôi, nước mắt đất nước đã bỏ ra, từng đồng tiền bát gạo có trong tay.., lựa lọc giữ lại mọi điều thiện điều lành…  – kể từ những điều dù là nhỏ nhất mỗi người dân chúng ta đã làm nên được hay còn gìn giữ, bảo vệ được.., hùn lại tất cả những gì con người nước Việt này đang ấp ủ trong tâm huyết mình, để từ đây tất cả cùng nhau tạo ra những nỗ lực mới - cho thành đạt những công việc dân ta, nước ta bắt buộc phải làm phía trước!..

Đó là điều ước ao sâu thẳm trong tim, khi tôi thắp hương dâng lên bàn thờ đúng giờ giao thừa để mở đầu năm mới.

Nén hương trong tay, đứng lặng hồi lâu, nhưng không sao khấn nổi thành lời trước tổ tiên, tôi chỉ tâm tâm niệm niệm được trong đầu những điều mình mong ước… Cầu mong hồn thiêng sông núi hãy dấy lên trong tâm hồn từng người trong toàn thể cộng đồng dân tộc ta khát vọng cháy bỏng hướng về phía trước

-         Con người tự do;
-         Thể chế chính trị dân chủ;
-         Đất nước có hòa bình ổn định;
-         Tất cả dựa trên căn bản của một nền giáo dục chân chính.

Đấy là những điều tôi ước mong cho đất nước mình, cho dân tộc mình.

Khát vọng như vậy, bởi tôi tin rằng đấy là những yếu tố quyết định nhất làm nên một quốc gia thịnh vượng, hạnh phúc. Nhân phẩm từng người trong một quốc gia có những yếu tố này sẽ nảy nở. Một đất nước như vậy sẽ có chỗ đứng xứng đáng trong cộng đồng nhân loại tiến bộ ngày nay.

Khát vọng như vậy, vì bốn yếu tố nêu trên là nguồn lực bất tận và giầu sức sáng tạo, sẽ làm nên mọi giá trị chân chính và tạo ra nguồn của cải phong phú đất nước ta nhất thiết phải có – để đất nước ta có thể khẳng định không gì tác động được ta là chính ta trong thế giới quyết liệt ngày nay, để dân tộc ta có thể dấn thân cùng với cả nhân loại tiến bộ cho hòa bình, tự do dân chủ, quyền con người, hợp tác và phát triển, gìn giữ môi trường.

Nếu cùng nhau chia sẻ khát vọng như vậy, nhân dân ta có mọi điều kiện cho phép tạo dựng nên bốn yếu tố quan trọng này, chặt đứt vĩnh viễn cái vòng luẩn quẩn của quán tính lịch sử đến nay vẫn không chịu buông tha đất nước ta, mở ra cho nước ta con đường đi lên một quốc gia văn minh, hiện đại.

Uất ức đến mức đối kháng mất còn quyết liệt, tiếng “súng hoa cải” của Đoàn Văn Vươn cảnh báo sự tha hóa mọi mặt của đất nước đang đi vào thời đoạn tàn phá tột cùng. Nhất thiết chúng ta không thể để cho quá trình tha hóa này tiếp tục hủy hoại đất nước yêu dấu của chúng ta. Đấy chính là tiếng pháo hiệu nhắc nhở từng người và cả nước phải thức tỉnh được thực trạng cái dối trá, cái suy đồi, ức hiếp dân chúng đang lên ngôi, giục giã từng người và cả nước hãy tâm huyết và dũng cảm khép lại quá khứ, không ngoái lại quá khứ, để tất cả cùng nhau quyết tâm khóa sổ quá trình tha hóa đang tàn phá đời sống mọi mặt đất nước ta.  

Tình hình trong, ngoài đã đến lúc cả nước phải cùng nhau đóng lại ngả đường đang đưa đất nước ta lùi sâu mãi vào kiếp lạc hậu và nô dịch, phải cùng nhau dồn mọi ý chí và nghị lực mở ra cho đất nước ta ngả đường mới để vươn lên trở thành một nước phát triển[2].

Ngoại trừ tha hóa thành con (vật) vô tri vô giác, còn nếu còn là người, không một ai trong mỗi chúng ta có thể chạy trốn khỏi tòa án lương tâm của chính mình và sự phán xét của lịch sử. Không một quyền lực nào có thể xóa nhòa điều này. Cũng không một lượng tiền bạc hay của cải nào có thể mua được hay ru ngủ được sự thật này. Vì thế, tôi cầu mong mỗi chúng ta: Hãy khép lại quá khứ, không ngoái lại quá khứ, vứt bỏ lại phía sau xiềng xích của cái “tôi” vị kỷ hoặc sự nô dịch của thái độ cam chịu, để tĩnh tâm tỉnh ngộ và để lấy lại can đảm. Mỗi người và toàn thể cộng đồng dân tộc ta cùng nhau làm như vậy, tất cả chúng ta – người cai trị cũng như người bị cai trị, người trong đảng (ĐCSVN) cũng như ngoài đảng (ĐCSVN), người sống ở trong nước và ở nước ngoài – tất cả sẽ vượt qua được nỗi sợ riêng và những hèn kém của chính mình, để vươn lên thành con người tự do; mỗi người và cùng nhau cống hiến hết mình, cho hoài bão của chính mình và của đất nước.

Tôi cầu mong mỗi người con đất Việt chúng ta, hãy cùng nhau khép lại quá khứ, không ngoái lại quá khứ, để trong tâm khảm chúng ta chỉ còn một điều nung nấu duy nhất: Ý thức sâu sắc nỗi nhục về mọi hèn yếu, lạc hậu đất nước ta còn đang phải mang vác trên đầu trên vai mình trong thế giới hôm nay.

Khép lại quá khứ, không ngoái lại quá khứ, để trong mỗi chúng ta chỉ còn duy nhất sự thôi thúc thiêng liêng: Với tất cả trí óc và trái tim mình, bằng sự lựa chọn và quyết định riêng của chính mình, bền bỉ chung tay cùng với toàn dân tộc, quyết nắm lấy thời cơ chưa từng có đang mở ra cho tổ quốc Việt nam ta trên con đường vươn lên thành một nước phát triển.

Khép lại quá khứ, không ngoái lại quá khứ, để có thể dồn hết ý chí và nghị lực cho hiện tại và tương lai, để cho tâm hồn mỗi chúng ta ngời lên một khát khao chung trong sáng: vun đắp cho nhân phẩm của chính mình và vinh quang của đất nước; và để cho niềm tự hào dân tộc – ngọn lửa thiêng gìn giữ non song gấm vóc  - mãi mãi thắp sáng tâm hồn chúng ta..

Dân chủ và công khai minh bạch sẽ mở đường dẫn lối, sẽ hậu thuẫn mạnh mẽ những nỗ lực của toàn thể cộng đồng dân tộc ta cùng nhau khép lại quá khứ, không ngoái lại quá khứ. Chúng ta để lại phía sau tất cả những gì đã từng chia rẽ và làm suy yếu dân tộc ta, để tất cả cùng nhau hướng về phía trước: Đoàn kết chấn hưng đất nước! 

Tất cả không phân biệt một ai, hãy khép lại quá khứ, không ngoái lại quá khứ, cùng nhau dũng cảm đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, cùng nhau nỗ lực thông qua con đường dân chủ và hòa giải dân tộc tạo ra bốn yếu tố xây dựng nên một nước Việt Nam mới mà tất cả chúng ta hằng khao khát.

Khép lại quá khứ, không ngoái lại quá khứ, để từ nay chỉ có tình yêu và sự thật liên kết chúng ta, dẫn dắt và thôi thúc chúng ta làm chủ bản thân mình, làm chủ vận mệnh đất nước.

Khép lại quá khứ, không ngoái lại quá khứ, mỗi người Việt Nam chúng ta hãy tự mở ra trang sử mới của chính mình và của dân tộc mình.

Chúc mừng năm mới Nhâm Thìn!

Võng Thị, Giao thừa sang xuân Nhâm Thìn
 (23-01-2012),
Nguyễn Trung



[1] Xem loạt bài Viễn tưởng – bài 3. - http://viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_VienTuong_3.htm
[2] Tham khảo thêm loạt bài “Viễn tưởng”, Bài 1. –

* Ảnh: Kỷ niệm ngày tròn 1 năm Viện IDS tự giải thể. 

Thư Sài Gòn: THƯ XUÂN CHÚC TẾT BẠN YÊU NƯỚC Ở XA

Thư Sài Gòn:

Cháu xin kính chào chú Diện,

Nhân dịp tết đến, xuân về cháu xin chúc chú và gia đình được an khang, thịnh vượng, sức khỏe dồi dào, gia đình êm ấm. Xin kính chúc chú mọi điều thuận lợi, tinh thần minh mẫn, nhiệt huyết dồi dào và tâm hồn luôn được bình yêu để tiếp tục đóng góp những gì mà quê hương đất nước đang cần.

Cháu định tết này sẽ ra Hà Nội chơi để thăm chú với mọi người 1 lần nhưng do việc đi lại khó khăn cũng như các nguyên nhân khách quan, nhạy cảm nên không thực hiện được mong muốn trên, cũng thấy hơi buồn.

Cháu vừa viết 1 lá thư, để hồi tưởng về kỉ niệm những ngày hè vừa qua cũng như chúc tết tất cả bạn bè anh em yêu nước. Xin nhờ chú nhắn gửi với mọi người, cháu rất quý mến, rất nhớ mọi người và luôn muốn có dịp được gặp để ôm từng người thật chặt. Những người bạn chưa bao giờ gặp gỡ nhưng đã thân thiết như cùng chung sống mỗi ngày.

Cháu cũng xin nhờ chú Diện, chuyển giúp lời chúc mừng năm mới trực tiếp đến các bác, các chú, các cô, các anh chị và bạn hữu mà chú sẽ gặp gỡ được trực tiếp trong dịp tết này. Cháu xin chúc mọi người tất cả những gì tốt đẹp nhất và tâm hồn luôn được bình yên cho riêng mỗi người và cho chung đất nước nhân dịp xuân về.

Cháu
N.Đ.T
____________________

Thư Xuân chúc Tết bạn yêu nước ở xa
Đầu xuân xin chúc Nước nhà
Vẹn toàn bờ cõi San Hà tổ tiên
Nam Quan ải sẽ bình yên
Hoàng – Trường hai đảo nối liền yêu thương.

23/01/2012, đúng 06 tháng từ ngày thứ Bảy 23/07/2011 – ngày mà những biểu ngữ vinh danh các chiến sỹ Việt Nam đã chiến đấu và hi sinh tại hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang được mọi người ráo riết thực hiện nhằm chuẩn bị cho ngày Chủ Nhật hôm sau 24/07/2011. Lần biểu tình yêu nước thứ 8 của chúng ta chống lại âm mưu xâm lược của bá quyền phương Bắc (dĩ nhiên là của các bạn Hà Nội thôi, vì ở Sài Gòn mọi việc diễn ra không được tốt đẹp như ngoài ấy). Mình đã chọn đúng giây phút Giao Thừa, khi bên ngoài đang vang lên những tiếng pháo bông đón chào năm mới của thành phố, để bắt đầu những dòng này, để xem nó như một sự khởi đầu mới cho năm mới của chúng ta và đất nước.

Hi vọng sẽ không chỉ là 1 cái tết về phong tục, mà cũng sẽ là một cái tết của quê hương Việt Nam mình, một bước chuyển mình trỗi dậy để hóa Rồng. Chúng ta, những người dường như xa lạ trước đó, bỗng trở nên thân thiết lạ thường khi cung bậc tình yêu đồng điệu cùng nhau. Trẻ, già, trai, gái cho đến nay có thể nhiều người vẫn chưa 1 lần gặp mặt, nhưng chúng ta thực sự đã nhìn hình ảnh của nhau và nghĩ về nhau gần gũi, thân thiết đến lạ thường. Năm mới đến, ngoài những lời chúc Xuân yên vui, hạnh phúc cho mỗi người, cho gia đình, cũng xin gửi lời chúc tốt đẹp đến mọi người, đến quê hương. Hòa cùng không khí ấm áp, gần gũi và hạnh phúc bên gia đình của mỗi chúng ta lúc này, cũng xin gửi lòng kính trọng tưởng nhớ đến những bậc tổ tiên đã khai sinh và giữ gìn bờ cõi, xin gửi lòng tri ân đến những người đã chiến đấu, ngã xuống để bảo vệ độc lập, chủ quyền đất nước, đặc biệt là những người đã chiến đấu và hi sinh nơi hải đảo xa xôi. Cũng xin cảm ơn những người mà giây phút này đây đang miệt mài nơi chốn địa đầu, bám trụ trên những đảo xa để gìn giữ quê hương đất nước.

Sáu tháng tròn kỉ niệm ngày mà trong mỗi chúng ta, mọi người Việt Nam đã hi sinh vì tổ quốc đều được tưởng nhớ, vinh danh. Sáu tháng cho kỉ niệm về ngày Chủ Nhật đầu tiên mà những nỗ lực hàn gắn vết thương, hòa giải và hòa hợp đã thực sự được biểu hiện với tất cả lòng chân thành, tình thương yêu và nhiệt huyết. Sáu tháng cho ngày chúng ta không cần che giấu mà dõng dạc nhắc lại quá khứ, không phải để hận thù mà là để tha thứ và yêu thương. Sáu tháng cho ngày Chủ Nhật thứ 8, mọi con người không phân biệt tuổi tác, nghề nghiệp, địa vị sát cánh bên nhau thể hiện lòng yêu nước. Thời gia đã trôi đi, nhưng ký ức và cảm giác thì bất tử. Một tình người lớn lao và gần gũi, ngày tất cả chúng ta là bạn.

Đầu Xuân, tết đến xin chúc phúc và nhắn gửi mọi người mấy điều thôi. Trước tiên là xin cho cháu gửi đến các bậc trưởng bối như Gs Ngô Đức Thọ, Gs Nguyễn Huệ Chi, Gs Hoàng Xuân Phú, bác Phạm Chuyên, chú Nguyễn Xuân Diện, nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc cũng như nhiều người khác lời chúc sức khỏe, an khang, sáng suốt, kiên định và nhiệt huyết không suy giảm theo thời gian và tuổi tác. Xin kính chúc các bác, các chú, các cô… luôn được bình yên cả thể chất lẫn tinh thần bên gia đình, người thân, con cháu nhân dịp xuân về.

Sau là xin chúc các bậc huynh trưởng, các bạn bè đồng trang lứa, các lớp đàn em tuổi nhỏ mà ý chí yêu nước và tâm hồn không nhỏ được nhiều thuận lợi, vui vẻ trong cuộc sống, những ngày xuân này được sảng khoái tinh thần, đầm ấm bên gia đình, bạn hữu. Chúc mọi người bản lĩnh và kiên định, tỉnh táo và sáng suốt, dấn thân và biết lắng nghe để sống tốt cho mình và hữu ích cho đất nước.

Chúc mọi người luôn nhớ về kỷ niệm những ngày hè vừa qua của chúng ta, để đoàn kết với nhau chân thành bảo vệ nước non nhà. Chúng ta đã không làm gì sai, chúng ta đã dám dấn thân khi quê hương cần tới thì cũng chúc chúng ta luôn bền bỉ, sáng suốt để những chọn lựa của chúng ta, dù có thể khác nhau và khác biệt so với những suy nghĩ và chọn lựa của người khác, nhưng sẽ luôn đạt được những kết quả tốt đẹp mà mọi người cùng mong muốn.

Xã tắc lâm nguy cũng là cơ hội để chúng ta sát lại bên nhau, dung hòa những bất đồng trong tư tưởng và tha thứ cho những sự việc đã qua, hàn gắn lại những vết thương buốt giá trong lòng người. Càng khó khăn, gian khổ, chông gai, thì việc ta làm lại càng thêm ý nghĩa và thiết yếu. Lửa thử vàng, gian nan thử sức, chúc tất cả chúng ta đều thực sự là vàng.

Tết đến và kỷ niệm 6 tháng ngày hôm ấy, xin chúc cho tinh thần chúng ta mãi luôn như vậy, xóa bỏ mọi đau thương, hận thù và ranh giới để mọi người Việt Nam sẽ cùng chung sống với nhau: gần gũi, chân thành, hòa bình và thịnh vượng. Gửi đến những bè bạn ở xa, sẽ rất khó để gặp được nhau, nhưng chẳng hề gì khi trái tim chúng ta cùng nhịp đập, thì hãy tin tưởng rằng mỗi bước đi, chúng ta luôn luôn sẽ đồng hành.

Chúng ta sẽ sống, như tổ tiên, cha anh chúng ta đã sống. Hiên ngang, bất khuất, rắn rỏi nhưng cũng thật dịu dàng, hòa nhã, thương yêu. Xin kính chúc mọi người vạn điều tốt đẹp, chúc quê hương giàu mạnh, thái bình.

Sài Gòn, 01:25 AM Mùng Một tết Nhâm Thìn
Kính Chúc
Một Người Việt Nam
 

Trần Mạnh Hảo: KHAI BÚT SÁNG MÙNG MỘT TẾT NHÂM THÌN


Chùm thơ Khai bút của Trần Mạnh Hảo:
Hoa cho Minh Hằng

Hoa đào đỏ sắc phù sa
Máu sông Hồng gửi quê nhà vào đây
Trăng còn trong ngục đọa đầy
Mà hoa vẫn nở hồn cây vô tình ?

Áo dài trốn rét
Sông Hồng cắt mình ra tặng ai ?
Từng vạt bay bay nét áo dài
Áo dài trốn tết Hồ Gươm rét
Mưa bụi đi tìm thương mắt nai
T.M.H

TIN XUÂN TỪ NƠI ĐẦU SÓNG TIÊN LÃNG


Thưa chư vị,

Sáng nay, có cánh én nhỏ từ Nơi Đầu Sóng Tiên Lãng báo cho Lâm Khang biết một tin xuân: Sáng nay, bà cụ Mẹ Anh Đoàn Văn Vươn và các cô con dâu đã dắt nhau ra mảnh đất, nơi có ngôi nhà của họ bị chính quyền địa phương đập nát để dựng một túp lều nhỏ. Trong sáng nay, túp lều đã dựng xong. Mẹ con bà cháu con dâu họ Đoàn Tết này cúng tổ tiên và tiếp khách ở đó. Ban tối, họ sẽ về lại trong làng vì hiện nay ở đó cũng không an toàn. Tin cũng cho biết, ngoài 8 chiếc bánh chưng mà Nguyễn Xuân Diện mang đến biếu, gia đình cũng không gói thêm chiếc bánh nào, nhưng bà con làng xóm đã mang đến cho gia đình họ Đoàn rất nhiều bánh chưng để ăn Tết. 

Tin cũng cho biết, lực lượng công an viên địa phương đã hoàn toàn rút khỏi mảnh đất "cưỡng chế".

Nguyễn Xuân Diện - Blog kính báo!

Còn đây là Tin Xuân từ Sài Gòn:

Dear bác Diện,
Đầu năm, gửi lời chúc tốt đẹp nhất đến gia đình bác.
Mình thức gần trắng đêm để “chụp” lại con số 9999999.
Cũng muốn chụp thêm 10000000 và 10000001 nhưng đồng hồ bị “Y2K”.
 
Trần Trung 


HỒNG PHÚC VIỆT NAM



HỒNG PHÚC VIỆT NAM
BÙI CÔNG TỰ 
Chúng ta đang sống những giờ phút đầu tiên của năm mới Nhâm Thìn, năm con Rồng. Rồng là giống linh thiêng kỳ lạ, mạnh mẽ mà uyển chuyển, tứ hải tung hoành, chứ có đâu như con mèo của năm ngoái Tân Mão nằm co ro trong xó bếp.
Có phải vì thế chăng mà tổ tiên chúng ta từ xưa kia đã tự nhận là con của Rồng?

Cũng có phải vì thế chăng mà khát vọng hóa Rồng đã cháy bỏng bao nhiêu con tim Việt suốt mấy thập kỷ nay?

Chúng ta đúng là một dân tộc lãng mạn!

Tôi luôn muốn nhìn nhận thế giới bằng con mắt lãng mạn, lãng mạn tiểu tư sản hay lãng mạn cách mạng thì càng tốt.

Năm Tân Mão vừa qua nước Nhật Bản đã rung chuyển vì động đất sóng thần. Khắp nơi trên thế giới cũng rung chuyển nhưng không phải do thiên tai mà là do nhịp bước chân của những đoàn người biểu tình rùng rùng chuyển động.

Ở Trung Đông – Bắc Phi biểu tình lật đổ các thể chế độc tài hà khắc, tham nhũng, bất công (Tunisia, Ai Cập, Libya).

Ở Mỹ biểu tình “chiếm phố Wall” phản đối các ngài tư bản tài phiệt tội đồ gây ra khủng hoảng tài chính.

Châu Âu do các quan chức “vung tay quá trán” làm cho nhiều nước lâm vào khủng hoảng nợ công. Dân biểu tình vì đời sống khó khăn và phúc lợi xã hội bị cắt giảm.

Dân Nga la tư thì biểu tình phản đối bầu cử gian dối.

Ở Á châu “người to xác xấu tính” Trung Quốc trắng trợn bộc lộ tham vọng lãnh thổ, khiến cho dân Việt Nam và Philipin biểu tình phản kháng ở nhiều nơi trên thế giới. Và chính ở Trung Quốc động loạn cũng bùng nổ suốt năm.

Vì thế “người biểu tình” đã được tạp chí Time bình chọn là “Nhân vật của năm 2011”.

Làn sóng biểu tình diễn ra khắp nơi cho thấy tiếng nói phản kháng của nhân dân đã tạo nên áp lực nhằm thay đổi thế giới. Đồng thời quyền biểu tình là một quyền quan trọng, tất yếu của dân, không ai có thể ngăn cản.

Trong một thế giới sóng gió như thế, tình hình Việt Nam cũng bất ổn nhưng theo một chiều hướng khác.

Tác giả: Bùi Công Tự bên chậu mai. 10h. 29 Tết
Với Việt Nam năm Tân Mão (2011) là năm thứ tư (2008-2011) loay hoay trong vòng suy thoái. Sự suy thoái có thể nói đã ở cấp độ trầm trọng từ thượng tầng kiến trúc đến hạ tầng cơ sở, kéo theo nhiều vấn nạn không thể kiểm soát. Người lao động phải vật lộn với cơm áo, với chi phí học hành, chữa bệnh, hiếu hỉ… trong cơn lạm phát. Nguy cơ mất độc lập tự chủ dưới nhiều hình thức khác nhau và nguy cơ băng hoại dân tộc khi cái gốc bị mất, cái xấu, cái ác hoành hành là có thật.

Nguyên nhân cốt lõi của tình trạng nói trên được các nhà nghiên cứu gọi tên là “lỗi hệ thống”. Mặc dù chưa ai nói huỵch toẹt ra “lỗi hệ thống” là như thế nào nhưng với những người am hiểu thì ai cũng hiểu: “Lỗi hệ thống” là hệ thống hỏng. Hay đơn giản như một nhà văn tếu táo: “lỗi hệ thống” là hệ thống của chúng ta bị … lỗi thời!

Tuy nhiên có rất nhiều cái ghế đã bắt chặt bu lông, ê cu vào cái lỗi thời ấy để trục lợi, mạo nhận là bảo vệ cái nọ, xây dựng cái kia. Trong mấy năm qua để giúp đất nước thoát ra khỏi suy thoái, nhiều học giả trong và ngoài nước đã chân thành góp ý, kiến nghị nhiều giải pháp có tính khoa học cao nhưng tất cả đều như ném đá ao bèo.

Năm Tân Mão 2011 ở Việt Nam như thế, tuy nhiên trong cái rủi lại có cái may nên còn an toàn. Đó là nhờ nền nông nghiệp đã sản xuất dư thừa lương thực thực phẩm bảo đảm cái ăn cho cả nước. Xin biết ơn bà con nông dân.

Năm Nhâm Thìn 2012 đang đến liệu có thể kỳ vọng gì chăng?

Chuyên gia kinh tế cao cấp Phạm Chi Lan cho biết bà vẫn nặng trĩu lo âu, đến nổi hổng dám kỳ vọng gì vào năm con Rồng này.

Đảng CSVN vừa ban hành nghị quyết TW 4 (khóa 11) đề cập khá thẳng thắn, có vẻ kiên quyết về những tiêu cực, thoái hóa, biến chất trong Đảng và biện pháp “chống” cộng với biện pháp “xây”.

Chính phủ cũng vừa có nghị quyết 01/NQ-CP về những giải pháp cho năm 2012. Nội dụng nghị quyết này bao quát toàn diện từ “kềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô”… cho đến “chăm sóc sức khỏe đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân”. Nhân khỏi cần phải lo gì nữa nhé.

Tuy nhiên chúng ta không thể căn cứ vào những nghị quyết quan trọng ấy để mà kỳ vọng. Bởi vì từ lời nói đến việc làm, từ việc làm đến kết quả xa như từ Trái Đất đến Sao Kim. Vả lại việc đại sự quốc gia hiện thời là của Đảng và chính phủ.

Vậy trách nhiệm công dân của chúng ta ở đâu?

Thưa bạn đọc, chúng ta không hài lòng, thậm chí thật sự buồn khi phải chứng kiến dân tộc ta, một dân tộc “vốn xưng nền văn hiến từ lâu” mà phải chịu cảnh lẽo đẽo xếp hàng sau lưng với khoảng cách khá xa nhiều quốc gia trong khu vực, cho dù họ không có thuận lợi như mình.

Vì sao? Vì sao? Vì sao?

Nếu tình trạng này còn kéo dài (và rất có thể còn kéo dài) thì đất nước xuống dốc không phanh là cái chắc.

Tôi muốn đắt câu hỏi với các vị lãnh đạo quốc gia: Cái mặt hàng kém phẩm chất, độc hại mà nhiều nước văn minh đã vứt bỏ, tại sao nước ta vẫn xài?

Trong kháng chiến chống Pháp, có lần chủ tịch Hồ Chí Minh nói với GS Tôn Thất Tùng: “Làm thầy thuốc chỉ cứu được ít người còn làm cách mạng thì cứu được cả dân tộc.”

Thưa các bạn, tình hình đất nước ta đang đòi hỏi phải có một cuộc cách mạng để cứu đất nước thoát khỏi tình trạng kinh tế, văn hóa giáo dục, khoa học công nghệ đều suy thoái, nền tảng đạo đức xã hội lung lay, có nguy cơ đất nước bị mất tự chủ.

Nhân dân ta, trước tiên là giới trí thức, cần mạnh mẽ nói lên chính kiến, nguyện vọng và nỗi bức xúc của mình để tạo thành áp lực thúc đẩy tình hình chuyển biến có tính chất cách mạng. Nói cách mạng là nói sự thay đổi tận gốc.

Theo tôi bản kiến nghị “cải cách toàn diện để phát triển đất nước” của 14 vị học giả Việt Nam gửi lãnh đạo Đảng, Quốc hội, chính phủ năm 2011 đã vạch ra chiến lược, sách lược cho cuộc cách mạng mà chúng ta mong đợi.

Cuộc cách mạng ấy phải bắt đầu từ trên xuống. Dân có quyền trực tiếp bầu nguyên thủ. Tòa án được độc lập, chánh án toàn án tối cao và tòa án các cấp cần là người không đảng phái. Nhân tài có quyền tranh cử vào các cương vị lãnh đạo quốc gia.

Nước ta không thiếu nhân tài. Tôi ví dụ như các ông Nguyễn Quang A, Nguyễn Trần Bạt, Trần Văn Thọ (GS Kinh tế học ĐH Waseda, Nhật Bản) đều có thể xứng đáng làm Thủ tướng.

Tóm lại cuộc cách mạng mà chúng ta mong đợi, không phải là nhằm lật đổ ai cả, mà là tiến trình thay cái lạc hậu bằng cái văn minh, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống, đòi hỏi của lịch sử và phù hợp với thời đị.

Một cuộc cách mạng như thế nếu đến sớm là hồng phúc cho dân tộc ta.

B.C.T
TP Hồ Chí Minh, Xuân Nhâm Thìn.
*Bài viết riêng cho NXD-Blog số Tết Nhâm Thìn.
*Ảnh: Vân Đình Hùng gửi tặng bạn đọc Nguyễn Xuân Diện-Blog.