Thứ Ba, 1 tháng 11, 2011

GS. TƯƠNG LAI: PHẢI TRƯNG CẦU DÂN Ý VỀ ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP

GS Tương Lai: 
“Phải trưng cầu dân ý về Điều 4 Hiến pháp”
Thứ hai 31 Tháng Mười 2011
Thanh Phương
 
Sau nhiều lần đình hoãn, Việt Nam bắt đầu chuẩn bị sửa đổi Hiến pháp 1992. Theo dự kiến, dự thảo Hiến pháp sửa đổi sẽ được Quốc hội thông qua vào tháng 10/2013. Phiên họp thứ nhất của Uỷ ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã diễn ra vào đầu tháng 8/2011 dưới sự chủ toạ của chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng.

Chưa biết Hiến pháp sẽ được sửa đổi như thế nào, nhưng trong phiên họp hôm đầu tháng 8/2011, ông Nguyễn Sinh Hùng đã tuyên bố là việc biên soạn dự thảo phải bám sát thực tế, lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân, nhưng đồng thời phải “ bám sát Cương lĩnh, đường lối chủ trương của Đảng”. Ông Nguyễn Sinh Hùng còn yêu cầu là hoạt động của ủy ban phải “ bảo đảm nguyên tắc sự lãnh đạo của Đảng”. Trước khi trình cho Quốc hội vào tháng 10 năm 2012, bản dự thảo Hiến pháp còn phải được báo cáo cho Bộ Chính trị.

Trong điều kiện như vậy, việc sửa đổi Hiến pháp liệu có sẽ dẫn đến những thay đổi căn bản về thể chế ở Việt Nam? Hiến pháp cần phải được sửa đổi như thế nào để thật sự có tam quyền phân lập, để Nhà nước thật sự là cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân?

Đối với giáo sư Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam, những bản Hiến pháp sau này của Việt Nam coi như đã đi thụt lùi so với bản Hiến pháp 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đây là bản Hiến pháp được coi là rất dân chủ, nhất là vì nó bảo đảm tam quyền phân lập và quy định quyền phúc quyết Hiến pháp của người dân. Cho nên, theo giáo sư Tương Lai, việc sửa đổi Hiến pháp 1992 dĩ nhiên phải đáp ứng những yêu cầu mới của thế kỷ 21, nhưng phải dựa trên căn bản là tinh thần của bản Hiến pháp 1946.

Sau đây mời quý vị nghe phần phỏng vấn với giáo sư Tương Lai từ Sài Gòn: 

RFI: Kính thưa giáo sư Tương Lai, theo giáo sư, trong việc sửa đổi Hiến pháp 1992, điều gì là trọng yếu nhất?

Giáo sư Tương Lai: Việc sửa đổi Hiến pháp là một điều đáng mừng, vì đó là đòi hỏi của đời sống. Vấn đề đặt ra là phải sửa như thế nào để đáp ứng nguyện vọng của dân. Tôi cho là sửa Hiến pháp tương đối dễ, vì đã có một cái chuẩn, đó là Hiến pháp 1946 của Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam DCCH, được thông qua cách đây 65 năm, tháng 11 năm 1946.

Theo đánh giá của các chuyên gia, Hiến pháp 1946 là Hiến pháp tiến bộ nhất, mẫu mực nhất. Đó là một Hiến pháp dân chủ, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng chính phủ, một ngày sau khi tuyên bố độc lập 2/9:  “Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ”. Hiến pháp 1946 là làm theo hướng thượng tôn pháp luật để đảm bảo quyền lợi của dân.

Đương nhiên là đã 65 năm rồi, thời cuộc có thay đổi và phải cập nhật với tinh thần của thế kỹ 21 này, nhưng về cơ bản thì phải dựa trên Hiến pháp 1946, theo tinh thần Tuyên ngôn độc lập: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ có những quyền không ai xâm phạm được. Trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Hiến pháp 1992 nếu có được sửa đổi thì phải theo được tinh thần đó.

RFI: Thưa Giáo sư, Hiến pháp 1946 là mẫu mực vì nó phân định rạch ròi tam quyền phân lập: hành pháp, lập pháp và tư pháp?

Giáo sư Tương Lai: Cái mà tôi nói là có một mô hình tương đối chuẩn là Hiến pháp 1946 không phải là ý kiến cá nhân. Tôi có tham dự cuộc họp của hội đồng xét duyệt thẩm định các đề tài sửa đổi Hiến pháp 1992, do Văn phòng QH và Bộ Khoa học Công nghệ triệu tập. Trong Hội đồng đó, tất cả các thành đều nhận định rằng Hiến pháp 1946 là một Hiến pháp mẫu mực, mà những Hiến pháp về sau đó không đạt được. Vậy thì đổi mới có khi lại là quay trở lại cái trước đây. Trước đây làm đúng quy luật, nhưng sau đó người ta lại không làm đúng quy luật, gây nên những trở ngại.

Nếu tôi nhớ không nhầm thì Hiến pháp 1946 gồm có 70 điều, nội dung có nhiều, nhưng chỉ tập trung vào hai vấn đề: xác lập quyền của công dân, quyền của Nhà nước và quyền giữa các cơ quan Nhà nước với nhau. Mà ở đây nổi bật lên hai điểm quan trọng nhất: ngăn cấm sự lạm quyền của quyền lực Nhà nước và đảm bảo quyền tự do dân chủ của công dân.

Hiến pháp 1946 làm nổi bật lên nguyên tắc cơ bản là đặt pháp quyền lên trên Nhà nước và quyền phúc quyết Hiến pháp là thuộc về dân. Nhà nước pháp quyền phải được tổ chức theo nguyên tắc là tam quyền phân lập, để kiểm tra lẫn nhau. Trong Nhà nước pháp quyền ấy, Nhà nước và công chức chỉ được phép làm những gì luật pháp cho phép, còn người dân thì được làm tất cả những điều gì luật pháp không cấm. Những yếu tố pháp quyền đặt lên trên nguyên tắc quyền lực và tổ chức quyền lực là điều mà các Hiến pháp sau này không làm rõ. Bây giờ sửa đổi thì phải quay trở về với tinh thần, nội dung và những nguyên tắc mà Hiến pháp 1946 đã đạt được.

RFI: Thưa giáo sư, có một điểm trước đây không có trong Hiến pháp 1946, đó là vai trò lãnh đạo của Đảng, như quy định của điều 4 Hiến pháp 1992. Vậy thì khi sửa đổi Hiến pháp, có nên xóa bỏ điều 4 hoặc sửa đổi điều khoản này?

Giáo sư Tương Lai: Về điểm này thì theo tôi, tốt nhất là thực hiện ngay tinh thần mà tôi nêu lên trong Hiến pháp 1946, đó là quyền của người dân được phúc quyết Hiến pháp.

Đảng khẳng định là vai trò lãnh đạo của đảng đã được nhân dân tôn trọng. Tôi nhớ là gần đây, bạn tôi, giáo sư Chu Hảo, trong một bài báo có đặt ra vấn đề như thế này: điều 4 Hiến pháp quy định về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vậy thì để khẳng định một lần nữa là ý đảng hợp với lòng dân, chỉ việc đưa ra trưng cầu dân ý, theo tinh thần quyền phúc quyết thuộc về dân. Nếu đúng là dân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của đảng, thì quyền phúc quyết Hiến pháp ấy của dân sẽ có sức mạnh lớn lao và làm uy tín lãnh đạo của đảng tăng lên, đồng thời trở thành vấn đề mang tính pháp lý nữa. Vậy thì hãy mạnh dạn đưa vấn đề này ra để người dân phúc quyết.

Cho nên, không nên đặt ra vấn đề là xóa bỏ hay không xóa bỏ điều 4. Ai có quyền làm điều đó? Chỉ có dân mới có quyền mà thôi.

RFI: Thưa giáo sư, ở Việt Nam có một số văn bản luật bị xem là trái với Hiến pháp. Trong Hiến pháp có quy định những quyền tự do như quyền tự do ngôn luận, nhưng trong Bộ luật hình sự Việt Nam lại có điều 88 về tội danh “Tuyên truyền chống Nhà nước”. Làm sao phân biệt được ranh gìới giữa tự do ngôn luận và tội danh này?

Giáo sư Tương Lai: Ở đây có vấn đề: Những điều quy định trong Hiến pháp, những điều quy định trong luật, hay là trong nghị quyết, với quá trình thực hiện đó, thì bao giờ cũng có một khoảng cách. Khoảng cách đó có thể ngắn, mà cũng có thể dài.

Vấn đề đặt ra là nếu tinh thần thượng tôn pháp luật, “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”, được thực thi một cách nghiêm túc, thì mọi văn bản luật hay dưới luật đều không được mâu thuẩn với bộ luật tối cao nhất, đó là Hiến pháp, vì Hiến pháp là ý chí của dân tuyên bố trước thế giới về thể chế Nhà nước của mình và cũng là tuyên bố khẳng định là dân sẽ chấp hành trên tinh thần đó.

Quá trình đưa những vấn đề đã quy định trong Hiến pháp, trong luật pháp vào thực tế bao giờ cũng có những mâu thuẩn. Chuyện này phải được khắc phục dần. Để khắc phục nó thì không gì khác hơn là phải làm thế nào để ý thức thượng tôn pháp luật được thực thi một cách nghiêm chỉnh, từ trong dân và trước hết là từ những người cầm quyền.

RFI: Thưa giáo sư, Việt Nam có nên thành lập Tòa án Hiến pháp hay Tòa Bảo Hiến để giám sát tính hợp hiến của các văn bản luật?

Giáo sư Tương Lai: Trong phiên họp thẩm định về đề tài sửa đổi Hiến pháp, chúng tôi, những thành viên trong Hội đồng, cũng đã đề xuất vấn đề này. Phải có Tòa án Hiến pháp để kiểm tra việc thực thi Hiến pháp. Đó là điều phù hợp với xu thế chung của thế giới. Vấn đề đặt ra là Việt Nam, nếu muốn đi vào quỹ đạo chung của thế giới, thì phải làm theo điều này. Nếu những gì trước nay chưa làm được, thì bây giờ làm đi! Đơn giản thế thôi. Vấn đề đặt ra là: Người dân Việt Nam và những người cầm quyền có muốn thực thi Hiến pháp theo đúng quỹ đạo của thế giới văn minh này hay không?

RFI: Nhưng nếu những thành viên của Tòa án Hiến pháp này cũng là do đảng chỉ định thì làm sao có thể bảo đảm được tính độc lập của cơ chế này?

Giáo sư Tương Lai: Đây là vấn đề nan giải đây. Nhưng bất cứ cái gì cũng đòi hỏi từng bước quá độ. Một lúc mà đòi hỏi ngay thì tôi cho đó là ảo tưởng. Nhưng xu thế chung là xu thế thực thi dân chủ. Dân chủ đang là đòi hỏi mang tính bức xúc của toàn xã hội và về phía đảng lãnh đạo, những người cầm quyền đều thấy rằng, chỉ trên cơ sở mở rộng dân chủ, thực thi dân chủ thì vận hành xã hội mới có thể thông suốt.

Trong việc thực thi Tòa án Hiến pháp, bao giờ cũng có cách thành lập và đề cử, rồi thông qua. Vấn đề là cái quy trình đó phải bảo đảm tính chất dân chủ. Cái quy trình dân chủ đó buộc đảng lãnh đạo, cũng như Nhà nước quản lý phải theo đúng mô hình đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Đó là cái đã được rao giảng từ rất lâu rồi, bây giờ phải thực thi điều đó. Trong đó, phải nhấn mạnh là nhân dân làm chủ như thế nào. Nhân dân phải làm chủ bằng quyền phúc quyết Hiến pháp, bằng trưng cầu dân ý, bằng việc phản biện và đề đạt nguyện vọng của mình mà không bị xem là lực lượng thù địch hay những phần tử muốn “diễn biến hòa bình”. Những vấn đề đó phải được đặt ra một cách công khai, minh bạch trong đời sống xã hội. Đó là để bảo đảm thành công cho việc sửa đổi Hiến pháp, cũng như cho những việc mà hiện nay Nhà nước đang cố gắng làm.

RFI: Xin cám ơn giáo sư Tương Lai.
Nguồn:  RFI Tiếng Việt  và  Ba Sàm.

 

GS CHU HẢO: TỪ TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP ĐẾN HIẾN PHÁP HỒ CHÍ MINH

Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ảnh: Tư liệu

Từ Tuyên ngôn độc lập đến Hiến pháp Hồ Chí Minh
GS. TS. Chu Hảo 

Hiến pháp 1946 của nước ta đã được giới học thuật về luật pháp trong vào ngoài nước ngày nay khẳng định là bản Hiến pháp tiến bộ nhất so với các bản khác, được Quốc hội nước nhà ban hành vào các năm1959, 1980 và 1992. Vì lẽ đó, nguyện vọng thiết tha của toàn dân vào lúc này là Hiếp pháp 1992 phải được sửa đổi một cách thực chất để trở lại những tư tưởng cơ bản của Hiến pháp 1946 là Dân Chủ-Cộng hòa-Độc lập-Tự do-Hạnh phúc.  

Nếu Hiến pháp Mỹ 1787 ( vẫn đang thực thi liên tục trong hơn 200 năm qua và được coi là bản Hiến pháp có giá trị bền vững nhất trong lịch sử luật pháp thế giới vì chứa đựng đầy đủ nhất tinh thần thời đại về Nhân quyền và Dân quyền ) đã được xây dựng một cách hết sức công phu bởi 55 nhà lập pháp kiệt xuất mà Thomas Jefferson (1743-1826, tác giả Tuyên ngôn Độc lập Mỹ 1776) gọi là “những người con của thánh thần” (xem Nguyễn Cảnh Bình, Hiến pháp Mỹ đã được làm ra như thế nào, Nxb Tri thức, 2010), thì Hiến pháp 1946 của nước ta, theo cảm nhận của chúng tôi, thực sự đã được làm ra chủ yếu bởi chỉ một người, mà vào thời điểm lịch sử đó, cũng xứng đáng là “người con của thánh thần”, ấy là Hồ Chí Minh.
 

Giòng cuối cùng của phần Phụ lục trong bài diễn ca tuyên truyền cách mạng “ Lịch sử nước ta ” viết vào tháng 2 năm 1942 ở chiến khu Việt Bắc, Hồ Chí Minh đã có một dự báo thiên tài: “VIỆT NAM ĐỘC LẬP 1945”. Không thể không nghĩ rằng, ngay từ lúc ấy Hồ Chí Minh đã nghĩ đến việc soạn thảo một Tuyên ngôn độc lập mang tầm vóc thời đại và một Hiến pháp phù hợp với trào lưu dân chủ thế giới. 

Lịch sử ghi lại rằng : Cụ Hồ viết bản Tuyên ngôn Độc lập tại ngôi nhà 48 Hàng Ngang, Hà Nội ngày 27-8-1945. Có thể Cụ đã viết trong một ngày, nhưng những tư tưởng chính, những dữ liệu cơ bản để viết bản Tuyên ngôn ngày ấy chắc chắn đã được Cụ sưu tầm và chắt lọc ít nhất từ 3 năm trước, khi mường tượng  đến tương lai tươi sáng vào năm 1945 của nước Việt Nam bước ra từ kiếp nô lệ  sang kỷ nguyên độc lập.  

Với phần mở đầu Tuyên ngôn Độc lập 2-9-1945 bằng câu trích dẫn từ Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ 1776: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” Hồ Chí Minh đã đặt nền móng vững chãi cho bản Hiến pháp sau này. 

Thomas Jefferson đã nâng  Tư tưởng nhân quyền của John Lock (1632-1704, triết gia Anh, cha đẻ của Lý thuyết Khế ước xã hội và Chủ nghĩa tự do) từ ba quyền cơ bản của con người là “quyền sống, quyền tự do và quyền sở hữu” lên một mức cao hơn thành “quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”

Hồ Chí Minh, một lần nữa lại nâng cao tư tưởng nhân bản ấy bằng ý tưởng suy rộng từ Con người sang Xã hội: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
 

Và chỉ một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 3 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đã tuyên bố dứt khoát: “Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ”. Đối với Hồ Chí Minh lúc đó, không phải chỉ cần ngay một bản Hiến pháp, mà phải là một Hiến pháp dân chủ, đúng theo tinh thần của Tuyên ngôn độc lập.
 

Rất nhất quán, rất dứt khoát và rất khẩn trương; chỉ 3 tuần sau đó, ngày 20 tháng 9, Ủy Ban Dự thảo Hiến pháp đã được thành lập theo sắc lệnh 34-SL với người đứng đầu là Hồ Chí Minh. Chưa có Quốc hội (Nghị viện nhân dân) mà đã nghĩ ngay đến Hiến pháp. Và tinh thần dân chủ của Hiến pháp sắp được xây dựng đã được thể hiện một cách đầy thuyết phục trong cuộc tổng tuyển cử Quốc hội đầu tiên ở nước ta theo thể thức phổ thông đầu phiếu ngày 6 tháng 1 năm 1946.
 

Hai tháng sau đó, ngày 2 tháng 3 năm 1946 Ban Dự thảo Hiến pháp ( tiếp tục công việc của Ủy ban Dự thảo ) được Quốc hội bầu ra; Và chỉ hơn nửa năm sau,  ngày 9 tháng 11 năm 1946 Quốc hội đã thông qua Hiến pháp với tỷ số phiếu thuận áp đảo 240/242.
 

Và như vậy lịch sử đã minh chứng vai trò của Hồ Chí Minh như là linh hồn của bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam độc lập. Tuy đã từng là người của Quốc tế cộng sản, nhiều năm học tập và làm việc tại Mascơva, không thể không am tường thể chế chính trị của Nhà nước xã hội chủ nghĩa theo mô hình Xô Viết, nhưng Hồ Chí Minh đã không lấy bản Hiến pháp 1936 của Liên Xô làm khuôn mẫu khi chỉ đạo xây dựng Hiến pháp Việt Nam năm 1946. Bản Hiến pháp ấy cho đến nay vẫn là đỉnh cao trong lịch sử lập hiến nước nhà bởi những ưu việt sau đây.
 

1) Thượng tôn quyền lực của Nhân dân bằng việc xác lập quyền phúc quyết Hiến pháp của Nhân dân và đặt Hiến pháp lên trên Nhà nước.
 

2) Thể hiện đầy đủ và tường minh tư tưởng Nhà nước Pháp quyền trên nguyên tắc tam quyền phân lập và cân bằng quyền lực trên cơ sở quy định trách nhiệm rõ ràng cho các cơ quan Lập pháp (quốc hội), Hành pháp (chính phủ) và Tư pháp (tòa án) từ trung ương đến địa phương; cũng như trách nhiệm cá nhân của những người đứng đầu các cơ quan ấy.
 

3) Hết sức ngắn gọn, khúc triết, dễ hiểu và dễ thực thi.
 

Rất tiếc là chỉ hơn một tháng sau khi Hiến pháp 1946 được Quốc hội thông qua thì ngày 19-12-1946 Hồ Chủ tịch đã phải đọc Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Do đó điều 21 của Hiến pháp 1946 chưa được thực thi, có nghĩa là chưa được toàn dân phúc quyết. Vì vậy ngày nay chúng ta đang mắc trong một “thế kẹt lịch sử”:
 

a) Nếu coi Hiến pháp 1946 là Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam độc lập, tồn tại liên tục cho đến ngày nay, thì các Hiến pháp 1959, 1986 và 1992 không có giá trị pháp lý vì đã vi phạm điều 21 của Hiến pháp trước.
 

b) Nếu coi Hiến pháp 1946 là không có giá trị pháp lý vì chưa được toàn dân phúc quyết, thì phải thừa nhận rằng thể chế chính trị của nước ta, dù là Cộng hòa Dân chủ hay Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa, chưa bao giờ là một thể chế thực sự dân chủ với đặc trưng quan trọng nhất là Quyền lập hiến phải thuộc về Nhân dân.
 

Từ năm 1959 Quyền lập hiến “mặc nhiên” thuộc về Quốc hội, cả trong thời chiến lẫn trong thời bình. Lịch sử sẽ mổ xẻ sự “mặc nhiên” ấy. Còn bây giờ, đứng trước yêu cầu cấp thiết phải sửa đổi Hiến pháp 1992, chúng ta hãy tập trung thảo luận những điều khả dĩ sau đây.
 

1. Điều quan trọng nhất phải được đặt ra là :  Trong Hiến pháp sửa đổi lần này, quyền phúc quyết Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia phải thuộc về Nhân dân. Có người nói đây là điều “bất khả” vì sợ rằng quyền phúc quyết của Dân sẽ dẫn đến “ xóa bỏ Điều 4 của Hiến pháp hiện nay”, và như vậy chẳng khác gì là “Đảng tự sát”.  Nỗi lo sợ ấy có vẻ như hồ đồ vì hai lẽ:
 

 a) Điều 4 Hiến pháp chưa bao giờ được luật hóa. Chưa có Luật về Đảng mà Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn thực sự là người lãnh đạo duy nhất và toàn diện của đất nước này. Vậy thì có hay không có điều 4 trong Hiến pháp rõ ràng không phải là điều quan trọng. Điều quan trọng hơn là phải có Luật về Đảng.
 

b) Nếu Đảng Cộng sản Việt nam chủ động đặt vấn đề trả lại quyền phúc quyết cho Dân thì chưa biết chừng chính  Dân lại đề nghị để lại Điều 4. Chưa trưng cầu dân ý trực tiếp một cách trung thực thì chưa biết điều gì sẽ xảy ra!
 

2. Phân công và kiểm soát quyền lực thật rõ ràng giữa Đảng cầm quyền và Nhà nước; giữa các nhánh quyền lực của Nhà nước về Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp. Sự phân công và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp có thể lấy Hiến pháp năm 1946 làm khuôn mẫu. Cân bằng quyền lực giữa 3 nhánh này bao giờ cũng là tương đối, nhưng nhất thiết phải hợp lý, rành mạch và phải được kiểm soát chặt chẽ bằng chế tài có hiệu lực. Phân công và kiểm soát quyền lực giữa Đảng cầm quyền và Nhà nước là điều không dễ trong chế độ đa Đảng, nhưng không phải là khó trong chế độ một Đảng; chỉ cần cụ thể hóa công thức: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ.
 

3. Nhất thể hóa chức danh Chủ tịch Nước và Chủ tịch Đảng cầm quyền. Trong thế chế chính trị của nước ta hiện nay, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam là người có quyền lực cao nhất, nói nôm na là “vua”. Vậy mà ông “vua” này không chịu bất kỳ một trách nhiệm nào trước Hiến pháp và Pháp luật với tư cách là “vua”, ngoài trách nhiệm của một công dân bình thường. Ông “vua” này cũng không được đối xử một cách danh chính ngôn thuận ngang hàng với các ông “vua” khác trên thế giới. Phải để Chủ tịch Đảng cầm quyền đồng thời là Chủ tịch nước để người có quyền lực cao nhất nước cũng phải được điều chỉnh bởi Hiến pháp và Pháp luật cả về đối nội lẫn đối ngoại.
 

Nếu những điều cơ bản trên đây không được đưa ra thảo luận để đi đến thống nhất quay trở về với khuôn mẫu Hiến pháp Hồ Chí Minh, thì tốt hơn hết là không nên đặt vấn đề sửa đổi Hiến pháp 1992 ra làm gì vội cho tốn kém thời gian, sức lực và tiền bạc ( là tiền đóng thuế của Dân ). Hiến pháp là Văn kiện thiêng liêng của mỗi quốc gia, không thể mỗi lúc mỗi sửa. Hay là đợi đến khi điều kiện cho phép lấy lại Điều 16 Hiến pháp 1946 thì hãy sửa. Điều ấy quy định rằng: “Những người ngoại quốc tranh đấu cho dân chủ và tự do mà phải trốn tránh thì được trú ngụ trên đất Việt nam”. Ôi! Vĩ đại thay !..

Nguồn: Tạp chí Nhà Quản Lý

Thứ Hai, 31 tháng 10, 2011

PHAN DIỄN: NHẬN THỨC CỦA TÔI VỀ VỊ TRÍ KINH TẾ NHÀ NƯỚC ĐÃ KHÁC!

Ông Phan Diễn, nguyên thường trực Ban Bí Thư Đảng: 

Nhận thức của tôi về vị trí của kinh tế Nhà nước đã khác! 

Hoàng Phương Loan

Nhà nước có dám bỏ kinh doanh?

Bàn về đổi mới tư duy để có thể tái cấu trúc nền kinh tế, nguyên Thường trực Ban Bí thư Phan Diễn cho hay, nhận thức của chính ông về kinh tế nhà nước đã khác so với hơn 1 năm trước. 

"Nhận thức đã khác"

Ông cho hay, đầu năm 2010, thảo luận về vị trí của kinh tế Nhà nước, ông cho rằng, nói kinh tế nhà nước là chủ đạo vẫn đúng. Bởi lẽ chúng ta cần một lực lượng trong tay nhà nước, giúp nhà nước thực hiện các ý đồ, định hướng nền kinh tế, làm những việc mà các thành phần kinh tế khác không làm được.

Thế nhưng, qua những chuyến đi khảo sát ở các nước, "nhận thức của tôi (Phan Diễn - pv) về vị trí của kinh tế Nhà nước đã khác".

"Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế rất quan trọng nhưng kinh tế Nhà nước thì chưa chắc", nguyên Thường trực Ban Bí thư nói.

Hàn Quốc là bài học thực tế tạo nên bước chuyển nhận thức ấy.

Đánh giá cao vài trò của Chính phủ trong việc định hướng phát triển kinh tế, đề ra nhiều chủ trương, chính sách, nhưng Hàn Quốc thực hiện được những ý định không phải dựa vào lực lượng kinh tế quốc doanh mà chính là vào lực lượng tư nhân.

Ngay cả tư nhân, nhà nước cũng không quá o bế đối với lĩnh vực cần ưu đãi, và cũng không nên nuông chiều, ưu đãi quá lâu. Hàn Quốc đã từng trả giá khi o bế các cheabol.

Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan cho rằng "Gốc gác của vấn đề là nhiều tư duy không ổn mà ta ít nhắc tới.

Tư duy của vị trí nhà nước trong nền kinh tế thị trường của ta còn khác nhau và chưa rõ, kể cả nhà nước trung ương và nhà nước địa phương. Ở các nước, chính quyền chủ yếu lo quản lý hành chính nhà ước, không ai đi làm kinh tế cả.

Ông nêu vấn đề: Với các nước GDP là câu chuyện của DN, đâu phải là của nhà nước lo. Ở ta thì khác. Các địa phương được đánh giá qua thành tích tăng trưởng, qua các con số như GDP, và hệ quả tất yếu là họ chạy, xin đầu tư, là chạy theo tư duy nhiệm kì. Mỗi tỉnh là một pháo đài, một đơn vị kinh tế hoàn chỉnh. Không gian kinh tế quốc gia vì thế bị chia cắt thành không gian kinh tế tỉnh, nền kinh tế bị xé lẻ.

Trách nhiệm lo phúc lợi xã hội của Nhà nước cũng thông qua DNNN, tức là vẫn là nhà nước làm kinh doanh, bởi tiền ngân sách rót qua DNNN tới dân.

Thực tế, nền kinh tế VN đang phải trả giá cho những bất cập trong phân vai giữa nhà nước và tư nhân trong kinh tế.

Theo Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp, khu vực này hiện đang sở hữu 70% tổng tài sản cố định của nền kinh tế, chi phối 20% vốn đầu tư của toàn xã hội, 60% tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại, 50% vốn đầu tư nhà nước và 70% nguồn vốn ODA.

Được bảo hộ lớn và ưu đãi nhiều, thế nhưng, khu vực này chỉ tạo ra 25% doanh thu, 37% lợi nhuận trước thuế và 20% giá trị sản xuất công nghiệp.. 


"Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế rất quan trọng nhưng kinh tế Nhà nước thì chưa chắc"

Hơn nữa, khu vực này dựa vào vay nợ lớn để đầu tư. Không kể 9 tập đoàn, tổng công ty nhà nước chưa có số liệu, con số nợ của các DNNN đã lên tới 54,2% GDP, TS Phan Thanh Hà, Vụ phó Vụ tài chính và tiền tệ, Bộ Kế hoạch đầu tư dẫn lại thống kê của Ban đổi mới và phát triển DN.

"Khi một quốc gia đưa phần lớn vốn đầu tư nhưng lại không đưa được lực lượng lao động vào một khu vực, và khu vực này lại không thể tự tạo ra được ngân lưu hay không duy trì được tỷ phần đóng góp của mình vào sản lượng của nền kinh tế dù đó được bảo hộ và những lợi thế khác, thì đó không phải là biểu hiện của quản lý kinh tế tốt", GS David Dapice từng cảnh báo như vậy trong một nghiên cứu của ông năm 2003.

"Một khi tư duy không thay đổi, chúng ta sẽ chứng kiến kế hoạch mà Chính phủ đang trình, Quốc hội đang bàn sẽ không thể thay đổi được... Sẽ chẳng có tái cấu trúc đâu", ông Vũ Khoan nói.

Cưỡng lại "xu thế"?

Bàn về chuyện tái cấu trúc, các chuyên gia đều nhấn mạnh nhu cầu xác định rõ chức năng, nhiệm vụ kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường: cái gì cần nhà nước đầu tư, cái gì tư nhân đầu tư. Vốn đầu tư nhà nước sẽ không đổ vào những ngành nghề mà khu vực tư nhân làm được.

Nhà nước không nên sử dụng doanh nghiệp nhà nước như một công cụ điều tiết vĩ mô, điều tiết thị trường hay thực hiện chính sách xã hội.

Điều nghịch lí là, ở Việt Nam, khi tư nhân hào hứng đầu tư thì nhà nước cũng lao vào cạnh tranh, và ngược lại. Việc đầu tư ở cảng Thị Vải - Cái Mép là một ví dụ, khi có tới 3 dự án cảng thuộc liên doanh của Tân Cảng Sài Gòn.

Theo TS Vũ Thành Tự Anh, chương trình kinh tế Fulbright, nên giới hạn hoạt động của DNNN ở mấy lĩnh vực: an ninh, quốc phòng; độc quyền tự nhiên; hàng hóa, dịch vụ thiết yếu và công nghiệp trụ cột. Chỉ cần nêu rõ những ngành ấy là có thể loại bỏ một loạt DNNN hiện nay đang chèn lấn khu vực tư nhân, triệt tiêu cạnh tranh của nền kinh tế.

Chúng ta cần buộc DNNN cạnh tranh bình đẳng; đẩy mạnh cổ phần hóa, kể cả các tập đoàn lớn; chấm dứt DNNN đầu tư tràn lan ra ngoài ngành.

Hơn nữa, "cần hạn chế bắt DNNN phải gánh trách nhiệm phi kinh tế", TS Tự Anh nhấn mạnh. Chúng ta không nên xem việc trách nhiệm ấy là mặc định DNNN phải gánh. Hiện nay, đó là cái cớ để họ vin vào mỗi khi bị thổi còi về tính kém hiệu quả. Những trách nhiệm chính trị - xã hội nếu có, sẽ được áp dụng bằng một hợp đồng riêng với nhà nước với những ràng buộc cụ thể.

Vấn đề là, "chúng ta có dám rũ bỏ chuyện nhà nước kinh doanh không?", nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan nêu câu hỏi.

TS Vũ Thành Tự Anh lấy ví dụ, ngay cả khi cơ quan tham mưu như Bộ KH-ĐT đã nhận diện ra vấn đề, thì việc thay đổi cũng không dễ. Chuyện các khu kinh tế ven biển là một ví dụ.

Khi thảo luận, chính Bộ KHĐT cho rằng, con số 15 khu kinh tế ven biển là quá nhiều, mà chưa có khu nào đáng gọi là khu kinh tế. Đến lúc VN phải xem lại, chọn lựa một vài khu kinh tế biển để "làm cho ra hồn"
Thế nhưng, cũng chính Bộ KHĐT lại không cưỡng được xu thế, ít lâu sau lại trình thêm 3 khu kinh tế biển nữa, thành 18 khu, mà mỗi khu chỉ cách nhau 40-50km.

Sự thay đổi ấy, "phải dũng cảm mới có thể thực hiện được", TS Tự Anh nói.


RFI - KINH TẾ VIỆT NAM GẶP KHỦNG HOẢNG VỀ NIỀM TIN

Kinh tế Việt Nam gặp khủng hoảng về niềm tin


Thanh Phương
Theo RFI 


Việt Nam đang nỗ lực kềm chế lạm phát và ngăn chận đà sụt giá của tiền đồng, nhưng ngoài những mất cân đối lớn này, chính quyền Hà Nội còn phải chống một kẻ thù nguy hiểm hơn, đó là sự mất niềm tin của các tác nhân kinh tế. Đó là nhận định chung của hãng tin AFP hôm nay, 30/10/2011, trong bài nhận định về kinh tế Việt Nam.

Vào đầu năm nay, đảng Cộng sản Việt Nam đã thi hành một chính sách khắc khổ nhằm kềm chế lạm phát, mà trong tháng 9 đã lên tới 23% , giảm mức thâm thủng thương mại ( 12,4 tỷ đôla trong năm 2010 ) và giữ vững tiền đồng vốn đã bị phá giá đến 4 lần trong vòng 15 tháng qua.

Với lãi suất tín dụng hiện đã lên tới hơn 20%, các chuyên gia dự báo là tình hình trong 18 tháng tới sẽ rất là phức tạp. AFP trích dẫn một nhà đầu tư ngoại quốc ở Sài Gòn cho rằng : « Vấn đề hiện nay ở Việt Nam là sự khủng hoảng niềm tin. Cái giá phải trả rất lớn ». Theo nhà đầu tư này, chính sách khắc khổ là cần thiết.

Từ 20 năm nay vẫn chú tâm đạt mức tăng trưởng cao, vì ganh tỵ với thành công của nước Trung Quốc láng giềng, Việt Nam đã đối phó với khủng hoảng tài chính 2008 bằng cách bơm thêm tiền vào nền kinh tế.

Các bong bóng đầu cơ hình thành khắp nơi. Biểu tượng cho sự phá sản của quốc gia, tập đoàn Vinashin đã đầu tư vào đủ mọi lĩnh vực để rồi cuối cùng rơi vào tình trạng gần như phá sản, với món nợ lên tới 4,4 tỷ đôla.

Trong khi đó, thị trường chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, được khai trương một cách long trọng năm 2000, đã chạm đáy. Tháng 8 vừa qua, chỉ số VN-Index đã rơi xuống mức thấp nhất từ trước đến nay, thấp hơn ba lần so với mức kỷ lục của năm 2007 khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới.

Ông Jonathan Pincus, hiệu trưởng trường đại học tư Fulbright Economics, được AFP trích dẫn, ghi nhận : « Cũng như đối với các định chế khác, các cải tổ đã không theo kịp nhịp độ của nền kinh tế. Ai cũng thấy là cần phải có một chiến lược mới, nhưng họ không có một cơ cấu chính trị nhất quán ».

Trong một quốc gia mà chuyện gì cũng không minh bạch, khó ai có thể biết được thực trạng của nền kinh tế. Về mặt chính thức, lượng ngoại tệ dự trữ của Việt Nam chỉ đủ bảo đảm hai tháng nhập khẩu. Nhiều ngân hàng quốc doanh hiện đang kẹt rất nhiều nợ xấu và một số nhà quan sát lo ngại về hậu quả của một « Vinashin mới ».

Phòng Thương mại châu Âu vừa công bố chỉ số về môi trường kinh doanh, giảm sụt trong ba quý liên tiếp, cho thấy là « các biện pháp được thi hành để ổn định kinh tế hiện giờ đã không trấn an được giới doanh nghiệp ».

Hãng tin AFP nhắc lại là trong tháng Giêng vừa qua, chính quyền Việt Nam đã thừa nhận là cần phải có một mô hình kinh tế mới, nhưng lại không đưa ra hướng đi cụ thể nào.

Trước đây vẫn được mô tả là « con rồng châu Á » tương lai, Việt Nam đã phát triển kinh tế dựa trên việc khai thác tài nguyên và nguồn nhân công dồi dào. Nhưng cho tới nay Việt Nam vẫn chưa chuyển sang giai đoạn kế tiếp. Chuyên gia Jonathan Pincus phân tích : « Việt Nam vẫn cứ lao vào sản xuất thêm nhiều cà phê, gạo, hạt điều, áo thun và giày dép, nhưng vẫn chưa chuyển đổi sang một nền sản xuất có trị giá gia tăng cao ».

Về phần ông Dominic Scriven, chủ tịch tổng giám đốc quỹ đầu tư Dragon Capital thì cảnh báo : « Trong 5 năm trở lại đây, mô hình kinh tế đã bị mất cân đối. Vấn đề là tất cả mọi người có nhận ra điều đó hay không ».

Theo AFP, người dân Việt Nam thì dường như không mấy tin tưởng vào nền kinh tế và trong những tháng gần đây họ đã đua nhau mua vàng và đôla. Theo một nguồn tin ngoại quốc, ngay cả các ngân hàng nay cũng bán đi đồng tiền quốc gia.

Như nhận định của một nhà doanh nghiệp, xin được miễn nêu tên, « chính quyền Việt Nam nay đã bị dồn vào chân tường trước yêu cầu khôi phục cân đối kinh tế. Họ còn phải làm nhiều việc để chứng tỏ họ xứng đáng với trọng trách được giao ».

Nguồn: RFI Việt ngữ.

MONG RẰNG KHÔNG CHỈ LÀ LỜI HỨA

MONG RẰNG KHÔNG CHỈ LÀ LỜI HỨA 
Nguyễn Duy Xuân 

Đọc cái tít trên các báo gần đây đăng ý kiến của bộ trưởng Nội vụ Nguyễn Thái Bình: Năm 2012 công chức sẽ 'sống được' bằng lương mà thấy ngờ ngợ. Quả thực nghe quen quen. À, phải rồi ! Cách đây 5 năm, khi nhậm chức bộ trưởng bộ GD-ĐT, ông Nguyễn Thiện Nhân cũng đã khẳng định chắc như thế: năm 2010, giáo viên sẽ sống được bằng lương !

Lúc bấy giờ nghe bộ trưởng hứa, các thầy cô giáo từ miền xuôi đến miền ngược, từ thành thị đến nông thôn, từ mẫu giáo đến đại học đều hồi hộp, phấp phỏng chờ đợi, hi vọng; quyết tâm dạy tốt cho năm 2010 đến mau để mà được hưởng cái sự sung sướng bằng chính đồng lương của của mình. Thế rồi theo qui luật của tự nhiên, cái năm đầy hi vọng ấy cũng đến và vù qua nhanh như lời hứa của ông cựu bộ trưởng, cái lời hứa mà sau này trở thành câu nhại vui vẻ của thiên hạ. Các thầy cô đành ngậm ngùi trong toan tính, đồng lương không đủ sống thì phải bươn chải thôi, “người em ở lớp, lòng em ở nhà”. Giáo dục cứ thế bị cuốn vào vòng xoáy cơm áo gạo tiền mà chẳng biết khi nào mới gỡ được.

Trở lại câu chuyện hôm nay, còn hai tháng nữa là sang năm 2012. Còn hai tháng nữa không riêng gì giáo viên mà hơn 1,2 triệu công chức cả nước sẽ sống được bằng lương mà không phải phấp phỏng chờ đợi đến 4 năm như ông Nhân ngày trước. Thật đáng mừng. Nhưng lại thấy lo lo. Chỉ sợ các vị bộ trưởng trong một phút bốc đồng mà hứa hão. Bởi để công chức sống được bằng lương, thì đâu chỉ có việc điều chỉnh mức lương tối thiểu và chi tiền ngân sách ra là xong. Bài học của mỗi lần tăng lương còn đó, chưa kịp tăng thì giá đã phi mã, tăng rồi thì giá trị lương mới không bằng lương cũ. Nhưng mà thôi, việc gì phải lo bò trắng răng cho mệt. Hy vọng lần này chuyện sống được bằng lương không còn là lời hứa viễn vông nữa.

Hãy chờ xem. Giấc mơ đẹp sắp đến rồi !                                             
29-10-2011

NXD: Anh nào lên cũng hứa. Toàn hứa suông cả. Em chẳng tin anh nào nữa! Rứa cả thôi!

RFA: TRUNG QUỐC ĐANG ĐẨY ASEAN VỀ PHÍA MỸ

Trung Quốc đang đẩy khối ASEAN về phía Mỹ

2011-10-28
Hội nghị thường niên EAS tức Thượng Đĩnh Đông Á giữa ASEAN và các nước bạn Châu Á sẽ diễn ra tháng tới tại Bali, Indonesia, lần đầu tiên có sự tham dự của cấp lãnh đạo cao nhất nước Mỹ, tổng thống Barack Obama. 

 Source:informationdissemination.net
Loại tàu ngầm tấn công của Trung Quốc được mang ra biểu dương nhân ngày kỷ niệm 60 năm ngày thành lập CHND Trung Hoa.

Sự kiện này có ý nghĩa thế nào khi  mà mọi chuyện  liên quan đến  tình hình  tranh chấp trên biển Nam Trung Hoa và ASEAN trong thời gian qua , đều hướng sự chú ý của thế giới vào phản ứng của hai thế lực hùng mạnh Đông Tây là Trung Quốc và Hoa Kỳ. 

Đoàn kết vì Trung Quốc

Có thể nói  một cách rõ ràng Hoa Kỳ và Trung Quốc đang là hai yếu tố quyết định tương lai của khu vực Châu Á Thái Bình Dương.

Đó là nhận định của chủ tịch Trung Tâm Nghiên Cứu Châu Á  phân  khoa Quan Hệ Quốc Tế thuộc Đại Học Mỹ Châu (American University),  Hoa Kỳ, giáo sư  Amitav Acharya.

Trong bài xã luận  tựa đề Thân Cận Với Mỹ Mà Không Chọc Giận Trung Quốc,  đăng trên nhật  báo Anh ngữ Bangkok Post phát hành tại Thái Lan, giáo sư Amitav Acharya nhấn mạnh tầm quan trọng của hội nghị thượng đĩnh Đông Á tháng Mười Một tới ở Indonesia:

Vòng đối thoại này diễn ra trong thời điểm khá là gay cấn, khi mà những hành động dương oai diễu võ và cố ý biểu dương lực lượng quân sự hùng mạnh của Trung Quốc đã khiến quan hệ giữa ASEAN với Bắc Kinh rẽ sang một hướng khác.
Vòng đối thoại này diễn ra trong thời điểm khá là gay cấn, khi mà những hành động dương oai diễu võ và cố ý biểu dương lực lượng quân sự hùng mạnh của Trung Quốc đã khiến quan hệ giữa ASEAN với Bắc Kinh rẽ sang một hướng khác.
GS.Amitav Acharya
Trước giờ, theo  giáo sư Amitav Acharya, ASEAN có vẻ yên ổn và hài lòng trong quan hệ với cả Hoa Kỳ lẫn Trung Quốc mà không cần chọn lựa nên đứng về phia nào.

Thế nhưng  từ lúc Trung Quốc khởi sự thái độ hay cung cách gọi là “hành xử nước lớn”  hai năm nay trên vùng biển Bắc Kinh gọi là Nam Trung Hoa, các quốc gia ASEAN không ít thì nhiều phải tự đặt lại vấn đề về tương quan của mình với nước láng giềng khổng lồ kia.  

Hậu quả rõ nét là ASEAN đang bày tỏ thái độ thân thiện và xích lại gần với Mỹ hơn, chưa kể chủ trương của chính hành pháp Obama ở Washington là thúc đẫy quan hệ hữu nghị với Châu Á cũng như can thiệp sâu hơn vào Châu Á.

Đó là lý do năm 2009, Hoa Kỳ và ASEAN ký kết hiệp ước lịch sử có tên Hữu Nghị Và Hợp Tác  Đông Nam Á. Tiếp đó, năm 2010,  lần đầu tiên Hoa Kỳ chứng tỏ sự hiện diện tích cực của mình tại Thượng Đĩnh Đông Á với sự tham dự và những lời tuyên bố hữu nghị nhưng không kém phần cương quyết từ  ngoại trưởng Hillary Clinton.

Hoa Kỳ mạnh mẽ bày tỏ lập trường dứt khoát, nhiều phần thiên về các nước thành viên ASEAN có liên hệ đến hiện tình tranh chấp trên biển Nam Trung Hoa. 

Lập trường đó thể hiện bằng những lời chỉ trích hành động lấn lướt phô trương sức mạnh và giành giật chủ quyền của Trung Quốc trên vùng biền Nam Trung Hoa, bằng việc tổ chức những cuộc thao diễn quân sự hỗn hợp với Việt Nam và Philippines, tái khẳng định tư thế đồng minh Hoa Kỳ Philippines trên vùng biển Nam Trung Hoa.
Hậu quả rõ nét là ASEAN đang bày tỏ thái độ thân thiện và xích lại gần với Mỹ hơn, chưa kể chủ trương của chính hành pháp Obama ở Washington là thúc đẫy quan hệ hữu nghị với Châu Á cũng như can thiệp sâu hơn vào Châu Á. 
Tháng Mười Một năm nay, tổng thống Barack Obama của Hoa Kỳ sẽ đến Thượng Đĩnh Đông Á ở Bali, Indonesia, mở đầu trang sử mới cho ASEAN, Hoa Kỳ và khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Tổng thống Obama cũng sẽ tham dự Thượng Đĩnh ASEAN- Hoa Kỳ lần thứ ba  diễn ra trong thời gian này.

Một câu hỏi  được chuyên gia Trung Tâm Nghiên Cứu Châu Á của American University, giáo sư Amitav Acharya, nêu ra ở đây:

Sự thân thiện mà Hoa Kỳ muốn chứng tỏ đối với ASEAN liệu có phải là câu trả lời hay giải pháp dài hạn để giải quyết thái độ nước lớn của Trung Quốc đối với tổ chức này không? Và dù như đây được coi là sự xích lại gần một khu vực chứ không riêng một nước, có nghĩa là nằm trong chính sách đối ngoại chung của Mỹ, hành động này không phải là không có cái giá của nó.
Những cuộc nói chuyện gần đây giữa tôi với hai vị ngoại trưởng  Singapore và Indonesia đã cho tôi thấy viễn ảnh của hai mối nguy chực chờ ASEAN trong tiến trình xích lại gần hơn với Hoa Kỳ.
GS.Amitav Acharya
Những cuộc nói chuyện gần đây giữa tôi với hai vị ngoại trưởng  Singapore và Indonesia đã cho tôi thấy viễn ảnh của hai mối nguy chực chờ ASEAN trong tiến trình xích lại gần hơn với Hoa Kỳ.

Trước giờ chính phủ Singapore quan niệm, và hiện vẫn tin tưởng rằng, sự cân bằng quyền lực và ổn định trong khu vực nhất thiết cần sự yểm trợ tích cực về mặt quân sự từ phía Mỹ. 

Vai trò của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á

Thế nhưng vẫn theo lời giáo sư Acharya, ngoại trưởng Singapore là ông K Shanmugham, cho rằng vào khi hành pháp Obama đề cao chính sách gọi là thân thiện trở lại cùng Đông Nam Á, thì Washington cũng phải chứng minh được tầm quan trọng khi gắn bó với khu vực, Mỹ nên can thiệp vào Đông Nam Á bằng tinh thần trách nhiệm, bằng chủ trương rõ ràng và minh bạch. Nếu thiếu những điều kiện đó, người đứng đầu ngành ngoại giao Singapore khẳng định, đừng trách các nước trong khu vực phải tự tính toán lấy số phận của họ, nghĩa là ngã sang Trung Quốc để tìm sự yên thân.

Một mặt đồng ý với quan điểm của ngoại trưởng Singapore rằng Hoa Kỳ giữ vai trò hệ trọng trong việc bảo vệ an ninh cho vùng Châu Á Thái Bình Dương, măt khác ngoại trưởng Marty Netalegawa của Indonesia cho rằng ASEAN tuyệt đối phải biết dung hòa, nghĩa là đừng tỏ vẻ cầu cạnh Mỹ quá đáng bởi điều này sẽ cũng cố thêm nỗ lực tuyên truyền chỉ trích  lâu nay từ phía Bắc Kinh rằng Hoa Kỳ là một thế lực ngoại bang không thể can thiệp vào nội tình biển Nam Trung Hoa được.

Đối với ngoại trưởng Natalegawa của Indonesia, hiện là nước chủ tịch luân phiên ASEAN, cũng là nước chủ nhà của Hội Nghị Cấp Bộ Trưởng ASEAN, Diễn Đàn Cấp Vùng ASEAN, rồi Thượng Đĩnh Đông Á tháng tới, biện pháp  giải quyết căng thẳng không nằm trong việc mời gọi Hoa Kỳ giúp  cân bằng thế lực quân sự  với Trung Quốc mà là tìm cách phát triển cùng nới rộng mối quan hệ với cả Hoa Kỳ lẫn Trung Quốc.
Mỹ nên can thiệp vào Đông Nam Á bằng tinh thần trách nhiệm, bằng chủ trương rõ ràng và minh bạch. Nếu thiếu những điều kiện đó, người đứng đầu ngành ngoại giao Singapore khẳng định, đừng trách các nước trong khu vực phải tự tính toán lấy số phận của họ, nghĩa là ngã sang Trung Quốc để tìm sự yên thân.
ông K Shanmugham
Theo giáo sư Amitav Acharya, đó là những nguyên tắc trọng yếu hầu duy trì tư thế mà Indonesia gọi là trạng thái quân bình hữu hiệu giữa các cường quốc thế giới tại khu vực Châu Á Thái Bình Dương.

Trạng thái quân bình hữu hiệu này, giáo sư Acharya phân tích, không hề là sự quân bình lực lượng theo qui ước hay cuộc chạy đua vũ trang giữa các cường quốc, mà đúng ra là một khung hành động để giữ ASEAN ở vị  trí trung gian, chỉ ASEAN và duy nhất ASEAN có thể hoàn tất vai trò trung lập này vì tổ chức đứng giữa Nhật Bản, Trung Quốc, Nam Hàn, Bắc Hàn, Australia và New Zealand ở mạn Đông cũng như Ấn Độ ở mạn Tây.

Chính vì lẽ đó, giáo sư Acharya nói tiếp, Hoa Kỳ cần nghe ngóng thật cẩn trọng bởi đang có sự suy nghĩ khác nhau về vai trò của Mỹ trong việc bắt tay với ASEAN, cũng như  đang có những quan điểm khác biệt giữa các thành viên chủ chốt của ASEAN về phương cách ứng xử của Hoa Kỳ  trong khu vực:
Xích lại gần Mỹ ở xa mà không chọc giận người bạn láng giềng Trung Quốc ở gần là một thử thách lớn của cả khối ASEAN.
GS.Amitav Acharya
Hoa Kỳ sẽ nhân Thượng Đĩnh Đông Á để nêu vấn đề căng thẳng đang tăng gia giữa  ASEAN với Trung Quốc. Tuy nhiên Trung Quốc, vốn không muốn những vấn đề tế nhị như an ninh vùng biển Nam Trung Hoa  bị đưa ra mổ xẻ tại Thượng Đĩnh Đông Á tháng tới, sẽ mạnh mẽ lên tiếng chống lại động thái này. 

Trái lại điều Trung Quốc mong muốn không có gì khác với quan điểm của họ trước nay là thảo luận song phương với từng quốc gia để giải quyết mâu thuẫn.

Tóm lại, giáo sư Amitav Acharya khẳng định, tại cuộc họp Đông Á cấp cao ở Bali tháng tới, cả Indonesia và Singapore đều không muốn Hoa Kỳ hướng nội dung vào vấn đề an ninh khu vực liên quan đến Trung Quốc, điều ASEAN cần trong tiến trình thân thiện trở lại với Đông Nam Á mà Hoa Kỳ đưa ra là nới rộng lịch trình thảo luận sang các vấn đề kinh tế và thương mại  chứ không chỉ vấn đề chính trị và an ninh.  

Để kết luận, giảng sư Amitav Acharya thuộc khoa Quan Hệ Quốc Tế đại học Mỹ Châu, chủ tịch Trung Tâm Nghiên Cứu Châu Á của đại học này, khuyến cáo ASEAN cũng cần phải thận trọng khi tìm kiếm hậu thuẩn của Hoa Kỳ đến mức độ nào.

Theo ông, xích lại gần Mỹ ở xa mà không chọc giận người bạn láng giềng Trung Quốc ở gần là một thử thách lớn của cả khối ASEAN.


RFA: VAI TRÒ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA MẠNG XÃ HỘI TẠI VN

Vai trò và Ảnh hưởng của Mạng Xã Hội tại VN
2011-10-27
Trong một hội nghị chủ đề “Ảnh hưởng của truyền thông xã hội trên báo chí” tại Brussells, Bỉ, nhà báo nổi tiếng người Pháp Jean Quatremer cho rằng, việc viết blog trên các trang mạng xã hội đang lấn át báo chí truyền thống.

AFP photo
Ông Tom Furlong, Giám đốc Điều hành Facebook trình bày hệ thống máy chủ mới mở rộng thêm ở vùng Bắc Cực, điểm đầu tiên ngoài nước Mỹ. Ảnh chụp tại Thụy Điển hôm 27/10/2011.

Blog - nhật ký cá nhân 

Phát biểu tại Hội nghị “Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đối với báo chí”, nhà báo nổi tiếng người Pháp Jean Quatremer cho biết ông đã sử dụng blog và Facebook, Twitter để đăng những bài viết mà các tờ báo không dám đăng để chứng minh rằng vẫn có những độc giả muốn theo dõi các tin tức đó. Ngoài ra, việc tương tác với độc giả còn giúp cho ông có thêm các ý tưởng cho những bài viết sau đó.

Theo ông Quatremer, việc viết blog trên các mạng xã hội đang có xu hướng đánh bại các phương tiện truyền thông khác.

Kể từ khi xuất hiện các phương tiện truyền thông xã hội, báo chí truyền thống bị đặt trước những thách thức về tốc độ đưa tin, tính trung thực và sự đa dạng của tin tức. Điều này hoàn toàn không ngoại lệ đối với ngành truyền thông tại Việt Nam.

Nói về ảnh hưởng của các blog, mạng xã hội đối với báo chí tại Việt Nam trong thời gian qua, blogger Duy Ngọc cho rằng:

"Tôi nghĩ mạng xã hội chắc chắn làm thay đổi, nó tác động đến các cơ quan truyền thông. Nó đòi hỏi sự đa chiều, lan truyền thông tin nhanh chóng hơn. Nó giúp điều chỉnh các cơ quan truyền thông trong nước. Bây giờ những tờ như Công An, Quân Đội hay Sài Gòn Giải Phóng chẳng hạn thì bây giờ thông tin lan truyền rất nhanh.

Trước đây người ta có thể ngăn chặn phản hồi, nhưng bây giờ người ta có thể post bài lên trang mạng xã hội, có thể khen chê… thì các báo chắc chắn sẽ cẩn trọng hơn và họ cũng nhận được những thông tin ở đó, chắc chắn họ có điều chỉnh như những tờ Sài Gòn Tiếp Thị, Tuổi Trẻ, Pháp Luật…"

Còn TS. Nguyễn Xuân Diện, chủ nhân của Blog Nguyễn Xuân Diện, một trong những trang mạng có số lượng truy cập cao, với trên 7,6 triệu lượt, cho biết blog và mạng xã hội là nơi đặc biệt mà ông gửi gắm những suy tư, những vấn đề mà ông quan tâm thay vì hình thức viết bài gửi cho các báo như trước đây. Ông chia sẻ:

Chúng tôi quan niệm blog là nhật ký cá nhân, ở đó có thể gửi gắm, chứa đựng những tâm tư, tình cảm hoặc những ý kiến của chúng tôi đối với tất cả những vấn đề xảy ra...
TS. Nguyễn Xuân Diện

"Từ khi đọc qua blog, tức là hình thức viết nhật ký cá nhân, thì chúng tôi không viết bài để gửi cho các báo chí truyền thống nữa vì chúng tôi quan niệm blog là nhật ký cá nhân, ở đó có thể gửi gắm, chứa đựng những tâm tư, tình cảm hoặc những ý kiến của chúng tôi đối với tất cả những vấn đề xảy ra, những vấn đề chúng tôi quan tâm và những gì mà chúng tôi có thể nói. Chính vì điều đó, chúng tôi coi blog cá nhân là phương tiện rất hữu hiệu để chuyển tải và tương tác trong việc đưa thông tin hoặc trao đổi, chia sẻ."

Một trong những điều tích cực khác mà hầu hết các blogger và cư dân mạng đều thừa nhận là các trang mạng xã hội đã góp phần bổ sung mảng thông tin thuộc dạng “lề trái” mà hầu hết các cơ quan truyền thông chính thống tại Việt Nam không thể hoặc không được phép đăng tải. 

Thông tin toàn cầu

000_Hkg3920056-250.jpg
Sử dụng điện thoại di động để vào các trang mạng xã hội. AFP photo 
 .
Một thí dụ điển hình là tin tức về những cuộc biểu tình chống Trung Quốc trong vài tháng qua tại Sài Gòn và Hà Nội. Cũng chính từ việc liên tục cập nhật những tin tức liên quan đến các cuộc biểu tình một cách nhanh chóng, chính xác và trung thực mà những trang blog cá nhân như trang Dân Làm Báo, blog Nguyễn Xuân Diện, blog Ba Sàm… đã có số người truy cập tăng vọt và được biết đến như những trang tin hàng đầu cho những vấn đề được xếp vào dạng “lề trái” như trên.

Chia sẻ về những ích lợi mà mạng xã hội mang lại, TS. Nguyễn Xuân Diện cho rằng ngoài việc có chỗ để bày tỏ những mối quan tâm, trăn trở về những vấn đề xã hội hay trao đổi chuyên môn nghề nghiệp, một niềm vui khác mà blog mang lại ông chính là những người bạn mới. Ông nói:

"Từ khi tôi có blog cá nhân thì tôi có thêm rất nhiều bạn. Tính tương tác mạnh mẽ của blog, các trang mạng xã hội khiến cho thế giới rộng lớn nhưng những con người ở khắp mọi nơi trên thế giới được kết nối, chia sẻ với nhau. Vì vậy họ trở thành bè bạn chỉ trong chốc lát và họ có thêm nhiều bè bạn. Vì vậy tiếng nói của họ được lan tỏa. Niềm vui hay nỗi buồn, những suy tư của họ có mức độ lan tỏa và được chia sẻ mà không một hình thức nào có thể sánh bằng. Đấy là cái lợi mà mạng xã hội đem lại cho những người bắt đầu tham gia vào các trang mạng xã hội và hòa vào dòng thác thông tin toàn cầu như vũ bão hôm nay."

Tính tương tác mạnh mẽ của blog, các trang mạng xã hội khiến cho thế giới rộng lớn nhưng những con người ở khắp mọi nơi trên thế giới được kết nối, chia sẻ với nhau.
TS. Nguyễn Xuân Diện

Riêng với người đọc tại Việt Nam, blog và mạng xã hội đã trở thành hoạt động không thể thiếu trong ngày đối với một bộ phận lớn những người sử dụng internet. Một trong những mạng xã hội mà rất nhiều cư dân mạng thừa nhận là đã “nghiện”, đó là trang Facebook. Nhiều người cho biết đây cũng chính là một trong những nơi mà họ có thể tìm được những kết nối để đọc các tin tức, bài viết thuộc dạng “lề trái” bên cạnh những blog cá nhân nổi tiếng khác. Chính vì vậy, mặc dù liên tục bị chặn trong một thời gian dài, số thành viên của trang Facebook vẫn lên đến hơn 2,5 triệu người.

So sánh giữa ảnh hưởng về mặt truyền thông của mạng xã hội và báo chí chính thống, TS. Nguyễn Xuân Diện cho rằng:

"Tôi đánh giá là giữa báo chí truyền thống và các trang mạng thì hiện nay ở Việt Nam, đối với những cư dân thành thị, tức là những nơi có internet thì mạng xã hội được người ta quan tâm hơn rất nhiều so với báo chí chính thống. Đã lâu nay rồi người ta không còn mua báo nữa. Ở Việt Nam rất ít người mua báo.

Những người sử dụng mạng rồi thì họ không mua báo nữa vì báo chí truyền thống đơn giản, tẻ nhạt, ít thông tin và không có độ chân thực cao như blog cá nhân hoặc các trang mạng xã hội. Hai nữa là báo chí chính thống, kể cả báo mạng, mức độ chia sẻ của nó không được lớn như mạng xã hội. Chính vì vậy, mỗi một ngày mới, khi bắt đầu đến bật màn hình máy vi tính lên là người ta tìm đến các trang mạng xã hội, sau đó mới đến các trang báo chính thống." 

Chỗ đứng của báo chí

000_Par6190937-250.jpg
Người dân đọc báo ở Athens hôm 06/4/2011. AFP photo 
 .
Blogger Duy Ngọc thì cho rằng mặc dù các trang mạng xã hội có xu hướng phát triển nhanh và mạnh, nhưng báo chí truyền thống vẫn có chỗ đứng của nó:

"Trang mạng xã hội thì chứa năng chủ yếu là lan truyền thông tin. Thường thì các thông tin đó cũng có thể lấy trên các tờ báo chính thống trong nước nhưng có thể các trang mạng xã hội lấy bài với sự chọn lọc và có sự bình luận, phản hồi thì (mình) có thể đọc nên vẫn tìm đọc song song cả hai.

Mình vẫn lướt qua một số trang trong nước vì dù sao họ vẫn có chuyên môn trong việc đi thu thập thông tin đối với các cơ quan nhà nước. Còn những blogger và những thành viên mạng xã hội thì họ không thể lấy thông tin được nhưng họ có thể xử lý thông tin đó theo góc nhìn của họ, góc nhìn đa chiều của những thành viên mạng thì mình có thể tham khảo. "

Theo kết quả nghiên cứu Net Index do công ty Yahoo và công ty nghiên cứu thị trường Kantar Media thực hiện tại 4 thành phố lớn là Hà Nội, Đà Nẵng, Sài Gòn và Cần Thơ trong hai tháng đầu năm nay thì số người sử dụng internet hàng ngày tại Việt Nam đã vượt qua báo giấy và radio. Cụ thể, số người dùng internet đạt 42% trong khi số người đọc báo giấy chỉ chiếm 40% và nghe radio chiếm 23%.

Ngoài ra, một khảo sát khác của công ty nghiên cứu thị trường toàn cầu Nielsen cũng cho biết có đến 96% số người sử dụng internet tại Việt Nam đều đã từng ghé qua một trang mạng xã hội. Thêm vào đó, họ lại là những người bị ảnh hưởng nhiều nhất từ các thông tin đăng trên mạng xã hội so với cư dân các nước khác trong khu vực Đông Nam Á.


LÊ DŨNG: HÀ NỘI KHÔNG CÒN THANH LỊCH

Cafe Bảo Khánh sáng chủ nhật 30.10.2011. Ảnh: Ba Sàm

Hà Nội không còn thanh lịch

Thông báo khẩn!

Sau vụ bị đám cô hồn cướp máy ảnh, đập nát và dùng đòn có nghề để tấn công tôi ngay ban ngày giữa phố Bà triệu hồi 10AM 30 sáng nay thì bận bởi vụ bóng đá nên giờ mới về viết lại để bà con rõ.

Sáng, 9 giờ như thường lệ 6 năm nay, từ khi tôi xây cái Bảo việt năm 2005 nên chỉ ngồi quán Bonbon Bảo khánh - quán của chị Hằng nhà hát Tuổi trẻ. Hôm nay tỗi vẫn ra ngồi, biết em Phương và Phương Bích cũng ra hồ uống ca fe nên gọi đến đó ngồi cho vui. Mấy chị em đến đang ngồi thì xe AN kéo đến vài cái, vài chú vào rỉ tai chủ quán và dẹp hết hè. Chủ quán vào lạy chị em tôi và bảo : xin các bác tuần sau đừng vào quán em, cho em làm ăn.Thương quá nên chị em bảo nhau sang Thủy tạ cho dù biết ca fe bên đó mất cả gần nửa tạ thóc. AN bu đông như kiến xung quanh, quay phim, chụp hình.

Có cả U Trâm ra hồ nên mời U vào cafe luôn , U bảo : tuần trước U ra hồ một mình, đang ngồi ghế đá thì bị hai xe máy bắt cóc U mang về phường, con bé Nga phó chủ tịch phường cứ xin U là thôi đừng ra Bờ hồ ! U bảo : hôm nay có 4 đứa đến chặn cửa không cho chồng U đi đâu. U trốn từ hôm trước nên ra hồ được, mong gặp bà con cho đỡ nhớ. Nhà cứ Chủ nhật là có đứa mang dây đồng đến buộc cửa.

10 am 30, mọi người bảo nhau về còn việc nhà, chiều còn đá giải NO - U.

U Trâm bảo có gần chục đứa cứ theo U, sợ có việc gì nên mình bảo: U cứ về, con đi xe máy theo U xem sao.

Về đến chỗ U gửi xe ở đầu Bà triệu thì U lấy xe, mình đi sau, chụp ảnh xung quanh chỗ đám cưới. Biết là có hai đứa trai gái đi bộ theo từ Thủy tạ, 3 xe máy chở hai nữa. Mình đang chụp thẳng vào cái rạp đám cưới thì một thằng cỡ tuổi mình đội mũ bảo hiểm lao vào với cú đá song phi điêu luyện. Chỉ kịp né và để xe máy đổ xuống đường. Nó lao vào bồi tiếp mấy cú đấm móc, đấm vòng , cũng né không tự vệ. Một cú vả kêu chát một cái do mình đỡ bằng đao tay trái đặt bên tai phải. Nó giằng được máy ảnh và ba thằng nữa ra can kiểu dọn đường. Mình tóm một thằng bảo anh tao là sếp an ninh. Nó ra can đám kia lại, nhà đám cưới đang ăn đổ ra em. Mình bảo : tôi đang chụp ảnh cái rạp cưới thì tay kia ra cướp và đánh tôi như bà con biết đấy. Tên này ở đâu, là ai ? bà con bảo : à, anh này chúng tôi biết mà, thôi bác về đi, chúng nó gọi thêm ra mà mình bác thì rách việc.

Cái máy IXY - 650 cannon nó giằng và đập ngay trước đám đông.

Hậu quả còn lại: gốc ngón tay cái đang bị đơ, sưng to và tím, hy vọng không vỡ xương. Mai đi chụp phim, lấy hồ sơ, sẽ gửi thư và hồ sơ cho anh Nhanh nhà mình . Bà con chỗ Bà Triệu đã nhặt cái máy giập nát đưa U Trâm, U vừa gọi sẽ gửi tận nhà.

Mấy bà con chỗ Bà triệu biết mình từ năm 95 khi lắp trạm điện khu ấy, mấy em gọi bảo em có ảnh và clip chụp rõ mặt thằng cướp máy ảnh của anh và đánh anh. Mình cũng lạ gì mấy đứa đó nhưng cũng xin ảnh để đối chiếu. Biết đâu lại gặp mấy anh em Ứng Hòa quân anh Nhanh đồng hương nhà mình?

Nợ gì trả đó, của Bụt mất 1 đền 10, không quịt được.

Tuy nhiên, Hà nội đã không còn tí nào văn hóa và an toàn nữa. Đó là điều đau lòng hơn cả. Côn đồ hay cô hồn ở từng góc phố, nơi mình lang thang và lớn lên, kiếm ăn suốt hơn 20 năm nay.

Kính báo để bà con biết, cẩn thận khi ra phố chủ nhật, chụp ảnh hay quay phim ở đó.

Nguồn: Lê Dũng -Blog

Nguyễn Xuân Diện:

Lê Dũng ơi! Thanh lịch gì nữa! Hà Nội không còn là thành phố của bọn mình nữa! Nó là thành phố đầy rẫy bất trắc, bất an do bọn côn đồ gây nên. 

Hà Nội không phải của mình nữa rồi! Những trí thức lớn của đất nước, anh em văn nghệ sĩ trí thức và những người tử tế khác thì bị vu cho là phản động. Họ đã đẩy anh em chúng mình xuống bùn rồi! Nói như Nguyên Ngọc: Có cái gì đó như là sự tận cùng rồi!

Chủ Nhật, 30 tháng 10, 2011

NHỮNG CUỐN SÁCH MỚI NHẤT TRÊN GIÁ

Lâm Khang thư viện vừa tiếp nhận các ấn phẩm quý báu
mà các tác giả và bạn bè gửi tặng. Chúng tôi chân thành cám ơn
và xin trân trọng giới thiệu với chư vị

.

Lời giới thiệu 
Giàn thiêu
Dựa vào Đại Việt sử ký toàn thư và huyền tích dân gian, tác giả đã dựng lên một bức tranh hoành tráng nhiều mảng màu đối chọi. Chàng trai trẻ Từ Lộ chất chứa oan khuất và khổ đau trải qua hai kiếp - một của Đạo Hạnh Đại Sư theo con đường tu luyện khổ ải, một của bậc đế vương Thần Tông ngập chìm trong hậu cung đầy cung phi mỹ nữ. Đan chéo vào hai kiếp của Đạo Hạnh - Thần Tông là cô cung nữ Ngạn La vừa hoang dại vừa quyến rũ, là sư bà Nhuệ Anh với cuộc đời trôi dạt. Và có thêm một Ỷ Lan Linh nhân xây dựng bao nhiêu chùa chiền để xám hối vì đã bức tử Dương Thái hậu và 76 cung nữ chết theo vua.

..."Tiếng kêu thảng thốt chợt thức tỉnh bốn mươi tám cung nữ còn lại. Họ cho rằng mình đã chết từ khi Tiên đế băng hà, như vô cảm khi đặt chân lên chiếc xe tang có gắn hoa mẫu đơn màu đen, khi đặt chân lên sạn đạo và bị lôi đi xềnh xệch trong những bàn tay đao phủ. Tiếng gào xé ruột của Ngạn La đã đánh thức họ, báo cho họ biết rằng nàng và họ đang là những linh thể sống.

Bốn mươi tám cái cổ họng đồng loạt rú lên bốn mươi tám tiếng rú tắc nghẹn. Tiếng rú được nối dài bởi hàng ngàn tiếng rú phẫn uất của rừng người. Thần Tông ôm ngực lảo đảo. Quan Trung thừa Mâu Du Đô ngồi phịch xuống thở hổn hển, mồ hôi rịn ra trên trán.
Thái bảo Lý Trác cũng rợn tóc gáy. Nhưng quan Thái bảo cố trấn tĩnh, mím miệng giơ lá cờ ngũ sắc trong tay lên phát lệnh.

Lửa lập tức bùng lên. Những lưỡi đỏ khổng lồ thèm khát rần rật liếm giàn thiêu. Sạn đạo cũng bùng cháy như một con giao long khổng lổ quằn quại há cái miệng ngùn ngụt lửa đỏ mà nuốt trọn đảo Âm Hồn.

Trong bóng lửa và khói đang cuồn cuộn bốc cao, thấp thoáng bóng các đao phủ và hỏa công vun vút nhẩy lên những chiếc thuyền đợi sẵn, phóng như tên về bờ bên kia.

Trên mặt hồ chỉ còn các phiến gỗ sơn đỏ nổi lềnh bềnh như những thây người bị xử trảm trong tiếng rú man dại của các cung nữ trong cơn quằn quại trước khi linh hồn về với Cựu hoàng..

Nối dài những tiếng gào thét, các đôi công, trĩ, uyên ương bị trói chân trên nóc giàn thiêu cũng đồng loạt bật lên những tiếng xé ruột.

Đảo nhỏ biến thành đảo lửa"....
Em Trần Hoàng Ngân tặng 


  .
Nguyễn Xuân Diện-Blog hân hoan giới thiệu cùng chư vị