Thứ Bảy, 17 tháng 12, 2011

Thư giãn cuối tuần: THẬP BÁT BÍ KÍP LIÊN HOÀN CỦA MỘT TIỂU THƯ LỚP 4

Trung Quốc: 
Bé gái lớp 4 vẽ "bí kíp" khi… bị mẹ mắng

Đọc vừa dễ thương và vừa đáng suy ngẫm nữa đấy!

Đầu tháng 12, một cuốn vở học sinh với những bức tranh mang tên “Tuyển tập bí kíp đối phó với mẹ” đã nhanh chóng trở nên nổi tiếng và được cư dân mạng Trung Quốc nhiệt tình chia sẻ. Mọi người càng bất ngờ hơn khi tác giả chỉ là… hai bé gái lớp 4. Tổng cộng gần 20 bức tranh vẽ và ghi lại các bí kíp đối phó khi bị mẹ mắng đã khiến mọi người rất bất ngờ về cách suy nghĩ của các học sinh nhỏ tuổi.


Phần đầu là lời giới thiệu: “Cuốn sách này đặc biệt dành cho trẻ em từ 6-12 tuổi, những bạn bị mẹ mắng hàng ngày” .

Bí kíp số 1: "Khi mẹ mắng, bạn có thể nhìn vào chỗ khác, nghĩ đến chuyện khác. Đừng để ý, đừng lắng nghe. Mức độ: Mạnh. Không nên áp dụng thường xuyên."

Bí kíp số 2: "Khi mẹ mắng và không cho phép bạn nhìn đi nơi khác, bạn có thể nghĩ đến một lỗi gì đó của mẹ và chỉ trích lại mẹ. Mức độ: Mạnh. Không nên áp dụng thường xuyên."


Bí kíp số 3: "Nếu mẹ dùng hết sức lực chỉ để… mắng, bạn có thể giả vờ khóc (hãy thật cố gắng vào). Mức độ: Nhẹ. Chú ý: phải khóc giống thật. Có thể dùng nhiều lần."

Bí kíp số 4: "Nếu mẹ vẫn mắng, bạn có thể sà vào lòng mẹ và khóc. Mức độ: Nhẹ. Sử dụng thường xuyên được."


Bí kíp số 5: "Nếu mẹ bạn mắng dữ quá, bạn có thể chạy trốn vào phòng. Mức độ: Mạnh hay nhẹ cũng được. Chú ý: nhớ khóa cửa phòng, sau đó khóc cũng được."

Bí kíp số 6: "Nếu mẹ mắng, bạn có thể không nói chuyện với mẹ nữa. Mức độ: Mạnh. Không sử dụng thường xuyên."



Bí kíp số 7: "Sau khi bị mẹ mắng, nếu mẹ hỏi gì bạn, hãy trả lời và nhắm chặt  mắt (cố lên!). Mức độ: Cả mạnh và nhẹ."

Bí kíp số 8: "Sau khi mẹ mắng xong, hãy tỏ ra tức hết sức có thể. Mức độ: Rất nặng. Hãy dùng ít cách này thôi nhé."



Bí kíp số 9: "Khi mẹ đang mắng, bạn có thể nói: Lần sau con sẽ không thế nữa (cứ lo xong lần này đã, lần sau mình... tính tiếp). Mức độ: Nhẹ nhàng thôi."

Bí kíp số 10: "Sau khi mẹ mắng mà vẫn chưa hết giận, bạn có thể viết một tin nhắn và dính nó ở cửa phòng mẹ."


Bí kíp số 11: "Sau khi mẹ mắng, bạn có thể bí mật lẻn vào phòng mẹ làm lành. Mức độ: Bình thường."

Bí kíp số 12: "Sau khi mẹ mắng, nhanh chóng nhặt mấy thứ lặt vặt xung quanh để làm vũ khí phòng thân. Mức độ: Trung bình."



Bí kíp số 13: "Sau khi mẹ mắng, hãy chọc mẹ bằng cách hát những câu buồn cười. Mức độ: Mạnh. Không được dùng thường xuyên."

Bí kíp số 14: "Sau khi mẹ mắng, hãy lăn ngay xuống đất, bịt hai tai lại và nói liên tục: “Con không nghe thấy gì hết, con không nghe thấy gì hết”. Mức độ: Rất mạnh. Không sử dụng thường xuyên."



Bí kíp số 15: "Mẹ mắng dữ quá, bịt tai lại, hét lên “Con biết rồi” và chạy biến đi. Mức độ: Cực cực mạnh. Sử dụng 1, 2 lần là nhiều nhất."

Bí kíp số 16: "Khi mẹ mắng, cúi đầu và im lặng để mẹ nghĩ là mình đã nhận lỗi. Mức độ: Trung bình."



Bí kíp số 17: "Khi mẹ mắng, hét lên rằng "Con sẽ bỏ trốn đây", chạy xuống cầu thang và cầm một số đồ đạc, vừa đi vừa khóc. Mức độ: Nhẹ."

Bí kíp số 18: "Khi mẹ đang mắng, có thể nói “Con không nhịn được nữa rồi, con vào toilet đây” và trốn trong đó. Mức độ: Còn tùy. Tốt nhất nên dùng hạn chế."

Những bức tranh minh họa ngộ nghĩnh cho mỗi "bí kíp".

Khi được hỏi tại sao bé gái này lại vẽ về “bí kíp đối phó với mẹ”, người mẹ đã giải thích rằng: Đó là một hôm bé gái đưa bạn về nhà cùng làm bài tập. Trước đó cô bé vừa bị điểm kém trong bài kiểm tra. Sau khi biết điểm, bà mẹ đã lỡ lời: "Nhìn bạn con mà học tập, con không thấy xấu hổ khi cầm điểm thế này về nhà sao?" Khi bị mẹ so sánh với bạn, cô bé đã có chút tức giận. Hai cô bé đã quyết định vẽ bộ tranh này trong phòng riêng. Những bức tranh ngộ nghĩnh rất dễ thương, vừa khiến các vị phụ huynh phải suy nghĩ lại về cách dạy con của mình.

Teen mình xem để biết và cho vui chứ đừng áp dụng những "bí kíp" này đấy nhé! Tốt nhất là hãy làm sao đừng để bị mẹ mắng, phải không nào? 

GIỚI TRÍ THỨC TINH HOA TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM

Giới trí thức tinh hoa trong lịch sử Việt Nam 
Trần Ngọc Vương
.
Để xây dựng kinh tế tri thức trở thành chủ đạo của nền kinh tế quốc dân, chúng ta cần có một lực lượng lao động tương ứng là lao động có kiến thức cao, nói khác đi đòi hỏi mọi thành viên tham gia nền kinh tế này phải là người lao động trí tuệ hoặc sử dụng trí tuệ như công cụ lao động chủ yếu, đặc biệt là phải hình thành một giới trí thức tinh hoa.

Chỉ từ những điều sở tri sở kiến của mình, chúng tôi muốn góp bàn về việc nhận diện thực trạng của giới tinh hoa trong lịch sử Việt Nam và những đặc điểm của giới đó có thể trở thành chướng ngại mà chúng ta cần khắc phục trong việc hướng tới hình thành giới tinh hoa mới trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay.

Trong lịch sử Việt Nam cho đến tận đầu thế kỷ XX, mẫu hình trí thức tồn tại lâu dài nhất, có tác động lớn nhất đến đời sống tinh thần xã hội là nhà Nho. Tinh thần văn hóa Nho giáo thấm sâu vào thành truyền thống, thậm chí thành bản sắc của nền văn hóa dân tộc. Về mặt diện mạo tổng thể, nền văn hóa Việt Nam từ thế kỷ XIV đến hết thế kỷ XIX là nền văn hóa Nho giáo. Nếu lưu ý đến “đặc điểm lớn nhất của xã hội Việt Nam thời đại ngày nay” là sự phát triển bỏ qua (hay ít nhất là cho đến nay cũng chưa thành một phương thức sản xuất/một hình thái kinh tế - xã hội hoàn chỉnh) đối với hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, thì phải đồng ý với nhiều nhà khoa học (1) rằng Việt Nam đi từ Nho giáo lên chủ nghĩa cộng sản.

Trước khi có nền học vấn Âu hóa của thời hiện đại, và cả khi nền học vấn đó đã, đang trở thành xu thế chủ đạo thì quán tính của nền học vấn truyền thống vẫn chi phối từng bước đi của lịch sử một cách mạnh mẽ, khá vô hình nhưng vẫn khá quyết liệt. La mort saisit le vif, - cái chết đang túm lấy cái sống. Sự “túm lấy” này, tuy không hoàn toàn chỉ mang nghĩa tiêu cực, nhưng những tác động tiêu cực của nó là điều không thể xem thường.

Trong vòng bảy, tám thế kỷ, đội ngũ trí thức - nhà Nho ở Việt Nam đã dần thay thế và cuối cùng là thay thế hẳn đội ngũ trí thức Phật giáo, tạo ra một nền học vấn kiểu nhà Nho, và vì thế, ngả theo mô hình của nền học vấn Trung Hoa. Nhưng khác với các trí thức Trung Hoa nói chung, tầng lớp nhà Nho Trung Hoa nói riêng, chưa bao giờ tầng lớp nhà Nho Việt Nam thực sự có được sự độc lập tương đối về chính trị, nhất là trong quan hệ với chế độ chuyên chế, để có thể có được những thành tựu độc lập trong sáng tạo tri thức và những giá trị tinh thần đủ để vinh danh chỉ riêng tầng lớp của mình.

Vào đầu thế kỷ XX, khi tự tỉnh và lay tỉnh quốc dân, nhằm “khai dân trí, chấn dân khí”, các nhà Nho duy tân đã đọc to lên tình trạng nghiệp dư quá quắt của tầng lớp mình:

Khỏi làng mắt chửa thấy xa
Lại toan mai mỉa hai nhà Khang, Lương
Ở nhà chân chửa ra đường
Lại toan ngang dọc bốn phương giang hồ
Hỏi: “Ông tu những đường mô?
Ông rằng: “Tu những làng nho đã thừa”
Hỏi: “Ông mộ những gì ư?
Ông rằng: “Mộ những người xưa là thầy”….
- Hỏi rằng: “Dây thép sao mau?”
Ông rằng: “Khí học cũng màu mà thôi”
Kìa như dây sắt, roi lôi
Nào ai bày đặt mọi ngôi cho đành?
Hỏi rằng: “Xe khí sao nhanh?”
Ông rằng: “nghề máy cũng lành mà thôi”
Kìa như lửa ống, nước nồi
Nào ai bày xét đến nơi nhiệm màu?
Năm châu tên gọi hay đâu
Lại chê người rợ mà gào ta hoa
Mắt nhìn chính học không ra
Lại chê người bá mà nhà ta vương” (4)
-“Hỏi cụ việc thực
Thì cụ làm thinh
Hỏi trận pháp binh thư thì cụ ù ù cạc cạc
Hỏi địa dư quan chế thì cụ u u minh minh;
Cụ chẳng biết kèn sao kêu, súng sao nổ?
Cụ không hay xe sao chóng, tàu sao lanh?
-“Khí học làm sao? Hóa học làm sao? Cụ dẫn Dịch tượng Thư trù chi Cổ đế
Cơ khí là thế, điện khí là thế, cụ rằng mộc ngưu lưu mã chi Khổng Minh
Cụ phải đeo thẻ đóng sưu, cụ muốn nước Nhật, nước Tàu sang bảo hộ
Cự mà ngâm thơ đọc phú, cụ mong ông Chèm, ông Gióng chi phục sinh
Ai nói chuyện tân học tân văn, cụ ghét hơn người đầu thuốc độc
Ai dâng câu cổ thi cổ họa, cụ mừng hơn trẻ được cái đinh” (5)
Lý luận Nho giáo không được khái quát lên từ thực tế Việt Nam, mà lý luận đó chỉ phù hợp nên có thể vận dụng được trên thực tế Việt Nam ở những thời gian lịch sử nhất định, dù quãng thời gian lịch sử ấy có thể và trên thực tế đã kéo dài, thậm chí đã quá dài. Theo cách nhìn nhận cá nhân, tôi cho rằng tuy Phật giáo ở Việt Nam chỉ thật thịnh trong một khoảng thời gian không dài, nhưng lại có những thành tựu về sáng tạo tinh thần đột xuất và có những gương mặt trí tuệ đỉnh cao, khả dĩ vinh danh và đại diện cho trí tuệ Việt hơn cả những đóng góp mà nhà Nho tạo nên trong một thời kỳ lịch sử dài hơn nhiều.

Nhìn vào những sản phẩm đỉnh cao cuối cùng theo cách nhìn cấu trúc đồng đại hóa, sẽ thấy trong đội ngũ trí thức nhà Nho Việt Nam thiếu một cách nghiêm trọng những trí tuệ lý thuyết, những xung năng sáng tạo lớn. Các tác giả Trần Văn Giàu, Trần Đình Hượu, Hà Văn Tấn đã nhiều lần lưu ý đến sự thiếu hụt ấy. Nói thiếu vắng hoàn toàn thì không phải, nhưng chắc chắn đội ngũ những người như vậy trong lịch sử Việt Nam khá thưa thớt, có những thế kỷ hầu như không tìm thấy được(2). Điều đáng cảm thán không chỉ là “ôi thương sao những thế kỷ vắng anh hùng” như Chế Lan Viên từng thốt lên, mà cũng cả “Ôi thương sao những thế kỷ vắng thiên tài”! Nhận xét tỷ mỷ hơn cả về điều này là ý kiến của cố học giả Trần Đình Hượu:

a) Không có ai có hứng thú đi vào những tư tưởng triết học. Chưa có tác phẩm, tác giả chuyên về tư tưởng triết học. Những người mà ta phải tính là các nhà tư tưởng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Ngô Thời Nhậm, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… đều là như vậy.

Loại hình chính là những nhà hoạt động yêu nước, những người làm văn học, học thuật (chủ yếu là sử học), và thông qua hoạt động chính trị, học thuật hay nghệ thuật của mình mà đề cập đến những vấn đề tư tưởng. Những ông thầy khi giảng kinh, sử cũng bàn những vấn đề tư tưởng, mà nhiều khi chính những ông thầy đó lại nói tư tưởng nhiều hơn, nói nhiều nhưng là nói lại, có hay không sửa chữa chút ít.

b) Ở đây chưa hình thành mối quan hệ tương hỗ giữa khoa học kỹ thuật và triết học, tức là triết học làm cơ sở lý luận cho khoa học và phát triển theo sự phát triển của khoa học… Có thay đổi thì cũng chỉ là lấy, bỏ, thêm, bớt từ những cái có sẵn trong và ngoài từng hệ thống…

Nhìn chung, tư duy lý luận không phát triển. Những vấn đề nhận thức, logic, phương pháp không được bàn bạc. Ở đây phát triển một cách tư duy thực tiễn nhằm không phải vào sự chính xác mà sự hợp lý (phải khoảng). Cái ngự trị ở trong nhiều phạm vi là một cái lí - lẽ phải thông thường. Triết học không tách khỏi tôn giáo, học thuật. “Về căn bản, trong lịch sử chưa xảy ra một sự thay đổi nền móng sản xuất, tổ chức xã hội, văn hóa, học thuật. Tôi nói cả văn hóa, học thuật vì khi còn học theo, bắt chước, nói lại thì chưa gây ra tác động sâu từ khoa học sang triết học, không tạo ra cách mạng trong tư tưởng” (3).

Nền học vấn truyền thống theo Nho giáo ấy rốt cuộc ở lớp trên cùng chỉ đẻ ra được nhà Nho – ông quan (đường quan hay học quan, võ quan có học hay văn quan, kể cả loại “văn võ kiêm bị” đi nữa thì nói gọn lại, cũng chỉ là quan). Các loại hình trí thức then chốt của một xã hội trí thức, một kết cấu của tầng lớp trí thức thực thụ như nhà kỹ thuật, nhà khoa học (hay học giả), nhà nghệ sĩ, tiếp đến là nhà tư tưởng – nhà triết học loại thì xuất hiện thưa thớt, mở nhạt, loại thì hoàn toàn vắng bóng.

Học giả lừng danh nhất trong lịch sử Việt Nam trước thế kỷ XX là Lê Quý Đôn, người mà với tất cả sự ngưỡng mộ và lòng kính trọng cũng không thể gán cho là tác giả của bất cứ định lý, định luật hay nguyên lý, quy tắc nào, ý tưởng nào thực thụ mang tính đột phá tri thức, nên có lẽ danh xưng xứng đáng nhất trong việc phân loại chuyên gia khoa học thời hiện đại thì đúng nhất là xếp vào dạng nhà sưu tầm, nhà biên khảo hay nhà thư tịch học. Thật đau lòng khi phải nói lên điều này.

Nhà Nho thuộc loại hình trí thức nguyên hợp. Đó là loại trí thức điển hình cho một hình thái kinh tế-xã hội khi mà lao động trí óc chỉ mới là đặc quyền của một thiểu số rất nhỏ. Tuy so với loại quý tộc, loại người có được những đặc quyền chỉ nhờ quan hệ huyết thống với người hay dòng họ cầm quyền thì sự xuất hiện và phát huy tác động trong xã hội của trí thức nhà Nho là một bước tiến bộ, nhưng đến lượt họ, khi đã tự khẳng định và được khẳng định địa vị trong xã hội, trong cơ chế thì nhà Nho cũng từng bước một kiến tạo đặc quyền theo lối huyết thống hóa, tạo ra không phải những cá nhân người trí thức sáng tạo, mà những “thế gia, vọng tộc, cự môn”, vừa theo mô hình quý tộc hóa, vừa theo lối đẳng cấp giữ những chức năng đặc thù. Họ không ngần ngại gì mà không khẳng định “vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu độc thư cao”, tự coi là người bề trên tự nhiên (và cũng thường được thừa nhận) là người đỡ đầu trực tiếp của các tầng lớp cư dân khác.

Với tôn chỉ “Nhất nghệ bất tri nho giả sở sỉ” (một nghề nào đó mà không biết thì kẻ làm nhà Nho tự thấy xấu hổ), họ thường kiêm luôn công việc của nhiều loại “chuyên gia” trong nhiều lĩnh vực khác nhau, thậm chí khá xa lạ đối với nhau. Người dân gọi họ là “thầy”, và ở nông thôn xưa thì nhà Nho làm tất tật công việc của các thứ thầy như vậy: thầy đồ dạy học (nho), thầy thuốc chữa bệnh (y), thầy địa lý lo chuyện phong thủy (lý), thầy bói xem tướng số (số), cả chuyện làm…thầy dùi, “tư vấn” cho các bên tham gia vào các vụ kiện tụng.

Bộ phận hiển nho - các nhà Nho hữu danh và thành đạt – cũng hầu như không có ai đủ căn đảm để chỉ “đi đến cùng một con đường đã chọn” có lẽ trừ Hải Thượng Lãn Ông. Ngay Hải Thượng Lãn Ông cũng chọn con đường trở thành một danh y vào lúc tuổi đời không còn trẻ và tình huống cơ hồ không thể khác. Nói tổng quát, mẫu trí thức nhà Nho ở ta chuyên môn hóa khá muộn màng và không trở nên là đội ngũ chuyên gia thực thụ, ở hầu như bất cứ bình diện nào của lao động sáng tạo tinh thần. Trong các hoạt động nghệ thuật, chỉ thơ là có thành tựu nổi bật, nhưng không có ai, kể cả nhà thơ vĩ đại nhất trong lịch sử văn học dân tộc là Nguyễn Du, cũng không trở thành nhà thơ “chuyên nghiêp”.

Một khi họat động sáng tạo tinh thần, lao động trí óc chưa được chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa, thì mọi hoạt động lao động khác gắn liền với các hệ thống tri thức chuyên nghiệp sẽ chỉ trở thành các loại lao động thủ công, nghiệp dư. Tình trạng đó là phổ biến từ các loại làng nghề gắn bó xa gần với hoạt động nghệ thuật cho chí các loại làng nghề sản xuất ra các sản phẩm thuần túy mang tính thương mại. “

Công tượng”, gọi nôm na là thợ, xếp loại ba, sau nông dân, còn được an ủi là xếp trên loại người tiêu thụ sản phẩm cho họ, tức thương nhân, tầng lớp “dưới đáy”, bị gọi miệt thị là loại “con buôn”. Giữ gìn phương tiện mưu sinh: theo ý tôi trong cách hành xử ấy còn tiềm ẩn cả tâm trạng ẩn ức, cả sự chống đối theo kiểu tiêu cực, cả niềm kiêu hãnh về những phẩm tính và kỹ năng ưu việt không được thừa nhận.

***
Gia nhập xã hội hiện đại theo con đường bị cưỡng bức, không hề được chuẩn bị đầy đủ về mọi phương diện để thích nghi, thiếu nghiêm trọng những kinh nghiệm và thực tế tương ứng được với xã hội hiện đại từ truyền thống, tóm lại, với tính nhược tiểu thể hiện khá “hoàn hảo”, giới trí thức Việt Nam khi trở thành “tầng lớp trí thức bản xứ” thêm một lần nữa bị chủ nghĩa thực dân vày vò, ép ướp hoàn toàn có chủ đích chỉ nhằm biến đổi họ thành đám vong quốc nô có chữ nghĩa. Lịch sử còn lưu lại vô số bằng chứng cả trực tiếp cả gián tiếp chứng minh cho đường lối chính trị, chính sách trí thức thuộc địa này của thực dân Pháp(6). 

Hệ quả cuối cùng của chính sách thực dân, dù những chính sách cụ thể trong từng thời kỳ nhất định có đổi thay theo hướng xoa dịu sự phản ứng của một cư dân bản địa dù sao cũng có hàng nghìn năm lịch sử đồng thời trên từng bình diện nhất định phải đáp ứng những đòi hỏi của tình hình khó khăn mà “mẫu quốc” lâm vào, vẫn cứ là một tầng lớp trí thức bản xứ với rất ít cá nhân thực sự đạt tới trình độ tinh hoa, đội ngũ chuyên gia tuy có số lượng khá hơn nhưng không toàn diện, gắn bó quá trực tiếp với sự điều tiết từ chính quốc chứ không phải gắn bó với xã hội và nền kinh tế tại chỗ, và một lượng đông đảo nhất những trí thức cấp thấp. Chất lượng của một tầng lớp trí thức như vậy, xét trên tương quan của một sự so sánh lịch đại, nghĩa là so sánh về khả năng đáp ứng những nhu cầu phát triển từng thời điểm lịch sử khác nhau, chắn chắn là còn kém hơn thời kỳ tiền thực dân. 

Từ sau Cách mạng tháng Tám, thân phận con người, thân phận công dân của người trí thức được đổi thay về chất. Đại đa số những trí thức trong xã hội cũ vì thế hăng hái tham gia bằng sở học của mình vào các công việc của xã hội mới. Thời gian kháng chiến chống Pháp, tuy có quá nhiều khó khăn khách quan, một thế hệ trí thức mới đã xuất hiện, trưởng thành. Đội ngũ này, tuy về số lượng không thật đông đảo, nhưng lại đặc biệt có chất lượng. Đa số những tên tuổi lớn trong các lĩnh vực khoa học - kỹ thuật và nghệ thuật thời gian qua ở ta là thuộc về hoặc cơ bản là thuộc về thế hệ này. Phần lớn họ là những người ra đời trong khoảng từ 1920-1932. 

Không phải ngẫu nhiên tôi chọn những mốc này: cho đến khi Cách mạng tháng Tám nổ ra, hầu hết họ đều đã có một thời kỳ học phổ thông và có được một “lưng vốn” tri thức nói chung, tiếng Pháp hay một ngoại ngữ nói riêng đủ để tự đọc sách và tự học tiếp tục. Những người sinh trước năm 1920 nếu thành danh thì đã thành danh trước Cách mạng, mà những người sinh sau năm 1932 thì “không kịp” có điều kiện như vừa tính tới. 

Nhưng cũng từ sau Cách mạng tháng Tám xã hội Việt Nam trải qua hơn 30 năm là xã hội thời chiến hoặc bị chi phối mạnh mẽ bởi một hoàn cảnh thời chiến. Trừ một vài lĩnh vực đặc biệt, chiến tranh không phải là điều kiện dương tính cho sự phát triển của lĩnh vực lao động tri thức. Không quá khó khăn để chỉ ra các lĩnh vực đặc biệt ấy. Dù muốn dù không, tính phục vụ trực tiếp, tính ứng dụng là những yêu cầu được đặt lên hành đầu đối với lao động của người trí thức trong hoàn cảnh ấy. Cũng khó mà tạo ra những diện mạo trí thức, những tên tuổi lớn theo lối hàng loạt trong điều kiện như vậy. Xét cho cùng, sức sản xuất các giá trị tinh thần – cả trong khoa học xã hội lẫn khoa học nhân văn, cả trong nghệ thuật, trong văn hóa đều tùy thuộc vào nền sản xuất vật chất của xã hội. Ngay cả việc phản ứng lại một thực tiễn lớn cũng đòi hỏi tiền đề là sự tồn tại của cái thực tiễn ấy đã. 

Mặt khác, kể từ sau Cách mạng tháng Tám, nền khoa học non trẻ của Việt Nam nhận được sự bổ sung về nguồn tri thức từ các nước xã hội chủ nghĩa có nền khoa học tiên tiến, chủ yếu là từ Liên Xô, và mức độ khác, từ Trung Quốc. Nhưng chỉ chưa hết một khóa học (đại học) từ sau năm 1954 thì giữa Liên Xô và Trung Quốc đã nổ ra những bất đồng. Vừa bối rối vì vấn đề phân liệt giữa các đảng cộng sản lớn cầm quyền, hết chống tệ sùng bái cá nhân lại rơi vào tình trạng phải đối phó với chủ nghĩa xét lại, người trí thức mới trẻ tuổi vừa còn phải “tuân thủ mọi yêu cầu của tổ chức, mọi nhiệm vụ được phân công” mà không phải lúc nào những yêu cầu ấy, những sự phân công ấy cũng được kế hoạch hóa, duy lý hóa. 

Tiếp theo đó là Đại Cách mạng văn hóa vô sản, tuy diễn ra và tác động tai hại trước hết và chủ yếu là ở Trung Quốc, nhưng không thể nói Việt Nam nằm ngoài vòng ảnh hưởng của biến cố kinh hoàng này. Một trong những đặc điểm nổi bật của cái gọi là cuộc Đại Cách mạng văn hóa này lại chính là ở tính chất phản văn hóa, phản tri thức của nó. 

Chắc chắn rằng những cuộc “đấu tố” diễn ra trong giới khoa học Việt Nam những năm 1967 – 1970 với nhiều nạn nhân bị quy kết là chuyên môn thuần túy, thiên tài chủ nghĩa mà nhiều người trong họ hiện vẫn tại thế, không những thế, dù sao một số khá đông trong họ vẫn còn kịp có những cống hiến khoa học xuất sắc, kịp được nhận những giải thưởng khoa học cao quý như giải thưởng Hồ Chí Minh hay giải thưởng Nhà nước, những cuộc “đấu tố” như vậy há chẳng là sự “cộng hưởng”, sự đồng vọng của cách mạng văn hóa sao? 

Giới trí thức tinh hoa ở mọi dân tộc đều là báu vật, nói như ngôn từ được làm sống lại gần đây đối với những ý tưởng truyền thống, thì họ là “hiền tài”, là “nguyên khí quốc gia”. Vậy những nạn “chảy máu chất xám” đã là điều nguy hại, mà nạn “lãng phí chất xám”, thậm chí còn khó nhận dạng hơn và khó khắc phục hơn, theo thiển ý, cũng cần nêu lên thành vấn đề lớn hiện nay. 

Có thể nói, ở ta mới có những người trí thức lớn,- không đông lắm mà nói thực thì cũng chưa được “lớn” lắm - nhưng chưa thể nói rằng đã có giới trí thức tinh hoa. Mà chừng nào trí thức tinh hoa chưa thành một giới, nôm na là núi không có đỉnh, thì khó lòng bàn đến “tầm” trí tuệ Việt Nam, tuy đó là điều không hiếm người thành tâm khao khát khẳng định.
---
(1) Tham khảo, chẳng hạn: - Trần Đình Hượu Đến hiện đại từ truyền thống. Nxb Văn hóa và Thông tin 1996. - Le contact colonial franco – vietnamien le premier demi – siècle (1858 – 1911) Nxb Universitè de Provence (PUP), 1999. - Trịnh Văn Thảo Vietnam du confucianisme au communisme. Nxb Presse Universitaire Francaise (PUF) 1992. (2) Tham khảo những tài liệu liên quan đến cuộc thảo luận về việc viết lịch sử tư tưởng Việt Nam. Viện Triết học, 1984. (3) Trần Đình Hượu, Sđd (4) Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX (1900 -1930) Nxb Văn học Hà Nội 1976. (5) Các bộ lịch sử, lịch sử tư tưởng Việt Nam của cả các tác giả người Việt lẫn người Pháp đều cung cấp nhiều tài liệu liên quan đến điều này.

Nguồn: TIA SÁNG

Thứ Sáu, 16 tháng 12, 2011

TS. TÔ VĂN TRƯỜNG: VĂN HÓA CƠ BẢN VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI

Văn hóa cơ bản và phản biện xã hội



 Dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên nhận được nhiều ý kiến phản biện của xã hội.



Ai đã đặt ra từ phản biện ở Việt Nam? Tôi được nghe Gs Hoàng Tụy kể lại đầu 1960, GS và các đồng nghiệp ở khoa Toán Đại học Tổng hợp Hà Nội muốn thực hiện phong cách nghiên cứu khoa học và đào tạo mới, cho nên gặp chuyện luận án khi bảo vệ phải có opponent (từ Nga), Gs Hoàng Tụy bèn nghĩ ra từ phản biện để dịch từ "opponent". Thế là dần dần thành phổ biến, và đi ra ngoài xã hội để có cuộc sống riêng.

Theo nhà thơ Việt Phương "phản biện" trong phạm vi rộng, không chỉ trong hoạt động khoa học, là rà soát, khẳng định, bổ sung, phát triển một đề án, một công trình, nhằm đạt một hoặc những mục tiêu xã hội thống nhất. "Phản biện" không nhất thiết bao gồm phản bác, nhưng cũng có nhiều khi có phần phản bác. Đặc điểm của "phản biện" là dựa trên lập luận khoa học và chứng cứ thực tế,  thực tiễn. Còn "dư luận xã hội", "góp ý", "kiến nghị", "khuyên can" ...thì không nhất thiết phải dựa trên lập luận khoa học và chứng cứ thực tế, thực tiễn. "Phản biện xã hội" là thuật ngữ xuất hiện trong Nghị quyết Đại hội X năm 2006 của Đảng cộng sản Việt Nam. "Phản biện xã hội" là phản biện của cộng đồng, của xã hội dân sự, của nhân dân.

Khi có xã hội loài người là có phản biện xã hội. Phản biện bằng cử chỉ, bằng lời, bằng văn bản (có cả báo chí). Thế thì phản biện là quy luật tồn tại và phát triển của xã hội, quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Phản biện xã hội không phản lại, không chống lại xã hội mà trái lại làm cho xã hội phát triển chất lượng, nhanh hơn, bền vững hơn. Phản biện không phải là mổ xẻ, chỉ trích mà là sự bổ sung nhằm "chuẩn mực hóa" các giá trị cuộc sống và xã hội, giúp nhau cùng phát triển.

Ở nhiều nước, giới cầm quyền có những tổ chức tư vấn, và xã hội có những "kho tư tưởng" (think tank) phi Chính phủ, làm công việc nghiên cứu, nêu khuyến nghị hoạch định chính sách quốc gia, cùng đóng góp tham gia làm biến chuyển một thực tại, hoặc ý tưởng tương lai nào đó, tức là làm công việc phản biện xã hội. Như Trung Quốc hiện có chừng 2000 "think tank", gồm vài trăm nghìn người, về số lượng đứng thứ hai trên thế giới.

Ở nhiều nước, phản biện xã hội chủ yếu là phản biện khuyến nghị chính sách của các think tank. Ở nhiều nước khác, phản biện xã hội chủ yếu là phản biện chính cách soạn thảo và nội dung soạn thảo chính sách của giới cầm quyền. Đòi hỏi sống còn của phản biện xã hội là : khoa học hóa, chuẩn xác, thiết thực và dân chủ hóa. Tức là đòi hỏi cái tâm sáng, cái tầm cao, ý kiến có lập luận và dẫn liệu minh chứng có thuyết phục của những người phản biện và của những người nhận phản biện. Có được như vậy thì phản biện xã hội là tốt, xây dựng, tích cực, khẳng định chế độ chính trị, xã hội, phát triển dân tộc và đất nước.

Phản biện xã hội không những chỉ cần nền tảng là triết học và kinh tế, mà dẫu chỉ nói riêng về hiểu biết, còn cần đến nhiều kh́oa học khác nữa, như xã hội học, nhân học, sử học, luật học, dân tộc học và cả hiểu biết về khoa học tự nhiên. Hay nói cách khác là cần có nền tảng văn hóa (văn hóa nghĩa rộng). Phản biện xã hội đặc biệt đòi hỏi có trải nghiệm nhân sinh và xã hội, đòi hỏi từng trải và kinh nghiệm sống.

Ở các nước tiên tiến, họ chủ trương mọi sinh viên ở các trường đại học (không phải trường kỹ thuật mang tính dạy nghề) đều phải học liberal arts tức là có hiểu biết cơ bản về (1) Khoa học tự nhiên: sinh học, toán, hóa, lý; (2) Khoa học xã hội gồm lịch sử, tâm lý, xã hội, kinh tế; (3) Văn học và nghệ thuật: âm nhạc, họa và văn chương; (4) Phương pháp phân tích vấn đề: chủ yếu logic, cơ sở của triết học. Ngay từ khi ngồi ghế nhà trường, sinh viên đã phải viết bài trình bày vấn đề và lịch sử của nước mình. Tất nhiên không phải mọi học sinh ở đại học đều được trang bị như thế nhưng đó là triết lý giáo dục. Suy cho cùng, người ta chỉ có thể phản biện đúng đắn nếu được trang bị văn hóa cơ bản.

Tất nhiên nhà phản biện về vấn đề chuyên sâu thì phải có sự hiểu biết chuyên sâu. Nhưng chuyên sâu không đủ vì mọi hành động đều có ảnh hưởng đến nhiều vấn đề xã hội khác nhau. Biện luận vấn đề nào đó tuy khó, nhưng phản biện càng khó hơn. Tất nhiên đòi hỏi phải có vốn triết học, kinh tế và chừng mực nào khoa học phổ quát (phổ thông), đặc biệt là vốn liếng chuyên ngành (đối tượng) phản biện và vốn sống.  Nhưng trước hết người phản biện phải có cái tâm trong sáng cống hiến cho khoa học và xã hội, cũng như cầu thị học hỏi, biết lắng nghe có phân tích và ý thức tiếp nhận cái đúng từ nhiều chiều thì mới có sức thuyết phục. Có những người giỏi nhưng thiếu cái tâm dễ trở thành cãi lộn hoặc khoe tài ăn nói.

Các nhà triết học hiểu biết rất nhiều, đúc kết rất nhiều trên những cơ sở đã suy ngẫm, nhào nặn tư duy và trải nghiệm. Các nhà kinh tế cũng mổ xẻ nhiều vấn đề thời sự về kinh tế xã hội. Trong cuộc sống chúng ta dễ nhìn thấy các tác động nhưng khó nhìn thấy nguyên nhân hơn rất nhiều. Nếu các nhà lãnh đạo chịu khó tìm hiểu, hiểu rõ hơn người dân thường, hiểu biết thấu tháo hơn, hành xử có "tâm" có "tầm" hơn thì người dân sẽ được hưởng lợi nhiều hơn, xã hội và đất nước sẽ phồn vinh, hạnh phúc hơn. Luôn khao khát công lý, tự do, yêu mến cái đẹp "chân thiện mỹ" cũng sẽ là một nền tảng đáng để hy sinh và cống hiến.

Có ý kiến cho rằng, từ lâu, khoa học kinh tế đã không đứng một mình mà luôn gắn với chính trị. Khoa học, lúc đầu chỉ có triết học, sau mới phân chia ra thành nhiều bộ môn, vật lý, toán, y học ... nhưng cuối cùng cũng phải quay về với triết học mới giải quyết được các bế tắc. Người Việt thông minh nhưng nhìn chung chưa quan tâm đúng mức về triết học cho nên cũng ảnh hưởng đến những thiếu hụt đáng tiếc đối với nhu cầu bứt phá, đổi mới tư duy. Đương nhiên phản biện xã hội lại càng phải học nhiều thứ, không chỉ riêng triết học và kinh tế, bởi vì "xã hội" là một phạm trù vô cùng rộng. ABC đầu tiên phải học cho làm công tác phản biện xã hội nói chung là triết học (đích thực) và kinh tế. Thậm chí còn có thể nói, muốn làm người có ích thì đầu tiên phải học triết học và kinh tế, có như vậy kiến thức và kỹ năng chuyên môn khác của mình mới phát huy được.

Có lần, tôi cứ suy ngẫm mãi khi nhận được mail tâm sự của một người bạn đồng tâm, Anh Nguyễn Minh Nhị - nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang nguyên văn như sau: "Theo tôi, nhà báo hay làm gì có liên quan với "nghề" nói và viết thì phải xác định: Phục vụ cho ai, đến mức nào và trong môi trường nào để có cách "viết và lách" cho đạt yêu cầu mình tự đặt ra. Nhưng tuyệt đối không được nói-viết sai và bậy, càng không trái với ý tưởng của mình. Thà "câm" còn tốt hơn kẻ nói càn để lưu hậu thế. Môt điều cần lưu ý để viết và nói cho đối tượng nào, cái nầy nó quan hệ đến vấn đề là ta đang đứng trên cái nền văn hoá nào để nói và viết cho cho đạt yêu cầu. Báo chí bây giờ "lề" nào đọc cũng khó vô quá!" vv...

Nâng cao chất lượng phản biện đương nhiên cần có kiến thức, nhưng không chỉ có kiến thức và kiến thức không chỉ xoay quanh triết học và kinh tế. Cái cần nhất cho phản biện xã hội ở nước ta, trước hết là có tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do báo chí mặc dù những quyền này đã được quy định trong Hiến pháp. Một xã hội phát triển các hoạt động phản biện có chất lượng, hiệu quả cao phải trên cơ sở trình độ dân trí cao và tương đối đồng đều.

Phản biện và phản biện xã hội đòi hỏi tâm sáng, tầm cao, cách đúng của những người phản biện và những người nhận phản biện. Chúng tôi nghĩ rằng phản biện (của từng người) và phản biện xã hội có nền tảng văn hóa càng cao thì càng có giá trị, có hiệu quả. Có khi đối tượng và mối tương giao trong phản biện là người này với người kia, nhưng cũng có khi một người với tập thể và một người với cả xã hội.

Phản biện và phản biện xã hội không phải là khả năng riêng có của các nhà trí thức, các bậc hiền tài. Nhiều nước tiên tiến vẫn có phương pháp đào tạo hiện đại và văn minh là đưa chương trình khích lệ và dạy về khả năng phản biện cho học sinh từ nhỏ. Đã học lên đại học thì ý thức và năng lực phản biện của sinh viên trở thành nhu cầu không thể thiếu được. Thợ thuyền, dân cày, người lao động bình thường, với kinh nghiệm nhân sinh và từng trải sống của mình, với góc nhìn trực diện và sâu sắc từ thực tiễn thường phản biện và phản biện xã hội rất xây dựng, sáng suốt và đúng mực.

Nguồn: Tuần Việt Nam.

 

DƯƠNG DANH DY: VTV KHÔNG BẰNG MỘT NỬA CÁC CỤ NGÀY XƯA!

VTV1 không bằng một nửa các cụ ngày xưa! 
Dương Danh Dy

Tôi theo dõi khá tập trung “cầu truyền hình giao lưu Việt Trung: Láng giềng gần” được VTV1 - một kênh chính của Vô tuyến truyền hình trung ương Việt Nam phối hợp với đài vô tuyến truyền hình tỉnh Quảng Tây Trung Quốc phát sóng vào tối ngày 14 tháng 12 vừa qua, vì  trước ngày khai mạc mấy hôm, VTV1 với phương tiện có sẵn trong tay đã quảng cáo khá sôi nổi.

Sau khi xem  buổi truyền hình, đọc những dòng chữ Hà Nội - Việt Nam, Nam Ninh - Quảng Tây và nghe người dẫn chương trình thay nhau nói đến mấy từ ngữ trên rồi đọc tin đưa trên vài tờ báo hàng ngày có trong tay ngày 15/12/2011(xin nói thật là không có tờ Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, vì từ khi nghỉ hưu tôi không còn tiêu chuẩn đọc “chùa” nữa), tôi bỗng tự nhiên bật ra câu hỏi: hình như trong vấn đề này “VTV1 không bằng một nửa các cụ ngày xưa”. Một ông bạn già - ngưòi rất “mê xem” vô tuyến truyền hình Việt Nam thấy tôi nói vậy đã yêu cầu tôi giải thích nguyên nhân, nếu không sẽ  “tố cáo” là “tung tin bôi xấu” cơ quan truyền thông.

Tôi đã trình bày với ông bạn suy nghĩ của mình như sau:

Trong mấy ngàn năm chung sống với các vưong triều phong kiến Trung Quốc dù khi đã là một nước độc lập thực sự và nhiều lần đánh cho quân đội thiên triều thua chạy tan tác nhưng chúng ta vẫn bị coi là “Nam man” và các hoàng đế Bắc phương thưòng không thèm trực tiếp giao thiệp mà uỷ nhiệm cho viên Tổng Đốc Lưõng Quảng (tỉnh Quảng Đông và tỉnh Quảng Tây) thay mặt mình làm một số công việc liên quan đến bang giao với nước ta. Ở thế yếu hơn và không có bạn bè quốc tế nên các cụ ngày xưa đành phải chấp nhận hành vi ngạo mạn đó, nhưng không bao giờ từ bỏ nguyên tắc chung sống “trong đế ngoài vương” của mình.

Sau khi hai nước xã hội chủ nghĩa Việt - Trung ra đời có lẽ nhận thấy cách cư xử “trịch thượng” đó không phù hợp với tình thế mới nên nói chung trong quan hệ bang giao những ngưòi lãnh đạo Trung Quốc lúc đó đã nghiêm túc thực hiện nguyên tắc quan hệ đối đẳng: trung ương với trung ương, tỉnh với tỉnh, bộ với bộ v.v.

Tuy vậy từ sau khi hai nước bình thường hoá quan hệ năm 1991, người ta đã và đang từng  bước xa rời nguyên tắc này và không hiểu vì sao phía chúng ta đã có một số người, một số đơn vị mặc nhiên hay cam chịu “chấp nhận”. Tính đến nay một tỉnh Quảng Tây đã có quan hệ gần như “kết nghĩa” với bốn, năm tỉnh của Việt Nam! Thậm chí một địa khu (đơn vị hành chính của Trung Quốc trên cấp huyện nhưng dưới cấp tỉnh) của tỉnh này cũng đã mấy lần “bằng vai phải lứa” với  cấp tỉnh, cấp bộ của ta (trong làm ăn kinh tế nhiều khi có thể không cần bằng nhau về “thân phận”, nhưng thử hỏi họ đã đầu tư vào ta được bao nhiêu đâu, hơn nữa còn đang lợi dụng tình trạng chung biên giới để thẩm lậu hàng nhái, hàng giả… thậm chí cả tiền giả vào trong nước), cay đắng hơn nữa là một số khu rừng, vùng đất tại vài tỉnh biên giới chỉ còn thuộc ta về danh nghĩa.

Tóm lại tỉnh Quảng Tây đang đóng vai trò “nổi bật” trong quan hệ nhiều mặt với Việt Nam, gần như Lưỡng Quảng ngày xưa. Tôi nói “VTV1 không bằng một nửa các cụ” là vì trong Lưõng Quảng, Quảng Đông là tỉnh giầu mạnh hơn Quảng Tây nhiều lần, mà chưa “động đậy” bao nhiêu trong quan hệ với ta, là còn có phần “chiếu cố” đến hoàn cảnh có chỗ chắc là khó nói của VTV1 đấy! Bởi vì nhìn chung, Quảng Tây đâu có đựoc coi là một nửa của Lưõng Quảng !

Nghe xong, ông bạn già của tôi chỉ biết cười xoà!

D.D.D
Ngày 15/12/2011 

*Bài viết do NNC Dương Danh Dy, nguyên Tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu 
gửi trực tiếp cho NXD-Blog. Xin chân thành cảm ơn tác giả!

Mời chư vị đọc thêm:
- Việt Trung làm cầu truyền hình - BBC
- Xem "Láng Giềng gần"....ô hế hà...ô hê há - Cu rận-Blog 
- Cầu truyền hình hay diễn biến hòa bình - Trần Kinh Nghị-blog
- Ối ông Trần Bình Minh ôi! - Blog Quê Choa
- Láng giềng gần? - BauxiteVn.
- Việt Nam – tỉnh thứ 24 của Trung Quốc? - Hiệu Minh Blog.
- Ở thế giới bên kia, ông Trần Lâm…- Lương Kháu lão Blog.



                                        
 

Thứ Năm, 15 tháng 12, 2011

VÌ SAO NGƯỜI BIỂU TÌNH ĐƯỢC TẠP CHÍ TIME CHỌN LÀ NHÂN VẬT CỦA NĂM?

Vì sao người biểu tình trở thành Nhân vật của năm?


VNN - Tạp chí Time của Mỹ nhìn nhận sự thay đổi chưa từng có ở Trung Đông và những nơi khác trong năm qua bằng cách chọn “người biểu tình” là nhân vật tiêu biểu năm 2011.



Trong thông tin đăng tải hôm qua, Time nói phong trào phản kháng phần lớn tập trung giới trẻ bị gạt ra ngoài lề xã hội, họ quá chán ngán trước sự bất lực chính trị và yếu kém kinh tế.

Tại Trung Đông, các cuộc biểu tình bắt đầu tại Tunisia và lan sang Ai Cập, Yemen và Libya làm thay đổi các chính phủ. Làn sóng biểu tình có tên gọi "Mùa xuân Ả Rập" gồm các cuộc nổi dậy, diễu hành và biểu tình phản đối chưa từng có trong tiền lệ tại các quốc gia ở thế giới Ả Rập như Tunisia, Algeria, Ai Cập, Yemen và Jordan, Mauritania, Ảrập Xêút, Oman, Sudan, Syria, Iraq, Libya và Morocco. Làn sóng được bắt đầu từ một cuộc nổi dậy và biến thành cuộc cách mạng tại Tunisia, sau vụ tự thiêu của Mohamed Bouazizi để phản đối tham nhũng và bị cảnh sát ngược đãi.
Tại Tây Âu là các cuộc biểu tình nhằm phản đối tình trạng kinh tế cùng cực và khoảng cách tài sản quá lớn giữa người giàu và người nghèo. Nợ công khổng lồ đã khiến hàng loạt nền kinh tế khu vực đồng euro, đặc biệt là tại Hy Lạp, nơi đề xuất cứu trợ từ IMF và châu Âu với yêu cầu cắt giảm ngân sách mạnh mẽ và hàng loạt biện pháp thắt lưng buộc bụng khác. Phản ứng trở lại, hàng chục nghìn người đã xuống đường ở Athens và những nơi khác để phản đối các tổ chức tài chính hiện hành và giới tinh hoa chính trị tắc trách đã đẩy họ vào hỗn loạn. Cuộc biểu tình tương tự đã làm rung chuyển Tây Ban Nha. Ở cả hai quốc gia, chính phủ đương nhiệm đã sụp đổ và thủ tướng đều phải ra đi.

Tại Mỹ, sự trì trệ về kinh tế đã châm ngòi cho phong trào biểu tình “Chiếm lấy phố Wall” của dân chúng với khẩu hiệu “99% dân Mỹ chống lại 1% kẻ giàu có”. Phong trào được bắt đầu từ ngày 17/9/2011 với cuộc biểu tình đầu tiên diễn ra ở công viên Zuccotti ở Manhattan, New York (Mỹ) với nhiều hình thức như: biểu tình tuần hành, cắm lán trại tại các khu vực quanh thành phố… Phong trào này nhằm vào cộng đồng tài chính, mà chủ yếu là những người giàu, những kẻ được coi là tài phiệt - tuy chỉ chiếm một phần nhỏ dân số nhưng lại là những người có khả năng điều khiển, thậm chí xoay chuyển một cả một nền tài chính quốc gia. Những người giàu được “trục lợi” từ khủng hoảng kinh tế, thậm chí phải đóng thuế ít hơn tầng lớp trung lưu hoặc người nghèo, cũng như tình trạng thất nghiệp phổ biến của thanh niên ở các nền kinh tế phát triển… đều được xem như nguyên nhân chính đáng dẫn đến "Chiếm lĩnh phố Wall". 



Phong trào này kéo dài nhiều tháng, thậm chí còn vượt biên giới nước Mỹ lan sang nhiều châu lục. Bên kia bờ Đại Tây Dương, các cuộc biểu tình chống Phố Wall thậm chí còn thu hút đông người tham gia hơn cả ở Mỹ. Lực lượng biểu tình này liên kết với các cuộc biểu tình kéo dài từ nhiều tháng nay nhằm phản đối các biện pháp thắt lưng buộc bụng của chính phủ.

Tại Nga, biểu tình của người dân tại Moscow và nhiều thành phố khác những ngày gần đây lại mang sắc thái khác. Ngay sau cuộc bầu cử hạ viện, người dân đã xuống đường phản đối kết quả bỏ phiếu. Họ cho rằng, thắng lợi thuộc về đảng cầm quyền Nước Nga thống nhất là do gian lận bầu cử. Tuy vẫn thắng thế, nhưng đảng cầm quyền của Thủ tướng Putin đã vấp phải "cú sốc" lớn khi bị suy giảm 14% phiếu bầu. Hàng chục nghìn người đã xuống đường tại Moscow, với các khẩu hiệu mạnh mẽ chưa từng thấy như "nước Nga thức tỉnh". Người biểu tình đòi chính quyền hủy bỏ kết quả bỏ phiếu hạ viện, tổ chức cuộc bầu cử mới. Thậm chí họ đe dọa, nếu chính quyền không đàm phán, họ sẽ tiếp tục phản đối quy mô lớn hơn nữa. Và, người đàn ông cứng rắn "bất khả chiến bại" của Kremlin - Thủ tướng Putin - đang phải đối mặt với những thách thức thực sự nghiêm trọng.

Như vậy là suốt trong 12 tháng qua, từ châu Phi tới châu Âu, từ Nga tới Mỹ, các cuộc biểu tình của người dân đã trở thành nét chính trong bối cảnh kinh tế xã hội toàn cầu có nhiều bất ổn. Tạp chí Time cho rằng, đa số các cuộc biểu tình năm nay xuất phát một cách độc lập, không dựa vào một chính đảng nào.

Giải thích về sự lựa chọn “Người biểu tình”, Time nhấn mạnh, năm 2011, mọi lục địa trên toàn cầu đều chứng kiến một làn sóng nổi dậy chưa từng thấy, diễn ra cả trong hòa bình lẫn bạo lực; những người biểu tình đã xác lập lại sức mạnh con người trên thế giới và tái định hình nền chính trị toàn cầu. “Họ bất bình, họ đòi hỏi, họ không tuyệt vọng thậm chí cả khi họ bị đáp trả bằng hơi cay hay những viên đạn. Họ đã hiện thực hóa suy nghĩ rằng hành động cá nhân có thể tạo ra sự thay đổi lớn”, Tổng biên tập Rick Stengel nói.

Theo thông lệ mỗi năm, sau "người biểu tình", các nhân vật được Time chọn còn có công nương Anh Kate Middleton, nghị sĩ Mỹ Paul Ryan và cả Đô đốc Mỹ William McRaven, người đã chỉ huy nhóm đặc nhiệm của hải quân tiêu diệt Osama bin Laden tại Pakistan...

Năm ngoái, nhà sáng lập kiêm giám đốc điều hành Facebook Mark Zuckerberg được bầu chọn là Nhân vật của năm. Tiêu chí mà Time đặt ra là con người hay sự việc có ảnh hưởng lớn nhất tới văn hoá và tin tức trong suốt một năm dù về mặt tích cực hay tiêu cực. Chủ tịch Cục Dữ trữ Liên bang Mỹ Ben Bernanke nhận tôn vinh này năm 2009. 2008 là Tổng thống Barack Obama.

Thái An - Ảnh: Discovery
Nguồn: VietNamnet

TRỰC TIẾP TỪ HN: HỎA HOẠN KINH HOÀNG, CHÁY THÁP ĐÔI 33 TẦNG

Cháy tòa tháp 33 tầng, nhiều người leo lên nóc cầu cứu


Lúc 16h45 hôm nay (15/12), một vụ hỏa hoạn xảy ra tại tòa nhà điện lực 33 tầng đang xây dựng (Electricity of Vietnam Tower) trên phố Cửa Bắc, cạnh Nhà máy nước Yên Phụ (Ba Đình, Hà Nội).
.


Xem tường thuật trực tiếp của các báo điện tử:


THÊM MỘT HÀNH ĐỘNG VÔ TRÁCH NHIỆM CỦA MẠNG HOÀN CẦU (TQ)

THÊM MỘT HÀNH ĐỘNG VÔ TRÁCH NHIỆM CỦA MẠNG HOÀN CẦU

Ngày 6-12-2011, mạng Hoàn Cầu đăng mục điều tra ý kiến bạn đọc về các nước láng giềng của Trung Quốc như Việt Nam, Philippines, Hàn Quốc, v.v bằng cách đánh dấu vào các câu hỏi gợi ý cho sẵn. Đối với Việt Nam, mạng này nêu ra nhiều câu như “vong ơn bội nghĩa”, “xâm chiếm Biển Đông”, “nham hiểm”, “hiếu chiến”, “bài Hoa”, “chiến tranh biên giới Việt - Trung”, v.v…

Đó là một hành động mới vô trách nhiệm của báo Hoàn Cầu. Đó là việc làm có chủ ý, hết sức thiếu hữu nghị, cố tình lái và kích động dư luận đối với Việt Nam. Người ta không thể không lo ngại trước việc làm mới này của tờ Hoàn Cầu.

Thời gian qua, chính báo Hoàn Cầu đầu têu trong việc cho lưu hành nhiều bài báo xuyên tạc, bôi nhọ Việt Nam, kích động tâm lý chống Việt Nam trong dư luận. Thậm chí có lúc báo này trích dẫn ý kiến của một viên tướng Tàu là “dạy cho Việt Nam một bài học”. Khoảng 1 tháng trước, báo Hoàn Cầu đe doạ Philippines và Việt Nam “chuẩn bị để nghe tiếng đạn pháo”. Cách đây độ 2 tuần, báo Hoàn Cầu lại có bài bình luận doạ rằng nếu các nước láng giềng không kiềm chế trong vấn đề Biển Đông thì sẽ sớm xảy ra xung đột quân sự. Phóng viên hỏi thì Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói phương tiện truyền thông có quyền bình luận.

Khi đọc những bài báo vô trách nhiệm và thiếu hữu nghị đối với Việt Nam và đe dọa các nước láng giềng khác mà Hoàn Cầu đã đăng tải trong thời gian qua, người ta hoàn toàn nghi ngờ tính chân thật trong câu trả lời của Bộ Ngoại giao Trung Cộng. Bởi vì báo Hoàn Cầu không phải là một tờ báo lá cải, vô danh tiểu tốt. Hoàn Cầu là phụ san của tờ Nhân Dân Nhật báo - tiếng nói chính thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Liệu có phải Đảng Cộng sản Trung Quốc chủ trương: Nhân Dân Nhật Báo thì phải chuyển tải đúng quan điểm, lập trường, đường lối của Đảng và Nhà nước, còn phụ san của nó được tự do rao đủ món tạp pí lù, cho phép ai cũng được thể hiện suy nghĩ cá nhân, kể cả những suy nghĩ ngược lại đường lối chủ trương của Đảng Cộng sản? Không! Chắc chắn Ban lãnh đạo cấp cao của Trung Cộng không có chủ trương như vậy. Nếu như họ có chủ trương như vậy thì đã có vô vàn ý kiến đòi đa nguyên, đa đảng đăng trên tờ Hoàn Cầu. Hoặc giả, bộ phận phụ trách công tác tư tưởng của Trung Cộng không biết nội dung các bài báo xấu xa của Hoàn Cầu đối với Việt Nam? Cũng không phải! Vì mắt họ chưa bị mù, tai họ chưa bị điếc. Hoặc giả Trung Cộng không kiểm duyệt được nội dung các tin bài của Hoàn Cầu? Cũng không phải nốt.

Cơ sở của Trung Quốc tại đá Vành Khăn mà họ chiếm đóng trái phép ở quần đảo Trường Sa 
- Ảnh: AFP

Đáng nhấn mạnh là việc làm vô trách nhiệm, thiếu hữu nghị đối với Việt Nam đó diễn ra ngay sau khi lãnh đạo cao nhất của Trung Cộng vừa mới tay bắt, mặt mừng, ôm hôn thắm thiết lãnh đạo Việt Nam ở Đại lễ đường Nhân dân và cam kết “đẩy mạnh tuyên truyền tình hữu nghị Việt -Trung, tăng cường định hướng dư luận và quản lý báo chí, thúc đẩy tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước”. Việc mạng Hoàn Cầu đặt ra các câu hỏi cho cư dân mạng nào là “vong ân bội nghĩa”, “xâm chiếm Biển Đông”, “hiếu chiến”, “nham hiểm”, v.v… đối với Việt Nam hoàn toàn đi ngược lại cam kết nêu trên. Chủ ý khi đặt ra các câu như vậy chắc chắn không phải là đẩy mạnh tuyên truyền tình hữu nghị Việt-Trung và thúc đẩy tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước. Chủ ý của nó là kích động, tạo luồng dư luận xấu về Việt Nam, nuôi dưỡng các tâm lý thù nghịch đối với Việt Nam và và đầu độc quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Việc làm này rõ ràng không có lợi cho quan hệ láng giềng giữa Trung Quốc và Việt Nam. Vừa thề thốt tăng cường tình hữu nghị với Việt Nam, vừa cho phép báo chí chính thức đăng tải tin tức vô trách nhiệm xấu xa về Việt Nam. Lời nói và việc làm của Trung Cộng quá mâu thuẫn: nói một đằng, làm một nẻo. Để Hoàn Cầu tác yêu, tác quái như vậy tức là Trung Cộng đã chà đạp lên cam kết mà họ đã chấp nhận theo Tuyên bố chung Trung - Việt ngày 15/10/2011.

Nếu báo Nhân dân của Hà Nội cũng cho phép phụ san của nó thăm dò ý kiến bạn đọc như Hoàn Cầu đã làm thì kết quả sẽ thế nào? Giả dụ, mạng của Việt Nam đặt câu hỏi “Ai xâm chiếm Biển Đông” thì không chỉ hàng chục triệu người Việt Nam, mà triệu triệu cư dân mạng của khu vực đều trả lời: Trung Quốc. Lý do cũng rất dễ hiểu. Một là, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã thuộc chủ quyền của Nhà nước Việt Nam mấy trăm năm nay. Sau khi đô hộ Đông Dương, Pháp đã tiếp tục thực hiện chủ quyền đối với 2 quần đảo và từ những năm 30 của thế kỷ XX, đã đóng quân ở đó. Còn Trung Quốc chưa bao giờ có hoạt động để chứng minh yêu sách của mình. Từ những năm 50 của thế kỷ XX Trung Quốc dùng vũ lực để chiếm nửa phía Đông của quần đảo Hoàng Sa và chiếm nửa phía Tây của quần đảo vào năm 1974 (lúc đó do chính quyền Sài Gòn quản lý). Năm 1988, Trung Quốc bắt đầu dùng vũ lực chiếm một số bãi đá ở quần đảo Trường Sa. Hai là, theo Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc thì Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia, Brunei có thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý ở bên ngoài bờ biển của họ. Nhưng Trung Quốc lại đòi các vùng biển đó là của Trung Quốc theo yêu sách “đường lưỡi bò”, mặc dù Trung Quốc biết rõ yêu sách “đường lưỡi bò” hoàn toàn trái với Công ước Luật Biển năm 1982 mà Trung Quốc là một bên tham gia.

Nói về “chiến tranh biên giới Việt - Trung năm 1979” thì ai cũng biết đó là hành động xâm lược của Trung Quốc đối với Việt Nam. Chính Bắc Kinh đã huy động hàng vạn tên lính vượt qua đường biên giới giữa hai nước, tràn vào các tỉnh biên giới của Việt Nam giết dân thường Việt Nam, tàn phá nhà cửa, công trình của người Việt Nam. Còn nói về hành động “hiếu chiến” ở Biển Đông thì cả thế giới đều biết vụ Trung Quốc cho tàu chiến cắt cáp của tàu Bình Minh 02 của Việt Nam ngay trong thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam. Vị trí cắt cáp chỉ cách bờ biển Việt Nam 116 hải lý, tức là còn 84 hải lý nữa mới hết giới hạn 200 hải lý. Khu vực đó hoàn toàn thuộc thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam. Đó không phải là thềm lục địa của Trung Quốc. Cho nên chính Trung Quốc mới là kẻ “hiếu chiến” ở Biển Đông.

Giả sử các mạng của Việt Nam cũng tiến hành việc lấy ý kiến như mạng Hoàn Cầu làm thì 100% cư dân mạng Việt Nam sẽ đồng thanh lên án Trung Quốc. Nhưng các mạng của Việt Nam đã không làm như Hoàn Cầu vì làm như Hoàn Cầu thì chỉ kích động dư luận, tạo cớ cho các lực lượng xấu phá hoại quan hệ láng giềng giữa hai nước.

Không thể chấp nhận việc làm vô trách nhiệm của báo Hoàn Cầu. Việc Bắc Kinh tiếp tục dung túng cho các hành động vô trách nhiệm của Hoàn Cầu không lừa bịp được ai. Việc đó càng làm cho khu vực và thế giới hiểu rõ hơn bộ mặt thật của Bắc Kinh. Đã đến lúc những tiếng nói có lương tri ở Trung Quốc lên tiếng, cảnh tỉnh Hoàn Cầu và những kẻ đứng phía sau đang giật dây cho Hoàn Cầu./.
N.C.L
Nguồn: BienDong.net.

CHÍNH PHỦ TRUNG QUỐC THUÊ NGƯỜI VIẾT BÀI PHẢN BIỆN TRÊN MẠNG


Chính phủ Trung Quốc thuê các Tweeter viết bài trên mạng

Tác giả: B. Raman
Trúc An dịch
11-12-2011

Ngày 9 tháng 12 năm 2011, Đài Á châu Tự do được Bộ Ngoại giao Mỹ bảo trợ, đã phổ biến một bản tin của hãng tin AFP về cách Trung Quốc cố gắng chống trả những chỉ trích nhắm vào chính phủ và Đảng Cộng sản nước này như thế nào, và việc loan “những tin đồn” phiền phức qua Internet của các blogger và các công dân mạng.

Đây là nguyên văn bản tin của hãng AFP được Đài Á châu Tự do phổ biến:

Các tuyên truyền viên trên mạng của Trung Quốc lộ tẩy

Một cặp biên lai bị rò rỉ từ một trường đại học ở tây bắc Trung Quốc, cho thấy rõ ràng về khoản tiền được trả cho các nhà bình luận trên Internet, do chính phủ bảo trợ, được biết đến là “đội quân 50 xu”, đang được lưu truyền trong các cư dân mạng tuần này.

Được đóng dấu chính thức từ “Ủy ban Tuyên truyền Đảng ủy Trường Đại học Bách khoa Tây Bắc của Đảng Cộng sản Trung Quốc“, cặp biên lai này xác nhận tiền được trả cho “các bình luận viên Internet”.

Một nhân viên trả lời điện thoại tại trường đại học có trụ sở ở Tây An xác nhận rằng, có công việc như vậy tồn tại trong trường.

“Bạn muốn nói tới một chuyên gia tuyên truyền“, anh này nói khi được hỏi liệu có một công việc như “bình luận viên Internet” tại trường hay không. Tuy nhiên, nhân viên này không biết nhiều về công việc đó, và cung cấp một số điện thoại khác giúp hỏi thêm thông tin.

Người trả lời điện thoại thứ 2 này cũng xác nhận có công việc như vậy. Anh ta nói: “Tất nhiên là chúng tôi có. Công việc là viết tin tức… chẳng hạn, họ có thể dùng kiến thức của mình cho các bài viết mang tính học thuật“.

“Với tài liệu biên tập từ nhóm, họ có thể viết ra các bài có giá trị lớn”, người này cho biết. Tuy nhiên, ông cúp máy khi bị gặng hỏi thêm chi tiết.

Trung Quốc đang đẩy mạnh [công tác] huấn luyện truyền thông cho các quan chức nước này cùng một đội ngũ bình luận viên tự do được trả lương để định hướng tranh luận với công chúng trên mạng, được biết đến là “đội quân 50 xu”, theo tin tứ báo chí chính thức trong những tháng gần đây.

Một bản tin từ đài truyền hình địa phương, đài Hubei Xishui, cho biết, các quan chức thuộc ban tuyên truyền quận Xishui nói, họ đã tổ chức các bài tập huấn cho các phát ngôn viên chính thức và “các bình luận viên Internet”.

Các khóa huấn luyện truyền thông dành cho các bình luận viên và các quan chức chính phủ, gồm các thủ thuật về cách chi phối tin tức của các tổ chức báo chí lớn nhất nước, cũng như một số biện pháp sử dụng trên Internet và truyền thông xã hội để loan truyền thông điệp của chính phủ.

Tin tức cho biết, các bình luận viên Internet phải đưa tin “sự thật” càng nhanh càng tốt, bổ sung thông tin bằng cách giảng giải về các sự kiện, và chi phối các cuộc thảo luận trên mạng theo định hướng “đúng”.

Các cựu blogger và các nhà hoạt động trực tuyến nói rằng, một ngày làm việc điển hình của một người trong ‘đội quân 50 xu’ gồm việc theo dõi các bài đăng trên các diễn đàn, các bài đăng trên các microblog và chat-room, về những chủ đề liên quan tới một từ khóa cụ thể nào đó mà các nhà quản lý đưa cho họ.

Họ được trả bao nhiêu tùy thuộc vào số lượng các bình luận, các tweet và các bài đăng mà họ đưa ra để lái cuộc thảo luận theo hướng mà chính phủ mong muốn.

Theo các biên lai được lưu truyền gần đây, có các chi tiết cá nhân của người tham gia ‘đội quân 50 xu’ đã bị làm mờ, hai bình luận viên đã được trường đại học trả tiền, một người được trả 20 nhân dân tệ, và người kia 30 nhân dân tệ.

Thế giới của các bình luận viên làm việc trên mạng cho chính phủ thì không rõ ràng, các cư dân mạng bình thường phải tự phỏng đoán cách thức hoạt động, từ việc hành xử của họ trên mạng hay từ một tài liệu bị rò rỉ đặc biệt nào đó.

Hồi đầu năm nay, trang tin tức Canyu đã rò rỉ một tài liệu có tựa đề “Sổ tay công việc nội bộ” (Internal Work Handbook), tài liệu này được cho là dành cho các bình luận viên 50 xu. Cuốn sổ đó hướng dẫn các bình luận viên đã được thuê mướn, cách truy tìm nguồn gốc của bất kỳ “lời đồn” nào trên mạng, và sau đó ra lệnh cho trang web đầu tiên đã đăng bản tin đó, phải xóa bỏ bài viết vi phạm.

Một sinh viên Trung Quốc từ chối cho biết tên, tiết lộ rằng, anh ta đã từng viết các bài viết cho trên mạng cho chính phủ, để kiếm thêm chút tiền.

Anh nói: “Tôi cũng thấy các bạn cùng lớp làm như vậy, và tôi hề không nghĩ gì về điều này. Tôi không biết chúng tôi là những người của cái gọi là ‘đội quân 50 xu’. Tôi thực sự không hiểu điều mình đang làm, và tôi hơi thiếu đạo đức. Giờ đây, tôi thực sự hối tiếc vì đã chiến đấu cho họ với những bình luận như vậy“.

Sinh viên này còn nói rằng anh đã kiếm được khoảng 100-120 nhân dân tệ mỗi tháng từ việc viết các bài đó.

Theo Li Li, chuyên gia Intenet Trung Quốc, trong khi đội quân 50 xu này có vẻ gia tăng về số lượng, tính hiệu quả của họ lại rất hạn chế.

Li nói: “Nếu bạn làm nhiều điều tồi tệ, bạn sẽ mất uy tín… và cuối cùng thì chẳng ai tin vào những điều bạn nói. Sau đó sẽ có một phản ứng dữ dội; mọi người sẽ biết đội quân 50 xu này là ai, và uy tín của chính phủ có thể sẽ ở mức thấp nhất“.

Blogger Wen Yunchao, có nickname trên mạng là Beifeng, cho biết, hầu hết các công dân mạng đều làm lơ những người thuộc đội quân 50 xu.

Anh nói: “Chúng tôi giả vờ như không hề nghe thấy họ. Chúng tôi xem như thể họ không có ở đó, và không bao giờ đưa ra bất kỳ một phản ứng nào. Điều này làm giảm ảnh hưởng của họ rất nhiều“.

Tác giả: Ông B. Raman là Bộ trưởng đã về hưu, thuộc Ban Thư ký Nội các của chính phủ Ấn Độ, New Delhi, và hiện là Giám đốc Viện Nghiên cứu các đề tài thời sự ở Trung tâm Chennai, ông cũng hợp tác với Trung tâm Chennai về nghiên cứu Trung Quốc. Email của ông seventyone2@gmail.com

Nguồn: South Asia Analysis Group
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2011
Nguồn: Ba Sàm.

TẠP CHÍ TIME BẦU CHỌN "NGƯỜI BIỂU TÌNH" LÀ NHÂN VẬT CỦA NĂM

Người biểu tình - Nhân vật của năm của Time

Cuộc bầu chọn Nhân vật của năm do tạp chí danh tiếng Time tổ chức đã kết thúc với chiến thắng thuộc về “Người biểu tình”.

> Time và cuộc bình chọn nhân vật của năm

Nhân vật của năm được công bố hôm nay trên chương trình Today của kênh truyền hình NBC. Giải thích về sự lựa chọn “Người biểu tình”, tạp chí Time cho rằng năm 2011, mọi lục địa trên toàn cầu đều chứng kiến một làn sóng nổi dậy chưa từng thấy, diễn ra cả trong hòa bình lẫn bạo lực. Từ khắp Trung Đông đến châu Âu và Mỹ, những người biểu tình đã xác lập lại sức mạnh con người trên thế giới và tái định hình nền chính trị toàn cầu. 

“Họ bất bình, họ đòi hỏi, họ không tuyệt vọng thậm chí cả khi họ bị đáp trả bằng hơi cay hay những viên đạn. Họ đã hiện thực hóa suy nghĩ rằng hành động cá nhân có thể tạo ra sự thay đổi lớn”, tổng biên tập Time Rick Stengel nói.

 Hình ảnh Người biểu tình - Nhân vật của năm trên bìa tạp chí Time.
Tướng William McRaven, chỉ huy biệt đội Mỹ trong chiến dịch truy kích và tiêu diệt trùm khủng bố al-Qaeda Osama bin Laden hồi tháng 5 ở Pakistan, được vinh danh ở vị trí thứ hai trong danh sách “Nhân vật của năm” 2011.

Hàng năm tạp chí Time bình chọn Nhân vật của năm với tiêu chí là người có ảnh hưởng lớn đến các sự kiện trong năm, cho dù về mặt tích cực hay tiêu cực. Năm ngoái, giải thưởng này thuộc về Mark Zuckerberg, người sáng lập kiêm giám đốc điều hành mạng xã hội Facebook.

Dù mang tên gọi "Nhân vật của năm" nhưng cuộc bình chọn này không bị bó buộc phạm vi ứng cử viên là những cá nhân cụ thể. Năm 1982, danh hiệu "Nhân vật của năm" thuộc về chiếc máy tính cá nhân, một phát minh tạo nên bước đột phá trong văn minh nhân loại ở kỷ nguyên hiện đại. 11 năm sau, danh hiệu này lại được trao cho các những người kiến tạo hòa bình, với các đại diện nổi tiếng là Yasser Arafat, Yitzhak Rabin, F.W. de Klerk, và Nelson Mandela.

Đặc biệt, vào năm 2006, Time trao danh hiệu "Nhân vật của năm" cho "You", tức là "các bạn", với hàm ý tôn vinh hàng triệu người có những đóng góp cho các mạng xã hội, những trang bách khoa toàn thư điện tử hữu ích và những phần mềm mã nguồn mở. Lựa chọn này làm dấy lên những tranh cãi. Có người cho rằng đó là một sự sáng tạo, nhưng người khác vẫn muốn một nhân vật cụ thể được lựa chọn như truyền thống. Đáp lại những phản ứng trái chiều, chủ bút Richard Stengel của Time chỉ nói ngắn gọn: "Nếu đó là một sai lầm, chúng tôi sẽ chỉ để nó xảy ra một lần".


Anh Ngọc
Nguồn: VNExpress.