Thứ Sáu, 16 tháng 9, 2011

CÙNG TRỞ LẠI HỒ GƯƠM ĐỌC CÂU ĐỐI XƯA

CÂU ĐỐI, HOÀNH PHI VÀ ĐỀ TỰ BẰNG CHỮ HÁN Ở ĐỀN NGỌC SƠN
Tuấn Nghi - Tảo Trang

Đền Ngọc Sơn, một di tích nổi tiếng ngay tại trung tâm thủ đô Hà Nội, có một giá trị đặc biệt do nằm trong Hồ Gươm, một danh thắng đồng thời là di tích lịch sử.

Hồ xưa rất rộng, là một khúc sông Nhị còn lưu lại trên đất liền, sau khi sông đổi dòng, và có những con đê đắp lên để ngăn chặn lụt lội, bảo vệ cuộc sống cùng tài sản con người ở ven sông.

Theo sách La Thành cổ tích vịnh của Trần Bá Lãm (1757 - 1815), hồ từng là nơi tập thủy quân dưới triều Trần, nên có tên là Đầm Thủy Quân. Lại theo sách Hoàng Việt địa dư chí của Phan Huy Chú (1782 - 1840), Lê Thái Tổ một hôm dạo chơi trên hồ, có con rùa lớn nổi lên, vua cầm gươm chỉ, rùa liền đớp lấy gươm lặn xuống nước, nên có tên là Hồ Hoàn Kiếm (Hồ trả lại thanh gươm vua được thần trao cho để đánh đuổi quân Minh xâm lược), gọi tắt là Kiếm Hồ (Hồ Gươm).

Sang thời Lê Trung Hưng, sau khi Chúa Trịnh lập phủ chúa ở phía Nam Tháp Báo Thiên (khu vực phố Nhà Chung hiện nay), một con đường đã được đắp từ Cửa Nam thành tới lầu Ngũ Long (khoảng Viện Bảo tàng lịch sử hiện nay), chia hồ thành 2 phần: nửa bên trái là Tả Vọng, nửa bên phải là Hữu Vọng (“Vọng” ở đây có nghĩa là nhìn về phủ chúa). Hồ Hữu Vọng về sau bị lấp dần, dấu vết còn lại là phố Vọng Đức (tên một thôn của thế kỷ XIX, do 2 thôn Hữu Vọng và Đức Bác hợp nhất mà thành). Còn Hồ Tả Vọng tức phần Hồ Gươm còn lại đến ngày nay.

Phía tây bắc Hồ Tả Vọng có một gò đất tên là Tượng Nhĩ Sơn (núi tai voi). Lý Thái Tổ sau khi định đô ở Thăng Long (1010) đổi tên gò là Ngọc Tượng Sơn (núi Voi Ngọc), và tới đời Trần, gọi tắt là Ngọc Sơn (núi Ngọc). Lúc này trên gò đảo đã có một ngôi chùa nhỏ, nhưng lâu ngày thành xiêu vẹo. Đến đời Lê Vĩnh Hựu (1735 - 1739), chúa Trịnh Giang dựng lên cung Khánh Thụy ở đây và đắp hai quả núi phía đông, đối diện với Ngọc Sơn, gọi là Ngọc Bội và Đào Tai để kỷ niệm chiến thắng năm 1751 của Trịnh Doanh bắt được Nguyễn Danh Phương, một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa.

Cuối đời Lê, cung Khánh Thụy bị Lê Chiêu Thống đốt trụi. Một nhà từ thiện người làng Nhị Khê tên là Tín Trai nhân nền cung cũ, lập ra một ngôi chùa gọi là Ngọc Sơn tự (chùa Ngọc Sơn). Chùa lúc này có cả tam quan và gác chuông.

Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), con ông Tín Trai đem chùa nhường cho Hội Hướng Thiện để trùng tu, dỡ bỏ gác chuông, xây lại các gian đền chính và các dãy phòng hai bên, quy mô to lớn. Chùa đã thành đền, mới đầu thờ thần Văn Xương, sau thành đền “Tam thánh”, thờ 3 vị: Văn Xương, Quan Vũ và Lã Động Tân. Một thời gian sau thờ thêm Trần Hưng Đạo. Năm Tự Đức 18 (1865), Nguyễn Văn Siêu đứng ra tổ chức quyên góp để tu tạo di tích Ngọc Sơn, xây đình Trấn Ba, cầu Thê Húc, Tháp bút, Đài nghiên… Từ đó đến nay, đền cơ bản vẫn giữ bộ mặt tu tạo thời Nguyễn Văn Siêu, tất nhiên là có bị hư hỏng, mất mát đi một số chi tiết.

Dù sao đền Ngọc Sơn vẫn có một giá trị đặc biệt ở chỗ còn giữ lại rất nhiều câu đối, hoành phi và đề tự bằng chữ Hán được viết khá đẹp, thuộc đủ kiểu chân, thảo, triện, lệ - tuy phần nhiều là chân phương - làm tăng vẻ cổ kính của di tích. Không chỉ thế, chúng còn có ý nghĩa lớn, giúp cho khách tham quan có một tầm nhìn và cảm nghĩ thấu đáo hơn khi vãng cảnh. Có thể nói hầu hết những thắng tích quanh Hồ Gươm, những bộ phận kiến trúc và cả hệ thống thờ tự ở đền Ngọc Sơn đều được nhắc tới qua các tư liệu văn tự này.


Thật hiếm thấy một nơi nào ở giữa trung tâm đô thành phồn náo lại có một di tích danh thắng với bộ mặt khác lạ như ở đây: kết hợp được cảnh đẹp thiên nhiên với nghệ thuật kiến trúc tao nhã của con người, đồng thời thể hiện những truyền thống tốt đẹp nhất của dân tộc: tinh thần thượng võ chống ngoại xâm, tính hiếu học, lòng mến mộ văn chương và đạo lý. Thiên nhiên và con người, văn và võ đã được kết hợp hài hòa trong thắng tích đền Ngọc Sơn - Hồ Gươm… Và tất cả cái hay cái đẹp đó đã được thể hiện qua những tư liệu văn tự nằm trên tường, trên cột, trên gỗ, trên đá nơi đền “Núi Ngọc”, mà lần này chúng tôi cố gắng chuyển từ tiếng Hán sang tiếng Việt, có chú thích các điển khó, để bạn đọc tham khảo.

Để tiện theo dõi, các câu đối, hoành phi, đề tự đều được đánh số thứ tự theo vị trí của chúng trên thực địa (xem bản sơ đồ ở cuối bài viết), bắt đầu từ cổng đền đi dần vào trong.

Trong quá trình sưu tập tư liệu, chúng tôi được đồng chí Nguyễn Doãn Tuân, cán bộ nghiên cứu Viện Hán Nôm cho mượn bản chụp bài minh trên Đài nghiên để dịch. Nhân đây xin có lời cảm ơn.

1. Lâm thủy đăng sơn nhất lộ tiệm nhập giai cảnh;
2. Tầm nguyên phỏng cổ thử trung vô hạn phong quang.
 
Ngắm nước, trèo non, một lối lần vào cảnh đẹp;
Tìm nguồn, thăm cội, trong dây biết mấy phong quang.

3. Ngọc ư tư;
Sơn ngưỡng chỉ.
 
Ngọc ở đây (a);
Ngửa trông núi (b)

(a) Luận ngữ, Tử Hãn: “Hữu mỹ ngọc ư tư = Có ngọc đẹp ở đây”; “ngọc”, chỉ vật quí giá, đây muốn nói về tài đức con người.
(b) Kinh Thi, Tiểu nhã, Xa hạt: “Cao sơn ngưỡng chỉ = Ngửa trông núi cao”, tỏ ý mến mộ người có đạo đức.
Cả 2 vế ba chữ trên vừa nhắc tới di tích “Ngọc Sơn”, vừa gợi cho người vãng cảnh suy ngẫm về đạo trọng nhân tài, từ đó cố gắng trau dồi phẩm chất đạo đức.

5. Phúc (a);

6. Lộc (b).

(a) Phúc: hạnh phúc, niềm vui do âm đức tổ tiên để lại và do sự làm việc tốt của chính mình.
(b) Lộc: quyền lợi được hưởng thụ.

7. Lập nhân tiêu biểu khai nhân kính;
8. Độ thế tân lương giác thế quan.

Vì người dựng cột nêu, dẫn đường văn minh khai hóa;
Cứu đời có cầu bến, mở cửa giác ngộ từ bi.

9. Khánh Thụy nhất phong cao, Ngọc Bội trúc kình truyền thắng tích;
10. Điếu đài song miếu trĩ, linh kim diệu đẩu hộ thần quang.
Một cung Khánh Thụy (a) vươn cao, núi Ngọc Bội (b) ghi chiến công, dấu danh thắng truyền lại;
Hai miếu Điếu đài (c) đối lập, gươm vàng thiêng chiếu sao đẩu, ánh thần diệu chở che.
(a) Cung Khánh Thụy: cung do chúa Trịnh Giang dựng lên trên gò đất cao tức Ngọc Sơn ở phía Tây bắc hồ vào năm Lê Vĩnh Hựu (1735 - 1739).
(b) Ngọc Bội: tên một quả núi nhỏ, do Trịnh Giang cho đắp ở bờ hồ phía Đông để ghi chiến công đàn áp cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Danh Phương (Quận Hẻo). Chữ “trúc kình” trong nguyên văn câu 9 (vế đối thứ nhất) có thể hiểu là “dựng quán kình” cũng tức là “kình nghệ kinh quán = quán kình nghê”, chỉ những gò đống chốn xác giặc, ghi chiến công (xem câu thơ Ngô Ngọc Du được ghi trong Cổ tích và thắng cảnh Hà Nội của Doãn Kế Thiện, Nxb. Văn hóa, H. 1959, tr.164).
(c) Điếu đài: từ thời Lý Trần, ở phía Tả vọng của hồ Hoàn Kiếm có một gò đảo, trên có ngôi chùa nhỏ, lâu ngày bị đổ nát. Đời Lê thường dùng nơi này (tức chỗ đền Ngọc Sơn hiện nay) làm nơi câu cá, gọi là Điếu đài. Ngoài ra, theo các cụ xưa kể lại, hai quả núi Đào Tai và Ngọc Bội đồng thời cũng là hai nơi có thể đứng để câu cá, dành cho vua chúa, cũng gọi là Điếu đài. “Hai miếu Điếu đài đối lập” rất có thể là chỉ hai nơi câu cá sau cùng này (theo Hà Nội sơn xuyên phong vực, Thăng Long cổ tích khảo và Văn Xương miếu bi của Nguyễn Văn Siêu).

11. Tả thanh thiên.
Viết lên nền trời xanh (a).
(a) Đây là những chữ đề ở Tháp bút. Trong bài Bút tháp chí, Nguyễn Văn Siêu viết: “Trên đỉnh núi Độc Tôn có Tháp bút năm tầng. Tháp nhờ núi mà cao thêm, núi nhờ tháp mà truyền mãi. Vào khoảng năm Vĩnh Hựu nhà Lê, tên nghịch Phương lén chiếm núi Độc Tôn ở huyện Phổ Yên xứ Thái Nguyên. Vương sư đi đánh dẹp, đóng quân ở núi Ngọc Bội, liên tiếp công phá giặc. Ngày thắng lợi trở về, nhân gò đất cao, đắp núi để ghi công, đặt tên là Độc Tôn. Sau cuộc chính biến, núi bị gai góc phủ đầy, không còn ai biết đến nữa. Trong Hồ Hoàn Kiếm có miếu Văn Xương. Vào dịp trùng tu chùa, ngó sang bờ Đông, thấy có núi, bèn phát dọn cây cỏ, xây đá dựng Tháp bút, bên trên đối diện với Đài nghiên. Bấy giờ có người tới hỏi thăm vì đâu lại đặt tên núi là Độc Tôn. ấy, núi là biểu tượng của chiến công, tháp là biểu tượng của văn hóa. Cả hai cái đó dựa vào nhau mà tồn tại, lưu truyền. Nhưng sở dĩ trở thành bất hủ, là bởi trong bản thân chúng sẵn chứa đựng cái bất hủ. (Xem Phương Đình văn loại A.190/1-2).

12. Thái Sơn thạch cảm đương.
Dám sánh ngang đá núi Thái (a)
(a) Núi Thái: núi ở tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc, được coi là rất cao, rất tôn quí, bên trên có nhiều ngọc, và là nơi ở của thần tiên.

13. Sơn thần miếu.
Miếu thờ thần núi.

14. Cố điện hồ sơn lưu vượng khí;
15. Tân từ hương hỏa tiếp dư linh.
Hồ núi kinh thành xưa còn lưu khí thịnh;
Khói hương ngôi đền mới tiếp nối dấu thiêng.

16. Nhân gian văn tự vô quyền toàn bằng âm đức;
17. Thiên thượng Chủ tư hữu nhãn đơn khán tâm điền.
Cõi đời chữ nghĩa không quyền, toàn dựa vào âm đức (a);
Thượng giới Chủ tư (b) có mắt, chỉ nhìn xét cõi lòng.
(a) Âm đức: phúc đức từ cõi âm, do tổ tiên để lại.
(b) Chủ tư: Chánh giám khảo của kỳ thi, đây chỉ Văn Xương, vị thần chính được thờ ở di tích Ngọc Sơn. Theo Từ Hải, Văn Xương hay Văn Xương Đế Quân là vị thần trông coi công việc ở phủ Văn Xương, một nơi theo dõi danh sách bổng lộc ở thế gian.
Quan niệm xưa coi việc thi đỗ, ngoài tài học, còn phải dựa vào âm đức của tổ tiên và phẩm chất của chính mình. Thần Văn Xương, Chánh giám khảo trên trời và chủ bổng lộc cõi trần chỉ cho đỗ những người ngoài tài học, còn có đức độ. Nếu không có đức độ thì không đỗ, hoặc dù có đỗ, bổng lộc cũng không bền.

18. Long môn;
19. Hồ Bảng.

Cửa rồng (a);
Bảng Hổ (b).

(a). Cửa rồng: nguyên văn là “Long môn”, cũng gọi là “Vũ môn”, tên một trái núi ở giữa sông Hoàng Hà (chặng Sơn Tây, Trung Quốc), xưa vua Vũ đào kẽm khai sông ở nơi này, nước chảy xiết. Tương truyền con cá nào vượt qua được vũ môn sẽ hóa rồng.
(b). Bảng hổ: tức “Long hổ bảng = bảng rổng hổ”, nơi ghi tên những người thi đỗ.

20. Đậu quế Vương hòe quốc gia trinh cán;
21. Đường khoa Tống bảng sĩ tử thê giai.
Quế hòe họ Đậu, họ Vương (a), cột trụ của nhà nước;
Thi cử đời Đường, đời Tống, thang bậc của học trò.
(a) Quế hòe họ Đậu họ Vương: Đậu Vũ quân sinh năm người con đều đỗ đạt cao, nên có câu thơ: Linh xuân nhất chu lão; Đan quế ngũ chi phương = Linh xuân một gốc già; Đan quế năm cành thơm”. Vương Hựu đời Tống trồng ba cây hòe ở sân, nói con cháu sẽ có người làm Tam công, tức giữ những chức vụ cao nơi triều đình.

22. Hổ bảng Long môn thiện nhân duyên pháp;
23. Nghiễn đài Bút tháp đại khối văn chương.
Bảng hổ, cửa rồng, lối đi (a) người thiện;
Đài nghiên, Tháp bút, văn nghiệp (b) đất trời.
(a) Lối đi cũng có thể hiểu là “nhân duyên”, đỗ đạt là kết quả của cuộc sống lương thiện.
(b) Văn nghiệp cũng có thể hiểu là “vẻ sáng đẹp”.

24. Nghiễn đài.
Đài nghiên

25. Cổ hữu huyệt địa tiến nghiễn chú Đạo đức kinh, chước đại phương nghiễn trứ Hán xuân thu: thạch tư nghiễn giã, phỉ tượng hà tượng, bất phương bất viên, diệu tồn chư dụng, bất cao bất hạ, vị hồ quyết trung, phủ Hoàn Kiếm thủy, ngưỡng Thạch bút phong, ứng Thượng Thai nhi thổ vân vật, hàm nguyên khí nhi ma hư không (Đinh Sửu trùng tu. Phương Đình Tử minh).
Xưa có việc xoi đất làm cái nghiên chú thích sách Đạo đức kinh (a), đẽo nghiên đá viết sử nhà Hán (b): Cái nghiên đá này, nếu không là biểu tượng thì sao thành hình tượng, chẳng vuông chẳng tròn, diệu náu công dụng, chẳng cao chẳng thấp, vị trí trung bình, cúi xuống nước Hồ Gươm, ngẩng lên ngọn Tháp Bút, đáp Thượng Thai (c) mà nhả sắc mây lành, ngậm nguyên khí (d) mà mài vòm trời rộng (e) (Trùng tu năm 1877. Phương Đình làm bài minh).
(a) Đạo đức kinh: tác phẩm của Lão Tử.
(b) Sử nhà Hán: nguyên văn là “Hán xuân thu”, chữ “xuân thu” dùng ở đây như một danh từ chung, có nghĩa là “sử ký” (giống với các trường hợp Ngô Việt xuân thu, Thập lục quốc xuân thu… ), không còn nghĩa ban đầu của nó là tên cuốn sử nước Lỗ nữa.
(c) Thượng Thai: chỉ 2 ngôi sao ở phía Tây chòm sao Tam thai, gần chòm sao Văn Xương. Sao Văn Xương cai quản về văn minh và bổng lộc; sao Thượng Thai cai quản về tuổi thọ.
(d) Nguyên khí: khí tạo nên những biến đổi về mặt sinh lý trong một đời người từ khi sinh ra cho đến lúc chết (liên quan đến tuổi thọ).
(e) Bài minh này còn được chép trong Phương Đình văn loại (ở Tục tập, tờ 53) dưới tiêu đề “Nghiễn đài minh”, lời văn và trật tự câu có khác một số chỗ so với bài ghi ở Đài nghiên, chép luôn ra đây để bạn đọc cùng tham khảo: “Cổ hữu chước đại thạch nghiễn trứ Hán xuân thu, huyệt địa vi nghiễn chú Lão Tử kinh: Thạch tư nghiễn giả, phỉ tượng hà hình, bất phương bất viên, diệu tàng kỳ dụng, bất cao bất hạ, vị hồ quyết trung, phủ Hoàn Kiếm thủy, ngưỡng Thạch bút phong, ứng Thượng Thai nhi thổ vân vật, hàm nguyên khí nhi ma thương khung”. Chúng tôi có tham khảo bản chữ Hán này khi dịch bài minh trên, cốt sao cho dễ hiểu.

26. Bát đảo mặc ngân hồ thủy mãn;
27. Kình thiên bút thế thạch phong cao.
Dấu mực vẩy lên đảo, nước hồ đầy tràn;
Thế bút vươn lưng trời, núi đá cao ngất.

28. Thiện;
29. Ác.
 
30. Ngọc Sơn từ.
Đền Ngọc Sơn.

31. Ảnh động long xà.
Bóng lay động rồng rắn (a).
(a) Rồng rắn: 1. Như hình con rồng con rắn; 2. Người tài trí hơn đời.
32. Luận sự thường tồn trung hậu tâm, vật đại phân hắc bạch;
33. Vi văn bất tác khinh bạc ngữ , đồ tự sính thư hoàng.
Luận việc thường giữ lòng trung hậu, chớ rạch ròi đen trắng;
Làm văn không dùng lời khinh bạc, chỉ tự chuốc chê bai (a).
(a) Chê bai: dịch thoát chữ “thư hoàng”, còn gọi là “đá mào gà”, sắc đỏ nâu. Thời cổ viết chữ lên giấy vàng, nên thường dùng thư hoàng bôi lên các chữ viết sai để viết lại cho đúng. Nghĩa rộng: sửa chữa, chê bai.

34. Sơn cao;
35. Thủy thanh.
Núi cao;
Nước trong.

36. Tử khí quang hồi thiên chỉ xích;
37. Hồng trần vọng cách thủy đông nam.
Khí tốt rọi về, trời gang tấc; (a)
Bụi hồng cách nẻo, nước đông nam (b).

(a) Trời gang tấc: ý nói Hồ Gươm ở gần phủ chúa Trịnh. Nước đông nam: nước ở phía đông, phía nam, chỉ vị trí Hồ Gươm: phía đông có sông Hồng, phía nam có hồ Hữu Vọng (hồ này nay đã bị lấp, chỉ còn lại dất vết ở cái tên phố Vọng Đức).

38. Dạ nguyệt hoặc qua tiên thị hạc;
39. Hào lương tín lạc tử phi ngư.
Đêm trăng, hoặc bay qua, hạc ấy là tiên (a);
Cầu hào, bao thỏa thích, anh không phải cá (b).
(a) Sách Liệt tiên truyện chép: con của Chu Linh Vương học đạo ở Tung Sơn, sau hơn 30 năm, cưỡi hạc trắng bay lên ngọn núi Hầu Thị Sơn, được vài ngày, không biết đi đâu. Bài phú Hậu Xích Bích của Tô Đông Pha kể lại: đêm trăng rằm cùng bạn chơi sông Xích Bích lần thứ hai. Đang ở thuyền, có một con chim hạc lớn bay qua. Lát sau ngủ, mơ thấy một Đạo sĩ “áo lông phấp phới” (y phục các vị tiên) tới chào. Tô Đông Pha hỏi: “Lúc nãy hạc bay qua thuyền, có phải ông không?” Đạo sĩ ngoảnh mặt cười. Nhà thơ bừng tỉnh giấc.
(b) Sách Trang Tử, thiên Thu thủy chép: Trang Tử cùng Huệ Tử đang chơi trên cầu hào. Trang Tử nói: “Con cá kia lội tung tăng, ý chừng thỏa thích lắm!”. Huệ Tử nói: “Anh không phải cá, làm sao anh biết được cái vui của cá?”. Trang Tử đáp: “Thế anh không phải tôi, làm sao anh biết tôi không biết được cái vui của cá?”.

40. Thê húc kiều.
Cầu đậu ánh ban mai.

41. Đắc nguyệt lâu.
Lầu được ánh trăng (a).
(a) Thơ Lý Bạch: “Khuy nhật úy hàm sơn, thúc tửu hỉ đắc nguyệt = Ngó mặt trời e ngậm núi, giục rượu uống mừng được trăng”.

42. Bất yếm hồ thượng nguyệt;
43. Uyển tại thủy trung ương.
Không chán ngắm trăng trên hồ;
Cứ như ở giữa làn nước (a).
(a) Kinh thi, Tần phong, Khiểm hà: “Tố du tòng chi, uyển tại thủy trung ương = Đi xuôi theo dòng, cứ như ở giữa làn nước”. Vế đối thứ nhất không rõ xuất từ điển nào.

44. Linh Hồ Nhược Thủy tùy duyên độ;
45. Trần cảnh Tiên châu hữu lộ thông.
Linh Hồ, Nhược Thủy (a) tùy duyên tới;
Tiên cảnh, trần gian có lối thông.
(a) Linh Hồ, Nhược Thủy: những nơi tiên ở, theo truyền thuyết.

46. Kiều dẫn trường hồng thê đảo ngạn;
47. Lâu đương minh nguyệt tọa hồ tâm.
Cầu dẫn dải cầu vồng đậu vào bờ đảo;
Gác in vầng trăng sáng nằm dưới lòng hồ.

48. Long mã Hà đồ;
49. Thần quy Lạc thư.
Long mã mang bức vẽ ở sông Hoàng Hà (a);
Rùa thần cõng bản viết ở sông Lạc Thủy (b).
(a) Theo lời giảng giải ở thiên Cố mệnh sách Thượng thư thì khi Phục Hy làm vua thiên hạ, có con vật đầu rồng mình ngựa (long mã) từ sông Hoàng Hà đi lên, trên lưng có một bức vẽ, Phục Hy đã dựa vào đây mà vạch thành tám quẻ (bát quái). Bức vẽ được gọi là “Hà đồ = bức vẽ ở sông Hoàng Hà”.
(b) Tương truyền sau khi vua Vũ trị thủy thành công, ở sông Lạc Thủy có con rùa thần nổi lên, trên lưng có hoa văn, vua Vũ đã theo đó sắp xếp thành chín khoảnh (cửu trù) vẽ chữ số từ 1 đến 9 gọi là “Lạc thư = bản viết ở sông Lạc Thủy”.
Hà đồ và Lạc thư là những phát minh quan trọng về dãy số tự nhiên (1, 2, 3…), đồng thời áp dụng nó vào việc tính toán (8 vạch, 64 quẻ…), mở rộng ra, có thể giải thích nhiều hiện tượng trước mắt và suy đoán những việc sẽ xảy tới trong cõi vũ trụ, nhân gian (tự nhiên, xã hội, con người). Kinh Dịch, Hệ từ hạ có câu: “Hà xuất đồ, Lạc xuất thư, thánh nhân tắc chi = sông Hoàng Hà xuất hiện bức vẽ, sông Lạc Thủy xuất hiện bản viết, thánh nhân lấy đó làm phép tắc (để cai trị nước, đem lại hạnh phúc cho con người).

50. Thố ô tùy quá vãng;
51. Sơn thủy tự cao thanh.
Nhật (a) nguyệt (b) theo nhau qua lại;
Nước non vốn sẵn thanh cao.
(a) Nhật: nguyên văn là “ô = con quạ = mặt trời”. Theo truyền thuyết, trên mặt trời có con quạ vàng (kim ô) ba chân.
(b) Nguyệt: nguyên văn là “thố = con thỏ = mặt trăng”. Theo truyền thuyết, trên mặt trăng có con thỏ ngọc (ngọc thố).

52. Thiên căn nguyệt quật nhân lai vãng;
53. Thủy sắc sơn quang tương tống nghênh.
Chòm sao (a), vầng nguyệt (b) thường qua lại;
ánh nước, màu non rộn đón đưa.
(a) Nguyên văn là “thiên căn”, tên một chòm sao, một trong “nhị thập bát tú = 28 vì sao”. Từ hải Trung văn đại từ điển đều gọi “Thiên căn” là chòm sao “Đê”.
(b) Nguyên văn là “Nguyệt quật = hang trong trăng”, chỉ mặt trăng nói chung.

54. Lục thanh y cựu sắc;
55. Hoàng bạch bái tân niên.
Nước non (a) vẫn sắc xưa;
Già trẻ (b) mừng năm mới.
(a) Nguyên văn là “lục thanh = lục thủy thanh sơn = nước biếc non xanh”.
(b) Nguyên văn là “hoàng bạch = hoàng đồng bạch tẩu = trẻ thơ như chim non miệng vàng và cụ già tóc bạc”.

56. Nhất trần vô nhiễm sắc;
57. Tứ tự giai thường xuân.
Mảy bụi không chút bợn;
Bốn mùa thảy đều xuân.

58. Bình hồ trương nhật nguyệt;
59. Cố điện tiểu càn khôn.
Hồ phẳng ngày tháng dài;
Cõi xưa trời đất nhỏ.

60. Kính tự đình.
Đình kính trọng chữ viết (a).
(a) Nơi đốt những mẩu giấy có chữ Hán mà ngày trước được xem là chữ của thánh hiền, không thể đối xử như vật rác rưởi.

61. Văn quang xung Đẩu bắc;
62. Đình ảnh lạc hồ trung.
Ánh chữ xông Bắc đẩu;
Bóng đình ngả mặt hồ.

63. Hỏa trạch liên khai kim cổ mộng;
64. Kim môn chung hưởng thảo hoa hàn.
Nơi nhà lửa (a) hoa sen nở, xua tan cơn mê muội từ xưa tới nay;
Chốn nhà vàng (b) tiếng chuông vang, làm giá lạnh cả hoa lẫn cỏ.
(a) Phẩm Thí dụ ở Kinh Pháp hoa chép: “Tam giới không yên ổn, giống như ngôi nhà lửa (hỏa trạch), khổ ải chất đầy, thật đáng lo sợ, trong đó thường xuyên có sinh, lão, bệnh, tử, ưu hoạn, các loại lửa đó cứ thiêu đốt mãi không lúc nào thôi”.
(b) Kim môn: tên một cung điện nhà Hán, tên là “Kim mã môn”, cũng gọi là “Kim môn”.

65. Cô sơn mộc ấm tam thiên giới;
66. Chước thủy ba trừng cửu thập xuân.
Non côi cây rợp ba nghìn cõi (a);
Vốc nước sóng yên chín chục xuân (b).
(a) Ba nghìn cõi: tức “tam thiên giới” hay “tam thiên thế giới”, chữ nhà Phật, chỉ vũ trụ vô cùng rộng lớn.
(b) Chín chục xuân: chín chục ngày của mùa xuân.

67. Cao đê vận tống hoành giang điểu;
68. Hồng tử tần khai cách ngạn hoa.
Ngang nước thấp cao chim bay lượn;
Cách bờ hồng tía hoa nở đầy.

69. Miếu mạo sơn dung tương ẩn ước;
70. Thiên quang vân ảnh cộng bồi hồi.
Dáng miếu, hình non cùng thấp thoáng;
Bóng mây, ánh nắng quyện bồi hồi.

71. Kiếm hữu dư linh quang nhược thủy;
72. Văn tòng đại khối thọ như sơn.
Gươm rớt khí thiêng (a) ngời tựa nước;
Văn hòa trời đất thọ tày non.
(a) Nhắc tích gươm thiêng của Lê Lợi trả lại cho rùa thần ở dưới hồ.

73. Cảm huệ linh phương.
ứng cảm, ban cho cách chữa linh nghiệm (a).
(a) Có ý ca ngợi Lã Tổ (Lã Động Tân), một vị thần cũng được thờ ở đền Ngọc Sơn, được coi như có tài chữa bệnh.

74. Đạo hữu chủ trương Đẩu bắc văn minh chi tượng;
75. Nhân đồng chiêm ngưỡng Giao nam lễ nhạc chi đô.
Đạo có chủ trương, hình tượng sáng đẹp sao Bắc đẩu;
Người cùng chiêm ngưỡng, kinh đô lễ nhạc cõi Nam bang.

76. Khuê quang xạ Đẩu;
77. Văn đức tham thiên.
Ảnh sao Khuê (a) rọi chiếu sao Bắc đẩu (b);
Văn hóa đức giáo ngang với Trời.
(a) Sao Khuê: chủ về văn học
(b) Bắc đẩu: tượng trưng cho quyền lực tối cao, vì mọi sao khác đều chầu về Bắc đẩu.

78. Hồi thiên độ thế.
Xoay chuyển tình thế (a), cứu vớt đời (b).
(a) Nguyên văn là “Hồi thiên = xoay chuyển Trời”, ý nói xoay chuyển một tình thế cực kỳ khó khăn. Đường thư, Trương Huyền Tố truyện chép: “Huyền Tố giữ chức Cấp sự trung, Đường Thái Tông muốn khởi công xây dựng cung Lạc Dương, Huyền Tố lấy lý do tiết kiệm tiền của nới sức cho dân, làm tờ sớ dâng lên can ngăn vua, rốt cục Đường Thái Tông đã đình chỉ việc xây cất. Ngụy Trưng thấy thế tấm tắc khen rằng: “Trương Công luận sự, hữu hồi thiên chi lực = ông Trương bàn luận công việc, có sức mạnh chuyển xoay tình thế cực kỳ khó khăn”. Chữ “hồi thiên” ở đây không hề có nghĩa là “về trời”.
(b) Nguyên văn là “Độ thế = 1. Thoát khỏi cõi trần, thành tiên. 2. Cứu vớt đời (tiếng nhà Phật), đưa người đời qua bể khổ để sang cõi Niết Bàn Cực Lạc. Đây theo nghĩa thứ 2, đi liền với chữ “Hồi thiên”.

79. Sơn danh bất tại cao thủy linh bất tại thâm tự hữu chủ giả;
80. Thiên trụ lại dĩ tôn địa duy lại dĩ lập duy thử hạo nhiên.
Núi nổi tiếng không vì cao, nước linh thiêng không vì sâu (a), chính vì vốn có chủ;
Cột trời (b) nhờ đó mà cao vững, dải đất (c) nhờ đó mà bền chắc, toàn nhờ khí hạo nhiên (d).
(a) Cổ văn có câu: “Sơn bất tại cao, hữu tiên tắc danh; thủy bất tại thâm, hữu long tắc linh = núi không cần cao, có tiên ắt nổi tiếng; nước không cần sâu, có rồng ắt linh thiêng”.
(b) Theo sách Thần dị kinh, núi Côn Luân có cột cao chọc trời, gọi là cột trời (cột chống trời).
(c) Nguyên văn là “địa duy”. “Duy” là 4 giềng lớn, 4 dây chính ở 4 mép lưới. Người xưa quan niệm trời hình tròn, đất hình vuông, nên gọi là “địa duy” (đất hình lưới vuông). Dịch là “dải đất” cho dễ hiểu.
(d) Khí hạo nhiên: chữ trong sách Mạnh tử. “Hạo nhiên” là rất rộng lớn. Khí hạo nhiên là khí tốt lành rộng lớn, bao trùm cả vũ trụ và con người. Đó là sức sống của muôn vật. Riêng ở con người, đó là ý chí hướng về điều thiện.

81. Mặc tướng quần sinh;
82. Phồn hi vĩnh tích.
Ngầm giúp chúng sinh;
Mãi ban nhiều phúc.

83. Vị bỉnh đồ thư khai thái vận;
84. Đức lưu hãn mặc xán thiên chương.
Ngôi nắm giữ sách vở bản đồ, mở ra vận đẹp;
Đức thấm nhuần văn thơ từ phú, rạng rỡ nền trời (a).
(a) Nguyên văn là “thiên chương = thiên văn = vẻ sáng đẹp của nền trời”, chỉ những vật thể sáng đẹp trên trời như mặt trời, mặt trăng, sao.
Câu đối này ca ngợi thần Văn Xương thờ ở đền Ngọc Sơn. Văn Xương còn gọi là Tử Đồng Đế Quân.

85. Nhất tâm bạch quán vạn quang đán;
86. Tứ hải lương hồi cửu mộng thiên.
Một lòng trong trắng, xuyên suốt muôn buổi sớm sáng ngời;
Bốn biển yên lành, bừng tỉnh chín khoảng trời mộng mị (a).
(a) Vế trên khích lệ mỗi người giữ tấm lòng trong sạch, vế dưới cầu người trong bốn bể được yên lành, loại trừ mọi thứ mê muội. “Chín khoảng trời” (cửu thiên) gồm: trời ở giữa, 4 phương và 4 góc, tức toàn bộ thế giới.

87. Cửu thiên khai hóa.
Khai hóa khắp nơi (a)
(a) Khắp nơi: dịch thoát chữ “cửu thiên”.

88. Nhật lãng tinh huy bút nghiễn văn quang lưu thắng tích;
89. Loan phi hạc giáng hồ sơn địa tú uất linh thanh.
Sao tổ, trời quang, nghiên bút văn hay lưu thắng tích;
Loan bay, hạc giáng, núi hồ cảnh đẹp đượm linh thiêng.

90. Vạn cổ cương thường.
Phép tắc muôn đời.
91. Duy thánh bất tri duy thần bất trắc;
92. Tại thiên thành tượng tại địa thành hình.
Khó đoán được thần (a), khó hay được thánh;
Ở trời nên tượng (b), ở đất nên hình.
(a) Kinh dịch, Hệ từ thượng 1: “Âm dương bất trắc chi vị thần = điều không đoán được ở âm dương gọi là thần”.
(b) Tượng: vật không có hình dáng nhất định, như gió, nắng, không khí…

93. Trung,
 
94. Nghĩa.
 
95. Tiên tắc danh long tắc linh tự hữu chủ giả;
96. Trụ dĩ tôn duy dĩ lập duy thử hạo nhiên.
Tiên thì lừng, rồng thì thiêng, đều do tự có chủ;
Cột được trọng, giềng được lập, toàn nhờ khí hạo nhiên (a).
(a) Câu đối này lặp ý câu đối số 79 - 80.

97. Vạn kim bảo kiếm tàng thu thủy;
98. Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ.
Nghìn vàng gươm báu náu dưới nước thu (a);
Một tấm lòng thanh giữ trong bình ngọc (b).
(a) Ý nhắc tới truyền thuyết gươm báu của Lê Lợi trả lại cho rùa thần hẳn còn ẩn náu dưới hồ.
(b) Một tấm lòng thanh: nguyên văn là “băng tâm = bất nhiệt trung = không háo hức làm quan, không mơ màng danh lợi”. Bình ngọc: nguyên văn là “ngọc hồ = cao khiết = thanh cao”. Thơ Vương Xương Linh có câu: “Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ”; thơ Bào Chiếu có câu: “Thanh như ngọc hồ băng”, đều nói về tấm lòng thanh cao không màng danh lợi (theo Từ nguyên).
 
99. Đại trung dĩ hành hồ đại dũng;
100. Chí nghĩa nãi bản ư chí nhân.
Đại trung để làm việc đại dũng;
Chí nghĩa là gốc ở chí nhân (a).
(a) Trung và dũng, nghĩa và nhân là bốn đức lớn đi liền với nhau để tạo thành nền đạo đức hoàn chỉnh.

101. Hạo khí lăng tiêu.
Hạo khí ngất trời.

102. Xuân thu đại nghĩa;
103. Nhật nguyệt tinh trung.
Nghĩa lớn sách Xuân thu (a);
Lòng trung thuần nhất sáng như mặt trời mặt trăng (b).
(a) Sách Xuân thu: còn gọi là Kinh Xuân thu, tên cuốn sử nước Lỗ do Khổng Tử biên tập, trong đó đánh giá các sự kiện và hành vi lịch sử một cách đúng mực gọi là “bao” (khen) và “biếm” (chê), phân biệt rõ “chính” và “tà”. Đấy là ý nghĩa lớn của sách Xuân thu mà Quan Vũ rất tâm đắc.
(b) Câu này và câu trên đều có ý ca ngợi Quan Vũ, tướng giỏi thời Tam quốc, được gọi là Quan Đế, Võ Đế, thờ ở đền Ngọc Sơn.

104. Vũ lược luyện hùng binh Lục Thủy (a) nghìn thu ghi sử Việt;
105. Văn tài mưu thượng tướng Bạch Đằng một trận thắng quân Nguyên (b)
(a) Lục Thủy: tên Hồ Hoàn Kiếm thời cổ, nơi sắc nước bốn mùa đều xanh (xem Cổ tích và thắng cảnh Hà Nội, sđd. tr.74). Tương truyền đây cũng là chỗ Trần Hưng Đạo dùng để luyện tập thủy quân.
(b) Câu đối này nhắc đến sự nghiệp chống quân Nguyên bảo vệ đất nước của Trần Hưng Đạo, cũng được thờ ở đền Ngọc Sơn.

106. Vị quốc vị nhân dân văn vũ thánh thần lưu hiển hiệu;
107. Tại thượng tại tả hữu thông minh chính trực tán huyền cơ.
Vì đất nước, vì nhân dân, văn võ thánh thần lưu truyền tên hiển hách.
Ở bên trên, ở tả hữu, thẳng ngay sáng suốt giúp đỡ máy huyền vi (a).
(a) Máy huyền vi: qui luật huyền diệu của vũ trụ.

108. Ngọc truyền thố hiện vân vô tụ;
109. Kiếm thủy giao đằng bút hữu ba.
Ngự Xích thố (a) xuất hiện am Ngọc Tuyền (b), mây không hốc núi (c).
Đàn giao long nhảy rỡn hồ Hoàn Kiếm, bút nổi sóng cồn (d).
(a) Xích thố: tên con ngựa của Quan Vũ thời Tam quốc.
(b) Am Ngọc Tuyền: nơi Quan Vũ hiển thánh sau khi thất trận và bị Ngô Tôn Quyền giết.
(c) Bài phú Bạch vân chiếu xuân hải của Khương Công Phụ có câu: “Vân vô tâm dĩ xuất tụ = mây thanh thản bay ra khỏi hốc núi”.
(d) Bút nổi sóng cồn: phải chăng chỉ việc Quan Vũ giáng bút trong các buổi “phụ thơ tiên” ở đền Ngọc Sơn dưới thời phong kiến?

110. Thiên thượng nhân gian đồng trắc giáng;
111. Thánh văn thần vũ hợp thanh linh.
Thiên đình, cõi thế cùng lên xuống (a);
Văn thánh võ thần gộp tiếng thiêng.
(a) Lên xuống: nguyên văn là “trắc giáng”. Đây là chữ ở Kinh thi, Đại nhã: “Văn Vương trắc giáng, tại Đế tả hữu = Văn Vương lên xuống, ở bên phải bên trái Thượng Đế”. Trong câu đối, ý nói các vị thần khi lên trời, khi xuống trần cứu giúp người đời.

112. Thiên cổ vĩ nhân.
Vĩ nhân của muôn đời.

113. Ngọc quang chiếu dạ sơn tâm cổ;
114. Kiếm khí hoành thu thủy sắc thương.
Ánh ngọc đêm soi lòng núi cổ (a)
Hơi gươm thu tỏa sắc hồ xanh (b).
(a) Nhắc tới tên đền “Ngọc Sơn = núi ngọc”.
(b) Nhắc tới tên “Kiếm Thủy = Hồ Gươm”.

115. Nguyệt nhuận;
116. Nhật hoa.
Mặt trăng đằm thắm;
Mặt trời chói chang.

117. Thiên hà ngôn tai hiển đạo phi quan ngã bốc;
118. Thần nhất giả giã âm chất chỉ tại Trung kinh.
Trời có nói chi đâu (a), hiển đạo (b) nào do ta bói;
Thần trước sau nhất quán (c), âm chất (d) chỉ ở Trung kinh (e).
(a) Luận ngữ: “Thiên hà ngôn tai = Trời có nói chi đâu”, nói về quy luật tự nhiên, tự nó vận hành mà không cần ai điều khiển cả, ví như trời có tuyên bố gì đâu mà bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông cứ tuần tự đi rồi lại đến, không sai lẫn chút nào. ở câu đối này, muốn nhấn mạnh cái ý là Trời và Thần (ngày nay ta hiểu như quy luật khách quan) tuy không nói năng, tuyên bố gì cả, nhưng vẫn luôn luôn theo dõi từng hành vi thiện hoặc ác của con người để ban thưởng hoặc trừng phạt một cách thích đáng.
(b) Hiển đạo: chữ ở Kinh thư, Thái thệ hạ, có nghĩa là con đường hiển nhiên.
(c) Tả truyện, Trang Công năm thứ 32: “Thần thông minh chính trực nhi nhất giả giã = Thần sáng suốt ngay thẳng mà chuyên nhất không thiên vị”.
(d) Âm chất: công đức chỉ mình mình biết, nhưng vẫn tác động đến cuộc sống của chính mình, kể cả con cháu mình.
(e) Trung kinh: tên sách, được viết sau Hiếu kinh và nói về lòng trung chính, thành thực, vì người, vì nước./.

Nguồn: Tạp chí Hán Nôm số 1 năm 1991.



BAO GIỜ THỰC THI “CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH TRÊN BIỂN ĐÔNG”?

Hình chỉ có tính chất trang trí. Ảnh: Mai Kỳ

Câu lạc bộ Phaolô Nguyễn Văn Bình và Nhà Xuất bản Tri Thức.

THƯ MỜI

TỌA ĐÀM “CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH TRÊN BIỂN ĐÔNG”
             
Kính gửi : TS Nguyễn Xuân Diện

Trong thời gian gần đây, tình hình trên Biển Đông đang gia tăng chiều hướng nguy cơ, gây nhiều bức xúc trong dư luận nhân dân Việt Nam, trong khu vực và cả trên thế giới.

Để góp phần tiếp tục khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông và nhất là nhằm xây dựng và triển khai tinh thần tôn trọng sự thật và truyền thống hiếu hòa của Dân tộc Việt Nam, Câu lạc bộ Phaolô Nguyễn Văn Bình phối hợp cùng Nhà Xuất bản Tri Thức tổ chức Tọa đàm “CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH TRÊN BIỂN ĐÔNG”, do các nhà nghiên cứu về Biển Đông trình bày. 

Chúng tôi trân trọng kính mời TS Nguyễn Xuân Diện đến tham dự Tọa đàm này được tổ chức  vảo ngày 17-9-2011,  từ 8 giờ 00, tại 43 Nguyễn Thông, Quận 3, TP.HCM.

                       Rất hân hạnh được đón tiếp.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 28-08-2011
Tm Ban Tổ chức

                                                          
                                    Giám mục  Phaolô Nguyễn Thái Hợp
                                Chủ nhiệm CLB Phaolô Nguyễn Văn Bình

*
Câu lạc bộ Phaolô Nguyễn Văn Bình
THÔNG BÁO
Kính thưa Quý Diễn giả, Quý Khách mời, Quý Thành viên Câu lạc bộ và thân hữu,
Do yêu cầu của Ban Tôn giáo Chính phủ và Ban Dân tộc và Tôn giáo Thành phố Hồ Chí Minh, cuộc Tọa đàm “Công lý và Hòa bình trên Biển Đông”, dự trù tổ chức ngày 17/9, phải bị hủy bỏ.
Chúng tôi lấy làm tiếc một cơ hội góp phần khẳng định chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông đã phải bị bỏ qua nhưng chúng tôi tin rằng mọi người Việt Nam yêu nước sẽ tiếp tục hành động để Công lý và Hòa bình được thể hiện trên Biển Đông.
Chúng tôi hy vọng sẽ có thể công bố toàn bộ nội dung cuộc Tọa đàm này để Quý Vị được tường.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 15-9-2011
Câu lạc bộ Phaolô Nguyễn Văn Bình

Thứ Năm, 15 tháng 9, 2011

NGƯỜI TIỀN NHIỆM CỦA ÔNG TRẦN GIA THÁI, TGĐ ĐÀI TH HÀ NỘI

Thưa chư vị,

Nhân có vụ kiện Đài PT-TH Hà Nội, xin mời chư vị xem cuốn truyện tranh của tác giả Đào Quang Thép, Phó Tổng giám đốc (rồi Quyền Tổng Giám đốc) Đài Phát thanh Truyền hình Hà Nội. Tiền nhiệm của ông TGĐ Trần Gia Thái.

Thế mới biết, vị trí công tác không làm đẹp cho con người, mà chỉ có con người cụ thể mới làm đẹp được cho cái ghế của mình. Mới hay, việc dùng người, đã mỗi thời mỗi khác!

Minh họa cho truyện tranh: Một mưu toan thất bại, là Họa sĩ Nguyễn Thụ. Người biên tập là Đỗ Đức - một blogger nổi tiếng hiện nay.















Nguồn: vnmilitaryhistory.net
Nguồn: Cu Làng Cát-blog.

NHỮNG CUỐN SÁCH MỚI NHẤT TRÊN GIÁ

Lâm Khang thư viện vừa tiếp nhận các ấn phẩm quý báu
mà các tác giả gửi tặng. Chúng tôi chân thành cám ơn 
và xin trân trọng giới thiệu với chư vị 
.
 Tác giả Hiệp Võ gửi tặng


 Hai cuốn sách do TS Sử học Đinh Công Vĩ tặng

  TS Sử học Đinh Công Vĩ, người đồng hương Xứ Đoài
Sau 10 năm chăn bò ở Ba Vì và kéo thuyền trên sông Đà  ông mới được thi Đại học. 
Năm 1993, ông bảo vệ Luận án Tiến sĩ về Lê Quý Đôn
Đinh Công Vĩ là tác giả của các công trình, tác phẩm:
- Thảm án các công thần khai quốc đời Lê; - Phương pháp làm sử của Lê Quý Đôn
- Chuyện tình vua chúa hoàng tộc Việt Nam; - Bên lề chính sử (viết chung)
- Nguyễn Du - đời và tình; - Chuyện lạ về 12 con giáp

 GS. TS Trần Thị Băng Thanh và nhóm biên soạn tặng

Học giả Nguyễn Quảng Tuân tặng 
.
Nguyễn Xuân Diện-Blog hân hoan giới thiệu cùng chư vị

LỜI CẢNH BÁO CỦA TSUBOI

Lời cảnh báo của Tsuboi

SGTT.VN - Từ góc nhìn của một giáo sư lịch sử, chính trị và xã hội Đông Nam Á, GS Yoshiharu Tsuboi (đại học Waseda, Tokyo – Nhật Bản), tác giả cuốn Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa 1847 – 1885 (*) đưa ra cảnh báo: đừng lặp lại lịch sử hậu bán thế kỷ 19.

Đồng cảm với quá khứ

Tính thời sự của cuốn sách thu hút sự quan tâm của nhiều bạn trẻ. Ảnh: GS Tsuboi ký tặng tại cuộc toạ đàm
Chiều 9.9 vừa qua, khán phòng toạ đàm hơn 200 ghế của đại học Hoa Sen quá tải, nhiều sinh viên đến nghe buổi nói chuyện của GS Y. Tsuboi đã phải đứng ngoài hành lang lắng nghe câu chuyện đang “nóng” bên trong. Có lẽ, sức hấp dẫn lớn lao nhất, đó chính là: những câu chuyện trong trang sử luôn mới.

 Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa 1847 – 1885 trích từ luận án tiến sĩ đệ tam cấp của Y. Tsuboi tại đại học Paris, 1982, năm ông 34 tuổi. Bắt đầu nghiên cứu Việt Nam từ 1973, ông Y. Tsuboi nhận được lời khuyên của người đi trước: “Muốn nghiên cứu Việt Nam, hãy đến Pháp”. Tsuboi đã bỏ ra gần chục năm “lặn” vào các kho lưu trữ, thư viện tại Paris để xử lý hàng trăm tư liệu tham khảo tiếng Anh, Pháp, Trung, Nhật và gặp gỡ đối thoại với các nhà sử học, chỉ để tìm cho ra câu trả lời tại sao Việt Nam thời Tự Đức dễ dàng rơi vào tay thực dân Pháp?

Câu trả lời là: “Tự Đức đã không may mắn. Và có lẽ, bất cứ một nhà vua nào khác, nếu phải đương đầu với những áp đảo hung hãn từ ngoài như vậy, cũng không giữ nổi nền độc lập cho xứ sở” (trang 376). 

“Không may mắn” là một cách nói, nhưng công việc của nhà nghiên cứu là phải giải mã cho được những căn nguyên nội tại. Y. Tsuboi đưa ra những nguyên nhân khá rõ ràng: nền quân chủ dưới thời vua Tự Đức thiếu hẳn sự ủng hộ và cảm tình của dân chúng ; nền kinh tế đánh mất sự độc lập – ngoại thương phụ thuộc vào người Hoa, nền tảng tài chính của cả chế độ kinh tế bị suy kiệt, nhà vua chỉ còn cách tăng cường chế độ thuế thân và thuế ruộng đất thì gặp phải sự chống đối của văn thân và nhân dân; vì Tự Đức không dứt khoát trong chọn lựa đường lối chính trị – phải đối diện với di sản mà Gia Long để lại vừa bắt tay với Pháp, một đằng phải hoà hiếu với Trung Hoa để ổn định – Trung Hoa vừa như một kẻ thù luôn có khả năng gây hại vừa là chính thể mẫu mực để tham khảo phát triển. Nho giáo vẫn là giềng mối của hệ thống chính quyền và tổ chức xã hội trong khi thực tế “đối diện với Pháp” đang đòi hỏi một sự linh hoạt trong thể chế.

Một trong những “căn nguyên chính trị” trong thời Tự Đức được Y. Tsuboi phân tích rất kỹ: “Cũng như tất cả các vua Việt Nam khác, Tự Đức đã sống cách biệt dân chúng, ngoại trừ một đôi lần du hành ngắn ngủi trong vùng phụ cận Huế. Hẳn ông cũng biết, một đàng vua phải “yêu thương” dân như con, và đàng khác, triều đình không thể bỏ qua sự ủng hộ của tầng lớp văn thân. Nhưng khi có kẻ ngoại bang tới đánh phá xứ sở, ông lại coi quần chúng như gồm toàn “những kẻ khố rách” sẵn sàng theo phe địch, và ông không bao giờ chịu lắng nghe những đòi hỏi của dân chúng. Đàng khác, Tự Đức đã coi tầng lớp văn thân như một nhóm bất mãn, sai lầm và không hiểu ý tốt của nhà vua.

Tự Đức đã dựa trên thành phần xã hội nào để có thể đàn áp loạn văn thân năm 1874, và tăng 50% suất thuế tư điền năm 1875? Làm thế, ông mất hoàn toàn sự ủng hộ của tầng lớp văn thân, vì tưởng để giảm bớt chi phí của quân đội chính phủ, thì ông lại xúi văn thân tự võ trang… Tự Đức đã thử bù đắp vào sự yếu kém nội bộ đó bằng cách đánh nhiều ván bài trên bình diện ngoại giao. Một mặt, ông đã gởi nhiều phái bộ đi thương lượng tại Pháp và Sài Gòn nhằm lấy lại xứ Nam kỳ; mặt khác, ông vẫn gởi sứ bộ đều đặn đi Bắc Kinh để giữ hoà hiếu với Trung Hoa. Phải chăng khi tạo ra một tình thế quốc tế như vậy, Tự Đức có thể lách qua khỏi cơn nguy khốn và bảo vệ được nền độc lập của xứ sở bằng cái thế quân bình với hai cường quốc? Chắc là thế, song Tự Đức có trong tay những lực lượng cụ thể gì để có thể đi đến đích? Vì thiếu phương tiện từ bên trong, nên hoạt động ngoại giao của ông sẽ tạo ra sự tranh giành giữa hai cường quốc và kết thúc bằng một cuộc chiến mà chiến trường lại ở ngay trên đất nước Việt Nam” (trang 382 – 383).

Cảnh báo cho hiện tại

Cuốn sách cũng giúp người đọc nhìn lại vấn đề rất nhiều những trí thức có tầm nhìn rộng thời Nguyễn đã chết trong oan khuất, hoặc chịu án oan lịch sử như: Nguyễn Trường Tộ, Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương… 

Cái gọi là “tạng chất” của người Việt, được giáo sư Y. Tsuboi mổ xẻ trực tiếp, có thể xem là một cảnh báo của riêng ông: “Trong thời bình, người Việt Nam rất thiếu đoàn kết. Sự phân chia lợi ích nhóm làm tan rã sức mạnh quốc gia. Mặt khác, sức mạnh của trí thức chưa được tận dụng một cách có hiệu quả. Theo tôi, từ nay đến năm 2016 là một thời kỳ đặc biệt quan trọng của Việt Nam (...) Đọc lại lịch sử, tôi hy vọng các bạn sẽ khắc phục được những sai lầm của tiền nhân”.

Bài và ảnh: Nguyễn Vĩnh Nguyên

(*) Nguyễn Đình Đầu dịch, với sự cộng tác của Bùi Trân Phượng, Tăng Văn Hỷ, được xuất bản lần đầu năm 1990 bởi ban Khoa học xã hội Thành uỷ TP.HCM. Sách vừa được Nhã Nam & NXB Tri Thức in lại vào đầu năm nay.

GS Yoshiharu Tsuboi trả lời phóng viên SGTT

Nguồn tài liệu tham khảo trong cuốn Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa khá phong phú, song lại thiếu những tài liệu bản địa, như các châu bản thời Nguyễn. Trong tương lai, nếu các kho tư liệu này mở cửa, ông có tiếp tục trở lại với công trình này không?

Chắc chắn là có. Hiện nay, các châu bản đang được lưu trữ cẩn thận và nghiêm ngặt tại cục Lưu trữ quốc gia Việt Nam. Tôi vẫn thường xuyên theo dõi, liên lạc với họ để chờ cơ hội tiếp cận. Tôi nghĩ, giới nghiên cứu tại Việt Nam sẽ có may mắn đọc chúng sớm hơn tôi. Có thể nếu không trực tiếp được, thì thông qua họ, tôi sẽ tiếp tục công trình với những tư liệu bản địa mà với tôi, rất quan trọng.

Nếu như những dữ liệu từ châu bản làm đảo ngược mọi luận cứ trong cuốn sách thì sao? 

Nghiên cứu là tiếp tục phát hiện. Trong trường hợp đó, tôi sẽ bổ sung, viết tiếp, thậm chí viết lại. Tôi nghĩ đó mới là nghiên cứu khoa học thực sự.

Nguồn: SGTT.

Thứ Tư, 14 tháng 9, 2011

TGĐ CÔNG TY CỔ PHẦN VIỆT LONG ĐUỔI VIỆC NGƯỜI BIỂU TÌNH YÊU NƯỚC

Theo tin chúng tôi vừa nhận được, Anh Nguyễn Văn Phương (ảnh) - người thanh niên đọc Tuyên cáo tại Nhà hát lớn trong cuộc biểu tình yêu nước sáng ngày 3 tháng 7 năm 2011,  chính thức bị  Tổng Giám đốc Công ty Việt Long  đuổi việc.

Công ty Thương mại cổ phần điện máy Việt Long hiện có trụ sở tại 187 Giảng Võ, Hà Nội, và có siêu thị Điện máy Việt Long tại số 8 Quang Trung, quận Hà Đông, HN. Nguyễn Văn Phương làm việc tại siêu thị này từ 03 năm nay, và hiện có chức danh Phó phòng Kinh doanh.

Đây là trường hợp thứ 3, những người biểu tình yêu nước bị ép đến thôi việc. Trước đó Trịnh Hữu Long và Nguyễn Tiến Nam đều vì sức ép mà đã tự xin thôi việc để khỏi ảnh hưởng đến công ty. Ba thanh niên này, cũng đã bị 3 người chủ nhà trọ yêu cầu chấm dứt hợp đồng và chuyển đi nơi khác. Trịnh Hữu Long phải chuyển nhà lúc 21h đêm 26 tháng 8 năm 2011. Hai trường hợp Trịnh Hữu Long và Nguyễn Tiến Nam bị ép đến thôi việc và bị ép buộc dời nhà trọ đã được tôi thông báo tới GĐ Công an Tp Hà Nội trong cuộc gặp tại UBND Tp sáng 27.8.2011.

Ông Phí Đức Lực, Phó TGĐ của công ty Việt Long (ông Lực là chồng của bà Tổng Giám đốc Việt Long), nơi Phương làm việc đã nhắn cho Phương Bích (Đặng Bích Phượng), bạn cũ của ông rằng: Sáng nay họp quyết liệt về việc của Phương. Tình hình của Phương cũng phức tạp lắm Phượng ạ. Bên Công an từ Công an Phường, công an Quận, công an Thành phố suốt ngày làm việc với Ban Kiểm soát và tổ chức của Việt Long yêu cầu cung cấp mọi thông tin của Phương hàng ngày hàng giờ...

Chiều qua, ngồi cafe với các anh em nhà báo và luật sư, Phương cho biết đã liên lạc với các nhân viên an ninh đã từng gặp gỡ, theo dõi Phương suốt mấy tháng qua để xác minh thông tin, thì được biết bên an ninh không hề gây sức ép để Công ty Việt Long đuổi việc Nguyễn Văn Phương.

Nếu sự việc đúng như vậy, thì Phó TGĐ Việt Long đã đặt điều cho công an Hà Nội, nhằm che giấu một điều gì khuất tất tại công ty. Vì, được biết Giám đốc của Phương thì kiên quyết đuổi việc Phương, trong khi ông Lực là Phó TGĐ thì đánh giá tốt về Phương và không muốn để Phương ra đi.

Sáng nay, Phương đã làm việc với Bà TGĐ Công ty Việt Long, không chấp nhận việc bị ép viết đơn xin thôi việc, chỉ chấp nhận để công ty Việt Long đơn phương chấm dứt hợp đồng. Phương đề nghị Công ty Việt Long giải quyết mọi việc theo luật định. Kết quả, chúng tôi sẽ thông báo tại đây.

Được biết, các luật sư cũng đã sẵn sàng vào cuộc khi có yêu cầu của Phương.

Tối nay, tôi sẽ gửi thư cho họ hàng và bạn bè đề nghị ngưng mua hàng và giao dịch với hệ thống bán hàng của Công ty Thương mại cổ phần điện máy Việt Long.
Nguyễn Xuân Diện

Dưới đây là lời tâm sự của Phương Bích
Làm sao tôi lại nói đến những chuyện này thế nhỉ?
....
Chỉ tại vì tôi buồn quá. Tôi nghe thấy cháu Phương (người đọc tuyên cáo) nói về nguy cơ mất việc từ hôm 17/7. Sau này tình cờ biết được sếp tổng của Phương là bạn học cũ của tôi. Tôi mừng lắm, nghĩ thế là phen này có cơ hội ra tay nghĩa hiệp, “Giúp một người phúc đẳng hằng sa” mà. Nhưng Phương nói rằng hiện tại công ty vẫn chưa biết cháu đi biểu tình, khi nào cần cháu sẽ nhờ tôi nói giúp.

Bẵng đi một thời gian, đến hôm vừa rồi tôi nghe thấy người khác chứ không phải là Phương, nói với tôi rằng Phương sắp bị đuổi việc. Ngay lập tức tôi gọi cho anh bạn học cũ.

Chuyện tưởng đơn giản, chỉ cần cháu Phương viết giấy cam kết không đi biểu tình nữa là xong. Nay mai có khi nhà nước khuyến khích hô hào, giống như việc sáng đúng, chiều sai, sáng mai lại đúng thì cũng chả đi nữa – chán rồi.

Ngồi nói chuyện hơn tiếng đồng hồ, biết cháu Phương là phó phòng kinh doanh, làm việc tốt, được anh em quý mến. Anh bạn tôi bật loa điện thoại khi nói chuyện với cậu trưởng phòng của cháu Phương, để cho tôi cùng nghe.

Tôi không tranh luận với cậu bạn quan điểm về chuyện biểu tình, người ta là dân làm ăn, né tránh chuyện bị làm phiền phức là điều dễ hiểu. Nhưng tay giám đốc dưới quyền thì cứ khăng khăng là Phương vẫn có mặt trên facebook thì chứng tỏ cháu nó vẫn giao du với cái nhóm biểu tình. Ô hay, thế lý do chính của các ông là gì? Hay là còn cần thêm cả cái máy đọc ý nghĩ để cấm luôn thể?

Nhưng nói chung là cậu bạn tôi vẫn tỏ ý ủng hộ, người làm kinh doanh bao giờ cũng muốn sử dụng những người có năng lực. Tôi tin tưởng lắm, và cũng cảm thấy oách khi mình có một thằng bạn học làm to, có quyền này quyền nọ…

Niềm vui ngắn chẳng tày gang, ngày hôm sau khi vào facebook, tôi đọc thấy thông tin cháu Phương vẫn sẽ bị thôi việc. Thế là thế nào?

Tôi nhắn một tin ngắn cho cậu bạn. Cậu ta trả lời hôm nay làm việc rất quyết liệt với các bộ phận. Hóa ra việc của cháu Phương phức tạp lắm, từ công an phường đến công an quận, thành phố suốt ngày làm việc với bên tổ chức, yêu cầu cung cấp thông tin về Phương hàng ngày, hàng giờ. Rồi đối thủ cạnh tranh sẽ nhân đó làm ảnh hưởng đến uy tín của công ty. Vì vậy cậu ta nói cứ để Phương nghỉ một thời gian rồi hãy quay lại làm.

Tôi hỏi cháu Phương sự thể thế nào. Cháu nói họ không đuổi việc, nhưng thuyết phục (hay ép cũng vậy thôi) cháu tự viết đơn xin thôi việc.

Tôi thấy xấu hổ quá, hóa ra cái oai của tôi là oai hão. Nhưng cái chính làm tôi buồn nhất là không giúp được cháu Phương. Nếu thâm tâm họ đã e ngại thì cố đấm ăn xôi cũng chẳng để làm gì, thế mà tôi cứ tưởng họ phải bảo vệ bằng được người mà họ cho là tốt.

Giống như ông tổ phó tổ dân phố chỗ tôi ở - người trả lời phỏng vấn của báo ANTĐ đòi kiên quyết nghiệm trị tôi, khi tôi bị bắt vì đi biểu tình chống TQ - trông thấy tôi cứ cười cầu hòa. Ông ấy bản chất thì tốt, trước chú cháu vẫn quý hóa nhau lắm. Chỉ mỗi tội ông ấy nhận thức không đầy đủ, cái gì cũng sợ, chỉ được mỗi cái nhiệt tình. Ông ấy vốn không có lương hưu, nên phần nào bà con cũng muốn bầu ông ấy vào tổ dân phố để tạo điều kiện cho ông ấy có chút thu nhập. Nhưng người ta vẫn bảo ngu dốt cộng với nhiệt tình thành ra phá hoại. Gặp tôi, ông ấy cứ loay hoay không biết nói thế nào, chỉ nói tôi hãy thông cảm cho ông ấy. Tôi chỉ bảo ông ấy nên nói đúng sự thật, nói đúng với lương tâm mình, chứ đừng nói để đẹp lòng ai đó. Tôi sẽ in bài thơ “Lời mẹ dặn” của cố nhà thơ Phùng Quán tặng ông ấy, hy vọng ông ấy hiểu được phần nào chủ ý của bài thơ.

Nghe tin những người biểu tình yêu nước lần lượt bị ép thôi việc, bị chủ nhà trọ từ chối không cho thuê, anh em, bạn bè đều hết sức phẫn nộ. Trước đó là Trịnh Hữu Long, Nguyễn Tiến Nam đều đã bị ép thôi việc và chuyển chỗ ở không biết đã mấy lần.

TIN MỚI NHẬN: HÒA THƯỢNG THÍCH HỌC TOÁN ĐÃ MỞ CỬA CHÙA

 

 

 

 Loa loa loa loa...

Thiện nam tín nữ gần xa

hãy nghe loan báo

Hòa thượng Thích Học Toán 

(tục danh: Ngô Bảo Châu) 

đã mở cửa chùa....

Loa loa....loa...loa...

----------------------------------------- 

 

Dưới đây là Lời mở của Hòa thượng:

Chuyện dang dở

Trong cuộc đời mình, mỗi chúng ta thường xuyên phải đối mặt với lựa chọn : tiếp tục bấu víu vào những kế hoạch còn dang dở hay là buông cho nó trôi đi theo dòng chảy của thời gian. Duy trì cái blog Thích Học Toán là một trong những chuyện như thế.

Có bao nhiêu thứ với ta là gắn bó nhưng ta vẫn phải coi nó như vĩnh viễn thuộc về miền của ký ức. Sức có hạn, nếu trái tim không để những thứ nặng nề ở lại phía sau thì đôi chân làm sao mà “rảo bước với thời gian”.

Nhưng tình thân của nhiều bạn đọc với blog Thích Học Toán đã làm cho người coi chùa ấm lòng. Hôm nay blog được mở lại để đáp lại cái tình đó. Nhưng chúng ta sẽ giữ gìn để nó không lại trở thành một hòn đá níu bước chân ta.

Sổ tay Thích Học Toán không nhận nhận xét của độc gỉả. Quả cũng hơi tiếc vì nhận xét của độc giả là phần thưởng lớn nhất cho người viết blog. Nhưng có một số bạn đọc nhầm lẫn giữa nhận xét và tranh cãi, còn chủ blog thì không thích tranh cãi. Người khôn chỉ cần nói với nhau một lời là hiểu.

Một chuyện nhỏ dang dở khác mà cũng nhân tiện đây ta cho vĩnh viễn đi về qua khứ. Dưới đây là một bài phỏng vấn do TT Thích Nhật Từ đề nghị cho báo Đạo Phật ngày nay. Không biết vì lý do gì mà cuối cùng hình như không được in. Chép lại đây có lẽ là thích hợp nhất. Dưới đây là toàn văn bài phỏng vấn, ĐPNN (Đạo Phật ngày nay) đặt câu hỏi, NBC (Ngô Bảo Châu) trả lời. 

**********
ĐPNN: Sau khi được bổ nhiệm là giám đốc khoa học của Viện nghiên cứu cao cấp về Toán từ ngày 9-3-2011, được biết đây là mùa hè đầu tiên, GS làm việc tại Việt Nam. Với cương vị này, trách nhiệm và chiến lược của GS trong việc phát triển toán học tại nước nhà ra sao? Những khó khăn nếu có?

NBC: Chào thầy Thích Nhật Từ. Vâng thưa thầy, hè năm nay Viện nghiên cứu cao cấp về Toán (VIASM) đã có những hoạt động khoa học đầu tiên. Bên cạnh việc cùng nhau tìm hiểu một số vấn đề toán học ít được nghiên cứu ở Việt Nam, chúng tôi cố gắng tạo ra một nếp làm việc cho những hoạt động khoa học khác của VIASM sau này. Tất nhiên là vạn sự khởi đầu nan, nhưng tôi rất hy vọng VIASM sẽ là một nguồn sức sống mới cho toán học Việt Nam.

ĐPNN: GS có phải là Phật tử? Việc tìm hiểu về đạo Phật của GS thế nào?

NBC: Gia đình tôi theo Phật nhưng tôi không phải là phật tử theo nghĩa toàn vẹn nhất, mặc dù có lẽ văn hóa Phật giáo có thấm sâu vào con người tôi như nhiều người Việt nam khác.

ĐPNN: Đạo Phật đã ảnh hưởng thế nào đối với cuộc sống của GS?

NBC: Có lẽ đó là sự nhận thức sâu sắc về giá trị của cuộc sống của con người cũng như của mọi sinh linh từ đó dẫn đến sự trân trọng cuộc sống của người khác và của chính mình.

Có lẽ đó còn là một thái độ tương đối bình thản trước mọi biến cố của cuộc sống. Thường thì người ta đạt được sự bình thản này sau khi một phần lớn của đời mình đã trôi qua, văn hóa Phật giáo có thể giúp ta bình thản ngay cả khi một phần lớn của cuộc đời có lẽ còn ở phía trước.

Có lẽ sự nhận thức về tính vô thường của thế giới và của cả con người đã giúp tôi rất nhiều để có một sự cân bằng trong cuộc sống. Một bên ta không thể buông xuôi trách nhiệm với xã hội, với những người thân thiết, với bản thân mình, một bên ta vẫn hiểu rằng cái quan trọng ngày hôm nay, ngày mai có thể sẽ không còn quan trọng nữa.

ĐPNN: Giáo sư đã từng đọc kinh Phật? Nếu có thì đó là kinh gì? Ảnh hưởng của bài kinh đó đối với cuộc sống của giáo sư thế nào?

NBC: Tôi được đọc kinh phật mỗi lần đến thăm bà ngoại tôi. Ngoại tôi tụng kinh hàng ngày. Khi còn là sinh viên tôi có đọc một số sách về lịch sử Phật giáo.

Trải nghiệm quan trọng nhất của tôi với Phật giáo là lần đi thăm di tích Ajanta bên Ấn độ. Đó là những hang đá nơi những người tu hành đã sống từ thế kỷ thứ sáu. Những bức bích họa rất lớn trên vách hang miêu tả cuộc đời của Thích Ca Mầu Ni đã làm tôi xúc động đến ứa nước mắt.

ĐPNN: Là một nhà khoa học toán, giáo sư đánh giá thế nào về các điều minh triết Phật dạy về con người và vũ trụ?

NBC: Triết lý Phật giáo cho con người một nhân sinh quan rộng rãi, giải phóng nhiều định kiến. Đấy là một tố chất cơ bản của nhà khoa học.

Có những nhà khoa học có uy tín đi tìm những điểm chung giữa triết lý tôn giáo trong đó có Phật giáo và Cơ đốc giáo và khoa học hiện đại. Cá nhân tôi thấy những cố gắng này có phần khiên cưỡng.

ĐPNN: Khi tự đặt cho mình biệt hiệu “Hòa thượng Thích Học Toán” hẳn giáo sư đã thể hiện phần nào thiện cảm với Phật giáo, cụ thể hơn là tu sĩ Phật giáo? Ý tưởng của việc chơi chữ này là gì?

NBC: Công việc nghiên cứu khoa học có nhiều điểm chung với cuộc sống của những nhà tu hành. Nghiên cứu khoa học cơ bản cũng có tính thoát ly khỏi cuộc sống trần tục. Tôi chọn biệt danh “Hòa thượng Thích Học Toán” để cho trò chuyện toán học trên blog được thân thiện hơn, để câu chuyện toán học thoát ra khỏi hình thức phổ biến khoa học. Sau khi một số Phật tử có nhắn với tôi không nên đùa với chức danh Hòa thượng, tôi cũng không dùng nó nữa. Tôi cũng không có ý tạo thêm những sự bực bội không cần thiết.

ĐPNN: Gần đây, Giáo sư đặt trang blog cá nhân (thichhoctoan.wordpress.com) ở chế độ riêng tư, một hình thức của đóng cửa đối với độc giả quý mến giáo sư? Đâu là lý do cho việc này?

NBC: Sau sự kiện giải thưởng Fields, blog của tôi có khá nhiều người đọc. Tôi nhận ra rằng cách viết hài hước mà tôi chọn cho blog cũ nay không còn phù hợp nữa. Tôi vẫn giữ ý định mở lại một trang blog mới và viết lại nhiều bài theo một phong cách nghiêm túc và có hệ thống hơn.

ĐPNN: Là người sống và làm việc tại Pháp, trung tâm của văn minh châu Âu và hiện nay giảng dạy tại đại học Chicago, Hoa Kỳ, giáo sư có suy nghĩ gì về mô hình giáo dục đại học Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa?

NBC: Có một khoảng cách khá lớn về chất lượng giữa giáo dục đại học ở Việt Nam và ở các nước phát triển. Vì dư luận xã hội đã quá tiêu cực với chất lượng giáo dục cho nên tôi thấy không cần phân tích thêm. Cái cần và khó hơn nhiều là tìm ra giải pháp. Có lẽ giải pháp tốt nhất là để cho mỗi ngôi trường, mỗi người thầy tìm ra giải pháp riêng cho mình. Nói cách khác là trường đại học và các giáo sư đại học cần được chủ động hơn trong chương trình và qui chế tuyển sinh. Bên cạnh đó, cơ quan quản lý cần làm thêm nhiều điều tra để so sách chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học giữa các trường để dựa vào đó mà có chính sách đầu tư hỗ trợ. Những thông tin này cũng cần được công bố rộng rãi để học sinh sinh viên cũng như phụ huynh có thông tin chính xác hơn cho việc chọn trường học. Việc nới quản lý từ trung ương để tăng tính chủ động cho những người trực tiếp làm công việc đào tạo và nghien cứu có thể dẫn đến bất cập ở chỗ này chỗ khác, nhưng tôi tin vào khả năng tự điều chỉnh của cuộc sống. Sự tự điều chỉnh sẽ nhanh hơn nếu thông tin được rộng đường.

ĐPNN: Toán học có thể giúp gì cho việc quy hoạch đô thị Việt Nam? Kinh nghiệm của Pháp và Mỹ trong lãnh vực này thế nào?

NBC: Ở nước ta, việc quy hoạch giao thông trong các đô thị vẫn dựa nhiều vào cảm tính, nên hay thay đổi. Những hệ thống có độ phức tạp cao như giao thông đô thị thực ra rất cần được thử nghiệm và thiết kế dựa trên những mô hình toán học.

ĐPNN: Là người lập gia đình và có con ở tuổi đôi mươi, đâu là bí quyết duy trì “hạnh phúc gia đình” của giáo sư sau gần 20 năm chung sống?

NBC: Thưa thầy, cuộc sống gia đình nào cũng có lúc sóng gió. Để sống với nhau, mỗi người cần hiểu những người mình yêu để mà sống vui với chính con người họ. Mỗi gia đình còn có một động lực rất lớn để tồn tại đó là con cái và việc nuôi dưỡng, giáo dục con cái.

ĐPNN: Tháng bảy trong Phật giáo là mùa báo hiếu công ân sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ như hai vị Phật trong nhà, Gs có thể chia sẻ vài kỷ niệm đẹp mà hai đấng sinh thành đã giành cho Gs thời trẻ?

NBC: Cha mẹ tôi luôn dành hết cho tôi mọi sự yêu thương, ưu tiên việc nuôi dưỡng giáo tục tôi hơn tất cả. Vợ chồng tôi cũng cố gắng làm như vậy với các con, nhưng chắc chắn là không thể được như ông bà.

Khi còn nhỏ, mẹ tôi dậy tôi rằng xấu nhất là nói dối. Bây giờ tôi vẫn tin và cũng dậy các con tôi như thế.

ĐPNN: Với vai trò làm cha của ba đứa con hiếu thảo và thành công, xin GS chia sẻ kinh nghiệm làm cha của mình?

NBC: Tôi không nghĩ các con tôi đặc biệt thành công hoặc là mình là một người bố kiểu mẫu để có thể tự tin chia sẻ kinh nghiệm với người khác. Công việc bận rộn không cho tôi có nhiều thời gian để gần gũi với con cái như tôi mong muốn mà thời gian là cái mà trẻ nhỏ cần nhất ở cha mẹ. Có lẽ người lớn nên bớt thời gian xem TV, lướt web, tụ tập bạn bè để có thêm thời gian chơi với con, học với con, cùng đọc sách với con. Những cái đó có ích cho trẻ hơn là việc bỏ tiền ra cho con đi học thêm hay những khóa rèn luyện “kỹ năng sống”.

ĐPNN: Theo GS, hạnh phúc là gì? Và đâu là cách thức giáo sư giữ gìn và phát triển hạnh phúc có được?

NBC: Đối với tôi, cái hạnh phúc lớn nhất là cảm giác mình đang sống. Cảm giác đó bao gồm cả vị ngọt và vị đắng. Nó xuất phát quan hệ với những người thân thiết, bạn bè, công việc và xã hội, từ miếng cơm ta ăn, từ miếng nước ta uống, từ không khí ta đang thở.

Để có hạnh phúc, có lẽ không có cách nào khác là yêu cuộc sống như chính nó. Để bất hạnh, có lẽ không có cách nào tốt hơn là đi đuổi theo những ảo ảnh.

ĐPNN: Theo GS, “để sống một cuộc sống có ý nghĩa,” người ta phải làm gì?

NBC: Tôi e mình không đủ thông tuệ để trả lời câu hỏi này của thầy một cách đầy đủ.  Phần nhỏ của câu trả lời mà tôi biết là để sống một cuộc sống có ý nghĩa, ta nên tránh làm những việc vô nghĩa.

Nguồn: Blog Thích Học Toán.

BUỔI LÀM VIỆC THỨ 2 VỚI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỐNG ĐA

Thưa chư vị,
Theo lời hẹn của ông Thẩm phán Tòa án Nhân dân quận Đống Đa, 10h00 sáng nay (14.9.2011) các ông Nguyễn Đăng Quang, Lê Dũng đại diện các nguyên đơn đã đến Tòa để nhận văn bản hướng dẫn (yêu cầu bổ sung hồ sơ).

Dưới đây là toàn văn Thông báo về yêu cầu bổ sung tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện:



Nguyễn Xuân Diện - Blog kính báo!

Và xin có mấy lời rằng:

Thưa ông Thẩm phán, chúng tôi chẳng cần khiếu nại đến cơ quan nào nữa. Chúng tôi kiện! Chúng tôi đã gửi thư yêu cầu Đài PT-TH HN xin lỗi và cải chính, lại đến tận Đài để ông Tổng Giám đốc xem mặt chúng tôi rồi. Hôm ấy ông lại đi xuống Phòng, cho chú Phó Chánh VP ra tiếp ở phòng thường trực. Ông Tổng Thái cũng đã giả nhời bằng văn bản - cái văn bản ấy nó rất "văn bẩn" khiến chúng tôi không chịu được, đành đâm đơn kiện. 

Cấp trên của Đài ư? Chúng tôi cũng đã được gặp ông Phạm Quang Nghị, Bí thư Thành ủy HN. Ông Phạm Quang Nghị đã khẳng định với chúng tôi rằng: "Không có bất cứ một ai [quan chức lãnh đạo] ở Tp HN quy kết những người biểu tình là phản động. Không có ai chỉ đạo các cơ quan báo chí ở Hà Nội quy kết những người biểu tình các anh là phản động"

Kiện là kiện. Thắng thua chưa biết, nhưng bây giờ cả nước, thậm chí cả nhân loại tiến bộ người ta đang theo dõi vụ này. Ông làm thế nào thì làm, đừng làm hại đến thanh danh của nhà nước Việt Nam, đến chính quyền Hà Nội và đừng làm tổn hại đến những điều linh thiêng của dân tộc!


CUNG THIẾU NHI HÀ NỘI ĐÃ BA NĂM KHÔNG TREO ĐÈN TRUNG THU

Đèn Trung thu
Nguyễn Tiến Dũng

Đã từ lâu, cứ đến Tết Trung thu thì Cung Thiếu nhi Hà Nội lại được trang hoàng rực rỡ với những chiếc đèn ông sao, đèn thiềm thừ, đèn cá, tôm, cua, rùa, thỏ, hoa sen... Năm thì có thêm đèn Tháp Rùa, năm thì có đèn Khuê Văn Các, năm thì có đèn con rồng... Tối Trung thu, những chiếc đèn lung linh toả sáng. Những chiếc đèn nhiều hình thù, nhiều màu sắc được trang điểm là những hoạ tiết trang trí được trổ bằng giấy màu, giấy trang kim óng ánh thật đẹp mắt. Các em thiếu nhi thủ đô thích thú, hân hoan ngắm nhìn, người ta thầm thán phục bàn tay khéo léo của những giáo viên mỹ thuật Cung Thiếu nhi Hà Nội. Từ mấy chục năm nay, việc treo đèn trung thu trong dịp tết thiếu nhi này đã trở thành truyền thống ở Cung Thiếu nhi... Thời điểm này, nơi đây đã trở thành một không gian văn hoá đặc sắc của thủ đô.

Thật tiếc, từ ba năm nay, việc treo đèn này không được thực hiện nữa vì muốn đổi mới. Cũng không phải do vấn đề kinh phí, vì thực tế là chi phí cho trang trí của những năm sau này không giảm hơn. Bây giờ chúng ta có một khung cảnh na ná như ở đâu đấy, một thời điểm nào đấy mà không cần là Tết Trung thu.

Mong đến một Tết Trung thu, thiếu nhi thủ đô lại được đến Cung Thiếu nhi HN để ngắm nhìn những chiếc đèn Trung thu đẹp đẽ và rực rỡ trong không gian kỳ ảo của lễ hội giành cho thiếu nhi.

Tôi cũng mong sẽ có một đêm trung thu, thành phố sẽ tổ chức múa rồng, múa sư tử và rước đèn vòng quanh Hồ Gươm - có những chiếc đèn thật to, thật đẹp, thật rực rỡ để phục vụ thiếu nhi, để các em được tiếp cận với mỹ thuật truyền thống, để góp phần bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống và để thiếu nhi Hà Nội không chỉ biết có mỗi đồ chơi Trung Quốc, đèn lồng Trung Quốc.
N.T.D