Thứ Năm, 9 tháng 6, 2011

NGUYÊN NGỌC: ĐÔI ĐIỀU VỀ ĐÔ ĐỐC GIÁP VĂN CƯƠNG

Đôi điều về Đô đốc Giáp Văn Cương
Nguyên Ngọc

Tôi được đọc trên Blog của anh Nguyễn Xuân Diện một bài cảm động của Xuân Ba viết về đô đốc Giáp Văn Cương. Đấy là người tôi có may mắn được biết và quen, trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Tôi xin kể một ít kỷ niệm về ông, mong cung cấp thêm cho các bạn quan tâm đôi nét về người anh hùng này.

Trước hết xin nói rõ: có bạn trong một comment hỏi có phải đây cũng chính là người từng nổi tiếng trong một trận đánh ở núi Non Nước, Ninh Bình thời kháng chiến chống Pháp? Thưa không, người từng đánh trận Ninh Bình và đã trở thành chiến sĩ thi đua toàn quốc trong đại hội thi đua năm 1951 là Giáp Văn Khương, còn vị đô đốc sau này của chúng ta là Giáp Văn Cương; có lần tôi đã hỏi ông hai người có họ hàng gì với nhau không, ông bảo không, tên hơi gần giống nhau chỉ là ngẫu nhiên. 

Tôi được gặp ông lần đầu là ở Nam Tây Nguyên năm 1951, trong một trận đánh đồn không thành vì kế hoạch thay đổi vào phút cuối. Chính trong lần đó, trên đường rút về, ông đã kể với tôi trước Cách mạng tháng Tám ông từng làm xếp ga Diêu Trì,  phía nam Quy Nhơn, một ga nhỏ nhưng quan trọng vì là đề pô, nơi tập trung và sửa chữa các đầu máy và toa xe cho cả một cung đường lớn, hình như đến bây giờ vẫn vậy. Ngay từ hồi đó, ông đã bắt liên lạc với tổ chức cộng sản, tham gia hoạt động bí mật. Và trở thành chỉ huy quân đội ngay khi cuộc chiến chống Pháp bắt đầu.

Tháng 12 năm 1946, toàn quốc kháng chiến bùng nổ, ông là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 19 nổi tiếng trong cuộc chiến giữ thành phố Đà nẳng, sau đó rút lên chiến đấu trên đèo Hải Vân. Chính trên ngọn đèo này, cuối năm 1946, tiểu đoàn 19 của ông đã lập một chiến công lừng lẫy, diệt cả hai đoàn ô tô và tàu hỏa quân sự lớn của Pháp từ Huế vào và từ Đà Nẵng ra, giết chết viên quan năm Roger. Trận này Giáp Văn Công được tặng huân chương Quân công hạng nhì, và người chiến sĩ đã trực tiếp đâm chết Roger bằng một cây dáo tre được tặng huân chương Quân công hạng ba. Người ta bảo đấy là hai người đầu tiên trong quân đội ta được tặng huân chương Quân công. Trên đèo Hải Vân nay vẫn còn một chiếc cầu gọi là cầu Roger ghi dấu chiến công anh hùng này …

Năm 1954, tôi lại được gặp ông trên Tây Nguyên, ở An Khê. Tháng 7 năm đó, lực lượng Khu 5 đánh một trận lớn ở Đak Pơ trên đường 19 từ An Khê về Pleiku, tiêu diệt hoàn toàn Binh đoàn cơ động tinh nhuệ GM 100 của Pháp vừa rút ở Triều Tiên về. Thực ra trước trận tiêu diệt GM 100, ta đã đánh một số trận nhỏ ở khu vực này, thăm dò và kéo địch ra khỏi An Khê. Trong một trận đánh như vậy, tôi đi cùng Giáp Văn Cương, với cương vị là phóng viên mặt trận. Ông bảo tôi ngồi cạnh ông suốt trận, bắt được tên lính Pháp nào ông giao cho tôi thẩm vấn ngay tại chỗ để biết chúng thuộc đơn vị nào, động tĩnh của lực lượng địch ở An Khê ra sao. Trận đánh không lớn nhưng rất ác liệt, kéo dài từ xế chiều cho đến đêm khá khuya. Cuối cùng địch dùng máy bay ném bom na pan, đốt cháy rực tất cả các đồi tranh trên trận địa, liệt sĩ và cả thương binh của ta đều bị đốt cháy. Tan trận, ông bảo tôi: Bây giờ mình nhờ cậu một việc: anh cán bộ phụ trách công tác thương binh liệt sĩ bổng lăn ra ốm. Cậu giúp tớ đêm nay lo chuyện chôn cất liệt sĩ. Giao cho cậu một tiểu đội dân công. Được không? Tôi trả lời anh: Được. Đêm ấy, cùng một tiểu đội dân công, chúng tôi đào huyệt, khâm liệm (đúng ra là gói xác các liệt sĩ trong các cuộn vải ta) và chôn cất chu đáo 11 liệt sĩ, tất cả đều bị chết cháy. Mờ sáng thì xong, tôi cắm cọc đánh dấu từng ngôi mộ, và vẻ sơ đồ mộ chí cẩn thận, đem về nộp cho ông. Suốt ba ngày sau, tôi không sao nuốt nổi một miếng cơm: cứ đưa hai bàn tay lên lại nghe nồng nặc mùi thịt người cháy. Ông Cương biết điều đó. Ông bảo: gắng mà ăn đi một chút, còn đánh nhau nữa mà … Chúng tôi thân nhau từ đó, dù ông ở cương vị chỉ huy cao hơn tôi nhiều. Những trận đánh của ông ở đâu đó, thỉnh thoảng ông viết những bức thư ngắn, “khoe” với tôi...

Chống Mỹ, chúng tôi lại gặp nhau ở chiến trường Khu 5. Có lần tôi đang ở chiến trường Quảng Đà thì nhận được một mẫu thư của ông kể: “Tớ vừa đánh một trận diệt bọn Nam Triều Tiên ở Đak Pơ , đúng ngay chỗ chúng mình diệt bọn GM 100 hồi trước, cậu còn nhớ không? Hai cuộc kháng chiến, hai trận đánh lớn cùng một chỗ, hay quá!”.

Chuẩn bị Tổng tấn công Xuân Mậu Thân, Khu 5 bị một tổn thất rất nặng nề. Trọng điểm của Khu là đánh vào Đà Nẵng. Trước đó ta chủ trương tấn công quận lỵ Quế Sơn, cách Đà nẵng khoảng 40 km về tây nam, kéo bọn lữ đoàn 196 Mỹ ra đây, làm trống Đà Nẵng khi ta đánh vào trong Tết Mậu Thân. Sư Đoàn 2, con cưng của Khu 5, được giao đánh trận này. Một buổi chiều đã xế, cả bộ chỉ huy sư đoàn ra một ngọn đồi trống dùng ống nhòm quan sát Quế Sơn. Không ngờ bọn địch trong đồn thấy, gọi trực thăng bầy đến vây bắn, sư đoàn trưởng Thạch, chính ủy Đạo và gần chục cán bộ trung đoàn hy sinh. Quân khu phải điều Giáp Văn Cương đang là tham mưu trưởng quân khu xuống thay làm Sư doàn trưởng… Hôm tôi từ căn cứ trên núi xuống để tham gia chiến dịch Xuân Mậu Thân thì Giáp Văn Cương – bấy giờ có bí danh là Trực - đã đánh xong trận quyết chiến với bọn lữ đoàn 196 Mỹ ở thung lũng Quế Sơn. Sáng hôm ấy tôi rời trạm giao liên ở chân núi Tý Sé đi xuống vùng Đại Lộc, dọc sông Thu Bồn. Cậu giao liên dẫn đường đi trước, bảo tôi cứ thong thả ăn sáng, đi sau, cậu ấy đi một đoạn sẽ dừng lại chờ. Đến khi tôi đi được một đoạn khá xa, mãi vẫn không thấy cậu giao liên đâu. Cố đi nhanh lên một lúc lâu nữa mới thấy xa xa phia tước có một nhóm người cùng đi xuống hướng đồng bằng. Tôi đã không hỏi tên cậu giao liên trước, chỉ biết mỗi ngày trạm lại cử một người dẫn “khách” đi, người ấy gọi là “trực” ngày hôm đó. Tôi cố đuổi theo và réo gọi: “Trực ơi! Trực đấy phải không?” Nhóm người đi trước dừng lại, và có người trả lời: “Trực đây!  Ai gọi đấy?” Tôi rảo bước lên, … thì hóa ra gặp Giáp Văn Cương! Ông nắm tay tôi, cười rất to: “Trông thấy một anh chàng lùn, tớ đoán ngay là cậu. Cậu xuống chậm mất rồi! Tớ vừa cho bọn lữ 196 Mỹ một mẻ ra trò, bên thung lũng Quế Sơn. Cả một lữ đoàn Mỹ tinh nhuệ gần như bị tiêu diệt hoàn toàn. Chiều qua tớ cho thả một tên tù binh Mỹ, bảo nó về báo lại cho bọn chỉ huy ở Đà Nẵng biết hôm nay cho chúng nó ngừng bắn một ngày, cấm tiệt không được xuất hiện máy bay chiến đấu trên khắp vùng trời này, chỉ cho trực thăng đến lấy xác và mang thương binh về. Chúng nó chấp hành răm rắp, hôm nay tuyệt không thấy chiếc mày bay chiến đấu nào! …” Cậu có đi Quế Sơn không? Ông hỏi. Không, tôi xuống Điện Bàn. Xuống đồng bằng có đồng nào trong túi không? Ông lại hỏi. Chẳng đồng nào cả, anh ạ. Ông móc túi đưa cho tôi 200 đồng: “Cầm lấy mà tiêu. Hôm nào vào được Đà Nẵng sẽ cho thêm! …”

Trận ấy ta không vào được Đà Nẵng, và đã xảy ra một chuyện đối với ông, mà tôi xin lỗi lần này chưa thể kể lại được, xin hẹn đến một ngày nào đó … tiện hơn. Chỉ xin nói: ông tên là Cương, và khi vào chiến trường miền Nam trong chống Mỹ thì lấy bí danh là Trực. Cương-Trực. Câu chuyện tôi xin mắc nợ là một chuyện rất đúng với tên ông.

Những năm về Hải quân, thỉnh thoảng ông nhắn tôi xuống Hải Phòng chơi. Hoặc đến nhà ông ở 34 Trần Phú Hà Nội.

Đối với tôi, ông là một người bạn lớn, một vị tướng tài, một con người cương trực, mà tôi đã có may mắn gặp, quen, và được ông cho phép coi là thân trong cuộc đời.

Cũng như các bạn, tôi mong có được một con đường mang tên Giáp Văn Cương, để mỗi lần đi qua lại như được gặp ông, vị tướng tài ba, anh hùng, yêu quý của tôi.
*Bài viết do Nhà văn Nguyên Ngọc gửi riêng NXD-Blog.
Xin chân thành cảm ơn tác giả!


   

CHÚC MỪNG CÒM SĨ GÀ QUÊ VÀ CÁC CÒM SĨ

Lại hoãn phát sóng 'Đường tới thành Thăng Long':
Vì sức ép dư luận?
Tiền Phong Online - Định chiếu dịp đại lễ năm ngoái nhưng rồi không thể. Nay kế hoạch ra mắt từ 30-6 của bộ phim 'Lý Công Uẩn- đường tới thành Thăng Long' cũng lại được thông báo là sẽ hoãn vào thời điểm khác. Vì sức ép của dư luận?
.
Đường tới thành Thăng Long- thế là lại “lỗi hẹn”
Đường tới thành Thăng Long- thế là lại “lỗi hẹn”.
 
Đường tới thành Thăng Long - phim “tốt nhất trong khả năng có thể”?

Nhớ lại, thời điểm cận kề Đại lễ nghìn năm Thăng Long Hà Nội, trước dư luận bộ phim Lý Công Uẩn- đường tới thành Thăng Long là “phim Trung Quốc nói tiếng Việt” do vậy không nên phát sóng, GS.TS Đinh Xuân Dũng, Ủy viên thường trực Hội đồng Lý luận phê bình Văn học Nghệ thuật T.Ư, cố vấn nội dung phim đã phát biểu trên báo:

“Là người trực tiếp đọc kịch bản và xem 19 tập phim, tôi nhận thấy phim thể hiện sinh động với một tình cảm sâu sắc, một thái độ trân trọng với lịch sử. Cái thành công là đã dùng ngôn ngữ điện ảnh để phản ánh trung thực những nét cơ bản của lịch sử- một giai đoạn tuy không dài nhưng hết sức quan trọng”. Ông Dũng nói thêm: “Tranh cãi về độ xác thực của lịch sử là vô cùng. Cũng khó có bộ phim không khuyết điểm. Quan trọng là nhà làm phim đã nỗ lực làm bộ phim tốt nhất trong khả năng có thể”.

Thời điểm đó, Cục phó Cục Điện ảnh VN Lê Ngọc Minh trong lần trả lời Tiền Phong có nêu quan điểm “không ủng hộ cũng không phản đối” phim này. Nay ông Minh trả lời trên báo: “Phim không phạm những điều cấm. Vậy nên trong văn bản gửi Đài THVN chúng tôi cho rằng có thể phát được, nhưng phát thời điểm nào là tùy Đài và phải hạn chế cảnh bạo lực. Luật đã ghi rõ giám đốc Đài chịu trách nhiệm việc phát sóng”.
Được hỏi Đường tới thành Thăng Long là phim thể loại gì, ông Minh đáp: “Phim làm theo tinh thần lịch sử nhưng 19 tập phim này là dã sử, không phải lịch sử (?!) Chính từ đề nghị của Cục Điện ảnh mà Bộ VHTTDL trong công văn ngày 15-3-2011 đã “đề nghị Đài THVN xem xét, quyết định việc phát sóng phim Lý Công Uẩn- Đường tới thành Thăng Long theo quy định của Luật Điện ảnh và Luật Báo chí” (Dân trí trích công văn của Bộ VHTTDL ).

Chiều 8-6, cộng tác viên Nguyễn Xuân Diện, tác giả bài phỏng vấn GS Lê Văn Lan (Tiền Phong số 159) điện thoại cho Tổng giám đốc VTV Trần Bình Minh để hỏi về số phận phim Đường tới thành Thăng Long. Ông Minh cho biết đang bận họp. 

Phóng viên ban Văn Nghệ điện thoại cho Phó Tổng giám đốc VTV Nguyễn Thành Lương thì ông không bắt máy. Phóng viên để lại lời nhắn, đề nghị cuộc hẹn để hỏi về việc phát hay không phát bộ phim này và được nhắn lại: “Hiện tôi đang đi học nên chưa có thông tin”. 

Trang web chính thức của VTV cho đến chiều tối cũng không cập nhật tin tức về việc phát hay không phát bộ phim này trong khi báo Sài Gòn giải phóng lúc 15h26 ngày 8-6 đã đưa tuyên bố của Tổng giám đốc Trần Bình Minh: “Phim ĐTTTL sẽ được phát vào thời điểm khác”. 

“Tôi cũng kịch liệt phản đối”

Hiện không khí tranh luận về bộ phim ĐTTTL vẫn đang nóng trên các diễn đàn. Riêng bài Tôi kịch liệt phản đối (trên báo Tiền Phong) cũng nhận rất nhiều ý kiến. 

Bạn đọc Quản Thị Bích Ngọc phát biểu trên Tiền Phong: “Một bộ phim thân voi- vòi rắn- lông chim- đuôi chuột như vậy mà VTV cố tình chiếu?”. “Xem ra năm ngoái không chiếu thì nay lại may mắn vì được truyền hình quốc gia dừng một phim lịch sử khá hay (Huyền sử thiên đô) để phát phim này. Tôi kịch liệt phản đối”. (Khán giả Việt).

“Mở kênh nào ra cũng phim Trung Quốc, thêm một phim Trung Quốc nữa có sao?!”(một bạn đọc blog xuândienhannom).
Bạn đọc Gà quê phân tích: “Tôi không quan tâm đến trang phục hay nhà cửa, cung điện trong phim. Bởi nếu dùng những gì chúng ta hiện có thì khó mà có cảnh đẹp. Những gì thời Lý để lại bằng hiện vật hầu hết là phế tích. Hơn nữa khả năng của nhà làm phim có hạn. 

Tuy nhiên điều quan trọng nhất là những trang sử về thời Lý thì không thể không tôn trọng. Nếu có hư cấu thì cũng không được xuyên tạc, bóp méo. Nếu là phim bịa ra nhân vật, sự kiện để giải trí như chưởng Trung Quốc, lại là chuyện khác. Nhưng phim này có tên nhân vật, sự kiện lịch sử, không thể xuyên tạc, bóp méo, bôi nhọ, gây ảnh hưởng xấu đến nhận thức về lịch sử. 

Cần đặt câu hỏi cho người làm phim: Hư cấu như vậy với mục đich gì? Với nhà duyệt phim: Trách nhiệm đối với lịch sử dân tộc, lòng tự tôn dân tộc đâu rồi? Họ đã duyệt, cho chiếu phim này vì động cơ gì?”. 

D.H.T tổng hợp

Thưa chư vị,

Sáng sớm nay, Giáo sư Lê Đình Cúc (nguyên TBT tạp chí Khoa học xã hội, thuộc Viện KHXH VN) điện thoại chúc mừng NXD-Blog. Và cho biết trên báo Tiền Phong (báo giấy) hôm nay đã đăng tin về việc VTV không phát sóng bộ phim phản quốc "Đường tới thành Thăng Long", đồng thời có đăng một vài comment của bạn đọc trên NXD-Blog.

Lâm Khang tôi đã vội đi mua tờ báo (vì từ khi có wifi thì thôi đặt báo giấy) và thấy đúng như GS Lê Đình Cúc. Đầu tiên là thấy vui! Sau thì thấy hơi ghen tỵ với bác Gà Quê. 

Tôi đi còm cho bao nhiêu blog rồi mà chưa có phát còm nào được lên báo. Vậy mà bác Gà Quê đã lên báo rồi! Trang trọng quá!

Lâm Khang Nguyễn Xuân Diện trân trọng cảm ơn các còm sĩ và chúc mừng Bác Gà Quê. Đồng thời cũng mong bác Gà Quê còm vào đây địa chỉ thật (sẽ không hiển thị trên blog) để tôi gửi tặng bác cuốn sách "Văn Minh vật chất của người Việt" với chữ ký của tác giả Phan Cẩm Thượng.

Các bác không phải là Gà Quê, xin đừng nhận mình là Gà Quê, vì tôi chỉ có 1 cuốn để tặng!

Lâm Khang bái thư!

KTS TRẦN THANH VÂN: XIN NHỚ ĐỪNG BÔI NHỌ CÁC CỤ!

KTS Trần Thanh Vân
*Với bài Tin đặc biệt từ VTV, tôi xin nhắn Tổng giám đốc VTV, ông Trần Bình Minh mấy lời như sau:
Tôi là Trần Thanh Vân, KTS cảnh quan, 70 tuổi, chồng tôi là Lê Tiến Thiện, nguyên là Chuyên Viên cao cấp của Vụ Kinh tế đối ngoại Văn phòng Chính Phủ, 71 tuổi. Gần 40 năm trứơc, lúc chưa thống nhất Bắc Nam, chúng tôi có được 2 cụ Trần Lâm (lúc đó cả cụ ông và cụ bà cùng làm việc ở Đài truyền hình VN) duyệt cho mua chiếc TV đen trắng NEP- TYUN và chiếc BÊ- RIN đầu tiên ở Hà Nội.
Vì các cụ rất có công với sự nghiệp truyền hình ở VN, nên Trần Bình Minh mới có vị trí hôm nay.
Hãy cẩn thận với bộ phim ĐƯỜNG TỚI  THÀNH THĂNG LONG, KHÔNG NHỮNG KHÔNG CHIẾU MÀ PHẢI LÊN ÁN, PHẢI HỦY NÓ Đi.

Xin nhớ đừng bôi nhọ các cụ. Nếu các cụ vì thương con không trách phạt, thì ĐỨC THÁNH TRẦN SẼ KHÔNG THA ĐÂU. Là con cái họ Trần, đã nghe lời nguyền của Đức Thánh, tôi xin báo như vậy.

*Với bài Trung Quốc yêu cầu VN chỉnh lý dư luận.
Tôi nói rằng tôi xin chỉnh lý dư luận như sau: Những ngày qua dư luận đưa tin "BA TẦU HẢI GIÁM CẮT CÁP THĂM DÒ CỦA TÀU BÌNH MINH 2 LÀ KHÔNG ĐÚNG. TRUNG TƯỚNG, THỨ TRƯỞNG BỘ QUỐC PHÒNG NGUYỄN CHÍ VỊNH VỪA CẢI CHÍNH: ĐÓ LÀ BA TÀU QUÂN SỰ TRUNG QUỐC  GIẢ LÀM THƯỜNG DÂN ĐỂ PHÁ TÀU BINH MINH 2".

KTS. Trần Thanh Vân

NỤ CƯỜI VÕ VĂN KIỆT

NỤ CƯỜI VÕ VĂN KIỆT
Phạm Gia Minh

Ai đã từng gặp ông hoặc chỉ mới thấy ông qua báo chí đều có cùng một cảm nhận : ông Sáu Dân có nụ cười thật hiền hậu, rạng rỡ và chân thành. Kể cũng kỳ lạ, một con người mà cuộc đời thật lắm gian truân, từng hứng chịu nhiều nỗi đau tới tột cùng của sự mất mát, một con người vào sinh ra tử và luôn đứng mũi chịu sào trước bao nhiêu sóng gió , bão táp ác liệt nhất của thế kỷ XX mà vẫn luôn nở nụ cười . Phải chăng đó cũng chính là cái chất Nam bộ khảng khái, bộc trực và bao dung;  cái bản lĩnh gan góc, lạc quan của dân tộc Việt  trong gian khó hôm nay mà vẫn nghĩ tới một ngày mai “ hết mưa là nắng hửng lên thôi…” (1), và một khi đã giành thắng lợi sau cuộc chiến ác liệt thì “ súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa…”(2) ?.

Phải là người có Tâm sáng, Trí đầy và Dũng khí như trời, bể mới có được cái thần thái ung dung tự tại và nụ cười như vậy . Ông có những tố chất đó bởi một lý do thật giản đơn nhưng cũng rất sâu xa : 1. luôn giữ vững đức tin vào Dân , 2. xả thân vì Dân, 3. đau nỗi đau của Dân, 4. lo cái lo của Dân, 5. vui cùng Dân, 6. quy tụ được lòng Dân và bởi vậy mãi mãi là “ông Sáu Dân “ với cái ý nghĩa thân thương và trìu mến nhất trong ý niệm của người đời .

Nụ cười nhân hậu đã theo ông tới thăm hỏi, chăm sóc những bà mẹ Việt nam , những trẻ em mồ côi, tật nguyền hay đồng bào đang chịu cảnh thiên tai tàn phá . Nụ cười lạc quan , coi thường gian khó , hiểm nguy đã cùng ông tới tiếp sức cho các kỹ sư, công nhân trên công trường đường dây cao thế Bắc-Nam 500 kv hay đường Trường sơn công nghiệp hóa cùng bao công trình thế kỷ khác. Với nụ cười cởi mở và chân thành ông đã chủ động chìa tay tiếp đón những người Việt  từng ở bên kia chiến tuyến của cuộc đối đầu ý thức hệ khốc liệt và dai dẳng nhất trong thế kỷ XX để thực sự bắt đầu quá trình hòa giải và hòa hợp dân tộc, vì một tương lai chung tươi sáng cho những thế hệ con Lạc, cháu Hồng mai sau. Nụ cười đầy tự tin và rạng rỡ đã cùng ông đưa Việt nam làm bạn với Thế giới trong sự tôn trọng và hữu nghị, bình đẳng.

Ông vẫn giữ nụ cười thẳng thắn, dũng cảm và chân thành khi đấu tranh với những tiêu cực đang len lỏi trong đời sống  xã hội và cả khi đưa ra những phản biện xã hội đầy tinh thần trách nhiệm và tầm nhìn chiến lược đối với nhiều vấn đề quốc kế dân sinh .   

Là người bạn lớn của báo chí , bằng chính tấm gương từ cuộc đời Cách mạng của mình ông đã cho những người làm báo hiểu sâu sắc hơn một nhận định của Các Mác : “ báo chí phải sống trong nhân dân và trung thực chia xẻ với nhân dân niềm hy vọng và nỗi lo lắng của họ, tình yêu và lòng căm thù của họ, niềm vui và nỗi buồn của họ….” và làm sao để báo chí phải đúng là “ tấm gương tinh thần trong đó nhân dân nhìn thấy bản thân mình…”(3)

Sẽ là một nguồn động viên mạnh mẽ và cổ vũ lớn lao đối với báo chí Việt nam thời kỳ Đổi mới nếu có giải thưởng mang tên Võ văn Kiệt!

Thăng Long-Hà Nội 18/11/2008

P.G.M

Chú thích:

(1) Hồ chí Minh. ” Nhật ký trong tù”
(2) Nguyễn đình Thi . “Quê hương Việt nam”.
(3) Các Mác, Ăngghen Toàn tập, Tập I, NXB CTQG 1995 ,tr. 99, 100 .

*Bài viết do TS Phạm Gia Minh gửi trực tiếp cho NXD-Blog.
Xin chân thành cảm ơn tác giả!

Chùm ảnh Nụ cười Võ Văn Kiệt:

Trong số những nhà lãnh đạo, cả Việt Nam và thế giới, Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt là người có gương mặt, mái tóc, ánh mắt và đặc biệt là nụ cười rất đẹp. Nụ cười ấy không chỉ sảng khoái mà còn hào sảng; không chỉ độ lượng mà còn khí phách; không chỉ thân thiện và còn uy nghi. 

TS xin trân trọng giới thiệu một số hình ảnh về nụ cười đặc biệt ấy.
 
Nụ cười hào sảng và rạng rỡ khi đón tiếp các vị khách quốc tế.
Nụ cười ấm áp khi về thăm cán bộ đường dây 500KV, Quảng Nam – Đà Nẵng.
Nụ cười thân thiện và mừng rỡ khi gặp đồng chí đồng đội - các cán bộ lão thành Cách mạng TP.Hồ Chí Minh.
Nụ cười sảng khoái khi tập chụp ảnh.
Nụ cười trẻ trung khi nhảy cùng đội văn nghệ Đăk Lăk.
Nụ cười phấn chấn khi anh em đường dây 500KV hoàn thành nhiệm vụ trọng đại của quốc gia.
Nguồn ảnh: TTXVN


NHỚ ƠN THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT

NHỚ ƠN THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT
Nguyễn Minh Nhị
Nguyên Chủ tịch UBND tỉnh An Giang

Người nhờ đất sống. Đất nhờ người có tên. Người nhờ người dẫn lối. Uống nước nhớ nguồn là đạo lý Việt Nam ta.
    
Nơi đây, ngày 25/7/1996, Thủ Tướng Võ Văn Kiệt trên đường khảo sát tình hình, tìm giải pháp cho phát triển sản xuất, hạn chế ngập lụt, xây dựng nông thôn mới, đã dừng chân trao đổi với cán bộ và nhân dân để tìm hướng thoát lũ ra biển Tây. Hướng ấy nay là con kinh, có ký hiệu T5 - Tuần Thống mà ngay sau khi đào thông, nhân dân đã gọi là "Kinh Ông Kiệt". Và tại kỳ họp thứ 14, Hội đồng nhân dân tỉnh An Giang đã ra Nghị Quyết số 24 ngày 10/7/2009 chánh thức đặt tên: KINH VÕ VĂN KIỆT.

Trên đây là phần mở đầu Văn Bia kỷ niệm công trình thoát lũ ra Biển Tây được Tỉnh An Giang xây dựng tại đầu vàm kinh T5 giáp kinh Vĩnh Tế nhân ngày giổ lần thứ ba của Cố Thủ Tướng Võ Văn Kiệt.

Kinh được khởi đào ngày 22/4 và hoàn thành ngày 30/8/1997, trên phần đất An Giang dài 10.900 mét, trên phần đất Kiên Giang dài 25.800 mét, tổng chiều dài 36.700 mét, bề rộng mặt kinh từ 30 - 36 mét, đáy rộng 20 mét, sâu 4 - 4,5 mét. Tổng lượng đất đào 5.608.000 mét khối, đất đấp 2.257.000 mét khối, tổng mức đầu tư  97.743.000.000 đồng.

Ngoài nhiệm vụ là trục chánh trong hệ thống các công trình đưa nước ngọt nhiều phù sa vào sâu Tứ giác Long Xuyên, hạn chế ngập lụt dân cư, ngăn và thoát lũ ít phù sa ra Biển Tây; kinh Võ Văn Kiệt  rửa phèn cải tạo đất khai hoang và  tưới tiêu cho 16.000 héc-ta đất sản xuất trên vùng trũng Tứ Giác mà các nhà khoa học gọi là "Túi phèn".

Đây là một trong hệ thống các công trình cấp bách thực hiện ngay trong năm 1997 mà Quyết định 99/TTg của Thủ Tướng Chánh Phủ bao quát cho cả giai đoạn 1996 - 2000 về công tác thuỷ lợi, giao thông, xây dựng các cụm - tuyến dân cư vượt lũ, xây dựng nông thôn mới toàn vùng Đồng bằng Sông Cửu Long; tiếp tục hoàn thiện các Chương trình: Khai thác Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên và Bán đảo Cà Mau do Ông khởi xướng từ những năm 1987 - 1988 - 1989 khi đất nước vừa Đổi mới, khi Ông còn là Phó Chủ Tịch thứ nhất Hội đồng Bộ Trưởng, rồi Chủ Tịch HĐBT - Thủ Tướng Chánh Phủ, cả khi là Cố Vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng và cho đến khi đột ngột vĩnh biệt chúng ta ngày 11/6/2008 trong tư thế chuẩn bị cho cuộc "chiến đấu" mới chống lại hiện tượng toàn cầu:  "Biến đổi khí hậu - nước biển dâng" mà Ông luôn trăn trở cho Đồng bằng Cửu Long và cho cả nước, mà thế giới dự báo là nước ta nằm trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất.

Thực hiện những chủ trương và các quyết định của ông, ĐBSCL đã đưa sản lượng lúa tăng gấp đôi, đạt 20 triệu tấn, riêng ba tỉnh An Giang - Kiên Giang - Đồng Tháp có sản lượng 10 triệu tấn. ĐBSCL không chỉ là vựa lúa số một của cả nước mà còn là nguồn cung cấp chủ yếu để Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới mổi năm trên dưới 5 - 6 triệu tấn. Bộ mặt nông thôn toàn vùng khởi sắc ngày một rõ nét. Ông đã ghi đậm dấu ấn trên đồng đất Miền Tây, cũng như các công trình trên cả nước mà ông chủ xướng như: Thủy điện Trị An, Đường dây 500 KV Bắc - Nam, Lọc dầu Dung Quốc; các Chương trình: Phủ xanh đất trống đồi trọc, Vệ sinh môi trường, Nước sạch nông thôn, Kiên cố hoá trường học...Những chủ trương có tầm lịch sử.

Hình ảnh Thủ tướng - Anh Sáu Dân thân thương gần gũi nhân dân, nhất là nông dân và dân nghèo, với văn nghệ sĩ - trí thức - nhà tu hành, bà con Việt Kiều; và hình ảnh một vị thủ tướng Việt Nam Đổi Mới lần đầu tiên xuất hiện và ghi ấn tượng tốt đẹp với bạn bè các nước và trên các diễn đàn quốc tế mà ông có mặt. Tất cả, người ta gọi đó là "Dấu ấn Võ Văn Kiệt"!.

Ngược dòng thời gian, người Miền Tây nhớ mãi một Bí thư Khu Uỷ khu Tây Nam Bộ - với bí danh anh Tám Thuận kiên cường, mưu lược lảnh đạo quân và dân Khu 9 đánh bại âm mưu bình định lấn chiếm khốc liệt của Mỹ - Thiệu sau Hiệp định Pari, tạo tiền đế cho chiến trường miền Nam chuyển thế chiến lược tiến lên Tổng tiến công 1975 toàn thắng. Cả nước cũng biết đến một Bí thư Thành uỷ Hồ Chí Minh tất bật lo gạo hàng ngày cho hàng triệu dân; không chịu bó tay, năng động sáng tạo vực dậy những nhà máy xí nghiệp nằm im vì không có nguyên -nhiên liệu - phụ tùng, tìm cơ chế cho xuất nhập khẩu…góp phần tạo tiền đề cho công cuộc Đổi Mới của cả nước năm 1986. Tuổi trẻ thành phố Hồ Chí Minh mãi mãi không quên hình bóng Chú Sáu lặn lội trên những công - nông trường Thanh niên xung phong, trên mặt trận Biên giới Tây Nam trong những ngày cả nước gian nan dầu sôi lửa bỏng.

Ông sanh ngày 23/11/1922 trong một gia đình nông dân nghèo xã Trung Hiệp huyện Vũng Liêm tỉnh Vĩnh Long, tên thật là Phan Văn Hoà; năm  16 tuổi Ông đến với cách mạng, là một trong những người lãnh đạo nhân dân huyện Vũng Liêm khởi nghĩa Nam kỳ; từ đó, trên con đường Cách mạng - Kháng chiến, từ Nam ra Bắc, xuôi ngược ba Miền, Ông luôn luôn đi đầu trong suy nghĩ và hành động cách mạng, luôn ở vị trí là người lãnh đạo chỉ huy ở tuyến đầu kiên cường, dũng cảm, tận tuỵ, được mọi người yêu quí và kính trọng. Trong cuộc chống Mỹ cứu nước, phu nhân và ba người con của Ông đã hy sinh trước bom đạn của quân thù, để lại trong Ông những tổn thất và nổi đau không vì bù đấp được cho đến tận cuối đời. Nhưng với cách mạng, với cuộc đời, Ông luôn là người lạc quan tin tưởng, luôn luôn rạng rở nụ cười - "Nụ cười Võ Văn Kiệt!".

Nhân kỷ niệm lần thứ ba ngày Ông về cõi vĩnh hằng -11//6/2008,  nhân dân An Giang trân trọng khánh thành công trình "Nhớ ơn Thủ Tướng Võ Văn Kiệt" chính tại nơi mười lăm  năm trước Ông đã vạch hướng cho công trình thoát lũ ra Biển Tây. Mảnh đất nầy từ nay có tên Võ Văn Kiệt, nối tiếp Vĩnh Tế - Thoại Hà, lịch sử 200 năm liên tục một dòng chảy cuộn tràn sức sống trên mảnh đất tận cùng Tổ Quốc ở phương Nam!.
   
Ông mãi mãi:

"Vẫn là Thủ Tướng của nhân dân
Là Anh Sáu của mọi gia đình
Lồng lộng bóng soi miền sông nước

Đời nặng ân tình đất nặng chân".                                     
              
Long Xuyên, ngày 04/04/2011.

*Bài viết do Ông Nguyễn Minh Nhị gửi đến NXD-Blog. Xin chân thành cảm ơn Ông!


ÔNG SÁU DÂN DẠY TÔI NGHỀ VIẾT BÁO!

Tô Văn Trường 

Thấm thoát đã 3 năm, kể từ ngày Ông Sáu Dân đi xa. Cũng trong thời gian ấy, nghe theo lời dạy của Ông, tôi mạnh dạn tiếp tục viết  khoảng gần trăm  bài báo được anh em, bạn bè, bạn đọc chú ý và ủng hộ. Chắc chắn tôi không phải là nhà báo chuyên nghiệp (nhà báo có cái nghiệp phải mang), mà chỉ là người làm công tác khoa học  thích viết báo, nhưng cũng đã đủ say sưa, tỉnh táo và can đảm  để nói lên những điều tâm huyết của mình và của  người dân. Nhân ngày giỗ Ông Sáu, thắp nén hương thành kính, tưởng nhớ đến Ông là con người đến từ dân, song luôn ở trong dân, dẫu đã đi về cõi vình hằng. Viết đến đây, tôi lại nhớ lời Ông dạy ngày nào:“Đừng bao giờ nản chí, nghề viết không dễ, để viết cho đúng, cho trúng không chỉ có tâm hồn nghệ sĩ mà trước hết  phải có tinh thần chiến sĩ”.

Trước kia, tôi đã từng nghe người ta nói: “Làm báo là làm nghệ thuật và nhà báo phải là nghệ sĩ”. Từ khi còn rất trẻ, là học sinh phổ thông, là sinh viên, tôi đã thích viết báo tường ở lớp, ở khoa.  Khi đã trưởng thành làm cái nghề khoa học kỹ thuật khô khan, tôi càng ham “ viết lách” không phải để trở thành nghệ sĩ mà chỉ muốn trải lòng mình với mọi người vì thấy có quá nhiều điều muốn nói. Nhưng chỉ đến khi được gặp và gần gũi  Thủ tướng Võ Văn Kiệt (tên gọi thân mật là Sáu Dân), tôi mới ngộ ra rằng viết báo không phải dễ, muốn làm được như một nhà báo chân chính, thực sự  là một công việc “đội đá, vá trời”! Nhưng cũng chính Ông Sáu Dân đã  quan tâm, động viên cho tôi viết chỉ có điều Ông luôn căn dặn :”Viết báo không chỉ cần có tâm hồn nghệ sĩ, mà trước hết phải có gan của người chiến sĩ cầm súng ra chiến trường nghĩa là phải luôn chiến đấu cho sự thật và tôn trọng, phản ánh sự thật”.   

Có thể nói Ông Sáu chính là người thầy, người chỉ dẫn cho tôi, thổi ngọn lửa nhiệt huyết và trách nhiệm của người cầm bút.  “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” dậy nửa chữ cũng là thầy. Tuy  Ông không dạy tôi con chữ nhưng cao hơn  tất cả, Ông dạy tôi làm người.

Tôi  nhớ có lần nhà báo Lục Tùng thường trú ở đồng bằng sông Cửu Long , cùng với một đồng nghiệp từ Cần Thơ về Vĩnh Long phỏng vấn Ông Sáu để làm bài  kết luận cho Diễn đàn liên quan đến chủ đề “Bờ bao và cây lúa” đăng trên báo Lao Động.  Mặc dù bản thảo bài phỏng vấn khá công phu nhưng khi về thành phố Hồ Chí Minh, Ông Sáu vẫn tiếp tục suy nghĩ, tự tay viết bổ sung đầy 2 trang (bằng bút  bis chữ màu đỏ) chuyển lại cho tôi để tổng hợp thành một bài viết hoàn chỉnh theo ý của Ông.  Nhờ có bộ óc thông tuệ, am hiểu thực tiễn, có nhãn quan chính trị, tầm nhìn xa, nhiều bài viết, trả lời phỏng vấn của Ông Sáu đối với báo chí ở trong và ngoài nước  rất tâm huyết, thực sự thổi “lửa” vào cuộc sống.

Trung tuần  tháng 11 năm 2007, nhân sắp đến sinh nhật lần thứ 85 của Ông Sáu (23/11/1922 - 23/11/2007)  nhà báo Lê Phú Khải đến chỗ tôi làm việc “rủ rê” cùng đến thăm Ông Sáu. Lúc ấy, tôi đang  bận thu xếp  công việc ở cơ quan để ngày hôm sau cùng GS Võ Tòng Xuân và Kỹ sư Đặng Minh Sơn Tổng giám đốc Công ty tư vấn đầu tư và xây dựng quốc tế (ICIC)  đi Sierra Leone để  thảo luận với các quan chức của chính phủ về chương trình an ninh lương thực và  giúp nước bạn trồng lúa, làm thủy lợi thí điểm ở vùng  Mange Brureh cho nên chỉ kịp trao đổi tóm tắt với Anh Khải một số ý kiến hiểu biết của mình về Ông Sáu. Khi từ  Tây Phi trở về, được đọc bài  báo “Phong độ, bản lĩnh và sáng tạo” của nhà báo Lê Phú Khải viết vê Ông Sáu Dân, đăng trên báo Sài gòn giải phóng ngày 23/11/2007, tôi nhớ nhất câu đối mừng thọ đồng chí Võ Văn Kiệt:

“Áo vải cờ đào, thuở thanh xuân là anh hùng đi cứu nước
Giấy trắng mực đen, tuổi tám lăm thành hào Kiệt của Dân”

Theo một số anh em có điều kiện nhiều năm làm việc với Ông Sáu Dân, tóm tắt trong Ông có mười con người, lần lượt xuất hiện, con người sau không loại bỏ con người trước, đến tuổi trung niên của Ông Sáu Dân thì hội tụ đủ cả  mười con người, hòa quyện vào nhau, bổ sung cho nhau và tôn nhau lên. Mười con người ấy là: (1) Con người dân nghèo, làm việc lam lũ và thất học từ nhỏ; (2) Con người Nam bộ đất Vĩnh Long; (3) Con người yêu nước đến với cách mạng như đến một cuộc hẹn gặp; (4) Con người tự làm ra mình; (5) Con người trong dân, của dân, do dân, vì dân, từ cấp cơ sở lên cấp quốc gia và quốc tế, qua các nấc thang, từ miền Nam đến khắp nơi trong cả nước, từ chiến tranh đến hòa bình, trải qua các cương vị, các dạng hoạt động, các vùng miền, các thời kỳ lịch sử; (6)  Con người trí thức; (7) Con người chính khách; (8) Con người nghệ sĩ, yêu cái đẹp, thưởng thức cái đẹp, làm ra cái đẹp theo cách của mình; (9) Con người chiến sĩ, thách đấu không ngừng nghỉ, mạnh dạn sáng tạo như hít thở để sống, đồng thời tuân thủ và đòi hỏi kỷ luật nghiêm minh; (10) Con người thật người, rất người, yêu sống say mê, mãnh liệt, với những ưu điểm người và khiếm khuyết người.
Một số đồng nghiệp, bạn bè của tôi khi thảo luận về 10 con người trong Ông Sáu Dân, họ nhìn nhận, đánh giá tùy theo góc đứng, cách nhìn của mỗi người nhưng đều có điểm chung là kính trọng, ngưỡng mộ vị Thủ tướng của nhân dân. Nếu trong 10 con người Sáu Dân trên đây, cần chọn 1, cho ngắn gọn, tuy không đầy đủ, thì tôi chọn con người thứ 5.  
Theo chúng tôi hiểu,  Ông  Sáu Dân là con người của lý trí sáng suốt, đồng thời là con người của tình nghĩa đồng bào, đồng chí giữa những người Việt Nam, tình nghĩa con người giữa những con người với nhau. Tình nghĩa chân thực, vững bền, đậm đà, thắm thiết. Tình nghĩa với từng cộng đồng người, và tình nghĩa với từng người, kể cả với những người chỉ cùng gặp gỡ, cùng làm việc, cùng chung sống một thời gian ngắn.  Trong tình nghĩa con người với nhau, Ông Sáu  là người biết dâng đi, mà cũng biết nhận về.  Ông ghi nhớ, trân trọng, cảm kích từng tình nghĩa mà mình nhận được.

Trong công việc, khi ở cấp địa phương cũng như khi ở cấp quốc gia, Ông  Sáu rất coi trọng xác định quan điểm và phương hướng hoạt động trong từng lĩnh vực, từng loại việc, song không quá thiên về quan điểm và phương hướng, mà luôn luôn tìm tòi, sáng tạo những phương pháp, những cách thức hoạt động thiết thực, cụ thể. Nhiều anh em đã gọi Ông Sáu Dân là  “con người của phương pháp", phương pháp ấy nẩy sinh chủ yếu từ trong dân, trong việc Ông Sáu Dân sống trong dân, cùng dân, học tập và phát huy dân.

Ông Sáu là người có tầm nhìn, tư duy sâu sắc, mạnh mẽ  để lại nhiều dấu ấn trong giai đoạn lịch sử nhiều biến động của đất nước. Kể cả khi được quyền nghỉ ngơi, Ông vẫn không ngừng tư duy, trăn trở làm sao để đất nước phát triển giầu mạnh, người dân được thực sự tự do, sung sướng. Ông không có bằng cấp học vị nhưng rất thông tuệ nhờ chịu khó tự học, ham đọc sách, học ở trường đời, và biết trọng dụng người tài. Ông học từ thực tế qua công việc từ nguyên thủ quốc gia của các nước đến những buổi trò chuyện, đối thoại với các nhà khoa học, người dân, lắng nghe, suy nghĩ, kiểm nghiệm, sáng tạo để tạo thành trí thức của riêng mình. Từ những việc tưởng chừng rất nhỏ, Ông nhìn ra những việc trọng đại lớn lao của đất nước, của dân tộc. Năm tháng trôi qua, lịch sử ngày càng chứng minh các đề xuất, kiến nghị của Ông luôn đi trước thời đại và được thực tế  minh chứng.

Nhớ tới Thủ tướng Võ Văn Kiệt là nhớ tới nhân cách của ông. Có thể nói Ông là người lãnh đạo tiên phong suy nghĩ nói và viết về nỗi đau chiến tranh, về sự cần thiết phải hàn gắn nỗi đau đó cho người dân ở cả 2 chiến tuyến. Chính vì tấm lòng nhân văn đó mà người dân càng yêu mến, kính trọng Ông.  Phải là người có tầm nhìn, một nhân cách lớn như Ông  mới hiểu được thấu đáo hai chữ Hiếu Dân và ý nghĩa của hòa giải dân tộc. 

Phẩm chất của người lãnh đạo ở Ông còn thể hiện từ việc chỉ đạo thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Ông luôn quan tâm đi thực tế kiểm tra để  cập nhật, đối chiếu với nhu cầu đòi hỏi của thực tế và sẵn sàng điều chỉnh, bổ sung  các quyết định vì quyền lợi của người dân. Tầm vóc, nhân cách, sự sáng suốt, quyết đoán., dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của Ông đã được nhiều người nhắc đến trong các cuốn sách và bài báo viết về Ông.

Mặc dù là người vào sinh, ra tử, hào quang của quá khứ rất đỗi tự hào, có vị thế được nể trọng trong xã hội nhưng Võ Văn Kiệt, luôn sống và hành động vì tương lai của đất nước, của dân tộc. Nhiều băn khoăn, trăn trở, tâm huyết cuối đời của Ông là suy nghĩ để góp ý với đại hội Đảng lần thứ XI, vai trò trách nhiệm của Quốc hội và Chính phủ đủ mạnh để lãnh đạo đất nước phát triển bền vững. Ông quan tâm đến hiệu quả hoạt động của các tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước và các thành phần kinh tế. Một trong những nghiên cứu ấp ủ của Ông  là phát triển tổng hợp Vịnh Cam Ranh thành khu kinh tế hùng mạnh, hỗ trợ cho chiến lược tiến ra biển, không phải chỉ đứng trước biển. Ông chia sẻ, day dứt về cuộc sống của người dân vẫn còn nghèo khó lại luôn phải hứng chịu trước các hiểm họa, của thiên tai nhất là bão lũ, hạn hán. 

Trên cương vị Thủ tướng Chính phủ, Ông  là tấm gương về một nhà lãnh đạo dân chủ,  luôn chân thành học hỏi từ nhân dân, từ giới trí thức tất cả để phục vụ Dân, phục vụ Nước với hàng loạt những quyết sách hệ trọng còn để lại vai trò và dấu ấn sâu đậm cho đến ngày nay. Liên hệ đến thực tế, chúng tôi hiểu để đất nước ổn định và phát triển thì người lãnh đạo thời nào cũng phải biết tin yêu, lắng nghe, kính trọng dân, phục vụ lợi ích của dân, tôn trọng các quyền của dân và phát huy các nguồn lực của dân.

Nhân kỷ niệm 49 ngày Ông Sáu đi xa, tôi viết bài “Lỡ chuyến đi xa” đăng trên báo Sài gòn giải phóng.  Kỷ niệm ngày giỗ đầu tiên của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, tôi trải lòng mình qua bài “Nhịp đập của một trái tim lớn” đăng trên VNN và Tuần VN.

Xin mượn mấy câu thơ của Anh Bẩy Nhị, nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang  viết về Ông Sáu Dân để kết luận cho bài viết này: 
"Vẫn là Thủ Tướng của nhân dân
Là Anh Sáu của mọi gia đình
Lồng lộng bóng soi miền sông nước
Đời nặng ân tình đất nặng chân" 
Mời đọc thêm:
LỠ MỘT CHUYẾN ĐI XA
Tô Văn Trường 

Trong thời gian tang lễ, các bài viết về nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt (Sáu Dân)  tràn  ngập trên các phương tiện thông tin đại chúng cả trong và ngoài nước. Nhiều bài viết sâu sắc, chân tình làm người đọc rất xúc động. Chúng tôi rất quan tâm đến bài báo tựa đề “Buổi làm việc cuối cùng” của nhà báo Huy Đức với nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đăng trên báo Sài gòn giải phóng ngày 15/6, trong đó có đoạn: ”Từ hơn 2 năm trước, mẩu tin ngắn “Dải băng lớn nhất ở Bắc cực đang tan ra” đã làm ông chú ý. Chính ông cho cắt mẩu tin ấy, chuyển cho TS Tô Văn Trường, Viện trưởng Viện Quy hoạch Thuỷ lợi miền Nam. Ông cũng đọc rất kỹ những cảnh báo của Liên hiệp quốc về khả năng nước biển dâng cao mà Việt Nam là một trong những quốc gia có thể chịu nhiều ảnh hưởng. Ông dự định sẽ đi Hà Lan, như một thường dân cùng với một nhóm chuyên gia thân cận. Chuyến đi vừa để nghiên cứu kinh nghiệm làm đê biển của Hà Lan, quốc gia sống trong điều kiện đất đai thấp hơn mực nước biển, vừa muốn nhắc nhở Việt Nam không thể chậm trễ hơn, nghiên cứu ảnh hưởng của hiện tượng này và có giải pháp chuẩn bị sớm. Chuyến đi Hà Lan ông đã chuẩn bị khá lâu và tới lúc đó thì ông và các thành viên trong đoàn đã đặt vé…để rồi không bao giờ thực hiện được chuyến đi mà ông từng ấp ủ ấy”. 

Đọc bài báo nói trên, tôi chợt nhớ, tìm lại trong quyển sổ thấy mẩu tin nhỏ xíu chỉ bằng 3 ngón tay, do ông Sáu đích thân đưa cho tôi vào cuối tháng 9 năm 2003. Trong bộ óc thông tuệ của ông chứa đựng biết bao những thông tin, tư liệu của cuộc sống nhưng vẫn không quên cả những việc tưởng chừng như rất nhỏ, đã lâu. Chính từ những việc nho nhỏ đó, ông đã suy tư và nhìn ra những việc trọng đại, lớn lao của đất nước, của dân tộc.

Kể từ khi về nước nhận nhiệm vụ, thấm thoát đã 12 năm, tôi may mắn được thường xuyên làm việc trực tiếp dưới sự chỉ đạo của ông Sáu. Ngoài tầm vóc của một trong những người lãnh đạo cao nhất của đất nước, tôi nhận được ở  ông tình cảm của người cha, người chú, người thầy, người bạn lớn. Những ngày đầu, ở văn phòng cũng như khi đi khảo sát thực địa, ông thường quan tâm thảo luận các đề tài liên quan đến thuỷ lợi, nông nghiệp, thuỷ điện, giao thông, giáo dục. Tôi vẫn nhớ sau chuyến đi dự lễ khánh thành nhà máy xi măng Sao Mai trở về thành phố vào mùa mưa năm 1998, ngồi trên máy bay trực thăng, ông trao đổi, giảng giải chân tình và hướng dẫn tôi suy nghĩ sang nhiều lĩnh vực kinh tế và xã hội của đất nước. Chính nhờ ông, tôi được đọc nhiều, đi nhiều, viết nhiều…hiểu được phần nào những trăn trở, suy tư của ông về đất nước, con người. 

Ông Sáu mất đi, nhiều người hụt hẫng, trống vắng, riêng tôi còn day dứt, ân hận vì  chính mình đã làm lỡ ước vọng cuối cùng chuyến đi thăm Hà Lan của ông. Ông thường đề cập đất nước Hà Lan tuy nhỏ bé, ngay từ thế kỷ 17 đã phồn vinh nhờ lòng dũng cảm, kiên cường đầy mưu mẹo trong chiến đấu chống ngoại xâm (Tây Ban Nha rồi đến Anh-Pháp) cũng như xây dựng đất nước. Nhiều lần, ông bàn cùng đi Hà Lan, để khảo sát tình hình của đất nước có diện tích, dân số, điều kiện tự nhiên tương tự như đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)  nhưng vì sao GDP của họ gấp hơn ta đến 40 lần !?. Sinh ra và trưởng thành trên mảnh đất Nam bộ, ông hiểu sâu sắc về tiềm năng và các trở ngại trên con đường phát triển kinh tế xã hội ở ĐBSCL. Chỉ cần cơn bão vừa, hay một trận lũ lớn như năm 2000 cũng đã gây nên biết bao thảm cảnh, thiệt hại về kinh tế và tổn thất lớn về nhân mạng. Trực tiếp xem phim về quá trình hình thành hệ thống đê biển, cống, âu thuyền của Hà Lan, nghiên cứu tài liệu, thấy rõ sự tác hại ngày càng khốc liệt, không thể lường trước của bão lụt, mực nước biển dâng, ông càng nung nấu ý định đi Hà Lan để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm về phòng chống thiên tai. Trước đại hội Đảng lần thứ X, ông bị cơn bạo bệnh phải nằm viện suốt 2 tuần lễ. Chỉ vì lo lắng về sức khoẻ của người tuổi đã cao, khi bay xa hàng vạn km, dù có bác sĩ đi theo nhưng mọi việc khó lường nên mỗi lần ông nhắc đến chuyến đi, tôi đều bàn lùi với đủ các lý do khác nhau. 
.
Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đang thảo luận chiến lược phát triển tài nguyên nước với Ủy viên Bộ Chính trị Trương Tấn Sang (ngồi giữa) và tác giả (bên phải)

Những năm gần đây, linh cảm quỹ thời gian còn lại không nhiều nên ông hối hả làm việc, hết vào Nam, lại ra Bắc (riêng những ngày lễ tết, sinh nhật, để tránh ồn ào, ông thường lặng lẽ về quê). Năm 2007, đi khảo sát tình hình bão lũ, cứu trợ ở miền trung, miệt mài đến nỗi sau này ông cứ áy náy mãi vì lỡ mất cả cuộc hẹn với cựu Thủ tướng Thái Lan Anand Panyarachun.  Gần đây, thấy bão lụt diễn ra trên thế giới ngày càng khốc liệt, lo cho dân, cho nước, ông lại nhớ về Hà Lan, để rồi cuối cùng chuyến đi được ấn định sẽ xuất phát vào 23 giờ 5 phút đêm 2/6/2008 của Việt Nam Airline từ Tân Sơn Nhất. Theo chương trình, bay đến Paris mất 12 tiếng, rồi trung chuyển qua Hà Lan. Tôi được biết nhiều vị lãnh đạo cấp cao rất quan tâm và lo lắng về sức khoẻ của ông  nhưng ông nhất quyết đi với thành phần thật gọn nhẹ, sao cho ít tốn kém và hiệu quả. Trong kế hoạch, khoảng 12 giờ 30 trưa 3/6 đoàn đến khách sạn ở  thủ đô Hà Lan, thì ngay 3 giờ chiều cùng ngày đã đi thực địa…Đau đớn thay, ước vọng cuối đời của một con người luôn vì dân, vì nước, không biết nghĩ đến bản thân mình lại dở dang không bao giờ thực hiện được.

Những ngày tang lễ, tôi không còn tâm trí và can đảm để viết về ông Sáu vì chỉ mới được vài hàng chữ thì mắt đã ướt nhoè và cổ họng như nghẹn lại. Hôm nay, tương đối tĩnh tâm, tôi muốn ghi lại những kỷ niệm, nhất là về chuyến đi dở dang cuối cùng của ông.  

Ngày 1/6/2008, thư ký của ông gọi điện nói với tôi: ”Chú bị ho, các bác sỹ điều trị ở bệnh viện Thống Nhất chẩn đoán bị viêm phổi, nên phải  điều trị ít ngày cho khoẻ hẳn. Chú nhắn anh, tối mai  cứ bay trước đi Hà Lan…” Không an tâm, khoảng 10 phút sau, tôi gọi lại, dự định hoãn vé để chờ ông cùng đi, thì được thư ký báo lại “ Chú vẫn khoẻ, anh an tâm, mùng 7/6 chú sẽ sang Pháp kiểm tra sức khoẻ sẽ báo để anh biết kế hoạch cùng làm việc ở Hà Lan. Trong trường hợp không sang kịp, chú nhắn anh cứ tiến hành công việc như đã bàn rồi khi về nước hai thầy trò sẽ thảo luận kỹ hơn…” 

Ngày 4/6, ở nhà điện sang Hà Lan báo cho tôi biết ông Sáu đã sang Singapore, rồi sẽ đi Pháp, Hà Lan. Mùng 7/6 từ Hà Lan, tôi gửi email cho ông, nào đâu có biết lúc đó ông đang hôn mê vì lá phổi bên phải bị tổn thương khá nặng, tim, thận đều bị ảnh hưởng phải thở máy và dùng máy lọc thận ở nơi đất khách, quê người. Sáng ngày 11/6 đang công tác ở Born (Đức), vợ tôi từ Việt Nam hốt hoảng, nghẹn ngào, báo tin: “Chú Sáu vừa mới mất ở Singapore, đến trưa hôm nay sẽ đưa di hài chú về TP. Hồ Chí Minh…”  Cả hai đầu dây đều nức nở, rồi chết lặng vì không tin được dù đó là sự thật. Tôi vội vàng kết thúc các chương trình làm việc ở Đức để về viếng chú. Sáng ngày 13/6, vừa về tới sân bay, tôi đến ngay Bệnh viện Thống Nhất, lúc đó rất đông người. Nhờ có người cận vệ của ông Sáu đã chờ sẵn, dẫn tôi đi lối riêng vào viếng trước khi làm lễ nhập quan. Nhìn thi hài nằm bất động như khi đang ngủ, tôi chỉ còn biết nắm chặt bàn tay của ông, khóc như vỡ tung bao nỗi tức tưởi, ấm ức trong lòng và lần đầu tiên trong đời tôi gọi chú xưng con:”Chú Sáu ơi! Con đã về đây, con đợi và mong chú hoài, sao chú lại ra đi đột ngột thế này! Còn biết bao dự định, biết bao tâm sự …chú ơi!”  Thật xót xa, được biết những ngày nằm viện Thống Nhất, ông vẫn đọc và nghiên cứu các tài liệu. Đến ngày 30/5 ông còn bảo mọi người chuẩn bị thu xếp hành lý đến trưa 1/6 về nhà, để tối 2/6 đi Hà Lan. Trưa ngày 13/6 tại Dinh Thống Nhất, gặp anh Ba (Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng) và Hiếu Dân lại nhắc về chuyến đi Hà Lan của ông Sáu, lòng tôi càng tê tái và thầm xin ông tha thứ cho tôi. 

Trên các phương tiện thông tin đại chúng, có rất nhiều bài viết tiếc thương, đánh giá công lao to lớn của ông Sáu đối với đất nước và dân tộc Việt Nam. Các chuyện kể, kỷ niệm về ông từ trong kháng chiến vào sinh, ra tử, bị tù đầy, vợ con ruột thịt, người thân hy sinh trong chiến tranh đến thời kỳ đầy khó khăn, trở ngại khi xây dựng đất nước lại càng kính phục, tiếc thương biết bao về bản lãnh và tư duy vượt thời đại của một con Người suốt đời sống vì dân và thực sự được lòng dân. Không phải ngẫu nhiên, Võ Văn Kiệt lấy bí danh là Sáu Dân, đặt tên con gái yêu quý là Hiếu Dân  mà ngay cả một số bài báo cũng lấy tên là Trọng Dân. Tên tuổi và sự nghiệp của Võ Văn Kiệt đã đi vào lịch sử cận đại. Có những điều ông nói, ông viết phải đến nhiều năm sau mới thấu hiểu được lẽ đời ấy. Có một sự thật ít người nói ra, không phải chỉ khi nghỉ hưu ông mới mạnh dạn góp ý với Đảng và Nhà nước. Lịch sử không  bao giờ có 2 từ “giá như” nhưng tôi vẫn ước ao, đến ngày nào đó, được phép tập hợp công bố tất cả các bài viết, những bức thư công tác của ông Sáu gửi Bộ chính trị, Ban bí thư, thường trực chính phủ và số vị lãnh đạo kể từ sau khi đất nước thống nhất (1975) đến 5/2008 để người dân cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài hiểu rõ một cách có hệ thống về tầm vóc của một bộ óc vĩ đại, nhà tư tưởng chiến lược nhìn xa, trông rộng, ý chí tiến công, quyết đoán, luôn thể hiện bản lãnh của một người cộng sản chân chính suốt đời sống và làm việc vì dân, lo cho dân, cho nước.

Trong phạm vi bài viết này, xin kể lại vài mẩu chuyện về tính cách đặc trưng cho phẩm chất Võ Văn Kiệt. Khi còn công tác bí thư thành ủy TP.HCM đến khi làm Thủ tướng, cố vấn hay lúc đã nghỉ hưu ông luôn biết lắng nghe, phân tích các ý kiến trái chiều, biết chấp nhận cả những ý kiến phê bình. Ông thường bảo những vấn đề hệ trọng của đất nước cần phải phát huy trí tuệ của tập thể, thận trọng cân nhắc, không được áp đặt và luôn biết đặt lợi ích của đất nước, của nhân dân lên trên tất cả. Cuộc sống là “bài toán động” nên nhiều khi phải biết nhìn lại mình cho rõ hơn. Khi thảo luận, có những ý kiến khác nhau đó là lẽ tự nhiên của quy luật phát triển, là hồng phúc của đất nước biết tôn trọng dân chủ. Phải thực sự cầu thị, tôn trọng công tác phản biện mới đi đến sự đồng thuận cao và khi đã quyết rồi thì không bàn ngang phải sắn tay làm quyết liệt.

Câu chuyện về đường dây 500 KV cả nước ai cũng biết rất thành công và ca ngợi đó là công lao, dấu ấn của Võ Văn Kiệt nhưng ông bảo đó là công lao của cả tập thể, của Tổng bí thư Đỗ Mười luôn ủng hộ, thúc dục, thì mới có được như ngày nay. Sau khi khánh thành đường dây 500 KV, ông không quên người vừa có công vừa có lỗi nên đã mang huy hiệu và chai rượu vào nhà giam thăm Bộ trưởng Vũ Ngọc Hải. Tôi được biết, khi ông  Ung Văn Khiêm bị kỷ luật, thời xa xưa ấy, nhiều người sợ vạ lây, xa lánh. Mặc dù một số người thân cận lo lắng, can ngăn nhưng ông vẫn công khai đến thăm vì ông cho rằng người làm cách mạng quan điểm phát triển đất nước có thể  khác nhau nhưng tình người, tình đồng chí không thể bỏ rơi đồng đội khi hoạn nạn. Đấy chính là tính cách rất sòng phẳng và nhân ái của Võ Văn Kiệt.

Bình thường hoá quan hệ với các nước, nghe tưởng như rất đơn giản, thực ra rất phức tạp, có những cơ hội do nhiều nguyên nhân chúng ta đã bỏ lỡ... Ngay chuyện Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1995, lúc đó ở cấp cao vẫn còn ý kiến khác nhau. Có người vẫn bảo lưu ý kiến “không nhập”. Với tư duy, tầm nhìn biện chứng, ông hiểu rõ bất cứ lĩnh vực nào cũng có hai mặt của nó. Đây là bài toán đánh đổi “được-mất”, miễn sao cái được là lớn nhất và cái mất là ít nhất. Nếu để lỡ mất thời cơ, cái giá phải trả sau này sẽ đắt hơn, nên trên cương vị Thủ tướng, ông rất quyết đoán, sẵn sàng chịu trách nhiệm trước Đảng, trước dân và cử thứ trưởng Vũ Khoan bay sang Bangkok để  truyền đạt với Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Cầm quyết tâm ký kết gia nhập ASEAN. Mãi đến sau này khi được thừa nhận sự đúng đắn và kịp thời của việc gia nhập ASEAN, ông không quên, nói rõ đấy là nhờ có công lao tư vấn của anh em bên Bộ ngoại giao. 

Ông góp ý với lãnh đạo không phải chỉ toàn là những việc quốc gia, đại sự. Ngày 9/11/2006 khi đọc báo Tiền Phong có bài tựa đề “Chuẩn bị tiệc chiêu đãi phu nhân các lãnh đạo APEC”, từ kinh nghiệm của mình, ông đã viết thư ngay cho một vị lãnh đạo tâm sự, góp ý rất chân tình từ món ăn đặc trưng cho 3 miền, đến tặng phẩm và lễ tiếp, bởi vì  ông nghĩ  qua đây, thể hiện bản sắc văn hoá Việt Nam. Vừa nghĩ đến một phần quốc thể, vừa là mối quan hệ anh em, đồng chí thân tình nên ông mới quan tâm, từng chi tiết nhỏ chu đáo đến thế!

Ông Sáu rất coi trọng người dân và đánh giá cao giới tri thức trong công cuộc xây dựng chấn hưng đất nước. Ông nhìn nhận về tri thức không phải chỉ ở bằng cấp, học hàm, học vị mà là trí tuệ và sản phẩm của họ làm ra cho xã hội. Ông thích thú và cổ vũ các anh “Hai Lúa” dù văn hoá mới chỉ là tiểu học nhưng lại làm ra cầu treo, “thần đèn” di chuyển công trình xây dựng, sáng chế các máy công cụ nông nghiệp làm các nhà khoa học phải thán phục. Có lần ngồi trên thuyền vượt qua một bờ kênh bằng đường ray và cái tời do sáng kiến của người dân ở Cà Mau, ông nheo mắt, hóm hỉnh bình luận mấy anh nông dân này liệu có xứng đáng gọi là “nông dân kiêm kỹ sư”.  Ông không phải chỉ có đi nhiều để tìm hiểu thực tế mà rất chịu khó đọc, nghiên cứu, rồi thảo luận. Nhiều vấn đề phức tạp, trừu tượng cần tìm hiểu, làm rõ, trước khi thảo luận, ông thường gạch chân từng đoạn, ghi chú bằng mực đỏ. Biết lắng nghe, tôn trọng những người đối thoại, với tấm lòng bao dung, nhân từ nên ông dễ dàng bắt được hơi thở của cuộc sống. Gần đây, khi làm việc với đoàn chuyên gia của Ngân hàng thế giới (WB) các chủ đề về kinh tế, quy hoạch, kế hoạch, chính sách Đổi mới của đất nước, mặc dù tuổi đã cao nhưng tôi thấy trí nhớ  và tầm nhìn của ông vẫn sáng suốt đến lạ thường!   

Đối với đồng bằng sông Cửu Long không phải ngẫu nhiên mà có được các thành quả kinh tế xã hội như ngày nay. Trưa ngày 14/6 nguyên Bộ trưởng Lê Huy Ngọ gọi điện cho tôi, trong cơn húng hắng ho nhẹ, anh Ngọ vẫn xúc động hệ thống lại cả quá trình hình thành tư duy và chỉ đạo quyết liệt của ông Sáu từ ngọt hoá Gò Công, đến bán đảo Cà Mau, chung sống với lũ,  thoát lũ ra biển Tây,  xây dựng cụm tuyến dân cư, và nhìn xa hơn là hệ thống công trình và phi công trình cho phòng chống thiên tai… Anh Ngọ bảo người dân Việt Nam chịu ơn ông Sáu nhiều lắm, những người có trách nhiệm cần nghiên cứu tổng kết về con người rất đặc biệt này. Tôi được chứng kiến, được đọc nhiều bức thư của người dân, của các nhà khoa học trong và ngoài nước gửi ông Sáu, trong đó có cả những người nổi tiếng là khinh bạc. Vì sao họ lại tin và trọng ông đến thế, ngay cả khi đã nghỉ hưu, không còn quyền lực! Phải chăng ngoài văn hoá ứng xử rất NGƯỜI, ở ông, người ta thấy đó là điểm tựa hay nói một cách nôm na đó là sự tin cậy, kính yêu của người dân dành riêng cho ông. 

Cuộc sống là bất phương trình chứ không phải phương trình. Trong công việc cũng như đời thường cũng có lúc ông Sáu cảm thấy bất lực, nhưng không bao giờ nản chí vì ông luôn tin vào tương lai, vận mệnh của đất nước.

Ông Sáu ơi! Thế là ông đã đi xa thật rồi. Ông có thể thanh thản vì đã làm tròn trách nhiệm của một công dân - công dân Võ Văn Kiệt. Giờ đây, ông đã về cõi thiên thu nhưng nhân dân luôn nhớ và kính trọng ông , Người có bộ óc thông tuệ không ngừng nghỉ, mang đầy đủ dấu ấn của cả 3 thì: quá khứ, hiện tại và tương lai. Không hiểu sao lúc này, tôi lại khát khao, ước ao được nghe giọng nói ấm vang, thân tình qua điện thoại: ”Mày đang ở đâu đấy!” để được tiếp tục nghe ông chỉ bảo.

Một chuyến đi xa Người  lỡ hẹn
Trăm năm lòng  mãi nghĩ về Dân

  *Các bài viết đều do TS Tô Văn Trường gửi trực tiếp cho NXD-Blog. 
Xin chân thành cảm ơn tác giả!

TRẦN QUANG ĐỨC: ĐIẾU VĂN CỰU THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT



CỐ THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT 

Duy Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa Cộng hòa quốc đệ lục thập tam niên lục nguyệt thập tam nhật,
Vãn học Trần Quang Đức cẩn dĩ thanh chước thứ tu chi điện, tế vu Võ thủ tướng chi linh.

Điếu văn viết:

Nay ngày 13 tháng 6 năm thứ 63 Nước CHXHCN Việt Nam, vãn học Trần Quang Đức xin đem lễ sơ rượu nhạt kính viếng anh linh nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt. Điếu văn rằng:

Than ôi!

Nhân thế tang thương
[1],
Khuôn thiêng
[2] định số.

Chữ Vô thường
[3], ngao ngán cõi phù sinh[4],
Đò Tạo hóa, chóc mòng
[5] miền tịnh thổ[6].

Cửa An Hòa
[7] sét động trời nghiêng,
Hồ Tả Vọng
[8] sấm rền mưa đổ.

Trăm năm chưa đủ một đời,
Thoáng chốc đã về thiên cổ.

Ngùi ngùi tấc dạ tơ vò,
Sùi sụt ai dung
[9] lệ nhỏ.


Nhớ linh xưa:

Văn võ vẹn toàn
Kinh luân
[10] gồm đủ.

Thờ Đảng rất mực lòng son,
Vì Dân xá chi máu đỏ.

Đuổi lũ hung tàn thuở ngôi trời chếch lệch,Rạch Giá
[11] lẫy lừng.
Ra tay kinh tế khi vận nước chông chênh,Việt Nam rạng tỏ.

Gom túc mễ, quét nỗi cơ hoang
[12],
Chỉ cờ mao, dẹp phường tham đố
[13].

Cao dơ mũ lại
[14], những mong thế nước vững vàng,
Xa gác vó câu
[15], luống ngóng sinh dân giàu có.


Vậy nên:

Điều “chí thiện”
[16] bao độ đăm chiêu,
Câu “nhật tân”
[17] đòi phen năng nỏ[18].

Thương ôi! Võ lão!

Nghi ngút khói mây,
Lập lòe nến đỏ.

Thần phách giờ đâu?
Hình hài còn đó.

Hoa lìa cây, rụng cánh bời bời
Én xa tổ, kêu xuân vò võ.

Ba tấc đất vùi sâu đấng anh hùng,
Chín tầng mây khuất xa đường vân lộ.

Tháng ngày khôn xiết nỗi bi ai,
Sớm tối nào quên niềm luyến mộ.


Nay:

Văn tế đôi câu,
Quỳnh tương
[19] một lọ.

Lễ bần bạc gia tư
[20] có vậy,
Lòng kiền thành
[21] thiên địa chứng cho.

Rạp mình xa viếng trời Nam,
Cúi lạy anh linh phù hộ.

“Xã tắc muôn thuở thanh bình,
Quốc dân từng ngày tiến bộ!”


Hỡi ôi! Xin hưởng!

-----------
Chú giải:

[1] Tang thương沧桑: theo sách “Thần tiên truyện” có chép: “Ma Cô bảo rằng: từ trước tới nay đã thây biển Đông ba lần hóa thành nương dâu”, sau lấy câu “沧海桑田tang hải thương điền” (bãi bể nương dâu) để trỏ cuộc đời dâu bể, đổi thay khôn lường vậy.
[2] Khuôn thiêng: còn gọi “khuôn xanh”, từ trỏ “ông Trời” vậy.
[3] Vô thường无常: “Thường” là cái bất biến, thường hằng. Vô thường có nghĩa biến hóa vô định vậy. Nhà Phật cho rằng vạn vật trong thế gian đều nằm trong vòng sinh khởi, biến dị, hoại diệt, thế nên không có thứ gì hữu thành bất biến cả.
[4] Phù sinh浮生: Sách “Trang tử” có câu “其生若浮Kỳ sinh nhược phù” (cuộc sông như trôi nổi), cho rằng đời người trôi nổi vô định, sau người ta mới gọi đời người là cõi “phù sinh”.
[5] Chóc mòng: từ Việt cổ, tức “trông mong, ngóng đợi” vậy.
[6] Tịnh thổ净土: là thế giới thanh tịnh không có sự nhuốm bẩn của năm thứ ô trọc (kiếp số, vận mệnh, chúng sinh, phiền não, kiến văn) theo nhà Phật.
[7] An Hòa安和门: tên một cổng ở cố đô Huế, ngày 4.6.2008, sau khi tế đàn Nam Giao, trời Huế mưa to, sét đánh trúng một góc cổng An Hòa. (Nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt tên thật là Phan Văn Hòa)
[8] Tả Vọng左望湖: tức Hồ Gươm, ngày 25.5.2008, giữa khu vực Hồ Gươm có sấm có mưa.(...)
[9] Ai dung哀容: khuôn mặt đau buồn.
[10] Kinh luân经纶: việc se sợi, sau trỏ ý chỉnh lý quốc sự, rồi phiếm chỉ tài năng trị nước, học vấn...
[11] Rạch Giá: một tỉnh thuộc Nam Bộ. Ý trỏ năm 1941-1945, tiên sinh tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền ở tỉnh Rạch Giá vậy.
[12] Túc mễ粟米, cơ hoang饥荒: tức “thóc gạo”, “đói kém”. Ý trỏ tiên sinh từng chỉ đạo bộ hạ thu mua lúa của dân theo giá tương xứng mà cứu cho thành Sài Gòn khỏi nguy cơ đói vậy.
[13] Cờ mao旄节, tham đố贪妒: “Cờ mao” là cờ của sứ giả, cũng là cờ của trưởng quan quân chính trấn giữ một phương. “Tham đố” tức tham lam, đố kỵ vậy.
[14] Mũ lại: tức “mũ quan”, ý trỏ tiên sinh làm tròn phận sự, ân uy rõ ràng vậy.
[15] Vó câu白驹过隙: “câu” tức “ngựa câu”, loài tuẫn mã lông trắng vậy. Sách “Trang tử” có câu: “Con người sinh ra trong vòm trời đất, tựa như con bạch câu chạy qua cửa sổ, chỉ trong thoáng chốc mà thôi.” Câu “bóng câu qua cửa” hay “bóng vó câu” trỏ ý thời gian vùn vụt trôi qua vậy.
[16] Chí thiện至善: Sách “Đại học” có câu “大学之道,在明明德,在亲民,在� �于至善Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện” nghĩa là “Cái đạo của Đại học là ở chỗ làm sáng cái Đức sáng, là ở chỗ khiến đời sống dân chúng đổi mới, và khiến người ta ở vào cõi rốt ráo của cái Thiện.”
[17] Nhật tân日新: Cũng trong sách “Đại học” có câu: “苟日新,又日新,日日新Cẩu nhật tân, hựu nhật tân, nhật nhật tân” nghĩa là “nếu hàng ngày đổi mới, ngày ngày đổi mới, thì càng ngày càng mới.” Câu này ý trỏ tiên sinh có công lớn trong sự nghiệp Đổi mới của đất nước, đồng thời làm nhiều việc tốt, việc thiện cho nước, cho dân vậy.
[18] Đòi phen, năng nỏ: (từ cổ) “Đòi phen” tức nhiều phen, “năng nỏ” nghĩa là gắng sức.
[19] Quỳnh tương琼浆: tên gọi tao nhã của thức “rượu” vậy.
[20] Bần bạc贫薄, gia tư家资: “Bần bạc” là “nghèo nàn, bạc mọn”. “Gia tư” tức tài sản trong nhà vậy.
[21] Kiền thành虔诚: chân thành, thành khẩn vậy.