Thứ Ba, 7 tháng 6, 2011

ÔNG PHAN CẨM THƯỢNG KỂ CHUYỆN VIẾT SÁCH

Thưa chư vị,

Vậy là trải bao nhiêu ngày - tháng  - hạ  - thu - đông, ròng rã chờ mong cuốn sách của Ông Phan Cẩm Thượng về sự văn minh của người Việt, đến bây giờ đã thấy đây! Cuốn sách đã được lưu hành trên khắp cả nước.

Cuốn sách dày dặn, in ấn đẹp và tinh tế với cả ngàn hình ảnh minh họa rất tỷ mỉ và đẹp, phần lớn là do tác giả Phan Cẩm Thượng vẽ. Đây là cuốn sách đầu tiên về văn minh người Việt được minh họa cụ thể như vậy. Cuốn sách được viết với một lối văn riêng đầy hấp dẫn, dẫn dụ người đọc đi về quá khứ xa xăm của dân tộc, ở đấy nhiều khoảng trống về nhận thức cần được lấp đầy, nhiều khoảng tối cần được soi rọi. Phan Cẩm Thượng cứ thế nhẩn nha trò chuyện, lôi kéo người đọc. Đọc cuốn sách, người ta cảm nhận được rằng, Phan tiên sinh đã "thổ tận can tràng" trong từng con chữ, đã viết cuốn sách (với hai chục năm chuẩn bị) với tất cả hiểu biết, trải nghiệm và tình yêu của mình đối với đất nước ông bà rất cụ thể, độc đáo. Nhiều đoạn, tác giả khiến người đọc bâng khuâng và rưng rưng trong niềm hoài niệm về một nước Việt cổ xưa. Đó đây là cái nhìn đầy hóm hỉnh, trêu cợt của một lữ khách từng trải...

Lâm Khang tôi thiển nghĩ, mỗi gia đình, mỗi trường học nên có một cuốn sách này. Đây là cuốn sách không để đọc trong chốc nhát mà phải đọc trong cả cuộc đời. Đọc rồi, truyền lại cho con cháu đọc.

Hân hoan chúc mừng ông Phan Cẩm Thượng và cảm ơn ông đã trao cuốn sách quý cho tất cả chúng ta!  

Tôi viết cuốn Văn minh vật chất của người Việt

PhanCẩm Thượng

Hoạ sỹ Paul Gauguin trong một tácphẩm vẽ ở Tahiti có lấy chủ đề: Chúng ta làai? Chúng ta từ đâu ra? Chúng ta đi về đâu?. Đó là những câu hỏi lớn mà bất cứdân tộc nào, cá nhân nào cũng phải tự hỏi và tự giải đáp cho mình. Viết vànghiên cứu lịch sử là cách lý giải những câu hỏi đó, tuy nhiên người ta đã quanniệm lịch sử rất hẹp hòi, như là lịch sử chính trị, lịch sử chiến trận hay lịchsử của các triều đại thống trị, mà quên mất con người đã từng tồn tại bằng rấtnhiều phương diện khác. Lịch sử nghệ thuật cũng là một con đường lớn, mà chínhmột thế chế, một thời đại qua đi, nó trở thành nhân chứng duy nhất (như Kim tựtháp Ai Cập). Đồ vật và sinh hoạt ngày thường cho mãi đến gần đây mới là đốitượng bổ xung cho nghiên cứu lịch sử. Ăn ở của con người như thế nào nói lênđược nhiều điều mà lịch sử to tát của các vương triều không lý giải thỏa đáng.Tôi bắt đầu hình thành cuốn Văn minh vậtchất của người Việt sau một thời gian dài nghiên cứu nghệ thuật thuần tuý,khi thấy bên cạnh những kiến trúc tranh tượng còn có những vật dụng thôngthường mà qua đó có thể hiểu được bước đi của dân tộc. Xem những bảo tàng dântộc học và lịch sử tự nhiên đem lại những gợi ý khác và nhất là những cuốn sáchmà trước đây ông Thái Bá Vân từng nhắc tôi nên đọc như: Đời sống hàng ngày của người Hy Lạp, La Mã. Cuốn Cấutrúc vật chất trong đời sống thường ngày (The Structures of EverydayLife) của ông Fernand Baudel (1902 - 1985) đã đem cho tôi những gợiý sâu sắc về phương pháp luận, để từ một mặt rất thông thường của đời sống, nhưngựa xe, lương thực mà hiểu lịch sử và con người đã như thế nào trong lịch sử.

Sự phát triển của cái bát là điềuđầu tiên và rất cụ thể mà tôi chú ý đến. Từ chỗ con người ăn bốc, chụm hai bàntay vào hụm nước, bổ đôi hoa quả, cái bát hình thành như một đồ đựng quan trọngvà biến thiên lúc thì như cái thuyền (bát thuyền) lúc thì như bông hoa sen, hoasúng (bát Lý Trần), rồi lại như thân hình thắt eo của người phụ nữ (bát chiếtyêu). Rồi từ đây tất cả đồ vật bỗng trở thành quan trọng để nhìn nhận đời sốngtrong quá khứ. Tôi băn khoăn cái rìu, cái cuốc, cái cầy và bánh xe đã ra đời vàthay đổi như thế nào, khi nào thì người Việt bước vào nền nông nghiệp, thay vìsăn bắn hái lượm trong kinh tế tự nhiên. Mọi thứ đã hiện lên sinh động. Tất cảcông cụ lao động và đồ vật, giống má không có sẵn, không có đồng thời cùng mộtlúc, chúng hình thành dần dần trong lịch sử và thay đổi theo thói quen canhtác, theo địa lý, và dẫn đến các tập tục văn hoá. Đê đến thế kỷ 11 mới đắp, nềnnông nghiệp quy mô mới chính thức bắt đầu. Vì kèo gỗ mới tìm thấy sớm nhất ởthế kỷ 13, chè Lam thế kỷ 15 mới có, thuốc lá năm 1660 mới chính thức được hút,xu hào, cà chua, bắp cải, súp lơ thế kỷ 17 mới được đưa vào Việt Nam theo nhữngthương thuyền châu Âu, phở thì đầu cuối thể kỷ 19 đầu thế kỷ 20 mới  có, chiếc áo dài tân thời mới được cải tiếnnăm 1930. Từng thứ từng thứ có nguồn gốc, có ngày sinh tháng đẻ, lịch sử khôngphải là truyền thuyết, không có sẵn từ đầu tất cả mọi thứ. Nhìn sang phương Tâycũng như vậy thôi, thế kỷ 18, ở thành Parishàng ngày có đến 20 ngàn người đổ thùng và xe nước cho các thị dân, những ngườinghèo thì ra đầu các cống thải tắm giặt. Do thuốc ho lao chưa có nên các côngnương xinh đẹp rất ít tắm vì sợ sưng phổi. Ở ta cũng vậy, có thời nhà nôngkhông ăn bữa tối, bữa cơm hàng ngày không biết đến thịt là gì. Lúa Chiêm chưađược biết đến ở thế kỷ 2 ở Bắc bộ và cây lúa nương đóng vai trò chính trong cấytrồng lúc đó.

Văn minh bắt đầu từ cái rìu mộtthứ vũ khí kiêm công cụ và cái này đẫy rẫy trong văn hoá Đông Sơn, tiếp sau làcái cuốc một công cụ có tính thế giới ở mọi dân tộc sơ khai, cuối cùng là cáicầy do gia súc kéo. Đến cái cầy chưa hẳn là nền nông nghiệp và nông dân đã hìnhthành, còn phải có một thứ nữa là vụ mùa, thuần dưỡng chăn thả và quần cư làngmạc. Từ đây con người bước vào giai đoạn suy thoái hay phát triển người ta cònphải tranh luận, vì nông nghiệp làm mất hẳn kinh tế tự nhiên, suy thoái hàngloạt giống má trong tự nhiên và con người phụ thuộc một cách bấp bênh vào vụmùa, lại do mưa nắng quyết định. Song chính nền nông nghiệp đã dẫn đến sự hìnhthành của nhiều quốc gia. Ở lưu vực sông Mê Kông, cây lúa nước có nguồn gốc từvài giống lúa từ Tây Tạng đã tạo ra các vựa lúa lớn và dẫn đến các quốc gia cácnền văn hoá đặc sắc. Đó là Nam Chiếu, Đại Lý ở nam Trung Hoa, Burma (Myanma)với nền nghệ thuật Pagan, Lào và Siem với Luang Phabang và Sukhothai, Phù Namvà Camphuchia với Angko, rồi ngược lên trung bộ Việt Nam là Champa với Mỹ Sơn,trong khoảng thời gian từ đầu công nguyên đến thế kỷ 7. Vựa lúa sông Hồng, sôngThái Bình và sông Mã được hình thành theo cách khác dẫn đến quốc gia Đại Việtmuộn hơn mặc dù lịch sử của người Việt cũng lâu dài.


Khi đê chưa được đắp các thửaruộng có thể cấy trồng vào mùa khô với chất đất khá xốp. Cái lưỡi cầy Đông Sơncho thấy nó được bố trí nằm gần như bằng với mặt đất. Khi nước sông không cònvào được ruộng nữa, đất trở nên rắn và cái lưỡi cầy buộc phải nằm nghiêng. Cầychìa vôi ra đời trong khi đó người Trung Hoa vẫn cầy bằng cái cầy có guốc cầylà trên mặt ruộng. Cái này người Hán gọi là sàngcầy hay để (đáy) cầy. Người Nhật thì dùng cả hai loại gọilà vô sàng lê (cầy không guốc - giốngcầy chìa vôi ta) và hữu sàng lê (cầycó guốc - giống cầy Hán). Cái sàng cầy lại được làm theo 3 kiểu ngắn, vừa vàdài, tuỳ theo địa hình. Người Champa thì lại học lối cầy Ấn Độ, có cái cầynương mũi quặp xuống như mỏ chim, và cầy ruộng nước như cầy Việt. Tuy nhiên cầyChampa khá nặng và to phù hợp với hai bò kéo. Sự ảnh hưởng của văn hóa TrungHoa và Ấn Độ không chỉ trên các bình diện tinh thần mà ngay ở canh tác nôngnghiệp, người Việt tiếp nhận được cả giống lúa Chiêm từ phương Nam, giống lúanương sau chuyển thành cây lúa mùa từ phương Bắc và rất nhiều loại hình công cụtừ hai phía, bên cạnh đồ dùng, binh khí, nhạc cụ, y phục thì cũng có hai xuhướng như vậy, trong đó sắc thái Nam Á là chủ đạo và là huyết mạch trong vănminh vật chất của người Việt, đặc biệt là đời sống dân gian thường nhật, cònvua chúa quý tộc lại đam mê những kiểu cách Trung Hoa.

Sông nước và con thuyền gắn bóvới người Đông Sơn sau đó là người Việt từ thời thượng cổ với con thuyền độcmộc ban đầu, khi sống thì con thuyền là nhà, khi chết thì con thuyền là mồ. Đâychính là điểm khác nhau giữa văn hóa Việt - Mường khi con thuyền không mấy ýnghĩa với người Mường, mặt còn lại người Việt và người Mường chung nhau rấtnhiều điểm, về ngôn ngữ, lối ăn gói lá và đồ, lối quấn vải làm khăn, áo ngực vàváy, cách thức canh tác và chế tạo nông cụ. Dấu ấn con thuyền trở thành hìnhtượng trên mái đình làng và thủy binh cũng là một thành phần mạnh trong quânđội phong kiến. Cái xe ít được nhắc đến và có vẻ rất thô sơ cho đến tận đầu thếkỷ 20, người Việt chưa bao giờ chế tạo được cái xe ngựa chạy tốc độ cả. Tấtnhiên xe trâu bò kéo, xe cút kít đẩy tay cũng được dùng phổ biến và chủ yếu làchuyên chở nặng. Xe ngựa và kỵ binh trong quân đội phong kiến rất kém và hầunhư không được dùng trong chiến trận.

Sự ra đời của cái bánh xe đượccoi như là mốc phát triển quan trọng của loài người. Có người cho rằng cái bánhxe hình thành từ cái cối đá cổ xưa, hay bàn nghiền, con lăn… đều lấy nguyên lýquay tròn làm chuyển động. Với người Ấn Độ bánh xe - pháp luân có nguồn gốc từmặt trời và thể hiện sự bất tận của cuộc sống. Trong văn minh Ai Cập và TrungHoa, bánh xe và xe ra đời khá sớm, có lẽ đến hai ngàn năm trước Công nguyên,sau đó đến cỗ xe Hy Lạp nổi tiếng trong lịch sử chiến trận chừng 500 năm trướcCông nguyên. Từ bánh xe có nhiều quan hệ với guồng nước, cối xay nước, cối xaygạo, cối ép mía… mà người Trung Hoa đều gọi là Xa cả, tức là chuyển động của một đồ vật dựa trên nguyên lý quaytròn. Cái xe trong văn minh Việt không đóng vai trò lớn, ngay cả trong quân độiCho đến đầu thế kỷ 20, nông dân vẫn dùng chủ yếu là xe trâu kéo thô sơ, bánh làmột phiến gỗ đặc và xe cút kít gỗ một bánh di chuyển rất chậm, chuyên chở cũngkhông nhiều.

Từng thứ từng thứ, gây cho tôi sựtò mò vô hạn về xuất xứ, công năng và sự thay đổi của nó theo thời gian, sự sửdụng, mỗi đồ vật đều có khả năng nói lên con người sử dụng nó như thế nào, thờibuổi sinh ra nó ra sao. Đó chính là cánh cửa mở ra cái nhìn lịch sử theo mộtcách khác không sách vở. Khi bắt tay viết, tôi mới thấy mình chạm vào một lĩnhvực quá sức, làm sao một cá nhân có thể biết hết được những gì dân tộc trảiqua, tôi bèn xác định những công cụ và đồ vật chính, đối chiếu nó với những đồvật trong các nền văn minh tương tự có liên quan với xã hội nông nghiệp cổ ViệtNam, từ đó gắng lần ra sợi dây xuyên suốt sự phát triển, ví dụ như từ cục đásinh ra cái rìu, con dao, cái đục, cái búa. Khi đụng chạm vào một thế giới mênhmông như vậy, nhiều khi tôi cảm thấy có một người nào đó rất cổ xưa đọc chomình chép, cứ thế cứ thế, liên tục qua đêm này đêm khác, và tôi cũng nhanhchóng hình thành xong cuốn sách vài trăm trang. Công việc song song là nhờ mộtbạn trẻ đi chụp ảnh minh họa và tự mình đến những nơi có đồ vật vẽ lại. Riênghơn 1500 minh họa ảnh và tư liệu cũ, hình vẽ, bản thân nó cũng là một công việckhông nhỏ và tốn kém, kéo dài trong suốt sáu năm qua. Bao nhiêu câu chuyện vềđời sống quá khứ và ngay hiện tại khi chúng tôi đi làm sách cũng đáng để viết ra và tôi xin tặng cuốn sách này cho các bạn trẻ khi muốn tìm hiểu xem cha ôngđã ăn mặc, làm lụng, khai nền mở đất như thế nào. Mỗi vùng các bạn sống đều cónhững đồ vật nhất định, những tập tục bản nguyên và các bạn có thể viết thêmvào cuốn sách những gì tôi chưa biết, coi đó như là một công việc chưa kết thúccần viết tiếp.

PhanCẩm Thuợng
2011

 *Các hình ảnh trong bài trích từ sách Văn minhvật chất của người Việt.

Bài đọc thêm:
Ông Phan Cẩm Thượng truy nguyên sự "đểu cáng"
.
Ông Phan Cẩm Thượng, một nhà phê bình và nghiên cứu mỹ thuật có tiếng ở nước ta vừa viết xong cuốn sách về văn minh vật chất của người Việt. Chắc ông viết cuốn này trong thời gian ông bỏ nhà sang ở chùa Bút Tháp bên Kinh Bắc. Sách rất dày, và nhiều hình ảnh. Tôi cũng đã đọc nhiều sách về văn minh Việt, nhưng chưa thấy có cuốn nào được như cuốn này. Mỗi lời ông nói, mỗi thứ ông kể đều có hình ảnh minh họa, do chính tay ông họa ra. Ông viết rất tỉ mỉ và giàu chất văn chương, lại lắm giọng. Đọc sướng lắm! Mở cuốn sách ra, là ta như được ngồi bên ông, bên một mẹt đồ nhắm, với cái be sành để bên cạnh, mà ông thì cứ vừa thủ thỉ rót rượu, vừa thủ thỉ kể câu chuyện của ông. Nghe đồn rằng Ông Chu Hảo ở nhà Tri Thức sẽ in cuốn này vài vạn bản.

Bản thảo hoàn thành, ông Phan Cẩm Thượng đưa cho 3 người đọc. Đó là 2 nhà văn Nguyên Ngọc, Hoàng Giá (bên Kinh Bắc) và tôi. Thật vinh dự lắm! Ông chơi với bọn tôi đã lâu, nhưng tôi chẳng bao giờ dám nghĩ có ngày ông cho mình đọc bản thảo và nhờ góp ý như thế này! Ông mang bản thảo đến tận nhà tôi, trong một đêm mưa gió, điều này làm tôi quá xúc động. Và bất ngờ đến với tôi trên từng trang sách của Phan. Hiện lên ngay trang mở đầu sách là hình ảnh bà nội của ông (cũng là bà nội tôi) “bà cụ bận váy sồi vuông, thắt bao tượng xanh, yếm trắng và khoác bên ngoài áo cánh, đầu đội nón thúng”. Thân thương quá chừng! Ông chay tịnh tắm gội niệm Nam mô A Di Đà Phật và xin dâng cuốn sách như lời tri ân của ông đối với Đất Nước và Mẹ Cha!

Hiện lên trong sách ông Thượng là con thuyền cổ xưa, là bến sông, con đò, xe cộ thuyền bè, là chày cối, rìu đồng, thúng mủng giần sàng, là cơm là gạo, là lúa ngô khoai sắn, là mắm là bánh cùng là hoa quả. Ta như được sống lại trong thời xưa cũ của những vàng son dĩ vãng trên các đồ thờ, của đồ trang sức gái Việt, cung kiếm của võ sĩ, nhạc khí của phường bát âm, tứ bảo văn phòng của văn nhân sĩ tử, và đình chùa đền miếu trăm năm nghìn năm còn là chốn trú ngụ, chở che của cả người và thần thánh. ….

Xin mạn phép ông để giới thiệu về một đoạn ông tả về Một ngày của người Việt qua bốn hạng dân Sỹ - Nông - Công - Thương. Đoạn này viết về Người lái buôn (Thương):

"Chàng lái buôn chít lại khăn đầu rìu, xốc hầu bao có túi tiền rủng rẻng, bao khăn khoác vai đựng quần áo, bước ra khỏi quán phở, rồi ra bến thuyền Sơn Tây. Trên thuyền những người dân Mường đã chất vài bao hương liệu, thảo dược, qua Hương Canh, lái buôn sẽ nhập thêm ít gốm sành, rồi xuôi Thăng Long và Phố Hiến. Đám dân Đểu Cáng đã về hết (chỉ những người gánh thuê, Đểu là một người gánh hai thùng hai bên, Cáng là hai người gánh chung một đòn, thúng ở giữa). Từ Sơn Tây xuống Kẻ Chợ chừng năm sáu mươi cây, nhưng theo đường sông Hồng phải bảy tám mươi cây, một ngày đò mới tới. Quá trưa thuyền dừng quảng Phúc Yên, cập bến nghỉ ăn và mua đồ gốm, chiều đò xuôi tiếp bến Chương Dương, khách và chủ thuyền cởi dải rút quần lá tọa, vạch chim đái tồ tồ xuống mặt sông, xốc lại áo quần rồi chuyển hương liệu lên bờ. Ở lại Thăng Long chừng ba hôm, chàng lái buôn nhập thêm ít lụa Hà Đông, đi chơi cô đầu, chàng trọ nhà một người quen ở phố Thuốc Bắc. Thuyền lại đi xuống Bát Tràng, chàng mua vào chục lô bát chiết yêu, lục bình cỡ lớn, rồi đi Phố Hiến giao hàng. Hàng chục ngày lênh đênh trên sông, gặp bến thì lên bờ ăn nghỉ, còn không thì thổi nấu trên thuyền, nếu đi quá lâu, chủ thuyền cũng đành đồng ý cho gã lái buôn cắp theo một cô đào quá lứa cho vui chuyện. Tắm rửa thông thường dùng nước sông, trừ khi khan hiếm còn không chủ thuyền thường tích nước mưa nấu ăn và pha trà. Đêm ngồi đầu thuyền ngắm trăng, thưởng trà cũng thật là thanh cảnh".
 
Nguyễn Xuân Diện

QUỐC HỘI KHÓA XIII - VÀ NHỮNG THÁCH THỨC


CÁC VỊ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI KHÓA XIII CÓ MANG NỖI GÁNH NẶNG TRÊN VAI?
Bùi Công Tự

Nhân kết quả bầu cử QH khóa XIII vừa công bố, tôi muốn tâm sự đôi điều với các vị vừa đắc cử - những người đã được đa số nhân dân cả nước gửi gắm niềm tin qua lá phiếu của mình ngày 22/05/2011.

Tôi xin chân thành chúc mừng các vị. Các vị đã đạt được vinh dự lớn lao mà những người như chúng tôi có hoang tưởng cũng không dám mơ đến.

Nhưng đi cùng với vinh dự ấy là cả một trọng trách nặng nề mà các vị phải gánh vác trước Tổ quốc và Nhân dân. Ở cương vị tầm quốc gia của mình, chắc các vị đều nhận thức rõ điều này? Cho nên vui mừng đấy cũng là lo lắng đấy!

Cách đây 4 năm (năm 2007) Quốc hội khóa XII bắt đầu trong một không khí phấn chấn tràn đầy hy vọng. Bốn năm mới bấy nhiêu ngày, mà tình hình đã đổi thay quá nhiều. Quốc hội khóa XIII này sẽ bắt đầu với một tâm trạng nhiều ưu tư, lo lắng? Bởi vì đất nước ta lúc này đây đang phải đối diện với những thách thức khốc liệt, sống còn về bảo vệ độc lập chủ quyền và về công cuộc xây dựng phát triển. Tức là Quốc hội và từng vị đại biểu cũng phải đối diện với những thách thức khốc liệt ấy.

Nhưng theo tôi, điều đó chưa hẳn là không tốt. Trái lại nó sẽ làm cho Quốc Hội ta trưởng thành nhanh chóng hơn để đáp ứng đòi hỏi của cuộc sống và thời đại.

Dưới đây tôi xin trình bày một cách khái quát nhất những thách thức, mà theo tôi, Quốc Hội khóa XIII phải vượt qua.

Thưa các vị, thách thức gay go nhất đối với chúng ta hiện nay là dã tâm xâm lược nước ta của nhà cầm quyền Bắc Kinh. Dòng máu bá quyền Đại Hán cộng với cơn khát năng lượng ghê gớm đã biến Trung Quốc thành một đế quốc kiểu mới. Việt Nam với biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa, nơi có vị trí địa lý chiến lược lại tiềm tàng nguồn năng lượng dầu mỏ và khí đốt khổng lồ là mục tiêu đánh chiếm đầu tiên của chúng. Thủ đoạn của chúng ngày càng thâm độc, hành động của chúng ngày càng ngạo ngược.

Tất nhiên tôi không đánh đồng những người dân Trung Quốc yêu chuộng hòa bình với những kẻ mang nặng tư tưởng bá quyền.

Nhiều năm qua, theo dõi hoạt động của Quốc Hội tôi nhận ra một số vị ĐBQH còn mơ màng với chiêu bài “phương châm 16 chữ vàng” và” nội dung 4 tốt”  mà những người cầm đầu Đảng CS Trung Quốc đem ra lừa phỉnh. Một đảng đã dã man sát hại cả những lãnh tụ trung kiên của mình (như Vương Minh, Bành Đức Hoài, Lưu Thiếu Kỳ, Lâm Bưu và rất nhiều người khác) thì làm gì có tình nghĩa với các “đồng chí” Việt Nam?  Đích danh nó là “kẻ to xác xấu tính”!

Như vậy Quốc Hội khóa XIII mà các vị là thành viên  có nhiệm vụ cực kỳ khó khăn là chặn đứng âm mưu xâm lược nước ta của nhà cầm quyền Trung Quốc, bảo vệ trọn vẹn chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải quốc gia.

Nếu Quốc Hội tin tưởng ở nhân dân, đoàn kết được nhân dân thì tôi tin rằng Quốc Hội sẽ hoàn thành được nhiệm vụ này.

Thách thức thứ hai đối với Quốc Hội khóa XIII, theo tôi, là một nền kinh tế nhiều yếu kém. Lợi nhuận rất thấp từ các Tập đoàn kinh tế nhà nước, có Tập đoàn thực chất phá sản như Vinashin. Nợ nước ngoài cao, nhập siêu lớn, công nghiệp không đồng bộ… Dẫn đến lạm phát hiện nay đang ở mức trầm trọng, giá cả tăng chóng mặt, đe dọa đời sống người lao động và dân nghèo. Điều đó có phần nào ảnh hưởng từ sự bấp bênh của kinh tế thế giới nhưng nguyên nhân chủ yếu là” tại ta”. Đó là sự yếu kém trong quản lý nhà nước, sự vô nguyên tắc, thiếu hiểu biết, thiếu minh bạch, chỉ thấy lợi trước mắt, nạn tham nhũng và coi thường pháp luật của chính những người cầm cân nẩy mực.

Đó cũng là nguyên nhân làm cho các ngành văn hóa, giáo dục, khoa học, y tế…cứ mãi lạc hậu, gây bao bức xúc trong nhân dân.

Nhà nước và nhân dân hàng năm đã phải chi khoản tiền khổng lồ cho giáo dục mà con cái chẳng học hành được mấy kiến thức. Đã xảy ra cái gọi là “tỵ nạn giáo dục”, dẫn đến hàng tỷ USD chảy ra nước ngoài.

Nhiều giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể bị hủy hoại, lu mờ. Văn học nghệ thuật nhạt nhẽo, học mót nước ngoài một cách ngô nghê, lệch lạc. Đáng lo ngại hơn là tình trạng tha hóa của đạo đức xã hội.

Liệu Quốc Hội khóa XIII có thay đổi được tình thế? Đây là gánh nặng thứ hai trên đôi vai các vị, thưa các vị Đại biểu QH!

Vậy để mang nổi gánh nặng lịch sử ấy trên vai, QH khóa XIII phải như thế nào? Câu trả lời ở nơi 500 nghị sĩ của chúng ta.

Về phần tôi, một công dân, đã suy nghĩ thì lại cứ muốn nói ra. Tôi xin bạn đọc một hai phút để trình bày những mong mỏi của mình với QH của chúng ta.

Trước hết tôi mong muốn Quốc Hội khóa XIII thật sự là Quốc Hội mạnh. Đó là một Quốc Hội khẳng định vị thế quyền lực cao nhất của mình.

Mạnh cũng tức là dám quyết. Không phải là những quyết định thông thường mà là những quyết định chưa từng có. Ví dụ quyết định bỏ phiếu bất tín nhiệm như nghị viện các nước văn minh hơn ta vẫn làm (Nhật Bản chẳng hạn).

Tôi cũng mong muốn Quốc Hội khóa XIII là một Quốc Hội trí tuệ. Không phải tôi mơ có thêm 500 Ngô Bảo Châu mà đơn giản là tôi muốn bớt đi những nghị sĩ bấm nút theo kiểu “đẽo cày giữa đường”, những nghị sĩ phát ngôn như quý ông có câu nói “nổi tiếng” về chỉ số IQ hồi nào. Đơn giản là tôi mong tất cả các vị đại biểu đều thạo Internet, chịu đọc blog và đủ kiến thức để nghe phản biện xã hội, định hướng cho những quyết định của mình.

Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội!

Tôi xin trân trọng chuyển đến Quốc hội khóa XIII thông điệp sau đây:

“Từ chỗ được coi là lương tâm của thời đại, giờ đây danh dự của người Việt Nam đang bị hạ thấp trước con mắt của thế giới, bởi sự kém cỏi và những thói hư tật xấu của nhiều người chúng ta, cùng những hệ lụy của nó”.

Năm năm cho một khóa Quốc hội.
Năm năm cũng đủ thời gian cho những thay đổi.
Các vị ĐBQH đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân.

Hãy đồng hành cùng nhân dân, nghĩa là hãy lên đường (và cả xuống đường) cùng nhân dân ta!

TP HCM, ngày 06 tháng 06 năm 2011

Bùi Công Tự

Thứ Hai, 6 tháng 6, 2011

GIỚI THIỆU BÀI VỞ NGÀY MAI

Thưa chư vị,

Cám ơn chư vị đã nhộn nhịp ghé thăm, với 4,7 vạn lượt trong ngày hôm nay. Và cũng xin cảm ơn đến các vị đã quan tâm gọi điện thoại, gửi e-mail thăm hỏi, thậm chí có vị còn đến tận nhà để thăm hỏi Lâm Khang chủ nhân.

Dự kiến ngày mai, NXD - Blog có các bài vở sau:

- Bài của Giáo sư Chu Hảo về tinh thần của dân tộc Việt Nam - qua quan sát cuộc biểu tình ở Tp Hồ Chí Minh và Hà Nội. 

(Kèm theo là những hình ảnh của các giáo sư, tiến sĩ, nhân sĩ trí thức Tp HCM xuống đường phản đối nhà cầm quyền Bắc Kinh, ảnh do bạn đọc cung cấp).

- Bài của Bùi Công Tự về những thách thức đối với Quốc hội và các Đại biểu Quốc hội Khóa XIII.

- Giới thiệu lại chùm bài về cuốn sách Văn Minh Vật chất của người Việt của tác giả Phan Cẩm Thượng, với các bài viết của Nguyên Ngọc, Phan Cẩm Thượng.

- Lâm Khang chủ nhân có bài viết về bộ phim thể hiện việc "cõng rắn cắn gà nhà", "bó giáo quy hàng" trước Trung Quốc đang được ông Hoàng Tuấn Anh (Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch) và ông Trần Bình Minh (Đài TH Việt Nam) hợp sức đưa lên sóng đài truyền hình quốc gia.

Đêm nay Hà Nội sau mưa rất mát giời, Lâm Khang chủ nhân không dám giữ chư vị ngồi lâu thêm nữa ở hiên trà. Và chúc các vị, đặc biệt là các bạn trẻ (30-45) được ngon giấc (trường hợp có tập trận xin cũng hết sức khẽ khàng, không manh động, làm ảnh hưởng đến giấc ngủ của các bạn nhỏ bên cạnh).

Lâm Khang kính trình!


LỜI CẢNH BÁO GỬI TỚI CÁC DOANH NGHIỆP

Kính gửi anh Diện,

Tôi là Hứa Văn Cởi, người lao động tự do bán thất nghiệp ở Ba Vì, HN. Mỗi khi có điều kiện vào mạng internet tôi đều ghé thăm blog của anh. Tôi muốn góp một tiếng nói vào hy vọng ngăn chặn phim Đường tới Thăng Long lên sóng.

Vậy gửi anh bài này, nhờ anh đăng bài nếu có thể.
Trân trọng cảm ơn anh!
HVC

CẢNH BÁO MỘT SỐ DOANH NGHIỆP QUẢNG CÁO TRÊN VTV3
VÀO GIỜ PHÁT SÓNG PHIM
“LÝ CÔNG UẨN - ĐƯỜNG TỚI THÀNH THĂNG LONG”

Những năm đầu thế kỷ 20, trong dân gian lưu truyền câu “Nhất Sĩ, nhì Phương, tam Xường, tứ Bưởi”. để chỉ một số người giầu có nhất nước lúc bấy giờ. Ta lưu ý rằng Bưởi (chỉ nhà tư sản dân tộc Bạch Thái Bưởi) chỉ đứng thứ tư và không phải người duy nhất đứng thứ tư mà vị trí thứ tư còn được dành cho một số đại phú khác: tứ Định, tứ Trạch, tứ Hỏa.

Bạch Thái Bưởi
Ngày nay, những vị khác đã lui vào quyên lãng, duy có tên tuổi Bạch Thái Bưởi thì lại bừng sáng cùng với sự lớn mạnh lên của giới doanh nhân Việt Nam. Ở Quảng Ninh có một cảng biển, ở Hà Nội có một câu lạc bộ doanh nhân và ở nước ta có một giải thưởng cho doanh nhân tiêu biểu mang tên Bạch Thái Bưởi… Sở dĩ như vậy vì ông không chỉ là một doanh nhân đại thành đạt xuất thân đói khổ mà trên hết ông là một người Tự Cường Dân Tộc, Yêu Nước, Thương Nòi. Và vì thế, ông cũng được nhân dân hết sức ủng hộ ,chính tinh thần yêu nước của người Việt đã giúp doanh nghiệp của ông vượt qua những cơn khó khăn ngặt nghèo khi cạnh tranh với người Tây, người Hoa. Nội dung khẩu hiệu người Việt dùng hàng Việt do ông khởi xướng đến nay vẫn giúp nhiều doanh nghiệp, thậm chí Đảng Cộng Sản cũng dùng nội dung này để phát động thành phong trào…

Tôi chưa được xem phim LCU- ĐTTTL nên không thể nói gì về nội dung phim nhưng rõ ràng, dư luận cho tôi thấy tinh thần dân tộc của nhân dân ta đang bị xúc phạm nặng nề vì các cách người ta làm với bộ phim này. Có người đã gọi phim này là “Đường tới Trung Hoa”! Thế mà, giữa khi giặc Tàu đang ngang ngược và trắng trợn xâm phạm chủ quyền ta, gây tội ác với đồng bào ta thì ngày 30 tháng 6 này “Đường tới Trung Hoa” sẽ lên sóng truyền hình. Sao lại thế? Thì đã có rất nhiều tiếng nói bàn rồi, ở đây, tôi chỉ bàn đến khía cạnh quảng cáo của doanh nghiệp.

Nếu xưa cụ Bạch đã thành công vì yêu nước thì nay hình ảnh doanh nghiệp sẽ xấu đi đáng kể (thậm chí  bị tẩy chay) vì đồng lõa với những gì đi ngược lại tinh thần yêu nước thiêng liêng ấy.

Vì vậy, với một thiện chí cao nhất, tôi long trọng cảnh báo tới các doanh nghiệp có hình ảnh quảng cáo khi phim “Lý Công Uẩn – Đường tới thành Thăng Long” được phát sóng.

Hãy Thận Trọng!


Hà nội 5-6-2011
Hứa Văn Cởi

TS CÙ HUY HÀ VŨ ĐÃ TỪNG KIẾN NGHỊ CẤM CHIẾU BỘ PHIM PHẢN QUỐC

Kiến nghị cấm chiếu bộ phim “Lý Công Uẩn – Đường tới thành Thăng Long” của TS Cù Huy Hà Vũ


Lời dẫn của Bauxite Việt Nam: Mặc dù đã được tin Hội đồng duyệt phim quốc gia mở rộng sau khi thẩm định lần thứ hai, có để xuất kiến nghị không công chiếu phim “Lý Thái Tổ – Đường tới thành Thăng Long” trong dịp Đại lễ 1000 năm Thăng Long, nghĩa là từ 1-10-2010 đến 10-10-2010, ông Cù Huy Hà Vũ vẫn khẩn thiết nhờ BVN đăng bản kiến nghị của cá nhân ông gửi Quốc hội xin cấm chiếu bộ phim vĩnh viễn trên phạm vi toàn quốc, vì theo ông, đây là một bộ phim bôi nhọ văn hóa dân tộc một cách hệ thống với dụng ý rất xấu mà với thói quen dùng từ của mình, ông gọi thẳng thừng là “phản quốc”. BVN tán thành đưa bản kiến nghị này lên công luận, bởi theo chúng tôi, tuy Hội đồng duyệt phim đã đi đến những kết luận xác đáng, song về mức độ giải quyết đối với nó thì cách nói có phần quá uyển chuyển của Hội đồng vẫn chừa lại một khả năng là bộ phim có thể sẽ được tự do công chiếu sau ngày Đại lễ kết thúc, mà như thế, tác hại rất nghiêm trọng của nó đối với công chúng, nhất là thế hệ trẻ, vẫn còn nguyên. Kiến nghị của ông Cù Huy Hà Vũ chính là nhằm chấm dứt khả năng nguy hại này mà những người chịu trách nhiệm trước dân tộc không được phép nhân nhượng.

Bauxite Việt Nam

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
———————————————————–
Hà Nội ngày 01 tháng 10 năm 2010
.
KIẾN NGHỊ CẤM BỘ PHIM PHẢN QUỐC
“LÝ CÔNG UẨN – ĐƯỜNG TỚI THÀNH THĂNG LONG”

Kính gửi: QUỐC HỘI VIỆT NAM
UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
Tôi là Cù Huy Hà Vũ, công dân Việt Nam, 24 Điện Biên Phủ, Hà Nội, nhân dịp Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội – Thủ Đô nước Việt Nam, xin gửi tới Quốc hội lời chúc tốt đẹp nhất.

Thưa Quốc hội,

Cũng chính để tôn vinh Thủ đô yêu dấu ngàn năm tuổi của tất thảy người Việt chúng ta, bằng Kiến nghị này tôi yêu cầu Quốc hội khẩn cấp CẤM BỘ PHIM PHẢN QUỐC “LÝ CÔNG UẨN – ĐƯỜNG TỚI THÀNH THĂNG LONG” do Trịnh Văn Sơn, Giám đốc Công ty cổ phần truyền thông Trường Thành sản xuất, Tạ Huy Cường đạo diễn, Đoàn Thị Tình thiết kế trang phục… được chính thức đưa vào Chương trình Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phê duyệt, Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Sinh Hùng làm Trưởng Ban chỉ đạo quốc gia, trước khi được bí mật quay ở trường quay Hoành Điếm, Trung Quốc!

Chỉ những gì mà những kẻ chủ trương tung ra trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng đã đủ cho thấy bộ phim này xuyên tạc lịch sử, xúc phạm vĩ nhân, xúc phạm dân tộc Việt Nam, tóm lại, phản quốc đến cỡ nào!

PHẢN QUỐC TỪ TÊN PHIM

Dân tộc Việt Nam ta có tục “kỵ húy”. “Húy” có nghĩa “kiêng, tránh”, sau được sử dụng để chỉ tên riêng, nhất là của người đã quá cố. Do đó mới có câu “nhập môn vấn húy”, nghĩa là đến nhà ai thì phải tìm hiểu tên riêng của gia tiên người ta để mà tránh.

Các triều đại phong kiến Việt Nam bắt đầu từ Nhà Trần nâng “kỵ húy” lên thành “Quốc húy”, cấm nói, viết tên riêng trước hết của vua. Kẻ nào phạm “Quốc húy” sẽ bị “tru di tam tộc”.

Vậy “Lý Công Uẩn” là tên riêng của Lý Thái Tổ thì chỉ nên sử dụng khi đề cập giai đoạn trước khi Ngài lên ngôi Hoàng đế nước Đại Cù Việt chứ dùng để đặt tên cho một bộ phim đề cập cả giai đoạn sau đó rõ ràng là phạm “Quốc húy”, là hành vi báng bổ, xúc phạm nghiêm trọng người đứng đầu Nhà nước phong kiến Việt Nam, qua đó, xúc phạm nghiêm trọng dân tộc Việt Nam!

Không những thế, Thăng Long chỉ tồn tại với tư cách là “Kinh đô” của nước Đại Cù Việt chứ chưa bao giờ là “thành” với nghĩa đơn vị hành chính thông thường. Do đó gọi “thành Thăng Long” thay cho “Kinh đô Thăng Long” hay “Kinh thành Thăng Long” dứt khoát là hành vi xuyên tạc lịch sử, như thể người Việt không có Vua, không có Kinh đô, và qua đó, không có Nhà nước của riêng mình!

Tóm lại, đặt cho phim cái tên “Lý Công Uẩn – Đường tới thành Thăng Long” là gián tiếp phủ nhận Độc lập dân tộc mà tổ tiên ta đã giữ vững trước phong kiến Trung Quốc cách đây 1000 năm!

PHẢN QUỐC QUA BÚI TÓC ĐẶC “HÁN”

Trong phim “Lý Công Uẩn – đường tới thành Thăng Long”, tóc của vua Lý Thái Tổ được búi trên đỉnh đầu, điều này khác biệt hoàn toàn với cách búi tóc của ngưòi Việt từ xưa tới nay.

Thực vậy, người Việt, nhất là nam giới, từ cổ xưa đã có tục vấn tóc thành một búi sau ót trông như củ hành nên cách búi tóc này được gọi là “búi tóc củ hành”. Hình người trên cán muôi Việt Khê thời đại Hùng Vương cho thấy rõ điều này.

clip_image002

Nhà bác học Lê Quý Đôn (1726 – 1784) trong Kiến văn tiểu lục chép: “Thời nhà Trần, người trong nước đều cạo đầu cho nên trong Sứ Giao châu thi tập của Trần Cương Trung nhà Nguyên chua rằng: “Con trai đầu trọc, người nào có quan chức thì trùm đầu bằng khăn xanh, nhân đân đều như sư cả… Lúc ở nhà để đầu trần, có khách mới đội khăn, nếu đi ra ngoài thì có một người mang khăn đi theo, duy có quốc vương búi tóc, dùng lụa là phủ lấy búi tóc trông xa như luân cân (khăn xếp bằng thao xanh – CHHV chú thích) của nhà đạo sĩ”. 

Nói cách khác, “búi tóc củ hành” là Bản sắc văn hóa đậm đà của dân tộc Việt Nam, là Quốc hồn, hơn thế nữa, là Độc lập dân tộc tiềm ẩn trong từng người Việt yêu nước! Và tiêu biểu nhất cho người Việt biết giữ Quốc hồn – Độc lập dân tộc ấy chính là vua Hàm Nghi: cho đến cuối đời, sau 55 năm bị thực dân Pháp lưu đày tại Alger (thủ đô Algérie) sau công cuộc “Cần vương” bất thành, Ngài luôn để “búi tóc củ hành cùng khăn vấn, áo the như một Tuyên ngôn Trường kỳ kháng chiến.

clip_image004
Vua Hàm Nghi (1871 – 1943)

clip_image006
Ảnh Vua Lý Thái Tổ trong phim

Vậy thì búi tóc trên đỉnh đầu đặc Hán mà Lý Thái Tổ có trong trong phim không chỉ là một sự bội phản văn hóa mà nghiêm trọng hơn, bội phản dân tộc Việt Nam! 

PHẢN QUỐC QUA TRANG PHỤC, KIẾN TRÚC ĐẶC “HÁN”

Về trang phục của vua, trong Lịch triều hiến chương loại chí, ở mục Quy chế về mũ áo của đế vương, Phan Huy Chú (1782 – 1840) chép: Lê Đại Hành lên ngôi, mặc áo long cổn, về sau mặc áo phần nhiều dùng vóc đỏ, mũ sức trân châu… Lý Thái Tông (vị Hoàng đế thứ hai của nhà Lý, trị vì từ năm 1028 đến năm 1054 – CHHV chú thích) mới chế thứ mũ gọi là ‘bát giác tiêu dao’ bằng vàng. Từ đời Lý, đời Trần trở về trước, mũ áo của vua thế nào, không thể khảo cứu được. Xem trong sử có hai thứ kể trên, tạm chép ra đây để biết đại khái”.

Như vậy, trước và sau Lý Thái Tổ, vua ta có dùng mũ đồng nghĩa vị Hoàng đế đầu tiên của Nhà Lý dùng mũ là chuyện không phải bàn cãi. Tuy nhiên, chụp cho Ngài cái mũ nhái từ mũ “Bình thiên” của Hoàng đế Trung Quốc có từ Tần Thủy Hoàng rõ ràng là bất chấp bản sắc văn hóa dân tộc. Thực vậy, mũ “Bình thiên” rất khó, nếu không muốn nói là không thể, dùng cho vua Việt vì mũ này được tạo ra để chụp vào búi tóc trên đỉnh đầu của người Hán trong khi người Việt, như trên đã mô tả, lại để “búi tóc củ hành” sau ót. 

Để nói, nếu cần thiết phải có thì mũ cho Lý Thái Tổ phải được thiết kế có phần lồi phía sau, tương ứng với “búi tóc củ hành” được vén lên mà mũ của vua Gia Long (chân dung do người Pháp vẽ) hẳn là một gợi ý thích đáng.

clip_image008
Vua Gia Long (1762 – 1820)

Vả lại, cho dù độc lập dân tộc vẫn được giữ vững nhưng để giảm thiểu sinh sự từ đế quốc Trung Quốc, Lý Thái Tổ vẫn cử sứ sang nước này để cầu phong và được nhà Tống phong làm Giao Chỉ quận vương, rồi Nam Bình vương. Do đó, không thể có chuyện Lý Thái Tổ dùng mũ nói riêng, trang phục nói chung, y chang Hoàng đế Trung Quốc!

Còn nếu muốn thể hiện ý chí độc lập cao độ của người Việt ta với đế quốc phương Bắc thông qua cái mũ thì lịch sử cũng cung cấp cho ta đủ chất liệu để thực hiện. Thực vậy, khỏi cần nhái mũ “Bình thiên” (bằng Trời) để tỏ ngang bằng với Hoàng đế Trung Quốc mã hãy tạo cho Lý Thái Tổ hẳn mũ “Xung thiên” (chống Trời) có hai cánh chĩa lên trời mà người đứng đầu các triều đại sau của Việt Nam đều đội khi thiết triều hay tế lễ.

Tóm lại, chụp cho Lý thái Tổ cái mũ “Bình thiên” chẳng những không nâng cao được mà ngược lại, hạ thấp đến không ngờ vị thế của nước Đại Cù Việt so với đế quốc phong kiến Trung Quốc vì một trang phục đặc Hán như vậy rất dễ tạo cho người xem cảm giác vua ta là một người Hán được Nhà Tống phái sang cai trị nước Nam! 

clip_image010
Vua Lý Thái Tổ đội mũ “Bình thiên” trong phim Tần Thuỷ Hoàng đế đội mũ “Bình thiên”

clip_image012
Tranh cổ Trung Quốc

Tiếp nối ý đồ thâm hiểm nói trên là áo xống trong phim được thêu thùa rất lộng lẫy, y hệt trang phục của triều đình Trung Quốc trong khi nếu thừa nhận ông tổ nghề thêu ở Việt Nam là Lê Công Hành, đi sứ Trung Quốc vào thời Lê Thái Tông (trị vì từ 1433 đến 1442) – như có nhà nghiên cứu đã nêu – thì trang phục của vua, quan Nhà Lý quyết không thể nào như trong phim.

Áo giáp cũng vậy, rập theo mẫu của Trung Quốc. Đoàn Thị Tình người thiết kế trang phục không giấu giiếm: “Giáp trụ của tướng lĩnh dựa vào tám pho tượng Kim Cương”. Mà Kim Cương nào phải người Việt gì cho cam, là thần tướng hộ vệ Phật pháp – sản phẩm tôn giáo du nhập từ Trung Quốc.

Rồi đàn bà mặc quần, một hình ảnh phải nói thẳng là “quái thai” so với thực tế vì sử chép quân Minh, tức 4 thế kỷ sau, vẫn ra sức cấm phụ nữ ta mặc váy, lẽ dĩ nhiên với mưu đồ đồng hóa cho bằng được dân tộc Việt. Đó là chưa kể đến trang phục của diễn viên quần chúng, tất tật đều “sao y” Trung Quốc.

Trang phục có thể nói là duy nhất mang tính Việt là áo tứ thân dùng cho cung nữ, thế nhưng lại là xuyên tạc lịch sử. Thực vậy, loại trang phục này là của dân nghèo (thời xưa khổ vải do người Việt dệt chỉ rộng 35-40 cm nên phải chắp nhiều mảnh mới thành một cái áo) nên không thể là thứ dùng trong cung đình.

Bên cạnh trang phục thì kiến trúc trong phim cũng góp phần rất đắc lực trong việc xuyên tạc lịch sử Việt Nam theo hướng Việt Nam có nguồn gốc từ Trung Quốc. Điện Kính Thiên trong Hoàng thành Thăng Long còn lưu lại ở thế kỷ XIX chỉ có 2 mái thế nhưng trong phim cung điện 8 thế kỷ trước đó lại có những 3 mái; kiến trúc đặc thù Việt là mái đao uốn lên trời một cách tinh thế thì được thay bằng mái nhọn hoắt…

clip_image014
Điện Kính Thiên trong Hoàng thành thăng Long thế kỷ XIX

clip_image016
Cung điện trong phim

Đến đây, một câu hỏi không thể không được đặt ra: một bộ phim phản dân tộc, phản quốc như vậy tại sao có thể được đưa vào Chương trình quốc gia kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, một sự kiện trọng đại không chỉ mang tính lịch sử – văn hóa mà còn mang tầm vóc chính trị rõ rệt?

Công văn số 3055/BVHTTDL- ĐA ngày 14/9/2009 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch do Thứ trưởng Lê Tiến Thọ ký thay Bộ trưởng Hoàng Tuấn Anh gửi Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Sinh Hùng, Trưởng Ban chỉ đạo quốc gia kỷ niệm 1000 năm Thăng Long cho biết Văn phòng Chính phủ bằng Công văn số 5082 giao cho Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nghiên cứu tham gia Dự án xây dựng bộ phim truyền hình “Lý Công Uẩn – Đường tới thành Thăng Long” có sự hỗ trợ từ phía Đài truyền hình ASEAN của Trung Quốc. Cũng tại Công văn trên, Bộ này khẳng định: “Bộ phim “Lý Công Uẩn – Đường tới thành Thăng Long” được hoàn thành hứa hẹn là một công trình nghệ thuật hấp dẫn, mang tầm vóc và ý nghĩa lịch sử to lớn” và “Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch kính trình Phó Thủ tướng xem xét, đưa bộ phim vào nội dung chính thức của chương trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội”. Chẳng chậm trễ, ngày 23/9/2009, Văn phòng Chính phủ gửi Bộ này Công văn số 6599/VPCP – KGVX thông báo “Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Sinh Hùng có ý kiến: Đồng ý”.

Trong trao đổi nói trên giữa Chính phủ và Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch, có 2 phi lý cùng cực:

Thứ nhất, phim chưa làm thì không thể đưa vào nội dung của bất cứ chương trình kỷ niệm nào chứ đừng nói Chương trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội mang tầm quan trọng quốc gia bởi do Chính phủ chủ trì!

Thứ hai, ngay cứ cho rằng bộ phim đã được hoàn tất thì để được đưa vào Chương trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, bộ phim phải được trình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trước đã rồi sau đó nếu thấy ổn thì Bộ này mới có thể đề nghị Chính phủ đưa vào Chương trình. Thế nhưng như ta đã thấy, “Lý Công Uẩn – Đường tới thành Thăng Long lại theo quy trình ngược: “đi” từ Chính phủ xuống Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch để rồi sau đó Bộ này chỉ làm cái việc hợp pháp hóa “việc đã rồi”!

Để nói, chính Chính phủ, chứ không phải ai khác, đã chủ động đưa bộ phim phản quốc “Lý Công Uẩn – Đường tới thành Thăng Long” vào Chương trình kỷ niệm 1000 năm thăng Long –Hà Nội bởi nếu không, hai phi lý cùng cực nói trên khó có thể tồn tại.

Thưa Quốc hội,

Bất luận thế nào, một khi bộ phim phản quốc này được công chiếu thì chắc chắn đó sẽ là thảm họa không chỉ đối với Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội mà còn đối với chính dân tộc Việt Nam vì những lý do đã rõ.

Bởi lẽ trên, tôi kiến nghị Quốc hội thực hiện quyền hạn của mình quy định tại Khoản 9 Điều 84 Hiến pháp (Bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội) và căn cứ Khoản 4 Điều 11 Luật điện ảnh (Những hành vi bị cấm trong hoạt động điện ảnh: Xuyên tạc sự thật lịch sử; xúc phạm dân tộc, vĩ nhân, anh hùng dân tộc…) để bãi bỏ ngay tức khắc văn bản của Chính phủ đưa bộ phim phản quốc “Lý Công Uẩn – Đường tới thành Thăng Long” vào Chương trình kỷ niệm 1000 năm thăng Long – Hà Nội đồng thời yêu cầu Chính phủ cấm chiếu vĩnh viễn bộ phim phản quốc này trên phạm vi toàn Việt Nam.

Tôi đợi chờ hồi âm tích cực từ Quốc Hội.

Trân trọng,
NGƯỜI KIẾN NGHỊ
CÙ HUY HÀ VŨ

ĐT: 0904350187


HÃNG BBC QUAN TÂM TỚI "ĐƯỜNG TỚI THÀNH THĂNG LONG"

Phim tranh cãi về Lý Công Uẩn được ra mắt
.
Cảnh trong phim 'Lý Công Uẩn - Đường tới thành Thăng Long'
Chuyên gia Trung Quốc chỉ đạo diễn xuất cho diễn viên VN (Hình: Tân Hoa Xã)

Bộ phim từng gây nhiều tranh cãi "Lý Công Uẩn - Đường tới thành Thăng Long" do Công ty Cổ phần Truyền thông Trường Thành sản xuất cuối cùng đã được phép phát sóng trên kênh truyền hình quốc gia VTV3 vào ngày 30 tháng Sáu, theo truyền thông trong nước. 

Công văn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch gửi Đài Truyền hình Việt nam, đề ngày 15/3/2011, được báo chí trong nước trích dẫn, cho hay bộ phim đã được chỉnh sửa và trở nên phù hợp hơn với lịch sử Việt Nam về nhiều mặt từ hình thức, diễn xuất tới nội dung:

"Kịch bản phim đã thêm lời dẫn chuyện vào những chỗ cần thiết để làm rõ thông tin muốn chuyển tải cho người xem biết và tự hào về một giai đoạn lịch sử của nước ta", văn bản của Bộ chủ quản ngành văn hóa trong nước khẳng định.

"Các diễn viên được chọn rất hợp vai, diễn xuất tốt, âm nhạc phù hợp với Việt Nam. Về cơ bản, tinh thần lịch sử trong phim được tôn trọng, không bị bóp méo, luôn đề cao tầm vóc và tình cảm của một vị vua vì dân, thương dân, biết đặt lợi ích của dân tộc lên trên lợi ích cá nhân."
Nội dung phim không có gì vi phạm chính trị cũng như mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
Công văn của Bộ Văn hóa gửi VTV
Đặc biệt công văn này đưa ra quan điểm mang tính thẩm định về khía cạnh chính trị và quan hệ giữa Việt Nam và nước láng giềng Trung Quốc, khi cho biết:

"Nội dung phim không có gì vi phạm chính trị cũng như mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc."

Bộ phim "Lý Công Uẩn - Đường tới thành Thăng Long" do đạo diễn Trung Quốc Cận Đức Mậu thực hiện theo đặt hàng của công ty Trường Thành và kịch bản do chính lãnh đạo công ty Trường Thành, ông Trịnh Văn Sơn chắp bút, chủ trì có sự chỉnh sửa, cố vấn trong quá trình làm phim của cố vấn Trung Quốc.

Bộ phim truyền hình 19 tập lúc đầu được dự kiến ra mắt và phát sóng nhằm kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội vào tháng 10 năm 2010, nhưng đã bị tạm ngừng cấp phép do có quá nhiều ý kiến tranh cãi và phản đối từ nhiều giới trong nước vốn cho rằng đây là một bộ phim "Trung Quốc nói tiếng Việt".

"Một bộ phim gây tranh cãi sẽ không phù hợp để chiếu trong dịp trọng đại như kỷ niệm 1000 năm Thăng Long," tờ Dân trí trích lời đại diện Cục Điện Ảnh, ông Lê Ngọc Minh, Phó Cục trưởng, phát biểu trước truyền thông trong nước hồi cuối năm ngoái.

Phản đối kịch liệt

Giáo sư Lê Văn Lan
Giáo sư sử học Lê Văn Lan từng phản đối việc nhóm làm phim
giới thiệu ông trong phim với tư cách cố vấn lịch sử.

Tuy nhiên, ngay sau khi được tin về lịch phát sóng của bộ phim vào cuối tháng, nhà sử học Lê Văn Lan, xuất hiện trên trang blog cá nhân của Tiến sỹ Nguyễn Xuân Diện hôm thứ Bảy, 4 tháng Sáu, và cho biết ông "phản đối kịch liệt việc chiếu bộ phim này."

"Nói chung, tinh thần và những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc ta oanh liệt là thế, nhưng phim này thể hiện rất mờ nhạt, còn thì đấu đá nội bộ, thậm chí chém giết, sát phạt nội bộ và được tô đậm bằng những trường đoạn rất rùng rợn," Giáo sư Lan đánh giá về bộ phim qua ba lần chỉnh sửa và xét duyệt.

"Tóm lại, những nhân vật lịch sử trong phim đều bị bóp méo làm cho sai lệch đi. Điều này rất nguy hiểm, không chỉ vì nó là một sự xuyên tạc lịch sử trong một tác phẩm nghệ thuật; mà hơn thế, qua đây thì việc giáo dục truyền thống của dân tộc đã bị ảnh hường nghiêm trọng," chuyên gia hàng đầu về cổ sử Việt Nam, đồng thời là một trong các sáng lập viên của Viện Sử học Việt Nam nhận xét.

Ông Lan cũng đưa ra kết luận về hình thức, trang phục của các diễn viên trong bộ phim từ sau khi vượt qua lần xét duyệt cuối cùng hồi tháng 2 năm 2011:
Tóm lại, những nhân vật lịch sử trong phim đều bị bóp méo làm cho sai lệch đi. Điều này rất nguy hiểm, không chỉ vì nó là một sự xuyên tạc lịch sử trong một tác phẩm nghệ thuật; mà hơn thế, qua đây thì việc giáo dục truyền thống của dân tộc đã bị ảnh hường nghiêm trọng
Giáo sư Lê Văn Lan

"Không chỉ trang phục của nhà Vua mà của văn võ bá quan và trăm họ đều rất... Tàu. Rồi thì lại cả cảnh chùa chiền, cung điện, nhà cửa, ngựa xe, binh khí... cũng đều là rất Tàu."

Sau khi phủ nhận và một lần nữa lên tiếng việc tên tuổi của ban thân được nhóm làm phim đưa vào giới thiệu trong phim như là một cố vấn lịch sử của phim, Giáo sư Lê Văn Lan dự đoán về phản ứng của dư luận trước việc 19 tập phim sắp ra mắt ra sao trên trang blog của Nguyễn Xuân Diện:

"Tôi tin chắc rằng đồng bào tôi cũng như tôi không thể "tự hào" về mình, và tổ tiên của mình, ở một giai đoạn lịch sử quan trọng lại Tàu như thế này!"

"Và tôi nghĩ rằng, sẽ có nhiều người kêu gọi tẩy chay bộ phim này."
Tôi tin chắc rằng đồng bào tôi cũng như tôi không thể "tự hào" về mình, và tổ tiên của mình, ở một giai đoạn lịch sử quan trọng lại Tàu như thế này! Và tôi nghĩ rằng, sẽ có nhiều người kêu gọi tẩy chay bộ phim này
Giáo sư Lê Văn Lan
Nếu được phát sóng vào cuối tháng này trên kênh truyền hình quốc gia, "Lý Công Uẩn - Đường tới thành Thăng Long" coi như chính thức được ngành văn hóa và truyền thông Việt Nam chấp nhận, kể từ sau khi nhận được giấy phép của các ngành Tuyên giáo, Văn hóa từ quý đầu năm nay.

Bộ phim truyền hình lấy chủ đề lịch sử được cho là tiêu tốn tới hàng chục triệu đôla trong quá trình làm phim, đã được chỉnh sửa nhiều lần theo yêu cầu của Cục Điện ảnh và Hội đồng duyệt phim quốc gia, mà ngày 20-21 tháng Hai, là lần duyệt phim thứ ba và cuối cùng mà bộ phim trải qua trước Hội đồng.

Hiện tại, hãng truyền thông Trường Thành và Đài VTV3 được cho là đang tiến hành mời các công ty, doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia quảng cáo trước khi "Lý Công Uẩn - Đường tới thành Thăng Long" lên sóng "vào giờ vàng" trên một kênh truyền hình vốn có tác dụng giáo dục, thông tin và giải trí hàng đầu khi phủ sóng toàn quốc ở Việt Nam.

Nguồn: BBC Việt ngữ.

Mời đọc thêm trên các báo chí trong nước:




GS CHU HẢO TRẢ LỜI PV VỀ "ĐƯỜNG LƯỠI BÒ"

Thân gửi TS Nguyễn Xuân Diện,

Trong file kèm theo là bản gốc bài trả lời phỏng vấn của tôi cho báo NLĐ. Theo thoả thuận trước, đáng lẽ bài này sẽ được đăng trên báo in vào ngày 5 tháng 6 (nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày Bác Hồ đi tìm đường cứu nước và ngày con cháu của Người được biểu tình trong ôn hoà để tỏ rõ quyết tâm giữ nước). Nhưng đêm ngày 4 tháng 6 tôi được phóng viên thông báo là hoãn đăng đến đầu tuần sau. Tôi tưởng là đã bị loại, nhưng buổi chiều chủ nhật thì bài này được đưa lên NLĐ online. Tuy nhiên một số đoạn, có ý tứ riêng của nó, thì đã bị bỏ.

Xin gửi TS bản gốc, trong đó những dòng chữ màu đỏ là các đoạn bị cắt, để chia sẻ với ban đọc của Blog Lâm Khang.

Thân ái!
Chu Hảo

Toàn văn bài trả lời phỏng vấn Giáo sư Chu Hảo:

Phóng viên: - Theo dõi các diễn biến gần đây về Biển Đông, ông nhìn nhận thế nào về việc tàu hải giám Trung Quốc ngang ngược xâm phạm sâu sâu vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa VN để cản trở, cắt cáp thăm dò địa chấn tàu Bình Minh 02 trong khi Người phát ngôn Bộ Ngoại TQ lại nói là “hoạt động bình thường”?

GS Chu Hảo: - Tôi cho rằng đó một bước leo thang nguy hiểm nhưng đã được chuẩn bị kỹ của phía Trung Quốc nhằm biến yêu sách “đường lưỡi bò” hay còn “đứt đoạn 9 khúc”… trên Biển Đông thành hiện thực. Đó hoàn toàn không phải là một hành động gây hấn bột phát mà được lên kịch bản từ trước với những toan tính sâu xa. Thứ nhất, TQ muốn lập lờ đánh tráo giá trị khi xâm phạm sâu vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của ta nhưng lại la làng lên rằng đây là vùng tranh chấp. Toan tính thâm sâu là một chiêu trọng yếu để hiện thực hoá “đường lưỡi bò” vì yêu sách không chỉ “ngoạm” những vùng biển đảo rộng lớn thuộc chủ quyền của VN mà còn của nhiều quốc gia và khu vực ở Biển Đông. Thứ hai, TQ muốn đo lường phản ứng của VN cũng như khu vực và quốc tế trước bước leo thang mới - xâm phạm sâu vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của một quốc gia có chủ quyền. Thứ ba, để dọn đường cho những bước đi tiếp theo trong tham vọng hiện thực hoá yêu sách “đường lưỡi bò”.

- Căn cứ nào để ông nhận định hành động của TQ với tàu Bình Minh 02 ngày 26-5 vừa qua là một kịch bản được dàn dựng trước?

- Nếu nhìn lại những hành động xuyên suốt của TQ để thực hiện yêu sách “đường lưỡi bò” là thấy rất rõ điều đó. Nhiều năm qua, TQ đã đầu tư rất mạnh cho hạm đội Nam Hải cũng như lực lượng mà họ dựa vào để đòi chủ quyền trên Biển Đông như giám hải và tuần ngư. Sau khi chính thức công khai yêu sách “đường lưỡi bò” tháng 5-2009, TQ cũng đồng thời cũng gia tăng các hành động đòi hỏi chủ quyền trên Biển Đông. Đó là các hành động cản trở, xua đuổi, uy hiếp, thậm chí bắt giữ tàu đánh cá VN trong vùng biển thuộc chủ quyền của mình; ra các lệnh cấm đánh bắt cá; tăng cường tầu giám hải, tuần ngư, tàu quân sự… Ngoài VN, TQ cũng gia tăng các hành động tương tự với các nước khác trên Biển Đông.

Ngay việc 2 trong số 3 tàu hải giám xâm TQ phạm vùng đặc quyền kinh tế của VN để cản trở hoạt động tàu Bình Minh 02 là những tàu hiện đại, mới hạ thuỷ cũng cho thấy hành động gây hấn này hoàn toàn không phải bột phát.

- Cho rằng TQ đã lên kịch bản để hiện thực hoá yêu sách “đường lưỡi bò” thì theo ông bước tiếp theo sẽ là gì?

- Những hành động trên của TQ có thể nhằm “dọn đường” cho bước leo thang tiếp theo là đưa dàn khoan dầu khổng lồ mà nước này vừa chế tạo vào hoạt động ở các vùng tranh chấp trên Biển Đông, thậm chí không loại trừ cả vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các nước trong khu vực. Hiện các nước trong khu vực Biển Đông đều đang theo dõi sát động thái này với mối quan tâm và lo ngại sâu sắc. Trường hợp TQ đơn phương tiến hành các hoạt động thăm dò, khai thác dầu ở khu vực còn tranh chấp sẽ đi ngược lại Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) mà TQ đã ký với ASEAN.

- Vì sao TQ đã ký kết DOC mà lại luôn có những hành động đi ngược lại cam kết của chính họ trên Biển Đông?

- Tham vọng hiện thực hóa yêu sách “đường lưỡi bò” che mờ tất cả. Biến Biển Đông thành “ao nhà” của mình, TQ không chỉ khống chế một huyết mạch hàng hải, một khu vực địa chính trị chiến lược trọng yếu của khu vực và thế giới mà còn mặc sức khai thác các nguồn tài nguyên giàu có như dầu khí, hải sản… Tuy nhiên, xét theo luật pháp quốc tế hiện đại cũng như luật pháp quốc tế cổ điển, yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc hoàn toàn không có cơ sở khoa học, không có giá trị pháp lý quốc tế và không ai có thể chấp nhận được. Ngay cả nhà nước cho tới học giả TQ cho đến nay vẫn không thể trả lời được câu hỏi làm sao xác định được tọa độ cũng như vị trí chính xác trên thực địa của từng đoạn cũng như của toàn bộ 9 đoạn của “đường lưỡi bò” mà yêu sách. Đó là lý do để TQ miệng nói đối thoại nhưng lại dùng sức mạnh vượt trội về mọi mặt so với các nước và khu vực còn lại trên Biển Đông để dần biến yêu sách của mình thành “sự đã rồi”.

- Nói như ông thì dù phi lý và ngang ngược nhưng TQ vẫn bất chấp để hiện thực hóa bằng được yêu sách của mình?

- TQ tham vọng và có sức mạnh song không dễ hiện thực hóa “đường lưỡi bò”. Cứ nhìn vào phản ứng quyết liệt và mạnh mẽ của Phillippines, một quốc gia tiềm lực yếu hơn TQ rất nhiều, cũng có thể thấy điều đó. Tàu quân sự TQ cản trở tàu thăm dò của mình, Phillippines lập tức cho máy bay chiến đấu ra răn đe, xua đuổi. TQ có những hoạt động bất thường ở vùng biển Philippines tuyên bố chủ quyền, đích thân Tổng thống nước này tuyên bố kiện lên LHQ… trong khi dư luận trong nước lên tiếng phẫn nộ.

- Song những phản ứng như vậy dường như đủ đến ngăn cản hành động của TQ?

- TQ có thể không ngại một quốc gia ASEAN tiềm lực thua xa mình nhưng bó đũa 10 nước ASEAN lại là chuyện khác. Ở đây không chỉ là vấn đề tiềm lực và sức mạnh mà quan trọng nhất là chính nghĩa, là lẽ phải. Một cường quốc mà để cả 10 nước láng giềng gần cùng phản ứng thì cường quốc đó không chỉ khiến khu vực mà cả thế giới phải dè chừng với con mắt đầy cảnh giác. Vấn đề vì thế phải làm sao để tiếng nói và hành động của ASEAN thực sự đồng nhất như chính hình ảnh trong biểu trưng của ASEAN là một bó lúa kết lại thật chặt với nhau trong một hiệp hội. Tư duy thờ ơ kiểu “không phải việc liên quan tới mình” của các quốc gia ASEAN khác trong từng việc, sự kiện xảy ra trên Biển Đông chính là một thứ thuốc kích TQ trong cơn thèm khát “đường lưỡi bò”.

- Vậy còn phản ứng của chúng ta?

- Chúng ta cần phản ứng thích đáng trên cả 3 cấp độ: song phương, khu vực và quốc tế. Chúng ta nhất quán tuân thủ DOC, Công ước về Luật Biển năm 1982 của LHQ cũng như thỏa thuận cấp cao hai nước VN-TQ nhưng cần dứt khoát và kiên quyết trong việc khẳng định và bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Chúng ta cần chuẩn bị sẵn sàng và chủ động trong mọi tình huống. Những hành động xâm phạm ngang ngược và rõ ràng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa như ngày 26-5 vừa qua cần được ghi lại bằng các chứng cứ rõ ràng để thông tin nhanh nhất đến nhân dân trong nước, các nước trong  khu vực và toàn thế giới. Tàu cá hay các tầu khác hoạt động trong vùng biển của ta cũng nên có phương tiện ghi lại các hành động cản trở, uy hiếp… của tàu TQ làm bằng chứng và lập thành hồ sơ để cho thấy ai là bên đã vi phạm các thỏa thuận song phương, đa phương và luật pháp quốc tế.

Về cấp độ khu vực tôi đã nói ở trên. Điều cần làm trước mắt kiên trì và đẩy nhanh tiến trình DOC thành Bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông (COC) để ràng buộc trách nhiệm pháp lý của TQ trong vấn đề Biển Đông.

Với những vụ việc ngang ngược và rõ ràng như vụ xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa để cắt cáp thăm dò địa chấn tàu Bình Minh 02 vừa qua rất nên hoàn chỉnh hồ sơ, thủ tục để đưa lên LHQ và kiện ra tòa án quốc tế. Thực tế tòa án quốc tế đã thụ lý và phán quyết về những vụ việc tương tự vụ tàu Bình Minh 02.

Kết hợp tốt phản ứng cả 3 cấp độ, tôi tin TQ sẽ luôn phải nghĩ kỹ trước mỗi hành động tiếp theo trên Biển Đông.

- Xin cảm ơn ông.