Hiển thị các bài đăng có nhãn Nho giáo. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nho giáo. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 18 tháng 6, 2015

BS. Võ Xuân Sơn: 4, 40 VÀ 271

Ngày 15.6.2015, một thanh niên đã đến biểu tình một mình 
tại khu vực Văn Miếu Vĩnh Phúc

4, 40 VÀ 271
Võ Xuân Sơn

4 là số ngư dân bị thương vong (1 người chết, 3 người bị thương) khi tàu cá QNa 92647 TS của ông Huỳnh Nùng bị một tàu của Trung quốc đâm thủng tại vị trí cách bắc Đà Nẵng 30 hải lý.

Thứ Hai, 8 tháng 6, 2015

XÂY VĂN MIẾU VĨNH PHÚC - QUÁ LÃNG PHÍ, KHÔNG CẦN THIẾT!

Xây Văn miếu 271 tỉ ở tỉnh, 
có lãng phí quá không?
 
Báo Tuổi trẻ
08/06/2015 09:08 GMT+7


TT - Dự án xây dựng Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc với tổng số vốn đầu tư gần 271 tỉ đồng đang khiến nhiều người băn khoăn.
Một địa phương mà trích ngân sách vài trăm tỉ đồng để xây Văn miếu trong điều kiện chung đất nước còn khó khăn là lãng phí quá. Dù có huy động vốn xã hội hóa cũng không nên xây dựng Văn miếu một cách “bày vẽ” hoành tráng
GS Ngô Đức Thịnh


Nhà bái đường trong khu Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc với các cột làm bằng gỗ 
sơn son thếp vàng - Ảnh: V.V.Tuân

Đó là công trình đồ sộ, rộng hơn 42.000m2, được khởi công xây dựng từ năm 2012 tại khu gò Cháo, phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên, đến nay đã gần hoàn thiện, đi vào hoạt động.

Toàn bộ nguồn vốn để thực hiện dự án là từ ngân sách tỉnh Vĩnh Phúc, theo khẳng định của ông Trần Mạnh Định - giám đốc Sở VH-TT&DL tỉnh Vĩnh Phúc (dù trong tờ trình gửi UBND tỉnh có ghi chủ đầu tư sẽ huy động thêm các nguồn vốn khác).

Thứ Bảy, 3 tháng 1, 2015

CỤ HUỲNH THÚC KHÁNG NÓI VỀ KHUYẾT ĐIỂM CỦA KHỔNG GIÁO

Cụ Huỳnh Thúc Kháng nói về khuyết điểm
của Khổng giáo 

Theo REDS VN 

Thuyết của Khổng tử nói về chánh trị thì chú trọng về vua quan mà không nói đến dân, dân chỉ ngồi không mà nhờ người trên sắp đặt lo liệu cho mình mà thôi.


Bài viết được cụ Huỳnh Thúc Kháng cho đăng hai lần trên báo Tiếng Dân số ra ngày 11-10-1930 và ngày 16-2-1939.

Chúng ta sinh gặp thời đại triết học khoa học thịnh hành này, cần nhất là phải có cái trí não tự do phán đoán, bất kỳ là xưa nay Đông Tây, điều gì mà hợp với chân lý và sự thực, thì cho là chân chính mà gắng sức học theo; điều gì mà ta thấy chỗ mặc vọng trái với chân lý và sự thực, thì nhất thiết cào bỏ cho sạch. Như vậy thì cõi tư tưởng ta may khỏi bị cái gì ngăn đón che lấp mà được bước lên con đường tự do để làm mẹ đẻ cho sự thực chăng.

Thứ Ba, 30 tháng 12, 2014

VÀI LỜI VỀ KHỔNG TỬ VÀ HỌC VIỆN KHỔNG TỬ

Vài lời về Khổng Tử và học viện Khổng Tử

Trần Quang Đức
Theo FB Trần Quang Đức


Hai hôm nay, nhiều bạn facebook tag tôi vào những stt xoay quanh việc Học viện Khổng Tử đầu tiên được đặt tại một trường đại học của Việt Nam. Cá nhân tôi, tôi không ủng hộ việc này. Bởi như nhiều người đã tìm hiểu, Học viện Khổng Tử không đơn thuần nhằm “quảng bá tiếng Trung Quốc”. Ở Âu Mỹ, các học viện này đã có những hoạt động như đả phá Pháp luân công, kỳ thị tín ngưỡng (Đại học McMaster, Canada), cổ động sinh viên ủng hộ Trung Quốc trấn áp Tây Tạng (Đại học Waterloo, Canada), không cho sinh viên talk về vấn đề Tây Tạng, hạn chế ngôn luận (Đại học Chicago, Mỹ) v.v. Đó cũng chính là nguyên nhân chính khiến một loạt các nước Âu Mỹ tẩy chay học viện này.

Thứ Năm, 24 tháng 10, 2013

TẢN MẠN VỀ KHỔNG TỬ VÀ VIỆN KHỔNG TỬ SẮP MỞ Ở VIỆT NAM

Tản mạn về Khổng Tử
và Viện Khổng Tử sắp mở ở Việt Nam
Phùng Hoài Ngọc

Người ta không sợ ông Khổng, hay cái Viện Khổng tử, mà người ta sợ cái kẻ (cả phía TQ lẫn phía VN) đang muốn lợi dụng Khổng giáo cho mục đích riêng họ. Và Khổng giáo cùng Viện Khổng tử bị lên án là vì (vô tình) trở thành công cụ cho những kẻ này. Đạo Khổng có những nội dung bất cập, đồng thời có nhiều điểm hay, nhưng chắc chắn nó chưa đầy đủ. Trong khi người dân Việt Nam còn đang rất thiếu hiểu biết về tự do, dân chủ, pháp quyền (những khái niệm xa lạ với Khổng giáo) mà nhà nước không những đã không tạo điều kiện để làm tăng sự hiểu biết của người dân về những vấn đề trên, lại đi lo vun đắp cái tinh thần Khổng giáo, là điều mà truyền thống Việt Nam cũng đã thấm nhuần lắm rồi, lại xuất phát từ chủ trương của một anh thực dân (mới nổi lên) là Trung Quốc, thì việc ấy chẳng phải cũng đáng lo lắm sao ? (P.H.N).

Thứ Tư, 23 tháng 10, 2013

RFI: VIỆN KHỔNG TỬ HAY LÀ CUỘC XÂM LĂNG VĂN HÓA?




.
Viện Khổng Tử hay cuộc xâm lăng văn hóa Trung Quốc? 

Thanh Phương thực hiện

Trong bản tuyên bố chung Việt Nam- Trung Quốc nhân chuyến viếng thăm của Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường tại Hà Nội giữa tháng 10 vừa qua, hai quốc gia đã thông báo «nhất trí» thành lập Viện Khổng tử ở Việt Nam.  

Thật ra, Viện Khổng tử đã được Trung Quốc thành lập ở rất nhiều nước khác trên thế giới. Việc thành lập Viện Khổng tử ở Việt Nam đã được chính phủ Hà Nội quyết định từ năm 2009, nhưng thông báo chính thức về việc thành lập viện này đã một lần nữa gây lo ngại cho giới nhân sĩ trí thức Việt Nam về nguy cơ xâm lăng văn hóa của Trung Quốc, trong bối cảnh mà phim ảnh Trung Quốc từ nhiều năm qua tràn ngập các đài truyền hình Việt Nam và văn hóa Trung Qu ốc chi phối ngày càng nhiều đời sống của người dân Việt Nam, đặc biệt là trong kiến trúc đền chùa. 

Trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ, tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện, cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm ở Hà Nội nêu lên những nguy cơ tiềm ẩn từ Viện Khổng tử sẽ được thành lập ở Việt Nam :

Nghe băng ghi âm cuộc phỏng vấn tại đây:  

RFI: Xin kính chào tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện. Thưa ông, những nước như Pháp hay Đức cũng đã có những trung tâm văn hóa ở Việt Nam như Alliance française hay Viện Goethe. Nhưng vì sao việc thành lập Viện Khổng tử của Trung Quốc lại gây lo ngại như vậy?

Thứ Tư, 21 tháng 12, 2011

MỐI QUAN HỆ GIỮA NHO GIÁO VÀ CÔNG GIÁO Ở VIỆT NAM


Nhân dịp Lễ Giáng sinh và đón mừng năm mới 2012
Nguyễn Xuân Diện-blog xin gửi đến chư vị - đặc biệt là các linh mục, tu sĩ, bà con giáo dân, 
lời chúc: Một mùa Giáng sinh An lành - Hạnh phúc
Một  năm mới Thịnh vượng
______________________________

Nhân dịp này, xin gửi tới chư vị chùm bài về đề tài Thiên chúa giáo:

MỐI QUAN HỆ GIỮA NHO GIÁO VÀ CÔNG GIÁO Ở VIỆT NAM
Nguyễn Hồng Dương
Viện Nghiên cứu Tôn giáo
Đạo Công giáo truyền bá và bước đầu đứng chân ở Việt Nam vào thế kỷ XVII. Đây là thời kỳ nhà Lê Trung hưng, kế tục thời kỳ trước, nhà Lê vẫn sử dụng Nho giáo làm hệ tư tưởng trị nước. Các tôn giáo khác như Phật giáo, Đạo giáo vẫn thịnh hành trong nhân gian và cũng có những ảnh hưởng nhất định trong đường lối trị nước của nhà Lê.
Sự xuất hiện của Công giáo ở Việt Nam ngay từ buổi đầu đã là sự kiện tôn giáo đặc thù. Đó là việc truyền bá một tôn giáo hoàn toàn xa lạ với các tôn giáo truyền thống. Chẳng những thế tôn giáo này đã không thừa nhận các tôn giáo đang hiện diện, coi tất cả là tà giáo là đạo dối.
Các giáo sĩ Công giáo dựa vào tín lý, giáo lý Công giáo tấn công vào hệ tư tưởng Nho giáo, hệ tư tưởng trị nước thời bấy giờ.
Về phía Nho giáo để bảo vệ nền tảng tư tưởng của mình các nhà Nho mà đại biểu của nó là nhà Vua, là các Nho thần, tất nhiên cũng tấn công lại một cách mạnh mẽ những tư tưởng của Công giáo. Từ đó hình thành nên cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng mang tính học thuật.
Song cùng với thời gian, nhất là từ sau khi nhà Nguyễn bãi bỏ lệnh cấm đạo (1874) giữa Nho giáo và Công giáo dần dần hình thành nên mối tương giao và hoà hợp.
Bài viết này tập trung vào hai nội dung chính trong mối quan hệ giữa Nho giáo với Công giáo ở Việt Nam là xung đột và dung hợp.
Xung đột
Xung đột mà bài viết này đề cập là xung đột trên lĩnh vực tư tưởng có tính học thuật được thể hiện qua các văn kiện và các tác phẩm.
Về văn kiện là các đạo dụ, điều lệ của Vua, Chúa, hịch của phong trào Văn Thân, là các Thư chung và một số văn kiện khác của Giáo hội Công giáo.
Về tác phẩm là các trước tác của nhà vua, nhà nho và các giáo sĩ.
Trước hết xin bắt đầu từ phía Công giáo. Do khuôn khổ bài viết, về văn kiện chúng tôi chỉ đề cập đến thư chung, về tác phẩm là hai trước tác của giáo sĩ Alexandre de Rhodes và cuốn Hội đồng tứ giáo.
Thư chung: Thư chung là loại hình văn bản của giám mục soạn gửi cho cộng đồng tín hữu, hàng giáo phẩm vào tu sĩ thuộc giáo phận mà giám mục đó cai quản. Nội dung thư chung rất đa dạng trong đó có một số thư chung giám mục đề cập đến Nho giáo để rồi ngăn cấm không được tham dự các nghi lễ của Nho giáo. Thư chung được đọc công khai trong nhà thờ. Một trong những thư chung theo chúng tôi là tiêu biểu về việc đề cập đến Nho giáo là thư chung của Giám mục Phêrô Maria Đông giám mục giáo phận Tây Đàng Ngoài đề năm ? (1895). Thư chung được tập hợp trong cuốn: Sách thuật lại các thư chung địa phận tây Đàng Ngoài in tại Kẻ Sở 1908 với tựa đề: Về các việc dối trá. Nội dung: “Cắt nghĩa bốn điều sau này: Một là những sự không nên thờ; hai là những sự không nên làm về đàng phụng sự; ba là những sự không nên bàn về đàng hiếu sự; bốn là những việc dối trá không nên tin không nên kiêng”. Phần: Điều thứ I -Những sự không nên thờ viết: “Vậy trong những cách lỗi nhân đức thờ phượng, kẻ có đạo năng dịp mắc phải hơn thì có ba sự này: một là thờ Thần Phật, hai là thờ Khổng Tử, ba là thờ ông bà bà ông vải”. “Thờ Khổng Tử - Ông Khổng cũng là người thế gian như Bụt đã nói trên này, là quân tử nước Ngô đã làm thày đồ dạy những chữ nghĩa, song chẳng biết cội rễ và cũng sau hết mình là làm sao, nên không làm thày dạy dỗ thiên hạ được. Cho rằng là người khôn ngoan lý sự phần đời hơn nhiều người khác, nhưng mà nó dạy điều gì có lập công, gì trước mặt Đức Chúa Lời đáng thờ lạy đáng tế lễ đáng cầu khấn ru?
Mà bây giờ dù Thần dù Phật dù Khổng Tử cũng đã chết cả rồi, còn có quyền thế cứu giúp phù hộ người ta làm sao? Hẳn thật ai tin nó thờ nó là thờ dối trá và làm tôi ma quỉ”(1).
Phần: Điều thứ II - Những sự không được làm về đàng phụng sự viết: “Trong nước này kẻ vô đạo thờ Khổng Tử như đấng thánh có phép phù hộ, cùng xin người giúp sức cho mình được sáng dạ, được thi đỗ đơm tế mời về hưởng cỗ bàn vân vân, ấy là những điều dối trá tỏ tường kẻ có đạo chẳng nên thông công sự ấy, khi làm ở nhà thày đồ, hay là trong dịp thi cử nơi văn miếu văn chỉ; Cũng không nên lạy thần vị bàn án đã lập mà thờ ông Khổng bao giờ”.
Hai tác phẩm của giáo sĩ Alexandre de Rhodes. Trước hết là cuốn Phép giảng tám ngày. Đây là sách giáo lý đầu tiên bằng chữ quốc ngữ dùng cho cộng đồng tín đồ Công giáo ở Việt Nam lúc bấy giờ và còn ảnh hưởng lâu dài đến tận sau này. “Phép giảng tám ngày… là sách giáo lý trình bày trong mầu sắc minh giáo”(2). Sở dĩ tác giả Nguyễn Khắc Xuyên gọi như vậy là vì trong Phép giảng tám ngày, Rhodes dành một phần nội dung chỉ trích những tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam trong đó có Nho giáo, cho đó là đạo tà, đạo giả, dị đoan. Cuốn sách viết: “Trong Đại Minh còn giáo thứ ba, gọi là Đạo Nho, những kẻ hay chữ thì theo đấy, mà thờ ông Khổng vì sự ấy trong Đại Minh thì lấy ông Khổng làm nhất mà gọi Thánh hiền, là Thánh và hiền nhất vậy. Song le nói thể ấy chẳng phải lẽ đâu, vì chưng hay là ông Khổng Tử ấy biết đức Chúa cả làm nên mọi sự, là cội rễ mọi sự thánh, mọi sự lành, hay là chẳng biết. Ví bằng đã biết, mà làm thầy, thì phải dạy đầy tớ cho biết cùng, mà thờ đấy cho nên. Song le ông Khổng chẳng có làm sự ấy, vì vậy chẳng phải hiền, chẳng phải thánh, thật là độc dữ”(3).
So với tác phẩm: Phép giảng tám ngày, thì tác phẩm: Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài viết về Nho giáo và Khổng Tử có phần kĩ hơn: “Giáo phái thứ nhất và thời danh hơn cả là đạo Nho. Người khai sáng đạo này là một người Tầu tên là Khổng Tử, sinh sống ở nước Tàu, theo sử liệu vào cùng thời với Aristote bên Hi Lạp, nghĩa là vào khoảng ba trăm năm trước Thiên chúa giáng sinh. Người Đàng Ngoài tôn ông là thánh nhân, nhưng vô lý và trái lẽ, như tôi đã có lần thuyết phục họ. Bởi vì, theo tôi, nếu ngài được gọi là thánh nhân, thì ngài phải biết có một đức chúa Trời dựng nên trời và đất, nếu ngài không biết thì sao có thể là thánh được; không biết đấy là cội nguồn và là nguyên nhân mọi sự thánh, ngài chỉ thông truyền cho loài có lý trí bằng sự hiểu biết và yêu mến Thiên chúa cao cả. Nếu ông nhận biết, vì ông tự xưng là bậc tiến sĩ và tôn sư thì ông phải giảng dạy sự hiểu biết cần thiết cho sự cứu rỗi, đàng này ông không dạy rõ ràng trong kinh sách của ông, ông không đề cập tới Thiên Chúa nguyên lý mọi sự, thì sao có thể gọi ông là thánh(4).
Một trong những tác phẩm của Công giáo đề cập đến Nho giáo cần phải kể để là cuốn: Hội đồng tứ giáo (còn gọi là Hội đồng tứ giáo danh sư). Nội dung tác phẩm mang tính minh đạo. Thông qua một hội đồng mang tính giả định với tên gọi “Hội đồng tứ giáo” gồm 4 người đại diện cho 4 tôn giáo thời bấy giờ là Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo và Công giáo, gồm Nho sĩ (Nho giáo), Thượng Tọa (Phật giáo), Đạo giáo (Pháp sư), Tây Sĩ (Công giáo). Bốn vị đại diện “ngồi với nhau”, tranh luận về ba vấn đề:
Nguồn gốc con người.
Sống phải làm gì?
Chết rồi đi về đâu?
Trong tranh luận Nho sĩ luôn là người bắt đầu, Tây Sĩ là người sau cùng để kết luận vấn đề và tất nhiên là bác lại ý kiến của đại diện 3 tôn giáo. Ví dụ:
Để trả lời vấn đề thứ hai (Sống ở đời làm gì), Nho sĩ (…) lấy lời Đức Khổng mà giảng rằng: Sống ở đời người ta phải tu ngũ đức: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, và giữ ngũ luân: Quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu. Thầy pháp sư đưa ra câu của đức thánh Lão tử: Vật vi, vật ý, vật biện (chớ làm gì, chớ có ý gì, chớ phân biệt). Vị Hòa thượng thì nhắc lại người ta phải tu ngũ đức: Thí của, giữ chay, chịu nhục, tu đức, giữ lòng thật. Lại cấm 5 điều: một là cấm sát sinh, hai là cấm trộn cướp, ba là cấm tà dâm, bốn là cấm nói dối, năm là cấm uống rượu. Tây sĩ cũng dựa vào Thánh kinh Công giáo: Người ta phải giữ Thập giới (10 điều răn), phải giữ Thất qui (7 phép bí tích)(5).
Với ba vấn đề tranh luận trên, Công giáo đã trực diện đi vào ba vấn đề căn cốt mà các tôn giáo phải lý giải. Về hình thức là tranh luận là đối thoại nhưng thực chất là độc thoại với chủ ý là đánh đổ các tín lý của Nho, Phật, Đạo, đề cao, xác lập tín lý Công giáo.
Hội đồng tứ giáo là cuốn sách có kỷ lục về lần xuất bản. Có tác giả cho rằng nhà in Tân Định (Sài Gòn) đã tái bản cuốn sách này tới 15 lần. Một bản in tại nhà in Thái Bình, tới 12 lần(6).
Việc cuốn sách được tái bản nhiều lần ở hai miền Nam, Bắc cho thấy hẳn cuốn sách đã có tác dụng rất lớn không chỉ trong việc minh đạo mà còn thể hiện trong đấu tranh về tín lý của Công giáo ở Việt Nam với Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo.
Xung đột từ phía Nho giáo
Bắt đầu từ thời Lê(7), Nho giáo được dùng làm hệ tư tưởng trị nước. Nhà Vua đồng thời là nhà Nho, các bậc đại thần cũng đều là là Nho sĩ. Họ bước vào chốn quan trường qua thi cử Nho học. Vì vậy cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng của Nho giáo với Công giáo khá đa dạng và sinh động. Trước hết là cách nhìn nhận, phê phán của vua, chúa nhà Lê và tiếp theo là các vua Nguyễn qua các đạo dụ, qua các trước tác của nhà vua… Một quan điểm xuyên suốt cho đến khi nhà Nguyễn bãi bỏ lệnh cấm đạo (1874, Công giáo được xem là Tà đạo đối lập với Chính đạo - Nho học / giáo).
Thời Lê, năm Cảnh Trị thứ nhất (1663) đời vua Lê Huyền Tông, tháng 10, mùa đông. Nhắc rõ lai lịch cấm người theo tà đạo Gia Tô.
Trước đây có người Tây Dương gọi là Hoa Lang Di, vào nước ta, đem đạo dị đoan của Gia Tô lừa dối, dụ dỗ làm ngu muội dân chúng, những người quê mùa nông nổi phần nhiều tín mộ đạo ấy, họ lập tòa giảng, nghe giảng đạo, sự mê hoặc đắm đuối mỗi ngày càng rộng. Trước đã hạ lệnh đuổi người truyền đạo ấy đi, nhưng còn bọn tiểu nhân thấm sâu vào tập tục ấy chưa thay đổi được”(8).
Nhâm Thìn, năm thứ 8 (1712), tháng 3, mùa xuân, lại hạ lệnh cấm tà đạo Gia Tô. Triều đình đã nhiều lần ra điều lệnh cấm tà đạo Gia Tô nhưng quân và dân sở tại tham của đút lót của họ, che giấu lẫn nhau, nên đạo ấy lan ra làm người ta mê hoặc mỗi ngày một sâu rộng(9).
Năm 1754, tháng 9, mùa hạ. Lại cấm tà đạo Hòa Lan… Đạo Thiên chúa cũng gọi là “Thập tự giáo”. Giáo lý này dùng Thiên đường, địa ngục để phân biệt báo ứng về điều thiện, điều ác, cũng giống như đạo Phật, có thêm vào thuyết xưng tội, rửa tội nữa”(10).
Phong trào Tây Sơn nhìn nhận Công giáo là “Một tôn giáo không nhìn nhận cha, không nhìn nhận vua, không thờ kính thần linh”(11). Nhà Tây Sơn thực sự lo ngại ảnh hưởng tiêu cực của Công giáo tới Nho giáo “Từ khi các nước phương Tây lén lút đưa đạo của họ vào trong vương quốc này, ta biết rằng sự tôn thờ Đức Khổng Tử mỗi ngày một giảm và hầu như hoàn toàn bị bỏ rơi”(12).
Do tính chất phức tạp của Công giáo dưới triều Nguyễn nên các văn bản của triều Nguyễn khi đề cập đến Công giáo là gay gắt. Trong Điều lệ hương đảng, ban hành năm Giáp Tý (1804) thời vua Gia Long viết: “Lại như đạo Gia Tô là tôn giáo nước khác truyền vào nước ta, bịa đặt ra thuyết thiên đường, địa ngục khiến kẻ ngu phu, ngu phụ chạy vạy như điên, tiêm nhiễm thành quen mê mà không biết”(13).
Thời vua Minh Mạng, năm 1834 ban hành Thập huấn điều giáo dục dân chúng trên nền tảng Nho giáo và do vậy cũng đồng thời đả kích Công giáo, coi Công giáo là Tà đạo “làm cho bại hoại luân lý, hư hỏng giáo hóa, không thể tin được” (Điều 7 - Sùng Chính học)(14).
Năm Minh Mệnh thứ 13 (1832), nhân việc tha tội cho dân ở phường Nam Dương Tây, tỉnh Quảng Trị vốn theo Công giáo nay xin bỏ, vua Minh Mệnh dụ Bộ Hình rằng: Đạo Gia Tô nguyên từ người Tây Dương đem vào truyền bá đã lâu, dân ngu phần nhiều bị mê hoặc mà không biết hối. Thử nghĩ : Cái thuyết thiên đường, tóm lại chỉ đều là chuyện hoang đường, không có bằng chứng. Hơn nữa không kính thần minh, chẳng thờ tiên tổ, rất trái với chính đạo. Thậm chí lập riêng nhà giảng, tụ tập nhiều người, cám dỗ dâm ô phụ nữ, lừa gạt lấy mắt người ốm. Những việc trái luân lý, hại phong hóa, điều ấy kể ra còn nhiều, thực đã phạm đến pháp luật”(15).
Những nội dung trên về cơ bản được nhắc lại vào năm Minh Mệnh thứ 20 (1839) qua việc vua bảo Bộ Hình: “Thử nghĩ cái việc Thập ác, Giêsu, tóm lại chẳng có đạo lý gì, mà cái thuyết thiên đường, nước phép lại là vô lí. Thậm chí thác việc cầu hồn để lừa khoét con ngươi người (chết), mượn danh đồng trinh để dâm ô vợ con người ta, thương tổn phong hoá”(16).
Nhìn nhận Công giáo là tà đạo, không thờ tổ tiên, không kính quỉ thần đặt ra thuyết thiên đường, nước phép… cũng được các vua Thiệu Trị, Tự Đức nhắc trong các dụ.
Về trước tác đáng kể là tác phẩm Đạo biện (biện luận về đạo) trong Ngự chế văn tập của Tự Đức. Đạo biện ra đời có thể trước năm 1862. Trên cơ sở luận về đạo để rồi Tự Đức phê phán tín lý Công giáo: “Họ bảo Thiên Chúa tức là Thượng đế, Thượng đế là chúa tể của trời, tức là sáng tạo ra trời đất, vạn vật. Họ lại nói Thiên chúa không phải là trời, không phải là đất, không phải là lý, không phải là đạo, không phải là khí, không phải là tính, không phải là người, không phải là vật, không phải là quỉ, không phải là thần, đó là đầu mối của vạn vật, mà chính mình không bắt đầu từ đâu cả… đem so với Lão Tử khi nói “Vô danh là bắt đầu của trời vật, Đạo sinh ra một, một sinh ra hai” mới thấy thuyết của Gia Tô lại càng xuyên tạc thô sơ, họ chỉ biết mượn Thiên Chúa để che giấu cái dấu tích Gia Tô, và để làm văn hoa cho sự lầm lỗi vì đã thờ phụng xằng mà không kể gì đến gốc tích nữa”(17). Ở một đoạn khác Tự Đức phê phán: “Họ lại muốn người ta không được lễ tổ tiên, cha mẹ, thánh hiền, bảo rằng Thiên Chúa là gốc của nhân, vật, thần thánh, thì chỉ chuyên kính lễ Thiên chúa. Như thế họ lại càng sai lầm lớn lắm”(18).
Cách nhìn nhận, phê phán Công giáo của vua, chúa mà chúng tôi dẫn ra ở trên là do đứng trên quan điểm Nho giáo. Mặt khác có thể nói các vua, chúa, ngay cả vua Tự Đức một ông vua để tâm nghiên cứu Công giáo thì sự hiểu biết về Công giáo còn quá sơ sài. Thậm chí còn hiểu sai.
Bậc quân vương thì như vậy, các Nho thần hiểu biết về Công giáo thậm chí còn kém hơn, sai lạc hơn. Năm Minh Mệnh thứ 16 (1835) nhân nhà vua định rõ điều lệ cấm chỉ tà giáo Tây Dương, Tả phó đô ngự sử viện Đô sát Phan Bá Đạt tâu nói: “Tà giáo Tây Dương làm say đắm lòng người, thực là một đạo kiệt hiệt hơn hết trong các đạo dị đoan…Mã Song khai rằng thầy thuốc nước hắn, nhân người sắp chết, khoét lấy mắt phơi khô, hợp với hai vị a nguỵ và nhũ hương, tán nhỏ chế thuốc, trị bệnh ho đờm. Lại tục truyền tà giáo Tây Dương thường khoét mắt người, và cho 1 trai 1 gái, ở chung một nhà có tường ngăn cách, lâu ngày động tình dục, nhân đấy rập cho chết bẹp, lấy nước (xác chết đó) hoà thành bánh (thánh) mỗi khi giảng đạo cho mọi người ăn, khiến cho mê đạo không bỏ được. Cả đến người theo đạo khi trai gái lấy vợ chồng, thì đạo trưởng đem người con gái vào nhà kín, lấy danh nghĩa là để giảng đạo, thực ra là để dâm ô”(19).
Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng của Nho giáo với Công giáo còn được thể hiện qua tác phẩm Tây Dương Gia Tô bí lục (Ghi chép những chuyện kín của đạo Gia Tô Tây Dương). Về tác giả, tác phẩm và văn bản đã được đề cập trong Lời giới thiệu của cuốn sách(20). Do khuôn khổ của bài viết chúng tôi không thể phân tích sâu những ý kiến của mình khi cho rằng tác phẩm Tây Dương Gia Tô bí lục là cuốn sách do các nhà Nho viết ra nhằm mục đích phê phán Công giáo. Đây là công trình của nhiều người mặc dù trên đầu sách có tên tác giả.
Nội dung cuốn sách đề cập có nhiều phần sai lạc và phóng tác bởi sự hiểu biết hạn chế và còn bởi chủ đích của cuốn sách. Cách hành văn nhiều chỗ thô thiển, đôi khi thô lỗ. Bởi vì chủ đích của cuốn sách là thông qua việc đề cập đến lai lịch, hành trạng chúa Giêsu và việc truyền bá Công giáo vào Việt Nam, Trung Quốc để “đánh đổ” tôn giáo này về mặt học thuật. Điểm tựa để phê phán Công giáo là tín ngưỡng cổ truyền đặc biệt là hệ tư tưởng Nho giáo. Qua đó cũng chính là để xác lập tư tưởng Nho giáo.
Với độ dày hơn 300 trang cho thấy sự dày công của những nhà Nho khi soạn tác phẩm này. Vì vậy đây là cuốn sách dày nhất cho đến hết thời kỳ phong kiến mang nội dung đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng của Nho giáo với Công giáo. Chỉ riêng điều này thôi đã cho thấy tính quyết liệt của cuộc đấu tranh.
Khi nhà Nguyễn từng bước đầu hàng thực dân Pháp thì trong nước nổi lên phong trào Văn thân đánh Pháp. Khẩu hiệu của phong trào là: Bình Tây, sát tả” với lời hịch:
Than ôi, đạo dối Giêsu đã xâm nhập vào nước ta, lời cầu nguyện của họ chỉ tin vào chúa Trời và Thánh Thần.
Giáo lý của họ dạy rằng trên trái đất này chẳng có vua, chẳng có cha mẹ.
Lập luận của họ vừa vô lý vừa ngược đời:
Tư cách của họ đầy rẫy sự kiêu ngạo. Họ cướp đoạt đất đai phì nhiêu để xây dựng nhà thờ cho đạo dối.
Về mặt đạo lý họ tìm cách làm băng hoại nước ta để biến nước ta thành Công giáo. Họ làm nhục đạo lý Khổng Mạnh.
Dung hợp
Nếu như xung đột chỉ diễn ra trên bình diện tư tưởng thì dung hợp giữa Nho giáo và Công giáo diễn ra đa diện.
Về bình diện tư tưởng: Bên trên là việc trình bày về xung đột, tuy nhiên các giáo sĩ Công giáo không thể không thừa nhận cái hay cái tốt của Nho giáo mặc dù còn hạn hẹp và chỉ dưới góc độ tìm hiểu. Alexandre de Rhodes có những nhận xét sau về Khổng Tử: “Thực ra Khổng Tử nhà hiền triết này, trong những sách ông để lại, có nhiều giáo huấn về thuần phong mỹ tục: như khi ông nói, trước hết hãy sửa mình mà muốn thế thì xét mình mỗi ngày ba lần để sửa điều lầm lỗi. Sau đó mới đem tâm trí và chuyên cần xếp đặt, điều khiển gia đình. Và sau khi đã cẩn thận chu toàn chức vụ đầu tiên này chứ không trước khi đó, thì bấy giờ mới lo dìu dắt và cai trị quốc gia.
Ông còn luận về nhiều điều liên hệ tới pháp lý dân chính, về xét xử các vụ kiện và thi hành công lý, do đó các tiến sĩ Đàng Ngoài nghiên cứu kinh sách của ông một cách chuyên cần như chúng ta khảo sát hiến pháp hay bộ luật. Ông còn trình bày và phân giải những châm ngôn về chính trị và luật pháp tự nhiên. Vì thế ông không nói trái với những nguyên lí của Kitô giáo và cũng không nói những gì phải bác bỏ hay bị kẻ tin theo lên án”(21).
F.Buzômi, giáo sĩ người Italia xuất hiện ở Đàng Trong ngày 18-1-1615 nhận xét về vai trò của Nho giáo như sau: “Nhờ Khổng giáo, xã hội và gia đình Việt Nam đã có một tổ chức rất cao, người dân Việt Nam có những đức tính, phong tục rất đáng khâm phục nó đã giúp rất nhiều vào công cuộc truyền giáo”(22).
Thuyết “tam phụ” hay thần học “tam phụ”: Thiên chúa là Cha do Alexandre de Rhodes khởi xướng là sự ảnh hưởng của tư tưởng tam cương: quân thần, phụ tử, phu phụ của Nho giáo. Trong tam cương - ba giềng mối trong xã hội - Khổng Tử đã đề cập đến hai cha: Phụ tử - con đối với cha mẹ, quân thần - vua là cha mẹ dân để rồi A.Rhodes thêm một phụ/cha, với quan niệm Thiên chúa là Thượng phụ.
Trong phép giảng tám ngày A.Rhodes viết: “Bây giờ ta phải có ba đấng bề trên gọi là ba cha, ta phải thờ, ở đấng nào cho nên đấng ấy. Đấng dưới là cha mẹ sinh thân xác cho ta; đấng giữa là vua chúa trị nước; đấng trên tức đức chúa trời đất, làm chúa thật trên hết mọi sự. Có ba đấng này ta mới được sống, được ở. Vì chúng ta có cha mẹ, thì mới được thân xác thịt này sinh ra mà chớ… Vua Chúa cũng gọi là cha cả và nước cùng các dân. Chẳng có vua chúa, thì nước ở an lành chẳng được… Ắt thật thượng phụ là cha cả, chúa cả trên hết mọi sự, có thưởng có phạt trọng”(23).
Tư tưởng tam cương, ngũ thường còn được Công giáo vận dụng để hướng dẫn tín đồ sống đạo theo tín lý trong đó có việc hôn nhân. Công giáo đề cao hôn nhân một vợ một chồng gọi là “phép nhất phu, nhất phụ”. Thư của giám mục Hermosilla (Liêm) coi phép nhất phu nhất phụ thuộc về “cương” phu, phụ trong tam cương. Thư viết: “Các quân tử cứ lẽ tự nhiên đã suy đến sự ấy đã kể phép nhất phu, nhất phụ trong ba giềng mối can hệ nhất trong thiên hạ quen gọi là tam cương… Ví bằng người ta cẩn thận giữ cho phải mlễ trong việc nhất phu, nhất phụ thì các việc khác liền được an”(24).
Công giáo dù tạo ra chữ quốc ngữ nhưng một thời gian dài cho đến tận đầu thế kỷ XX kinh, bổn, giáo lý… lại soạn, in bằng Hán - Nôm mà dân gian quen gọi là chữ Nho. Tín đồ được xem là có hiểu biết trong xứ, họ đạo, làng Công giáo cho đến trước cách mạng Tháng Tám năm 1945 là những người biết “chữ Nho”, những người “Nho học”. Họ học chữ “Thánh hiền” bởi các “thầy đồ” ở làng lương. Họ được phép mang đồ lễ tặng thầày đồ, chỉ không được thờ cúng, bái lạy KhổngTử. Vì sợ tín đồ học “chữ Nho” với lương dân có thể bị chế nhạo, bị lôi kéo, nên với các xứ, họ đạo, làng Công giáo nào có “thầy đồ” là người Công giáo thì giáo dân phải học họ không được học thầy đồ là lương dân. Một trong những họ (hội đoàn) ra đời sớm là hội Nho gia tập hợp những thầy đồ là tín đồ Công giáo(25).
Chính vì vậy mà Công giáo đã để lại cho dân tộc một di sản Hán - Nôm quen gọi là Nôm đạo khá đồ sộ.
Tư tưởng Nho giáo thể hiện ở một số công trình kiến trúc Công giáo và cả trong những câu đối ở nhà thờ Công giáo. Nhà thờ chính toà Phát Diệm (Kim Sơn - Ninh Bình) mặt bằng kiến trúc theo hướng Bắc - Nam. Giữa ao hồ dựng tượng chúa Giêsu làm vua nhìn về hướng Nam, hai tay giang rộng. Hướng Nam là hướng của Thánh nhân theo quan niệm: Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ. Thánh nhân nhìn về hướng nam nghe thiên hạ giãi bày. Nhà thờ đá trong khu quần thể nhà thờ chính toà tạc biểu tượng lưỡng nghi/âm dương phía mặt sau hình sư tử và phượng hoàng. Chấn song phương đình là hình thân trúc. Trúc là biểu hiện tính ngay thẳng của người quân tử.
Nhà thờ xứ An Vân (Huế) có đôi câu đối.
Đạo sở cộng do chính tại càn khôn sắc bàng bạc
Nhân viết dư tri, cái vu tạo hóa tố uyên nguyên.
Dịch:
Đạo là con đường ai cũng phải đi, chính vì khắp càn khôn dáng của Thiên chúa luôn bàng bạc.
Người ta nói rằng: tôi biết (có Thiên Chúa) thấy công trình tạo hóa, ta phải truy tầm nguồn gốc.
“Đạo sở cộng do” là lấy lời của Khổng Tử trong câu: Đạo lộ dã, nhân sở cộng do. Hà nhân xuất bất do hộ.
Về phía Nho giáo, đại biểu của nó là tầng lớp Nho sĩ trên thực tế ít thấy có sự dung hợp với Công giáo. Điều này thật dễ hiểu bởi tư tưởng trung quân cũng có nghĩa là trung thành với hệ tư tưởng Nho giáo mà nhà vua sử dụng làm hệ tư tưởng chính thống. Khi nhà Nguyễn bãi bỏ lệnh cấm đạo thay đổi cách nhìn với Công giáo thì triều đại này dần dần mất vai trò trên chính vương quốc của họ. Nho giáo theo đó cũng tàn lụi dần để rồi chỉ còn là lớp trầm tích trong văn hóa Việt.
Tuy nhiên chính vào lúc Nho giáo tàn lụi người ta lại thấy lóe sáng tư tưởng của các nhà Nho cuối mùa của phong trào Đông Kinh nghĩa thục hồi đầu thế kỷ XX đề cao chữ quốc ngữ. Coi đây là một trong sáu đường mở mang dân trí. Việc các nhà Nho bỏ chữ thánh hiền dùng chữ quốc ngữ do các giáo sĩ Công giáo tạo ra rõ ràng là một “đột phá khẩu” về canh tân.
Con đường đầu tiên được đặt ra là: Dùng văn tự nước nhà “Phàm người trong nước đi học nên lấy chữ quốc ngữ làm phương tiện đầu tiên, để trong thời gian vài tháng đàn bà, trẻ con cũng đều biết chữ; và người ta có thể dùng quốc ngữ để ghi việc đời xưa, chép việc đời nay, và thư từ thì có thể chuốt lời và đạt ý. Đó thực là bước đầu tiên trong việc mở mang trí khôn vậy”(26).
Chú thích:
1. Sách thuật lại các thư chung địa phận Tây Đàng Ngoài, In tại Kẻ Sở 1908, tr.602-603.
2. Alexandre de Rhodes: Phép giảng tám ngày. Tủ sách Đại Kết. 1993 tr.XXIII.
3. Phép giảng tám ngày. Sđd, tr.112-113.
4. Alexandre de Rhodes: Lịch sử Vương quốc Đàng Ngoài. Tủ sách Đại Kết 1994, tr.39-40.
5. Linh mục Nguyễn Hưng: Sơ thảo thư mục Hán Nôm Công giáo, Lưu hành nội bộ, 2000, tr.187.
6 thảo thư mục Hán Nôm Công giáo, đd, tr.81.
7. Đây là nhận định của tác giả, song thực chất thì ngay từ thời Lý đã dựa theo Nho giáo để tổ chức Nhà nước và sang thời Trần thì bộc lộ rõ ràng hơn việc sử dụng Nho giáo làm hệ tư tưởng trị nước (BT)
8. Khâm định Việt sử thông giám Cương mục. Tập II, Nxb. Giáo dục, H. 1998, tr.300-301.
9. Khâm định Việt sử thông giám Cương mục, Sđd, tr 140.
10. Khâm định Việt sử thông giám Cương mục, Sđd, tr 627.
11. Launay A. Histoire de la Mission de Cochinchine. Vol III, tr.117 Dẫn theo Trương Bá Cần: Công giáo Đàng Ngoài thời Giám mục Pigneau (1771-1799). Tp. Hồ Chí Minh 1992.
12. Louvet E.L. Lacochinchine religieuse, tome I, tr.517. Dẫn theo Nguyễn Quang Hưng: Công giáo Việt Nam thời kỳ triều Nguyễn (1802-1883), Nxb. Tôn giáo, 2007, tr.159.
13. Đại Nam thực lục chính biên. T3, Đệ nhất kỉ, Nxb. KHXH, H. 1963, tr.168.
14. Đại Nam thực lục chính biên, T4 (Tái bản lần 2), Nxb. Giáo dục, H. 2004, tr.235.
15. Đại Nam thực lục chính biên, T11, Nxb. KHXH, H. 1964, tr.236.
16. Đại Nam thực lục chính biên, T21, Nxb. KHXH, H. 1969, tr.100.
17. Tự Đức: Đạo biện trong Tự Đức ngự chế văn tập. Tư liệu Viện Triết học, tr.44.
18. Tự Đức: Đạo biện, Sđd, tr.46.
19. Đại Nam thực lục chính biên, T17, Nxb. KHXH, H. 1966, tr.243.
20. Phạm Ngộ Hiên, Nguyễn Hoà Đường… Tây Dương Gia Tô bí lục, Nxb. KHXH, H. 1981, tr.111-25.
21. Lịch sử Vương quốc Đàng Ngoài, Sđd, tr.39-40.
22. Dẫn theo Nguyễn Hồng: Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam. T1 Hiện Tại, Sài Gòn 1959, tr.57.
23. Phép giảng tám ngày. Sđd, tr.17-24.
24. Những thư chọn trong các thư chung các đấng Vicariô Apôstôlicô và Vicariô Prôvinciale về dòng ông thánh Du Mingô đã làm tự năm 1849, Quyển thứ 2. In tại Kẻ Sặt 1903, tr.63.
25. Xem: Sách thuật lại các thư chung địa phận Tây Đàng Ngoài In tại Kẻ Sở, 1908, tr.209-210; 228-229.
26. Đặng Thai Mai: Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX Nxb. Văn học, H. 1974, tr.216./.
Thông báo Hán Nôm học 2008; tr.196-211
*Tác giả Nguyễn Hồng Dương là PGS. TS, 
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Tôn giáo (Viện KHXH VN)




Thứ Ba, 20 tháng 12, 2011

TỔNG QUAN TÀI LIỆU NHO GIÁO VÀ NHO HỌC Ở VIỆN HÁN NÔM

TỔNG QUAN TÀI LIỆU NHO GIÁO VÀ NHO HỌC 
Ở VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM 
(Khảo sát, đánh giá về trữ lượng và giá trị)

Nguyễn Xuân Diện

1. Mở đầu 

1.1. Chúng ta đã có nhiều công trình nghiên cứu về Nho giáo của các học giả danh tiếng, được xuất bản trong suốt thế kỷ XX, trong đó nhiều vấn đề của Nho giáo và Nho học được nhìn nhận và đi vào xu hướng tổng kết. Tuy nhiên, có một thực tế rằng, tài liệu về Nho học và Nho giáo Việt Nam viết bằng chữ Hán Nôm chưa từng được thống kê, miêu tả và chưa từng được khai thác, dịch thuật một cách có hệ thống. Và do vậy dẫn đến chưa sử dụng một cách có hiệu quả kho sách này trong việc đánh giá các giá trị của Nho giáo và Nho học trong quá khứ cũng như những ảnh hưởng trong hiện tại.

Trong các cứ liệu về Nho giáo và Nho học thì các tư liệu viết bằng chữ Hán Nôm là quan trọng bậc nhất, vì chúng được biên soạn ngay trong thời kỳ Nho giáo còn thịnh, và là các cứ liệu trực tiếp nhất về Nho giáo và Nho học trong lịch sử. 

1.2. Vấn đề biên soạn thư mục tổng hợp về Nho học và Nho giáo cũng đã từng được chú ý. Vào năm 1973, một bản thư mục như vậy đã được hoàn thành tại Thư viện Khoa học xã hội Hà Nội, dưới hình thức in rô-nê-ô. Trong thư mục này đề cập đến 4 mảng tài liệu: tài liệu tiếng Việt (53 tên tài liệu), tài liệu bằng tiếng Pháp (63 tên tài liệu), tài liệu bằng tiếng Nhật (14 tên tài liệu), tài liệu bằng chữ Hán Nôm (82 tên tài liệu). Đây chỉ là các tài liệu về Nho học và Nho giáo tại Thư viện Khoa học xã hội Hà Nội, và các tài liệu được lựa chọn thì theo một tiêu chí hẹp.

Trong bộ sách Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu , Nxb. KHXH, H. 1993, phần Sách dẫn có mục Nho giáo, cho biết có 147 tên tài liệu về Nho giáo.

Trong cuốn sách Bản sắc văn hóa Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 1998, GS. Phan Ngọc cũng dựa trên những bảng tra cứu, sách dẫn trong bộ sách Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu , kết hợp với các thống kê mới do ông thực hiện, để bàn về vai trò của giới trí thức trong văn hóa Việt Nam. Kết quả là GS. Phan Ngọc, đã phân tích và cung cấp nhiều thông tin bổ ích và những tổng kết về di sản Hán Nôm nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung.

Nhận thức được ý nghĩa của một bản thư mục Hán Nôm về Nho giáo và Nho học chúng tôi đã đề xuất với lãnh đạo Phòng Thông tin - Tư liệu - Thư viện của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, biên soạn một bản thư mục, đề xuất này đã được ủng hộ và tạo điều kiện để triển khai.

Bài viết dựa trên bản thư mục nói trên(1), phạm vi tài liệu trong bài viết và thư mục của chúng tôi là chỉ đề cập đến các tài liệu ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã được miêu tả trong sách Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu và nêu lên những nhận xét bước đầu về vấn đề này. 

2. Thống kê các tác phẩm về Nho giáo và Nho học tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm 

Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện đang lưu trữ một khối lượng tài liệu Hán Nôm lớn nhất Việt Nam; trong đó, theo thống kê có thể là chưa đầy đủ của chúng tôi có 1.689 tên tài liệu về Nho giáo và Nho học. Chúng tôi chia các tài liệu này thành 2 nhóm như sau:

2.1. Tài liệu kinh điển Nho gia, (81 tên tài liệu)

Đây là tài liệu gốc và trực tiếp để nghiên cứu về Nho học và Nho giáo Việt Nam trong lịch sử. Sự xuất hiện của các tài liệu này tại Việt Nam là một vấn đề đáng được nghiên cứu, trong đó có một số gợi ý đi sâu như: Tác phẩm kinh điển Nho học vào Việt Nam đầu tiên là tác phẩm nào ? Tác phẩm kinh điển đến Việt Nam bằng con đường nào ? Trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam thì thời gian nào, triều đại nào xuất hiện nhiều tác phẩm Nho giáo nhất và lý do vì sao ? Người xưa đã bàn về kinh điển hoặc tóm tắt kinh điển như thế nào ?

Về kinh điển nho gia có 81 tên tài liệu, trong số này:
- Về Tứ thư : 14 tên tài liệu; Về Ngũ kinh : 19 tên tài liệu,
- Tóm tắt kinh điển (toát yếu, tiết yếu): 15 tên tài liệu,
- Chú giải kinh điển: 15 tên tài liệu,
- Bản dịch kinh điển sang quốc âm (chữ Nôm): 25 tên tài liệu,
- Bình giải về kinh điển: 9 tên tài liệu,
- Bàn về kinh điển dưới dạng văn sách: 150 tên tài liệu.

Về mảng tài liệu này chúng ta thấy có các tác gia nổi tiếng trong thế kỷ XVIII như Ngô Thì Nhậm (Xuân thu quản kiến), Lê Quý Đôn (Tứ thư ước giải), Phạm Nguyễn Du (Luận ngữ ngu án),... bàn luận rất sâu về tư tưởng Nho giáo và các khía cạnh có liên quan. 

2.2. Tài liệu phản ánh ảnh hưởng của Nho giáo và Nho học tại Việt Nam

Vấn đề này có đến 1.608 tên tài liệu, bao quát nhiều lĩnh vực trong đời sống quá khứ như: văn học, giáo dục, đạo đức, luật pháp, chế độ, sử học, lễ nghi. Dưới đây sẽ đề cập đến từng lĩnh vực nêu trên.

- Văn học Nho giáo (1.246 tên tài liệu)

Văn học Nho giáo là một nền văn học do các trí thức Nho giáo sáng tác, dựa trên tư tưởng và thẩm mỹ theo quan điểm của Nho giáo. Đây là các tác phẩm văn học được viết bằng nhiều thể loại khác nhau, trong số các tác giả có những tên tuổi lớn được ghi nhận trong nền văn học Việt Nam như: Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đoàn Thị Điểm, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du, Tự Đức, Nguyễn Khuyến, Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh...

Trong phần này, chúng tôi đặc biệt lưu ý đến thơ vịnh sử - một loại đề tài rất phổ biến trong văn học trung đại, được gợi ra từ cảm hứng lịch sử Việt Nam và Trung Quốc. Tuy nhiên, khác với một tác phẩm sử biên niên hay một tác phẩm sử học trong đó tính biên niên, tính nghiêm cẩn của sử bút được đề cao lên hàng đầu, thơ vịnh sử đánh giá và bình luận về một nhân vật hoặc một sự kiện lịch sử nào đó bằng hình tượng văn học và ngôn ngữ thi ca. Qua đó tác giả rút ra những bài học, coi như một tấm gương soi và gửi gắm quan điểm nhân sinh của mình. Sự chọn lựa nhân vật hay sự kiện lịch sử nào không hoàn toàn tùy thuộc vào tầm vóc của nhân vật hoặc sự kiện mà tuỳ thuộc vào cảm hứng rất riêng của người viết. Đây là tài liệu rất hữu ích cho việc nghiên cứu về văn học và tư tưởng của Việt Nam trong quá khứ.

Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện còn lưu trữ 112 tài liệu thơ vịnh sử. Cuốn sách tập hợp được nhiều tác phẩm thơ vịnh sử nhất là Vịnh sử hợp tập (1 bản viết tay, 246 trang, VHv1785). Sách này do Dương Thúc Hiệp đề tựa năm Nhâm Dần, niên hiệu Thành Thái (1902), chép đến 900 bài thơ vịnh sử Trung Quốc của các tác giả Việt Nam Phạm Vĩ Khiêm, Nguyễn Đức Đạt, Dương Thúc Hiệp... Xếp sau Vịnh sử hợp tập về số lượng bài thơ là Vịnh sử thi tập (6 bản in, 252 trang, gồm các bản: VHv.1456, VHv.1782, VHv.1783, VHv.2268, VHv.2269, VHv.800/2). Bộ sách có 570 bài thơ vịnh 225 nhân vật lịch sử Trung Quốc. Trong khi đó có các tác giả như Đặng Minh Khiêm (với Thoát Hiên vịnh sử thi tập, Hà Nhiệm Đại (với Khiếu vịnh thi tập ), Tự Đức (với Ngự chế Việt sử tổng vịnh) lại lấy đề tài từ sử Việt Nam.

- Giáo dục và Khoa cử Nho giáo (537 tên tài liệu)

Chọn người tài vào bộ máy hành chính thông qua các cuộc thi về học vấn là một hình thức phổ biến ở Trung Quốc và các nước Đông Á chịu ảnh hưởng Nho giáo. Hệ thống khoa cử để cho tất cả mọi người đều có cơ hội thể hiện tài năng và trình độ học vấn là một trong những ưu việt của các nước này, đã từng được đánh giá và ca ngợi. Tuy nhiên, lối học từ chương, sáo rỗng và khuôn mẫu đã làm cản trở sự phát triển khoa học tự nhiên và kỹ thuật ở các nước này trong quá khứ. 

Thống kê cho thấy có đến 439 tên tài liệu về khoa cử. Trong số này có đến 332 tên tài liệu là tập hợp các bài văn mẫu làm tài liệu tham khảo cho những người học thi; chỉ có 1 cuốn nói về hệ thống bài thi và 30 cuốn đề cập đến phép thi, quy chế thi cử. Sách giáo khoa chỉ có 22 cuốn, chủ yếu là những sách do Ban Tu thư ở Huế biên soạn để dạy học trò theo lối mới vào đầu thế kỷ XX, theo chủ trương của Dương Lâm, Đoàn Triển, Bùi Hướng Thành, Đỗ Văn Tâm.


Trong suốt thời kỳ khoa cử Nho giáo, những người đi thi, đều có khát vọng được ghi danh trên bảng vàng bia đá, lưu mãi tiếng thơm, đều có khát vọng cống hiến cho triều đình và đất nước. Tên tuổi, quê quán của những người đỗ đạt trong các cuộc thi Nho giáo được chép trong loại tài liệu gọi là Đăng khoa lục (sách cho các thông tin về những người thi đỗ). Hiện nay, Viện Nghiên cứu Hán Nôm có lưu trữ 78 tên tài liệu (có tên gồm nhiều cuốn). Trong đó có 38 cuốn đã được sử dụng để biên soạn cuốn Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 -1919, Ngô Đức Thọ chủ biên, Nhà xuất bản Văn học năm 1993, với các thông tin chủ yếu nhất về các nhà trí thức Nho học Việt Nam đã trúng tuyển trong các kỳ thi đại khoa (tức thi Hội và thi Đình) do triều đình tổ chức.

Liên quan đến giáo dục Nho giáo, còn phải kể đến các tài liệu về Văn Miếu, là những thiết chế văn hóa phục vụ cho việc tôn vinh Đức Khổng Tử - vị “Vạn Thế Sư Biểu” của Nho giáo, và Quốc Tử giám là nơi đào tạo những người con ưu tú có triển vọng về học vấn. Thống kê cho biết có 20 tài liệu nói về văn miếu, bao gồm cả Văn miếu Hà Nội, Văn miếu Huế và văn miếu các tỉnh; có 9 tài liệu nói về Quốc Tử giám Hà Nội và Huế. 

- Đạo đức Nho giáo (134 tên tài liệu)

Đạo đức Nho giáo cũng là một vấn đề có vị trí nổi bật trong thư tịch của Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Và theo thống kê thì Viện Nghiên cứu Hán Nôm đang lưu trữ 134 tài liệu về vấn đề này. Các tài liệu loại này gồm: 1. Chuyện các nhà hiền triết nhân từ, các danh nho khí tiết, chuyện những người hiếu thảo, 2. Đạo đức của người làm quan, 3. Các sách về gia đình truyền thống v.v....

Trong mảng tài liệu về đạo đức Nho giáo, chúng tôi đặc biệt chú ý đến vấn đề gia đình truyền thống mà GS. Trần Đình Hượu đã từng có những nghiên cứu và có những tổng kết rất bổ ích và quan trọng. 

Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện có 61 tên tài liệu về gia đình truyền thống, đấy là chưa kể đến 264 cuốn gia phả của các dòng họ. Trong số tài liệu trên có tới 51 tên tài liệu về gia huấn. 

Về gia huấn, trên Tạp chí Hán Nôm số 3 (28) - 1996, tác giả Lê Thu Hương đã thông báo có khoảng 34 tên tài liệu. Bản gia huấn có niên đại sớm nhất mà Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn lưu giữ là Cùng đạt gia huấn (VHv.286). Đây là một bản viết tay, có niên đại 1733, do Hồ Phi Tích soạn. Cuốn này chép những bài học kinh nghiệm trong cuộc đời của ông, dạy con cháu trong nhà giữ gìn nền nếp, biết cần kiệm, cẩn thận, khiêm tốn, tránh kiêu căng, xa xỉ, đắm chìm trong chuyện rượu chè... Nói chung, sách gia huấn nêu ra những chuẩn mực ứng xử trong gia đình như cha con, vợ chồng, anh em, hoặc mở rộng ra trong mối quan hệ xã hội (quan hệ láng giềng, bạn bè). Một số bản còn đề cập đến giáo dục giới tính cho con trai, con gái (Hành tham quan gia huấn, Nữ huấn tam tự thư, Xuân Đình gia huấn). Riêng về Nữ huấn có 10 tên tài liệu. 

- Luật pháp (40 tên tài liệu)

Sau khi giành được độc lập, nhà nước phong kiến Việt Nam đã chú ý ngay đến việc xây dựng hệ thống luật pháp. Theo ghi nhận của sử sách và các bộ văn tịch chí thì ngay từ thời Lý (thế kỷ XI), Việt Nam đã có Hình thư, và thời Trần (thế kỷ XIII) có Hình luật thư. Về sau chúng ta còn biết tới các bộ luật khác được biên soạn như: Thiên Nam dư hạ tập, Quốc triều hình luật (Luật Hồng Đức), Quốc triều chiếu lệnh thiện chính thư, Quốc triều khám tụng điều lệ soạn dưới triều Lê (thế kỷ XV); Hồng Đức thiện chính thư soạn dưới triều Mạc (thế kỷ XVI); Hoàng Việt luật lệ (Luật Gia Long) soạn dưới triều Nguyễn (thế kỷ XIX). Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện lưu trữ 40 tên tài liệu có liên quan đến luật pháp Việt Nam thời phong kiến, trong đó có hai bộ Luật Hồng ĐứcLuật Gia Long.
 
Việt Nam không có bộ luật nào viết bằng chữ Nôm, nhưng hiện biết có 4 cuốn (AB.321; VNv.123/1-3; VNv.98/1-2-4) là bản diễn Nôm một số bộ luật, nhằm mục đích phổ biến luật pháp trong dân chúng được soạn dưới thời Nguyễn. 

- Chế độ cai trị (151 tên tài liệu)

Có thể nói, trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam, các triều đại phong kiến ở Việt Nam đều cai trị đất nước theo chế độ được quy định bởi Nho giáo. Tài liệu được xếp vào mục này bao gồm: 1. Các văn bản hành chính trao đổi giữa vua và các quan lại; 2. Cách tổ chức bộ máy chính quyền, quan chế các đời; 3. Các quy định về khen thưởng và kỷ luật. Nghiên cứu nhóm tài liệu này chúng ta sẽ thấy các vương triều đã quản lý và điều hành đất nước như thế nào, và nếu có sự so sánh với các nước Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản thì chúng ta có thể rút ra được nhiều nhận xét bổ ích. 

- Tài liệu sử học (22 tên tài liệu)

Trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm lưu trữ rất nhiều tài liệu về lịch sử, bao gồm cả chính sử, dã sử, dật sử...Tuy nhiên trong thư mục của chúng tôi chỉ đưa vào thư mục 22 tên tài liệu. Đây là các tài liệu mà trong đó trình bày rõ quan điểm viết sử, làm sử của các sử gia phong kiến: 1. Cách tiếp cận các nguồn sử liệu (sử Việt Nam, sử Trung Quốc, dã sử, truyền thuyết); 2. Cách trình bày sự kiện (chọn sự kiện và đưa vào chính văn hay đưa xuống phần phụ chép); 3. Những nhận xét, bình luận, đánh giá về các sự kiện và nhân vật lịch sử. 

- Điển lễ và Lễ nghi nho giáo (120 tên tài liệu)

Nhóm tài liệu này đề cập đến các điển lễ và lễ nghi Nho giáo do nhà nước quy định chính thức hoặc có chính thống, gồm: 1. Nghi lễ triều đình và hoàng tộc (lễ mừng thọ, đăng quang, tấn phong, lễ ban kim sách, ngân sách trong hoàng tộc); 2. Tế lễ thần linh, tiên liệt và trời đất (tế Nam Giao, tế Thái Miếu, tế Cung miếu - dưới thời các chúa Trịnh, để tế các tiên liệt của chúa Trịnh, tế Văn Miếu), thể lệ sắc phong cho bách thần; 3. Thể lệ sắc phong cho các quan chức có công lao và dân chúng. 

Các tài liệu thuộc điển lễ và lễ nghi Nho giáo có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu lịch sử các triều đại, như: văn chương hành chính mang tính quan phương, sự thay đổi về điển lễ qua các đời, các nghi thức nghi lễ diễn ra ở triều đình, sự tưởng thưởng của nhà nước đối với người có công lao, việc bổ nhiệm các quan chức, ghi nhận của nhà nước với bách thần...

3. Triển vọng của việc khai thác nguồn tài liệu Nho giáo và Nho học
3.1. Đánh giá về trữ lượng và giá trị 

Như vậy, theo thống kê của chúng tôi, tài liệu Nho giáo và Nho học chiếm tỷ lệ rất lớn trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm: 1.689 tên tài liệu/5.038 tên tài liệu trong toàn bộ kho sách. Trong số này, nhiều nhất là tài liệu về văn học Nho giáo: 1.246/ 1.689 tên tài liệu, tiếp theo là số tài liệu về Giáo dục Nho giáo: 537/ 1.689 tên tài liệu. 

Rõ ràng là Viện Nghiên cứu Hán Nôm đang lưu trữ một khối lượng thông tin rất phong phú, đa dạng và quan trọng về Nho giáo và Nho học. Chúng phản ánh một cách rõ nét nhất độ khúc xạ của Nho giáo và Nho học tại Việt Nam, thể hiện trên nhiều bình diện: tư tưởng, triết học, văn học, đạo đức, luật pháp; và do vậy là cơ sở để nghiên cứu so sánh Nho giáo và Nho học giữa Việt Nam với các nước như Trung Quốc, Hàn Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản trong quá khứ. 

3.2. Vấn đề khai thác, nghiên cứu, biên dịch các tài liệu này trong thời gian qua

Có thể nói, việc khai thác, nghiên cứu, biên dịch các tài liệu Hán Nôm ở Việt Nam được đẩy mạnh bắt đầu kể từ khi chữ Quốc ngữ dần dần chiếm vị trí ưu thế. Chữ Hán chữ Nôm dần trở nên khó hiểu đối với đông đảo nhân dân. Đầu thế kỷ XX, một số lượng di sản Hán Nôm đã được dịch ra chữ Quốc ngữ; các bản dịch và bài nghiên cứu đã được đăng tải trên các sách, báo như: Tri tân, Nam phong, Thanh nghị v.v. 

Bài Điểm qua tình hình dịch thuật và biên khảo thuộc lĩnh vực Hán Nôm trong thế kỷ XX, của PGS. Trần Nghĩa (Xin xem: Nhìn lại Hán Nôm học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb. KHXH, H. 2003, tr.57-71), cho chúng ta các thống kê sau:

“Trong thế kỷ XX, có khoảng 1347 tác phẩm dịch thuật và biên khảo thuộc lĩnh vực Hán Nôm đã được công bố, trong đó: Văn chiếm 579 tác phẩm; Sử chiếm 332 tác phẩm; Triết chiếm 87 tác phẩm; Giáo dục chiếm 58 tác phẩm; Y chiếm 62 tác phẩm; Địa chiếm 55 tác phẩm; Tổng hợp chiếm 174 tác phẩm” (trang 65). PGS. Trần Nghĩa còn cho biết: “Lượng sách được công bố so với lượng sách chưa khai thác, chiếm tỷ lệ như sau: 

Văn khai thác được 579/ 2500, tức chiếm 23,16 % trữ lượng. Sử khai thác được 332/ 1000, tức chiếm 33,20 % trữ lượng. Triết khai thác được 87/ 600, tức chiếm 14,50 % trữ lượng. Giáo dục khai thác được 58/ 450, tức chiếm 12,50 % trữ lượng. Y khai thác được 62/ 300, tức chiếm 21 % trữ lượng. Địa khai thác được 55/300, tức chiếm 18,33 % trữ lượng” (trang 66).

Xin lưu ý đây là thống kê mang tính tổng quát về toàn bộ kho sách Hán Nôm, và hiện tại chúng ta vẫn chưa có thống kê riêng về tình hình dịch thuật và biên khảo tài liệu thuộc Nho học và Nho giáo.

Thống kê của chúng tôi cũng đã chú ý đến khía cạnh này nhưng do còn chưa tập hợp được đầy đủ dữ liệu nên chưa công bố ở đây. 

4. Kết luận
 
4.1. Trong bối cảnh và xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, các dân tộc đều trong quá trình phát hiện lại những giá trị văn hóa và tinh thần của mình để làm tài sản đóng góp vào kho tàng di sản nhân loại. Những di sản này vừa khẳng định tính thống nhất của văn hóa nhân loại, vừa nói lên tính đa dạng và vẻ đẹp phong phú của văn hóa các dân tộc sống trên thế giới. Trong ý nghĩa như vậy, di sản Hán Nôm là một bộ phận cấu thành của di sản tinh thần của các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Thư tịch Hán Nôm đã có một đời sống riêng trong dòng chảy bất tận của văn hóa Việt Nam, trở thành thông điệp trao chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác, với cốt cách, giọng điệu, mang đậm nét tâm thế của căn cước Việt Nam. 

4.2. Dòng chảy văn hóa Việt Nam vẫn thao thiết chảy từ ngàn xưa đến nay, nhưng dòng thư tịch Hán Nôm thì đã dừng lại từ một trăm năm trước và thay bằng thư tịch chữ quốc ngữ tiếng Việt. Tiếp cận, nghiên cứu, giải mã những thông điệp của cha ông trong kho di sản Hán Nôm là một việc trở nên cấp thiết hiện nay. Đó là cách tốt nhất không để cho sự đứt đoạn về văn tự kéo theo sự đứt đoạn truyền thống. Để làm tốt công việc này, trước hết là phải tiến hành công việc kiểm kê vốn di sản này (cả ở trong và ngoài nước), làm cơ sở cho việc lập ra kế hoạch khai thác, dịch thuật trong tương lai, cũng như để quản lý một cách có hiệu quả kho di sản này. 

Với ý nghĩa đó, bản thư mục và bài viết của chúng tôi là một cố gắng ban đầu, góp vào nỗ lực chung của tất cả chúng ta. Chúng tôi vẫn hy vọng trong thời gian gần nhất, sẽ có một bộ thư mục đầy đủ nhất, khoa học nhất và tiện ích nhất về Nho giáo và Nho học được biên soạn, làm công cụ cho tất cả những ai quan tâm đến vấn đề này. Để làm được việc đó, chúng tôi cho rằng phải có sự cộng tác của các chuyên gia các lĩnh vực khác nhau, sự hợp tác của bạn bè quốc tế tại các cơ quan nghiên cứu, lưu trữ trên khắp thế giới, sự giúp đỡ về tài chính và phương tiện kỹ thuật của các tổ chức và cá nhân ở trong và ngoài Việt Nam. 

4.3. Tài liệu về Nho giáo và Nho học đã là một di sản tinh thần của cha ông chúng ta để lại, việc nghiên cứu toàn diện về di sản này sẽ cho chúng ta những kinh nghiệm từ lịch sử, cũng như các biện pháp rất cụ thể trong việc phát huy tinh hoa Nho giáo và Nho học trong xã hội hiện đại hôm nay.
N.X.D



CHÚ THÍCH:
(1) Trước khi biên soạn thư mục, chúng tôi đã tham khảo ý kiến một số học giả về vấn đề này: ý kiến của ông Mai Quốc Liên trên tờ Hồn Việt số 1, tham vấn trực tiếp ý kiến của ông Đinh Thanh Hiếu (Đại học KHXH và Nhân văn Hà Nội), ông Trần Đoàn Lâm (Nhà xuất bản Thế Giới), ông Trần Nghĩa, ông Ngô Đức Thọ (Viện Nghiên cứu Hán Nôm). Nhân đây chúng tôi xin trân trọng cảm ơn. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu. Ba tập, Nxb. KHXH. H, 1993.
2. Nhìn lại Hán Nôm học thế kỷ XX. Nxb. KHXH, H. 2003.
3. Bản sắc văn hóa Việt Nam. Phan Ngọc. Nxb. VH - TT. H. 1998.
4. Viện Nghiên cứu Hán Nôm 30 năm xây dựng và phát triển, H. 2000.
5. Tạp chí Hán Nôm 100 bài tuyển chọn. Viện Nghiên cứu Hán Nôm xuất bản. H. 2000.
6. Các nhà khoa bảng Việt Nam, Ngô Đức Thọ chủ biên. Nxb. Văn học, H. 1993.
7. Bùi Duy Tân: Khảo luận một số thể loại tác gia tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia, H. 2004.
8. Cùng các bài trên các tạp chí: Hồn Việt, Hán Nôm, Nghiên cứu Lịch sử, ...

Nguồn: Bài tham luận Hội thảo về Nho giáo Việt Nam. Đã in trên Tạp chí Hán Nôm số 1 (68), 2005.