Thứ Tư, 12 tháng 9, 2018

Đặc biệt: CHƯƠNG TRÌNH GD VÀ SGK THỜI VIỆT NAM CỘNG HÒA - 2

Giờ tan học, cha mẹ đi đón con. Ảnh Tư liệu

Chương trình giáo dục và sách giáo khoa 
thời Việt Nam Cộng Hòa

Trần Văn Chánh 
27/10/2014 


A. CHƯƠNG TRÌNH VÀ SÁCH GIÁO KHOA TIỂU HỌC
I. CHƯƠNG TRÌNH TIỂU HỌC
1. Chương trình Tiểu học 1949
a. Tổng quát
Chương trình Tiểu học Việt Nam đầu tiên được ban hành theo Nghị định 4-NĐ/GD trong thời kỳ Quốc gia Việt Nam dưới quyền Quốc trưởng Bảo Đại, do Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Phan Huy Quát ký ngày 27/8/1949.
Bậc Tiểu học 5 năm 5 lớp, xếp theo thứ tự từ thấp lên cao, gồm: lớp Năm (tương đương lớp 1 sau này), lớp Tư (tương đương lớp 2), lớp Ba (tương đương lớp 3), lớp Nhì (tương đương lớp 4), lớp Nhất (tương đương lớp 5).

Các môn học: Việt ngữ (Ngữ vựng - Tập đọc và Học thuộc lòng - Văn phạm, Chính tả và Viết tập - Tập làm văn), Đức dục, Công dân giáo dục, Sử ký, Địa lý, Khoa học thường thức, Toán pháp, Tập vẽ, Thủ công, Hoạt động thanh niên và tổ chức hàng đội tự trị, Thể dục, Học hát-Tập kịch-Học nói, Họp lớp, Đi chơi, Đi cắm trại, Trò chơi.
Chương trình này đã đánh dấu một bước ngoặt tiến triển quan trọng trong lịch sử giáo dục tiểu học Việt Nam, trở thành căn cứ tham khảo cho những chương trình tiểu học tiếp sau trong thời Việt Nam Cộng hòa (VNCH). Dưới đây là “Chỉ thị chung” cũng do Bộ trưởng Phan Huy Quát ký tại Hà Nội ngày 24/8/1949, ban hành như một phụ bản kèm theo Nghị định 4-NĐ/GD nêu trên, nội dung tuy có phần hơi rối rắm thiếu mạch lạc nhưng cũng đủ cho thấy chủ trương chính sách qua đó những phương pháp của nền giáo dục mới đã được chính thức đem ra áp dụng tại Việt Nam cho bậc Tiểu học:

CHỈ THỊ CHUNG
Bậc tiểu học là căn bản của nền quốc gia giáo dục.
Ngành tiểu học có nhiệm vụ đào tạo những thế hệ thanh niên xứng đáng của một nước độc lập.
Chương trình bậc tiểu học đã soạn theo những nguyên tắc mới để cho nền giáo dục thời nay được phù hợp với sự tiến hóa  của dân tộc và tính cách độc lập của quốc gia.
1) Tinh thần quốc gia.- Nêu cao tinh thần quốc gia để khích lệ lòng ái quốc và chấn khởi dân khí. Tinh thần quốc gia Việt Nam ngày nay là tinh thần của một dân tộc biết tự cường, tự lập, biết phấn đấu để giành độc lập, biết kiên quyết để giữ giang sơn Tổ quốc, biết nỗ lực để ganh đua với người ngoài trên con đường tiến hóa của nhân loại.
2) Cưỡng bách giáo dục.- Muốn đạt được mục tiêu nói trên, nền tiểu học phải đi đến cưỡng bách giáo dục. Bộ đang nghiên cứu để tìm các phương tiện để dần dần thực hiện được sự cưỡng bách giáo dục. Vì lẽ đó, nên chương trình tiểu học không dành một số giờ về môn Pháp ngữ.  
3) Chuyển ngữ các môn trong chương trình này là tiếng Việt, nên hạn tuổi tối thiểu vào lớp Năm, là lớp đầu bậc tiểu học, rút xuống 5 tuổi (trước kia 6 tuổi). Như thế, trẻ con có thể 10 tuổi đã học hết bậc tiểu học. Những học trò nào có thể theo học bậc trung học được thì 17 tuổi đã thi lấy bằng Tú tài. So với nền trung học của các nước Âu Mỹ, thì niên hạn ấy là tương đương, và các học sinh xuất sắc sau này vào các trường đại học cũng một loạt tuổi nhau cả.
4) Lớp mẫu giáo.- Muốn cho trẻ con trước khi vào trường tiểu học đã được huấn luyện theo các phương pháp khoa học, một lớp mẫu giáo sẽ thành lập gần đây. Lớp ấy có mục đích là đào tạo một số giáo viên các lớp mẫu giáo sau này để thu nhận các trẻ con dưới 5 tuổi.
5) Thể dục.- Cho nền giáo dục được hoàn toàn, chương trình bậc tiểu học dành một địa vị quan trọng cho môn Thể dục. Một tinh thần mạnh mẽ trong một thân thể cường tráng mới mong gánh vác nổi các công việc nặng nề kiến thiết quốc gia.
Ngoài ra, sự chú trọng về thể dục là sửa soạn một số thanh niên để sau này cung cấp cho các trường quốc gia võ bị có nhiệm vụ gây một quân đội Việt Nam xứng đáng.
6) Ca nhạc.- Bí quyết của sự thành công trong việc giáo huấn trẻ con là sự hoạt động và vui vẻ. Vì lẽ đó, nên ngay từ các lớp tiểu học, Bộ đã để riêng một số giờ để dạy môn ca nhạc. Trẻ con thường thích hát và lại nhớ dai, những bài hát sẽ được lựa chọn, và sẽ luôn luôn nhắc nhở cho chúng những điều chúng cần biết để nuôi một tinh thần quốc gia mạnh mẽ, một lòng tin vững chắc.
7) Tinh thần đoàn kết.- Một dân tộc mà rời rạc thì tất nhiên yếu hèn, không thể sinh tồn trong cái thế giới hơn được kém thua này. Nghĩa đoàn kết là một lợi khí tối quan trọng trong sự tiến triển của một dân tộc. Học đường phải giải thích cho trẻ biết nghĩa hợp quần. Muốn cụ thể hóa nghĩa đoàn kết, việc tổ chức tập đoàn sẽ là một điều mới trong chương trình bậc tiểu học.
8) Học đường không có nhiệm vụ chỉ giáo huấn trẻ con, rồi để mặc chúng tự ý xoay xở lấy. Muốn tránh những kết quả không hay do sự hiểu lầm ấy gây nên, học đường cần phải liên lạc mật thiết với gia đình, để hướng dẫn học sinh vào các ngành chuyên môn.
Để giúp vào công việc ấy, sẽ lập những phiếu để ghi các điều nhận xét về sinh lý, về khả năng, về các điểm có liên can đến sức nảy nở của đứa trẻ về các phương diện.
9) Ngoài ra, nếu có thuận tiện, sẽ đặt một học xưởng cạnh mỗi trường học để học sinh có thể hằng ngày trực tiếp tế nhận các hoạt động của một tiểu công nghệ.
Hà Nội, ngày 24 tháng 8 năm 1949
Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục
   PHAN HUY QUÁT

b. Nội dung chương trình
Chỉ xin ghi lại chương trình Việt ngữ, Đức dục của lớp Năm, lớp Tư và lớp Ba để có căn cứ so sánh với những chương trình đến sau. Phần giới thiệu đầy đủ hơn sẽ dành cho Chương trình Tiểu học 1959-1960 (ở mục 2, dưới kế tiếp), vì Chương trình 1959-1960 về căn bản cũng tương tự chương trình này nhưng lại được sử dụng ổn định lâu dài trong suốt thời kỳ VNCH.
▪ Chương trình Việt ngữ các lớp Năm, Tư, Ba (chỉ nêu tiêu biểu về phân môn Tập đọc và Học thuộc lòng, và không chép lại “Lời nói đầu”):
- Lớp Năm [tương đương lớp 1 về sau]
Tập nhận và nhớ mặt chữ quốc ngữ, đọc từng chữ một, từng âm vận một, từng tiếng một, rồi tới câu ngắn. Bắt đầu nửa năm học về sau học trò đã biết đọc từng bài ngắn. Cho học thuộc lòng những câu ca dao, phương ngôn có ý nghĩa luân lý hoặc có tương quan với chương trình Ngữ vựng, nhưng phải là những câu hay và vừa sức hiểu của học trò. Trong lúc học trò chưa biết đọc, biết chép bài, thì ông giáo nên dùng thính giác và tập cho học trò lắp đi lắp lại những câu nên thuộc lòng.
- Lớp Tư [tương đương lớp 2 về sau]
Tập đọc và học thuộc lòng những bài hay và ngắn, có tương thích với chương trình Đức dục và Ngữ vựng, những bài quốc ca, ca dao ý vị. Chú ý đến cách phát âm và giọng.
- Lớp Ba [tương đương lớp 3 về sau]
Tập đọc và học thuộc lòng những bài hay và ngắn, bằng văn xuôi hoặc văn vần có tính cách luân lý, thiết thực. Tập đọc cho trôi chảy và ý vị, đọc cho tự nhiên, đừng ề à.
▪ Chương trình Đức dục các lớp Năm, Tư, Ba (ghi đủ, nhưng không chép lại “Lời nói đầu”):
- Lớp Năm [tương đương lớp 1 về sau]
Ở ba lớp dưới (Năm, Tư, Ba), chương trình Đức dục chuyên chú về phần thực hành. Ông giáo không ra bài học, nhưng vẫn có giờ nhất định để giảng giải và kể những chuyện lý thú để cảm hóa trẻ, sớm gây cho trẻ những đức tính sau đây:
a) Bổn phận đối với bản thân.- Sạch sẽ, thứ tự, ăn uống điều độ, thành thực, vui vẻ, bạo dạn.
b) Bổn phận trẻ con trong gia đình.- Bổn phận đối với cha mẹ, đối với anh em, chị em. Sự tưởng niệm tổ tiên. Các ngày kỷ niệm trong gia đình. Bổn phận đối với người trong họ. Tình gia tộc. Đoàn hợp. Cách đối đãi với gia bộc (nhân từ, độ lượng, tử tế).
c) Bổn phận trẻ con ở học đường.- Bổn phận đối với thầy học: yêu mến, tôn trọng, vâng lời, biết ơn. Bổn phận đối với bè bạn: giúp đỡ lẫn nhau, nghĩa đoàn thể trong bè bạn, bênh vực kẻ yếu, không ghen ghét, không thóc mách.
d) Bổn phận đối với người ngoài.- Lễ phép. Thương kẻ khó, kẻ tàn tật.
Đọc những chuyện hay và tiểu sử danh nhân có bổ ích cho bài dạy. 

- Lớp Tư [tương đương lớp 2 về sau]
Không có bài học, nhưng vẫn có giờ giảng giải nhất định.
a) Bổn phận đối với bản thân.- Phải học hành và tập rèn đức tính tốt. Phải tập thể dục. Biết gắng công. Tính can đảm. Giữ phẩm giá mình. Khi lầm lỗi biết xấu hổ. Tiết kiệm. Nhún nhường.
b) Bổn phận trẻ con trong gia đình.- Ôn lại chương trình lớp Năm. Thêm: Đừng làm cho cha mẹ, anh em mang tiếng xấu, giữ tiếng thơm cho gia tộc và tổ tiên.
c) Bổn phận đối với người ngoài.- Lễ phép. Ngay thẳng. Yêu mến và giúp đỡ đồng bào.

- Lớp Ba [tương đương lớp 3 về sau]
Không có bài học, nhưng có giờ giảng giải nhất định. Ôn lại chương trình hai lớp dưới [tức lớp Năm, lớp Tư] về bổn phận trẻ con đối với bản thân và đối với gia đình.
a) Bổn phận trẻ con ở học đường.- Ôn qua chương trình lớp Năm. Thêm: bổn phận đối với thầy và bạn sau khi thôi học.
b) Bổn phận đối với Tổ quốc.- Bổn phận người dân trong nước: biết nỗ lực, không ỷ lại, biết hy sinh, ham tự do, trọng kỷ luật, giữ trật tự, trọng pháp luật. Gắng làm việc cho Tổ quốc. Khuyến khích mọi người cùng làm.
c) Bổn phận đối với người ngoài.- Ôn lại chương trình lớp Tư. Thêm: trọng lời hứa, tờ giao kết. Giao tế chân thật, công tâm.
d) Xã giao.- Sự giao thiệp với bà con, họ hàng, làng xóm.

2. Chương trình Tiểu học 1959-1960
a. Tổng quát
Trước chương trình này, được biết còn có một Chương trình Tiểu học tương tự được ban hành đầu niên học 1956-1957, dưới thời Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Nguyễn Dương Đôn, nhưng chúng tôi không có sẵn trong tay tài liệu này. Chương trình Tiểu học 1959-1960 thật ra chỉ là một bộ cải biên từ Chương trình 1949 (đã giới thiệu ở trên) và Chương trình 1956-1957, nội dung giữa chúng đều đại đồng tiểu dị (kể cả phần “Lời chỉ dẫn” đặt trước mỗi môn học, mà ở Chương trình 1949 gọi là “Lời nói đầu”), và được sử dụng ổn định trong suốt quãng thời gian còn lại của chế độ VNCH, với vài chi tiết thay đổi không đáng kể.
Chương trình Tiểu học 1959-1960 được ban hành theo Nghị định 1005-GD/NĐ ngày 16/7/1959 dưới thời Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục Trần Hữu Thế, sửa đổi theo “Chương trình bậc Tiểu học ấn định do Nghị định số 4-NĐ/GD ngày 27.8.1949 và các Nghị định sửa đổi và bổ túc kế tiếp” (Điều 1 Nghị định), “Các bảng phân chia giờ học giữa các môn và chương trình học khóa đính theo Nghị định này sẽ áp dụng kể từ niên học 1959-1960” (Điều 2 Nghị định).
Bậc Tiểu học 5 năm 5 lớp, cách gọi cũng như Chương trình Tiểu học 1949, tức: lớp Năm (tương đương lớp 1 sau này), lớp Tư (tương đương lớp 2), lớp Ba (tương đương lớp 3), lớp Nhì (tương đương lớp 4), lớp Nhất (tương đương lớp 5).
Các môn học, gồm 9 môn: Việt ngữ (Ngữ vựng - Tập đọc - Học thuộc lòng - Chính tả và Văn phạm - Tập làm văn - Tập viết), Đức dục và Công dân giáo dục, Sử ký, Địa lý, Thường thức (Quan sát và Vệ sinh), Toán, Vẽ, Thủ công, Hoạt động thanh niên, Trò chơi, Thể dục và trò chơi.
Những nguyên tắc cải tổ chương trình tiểu học để cho ra chương trình 1959-1960 đã được đính kèm theo bản Nghị định 1005-GD/NĐ, đặt ở phần đầu bộ sách Chương trình Tiểu học do Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản năm 1960. Những nguyên tắc này có tính cách chỉ đạo giáo dục, thường được trích dẫn lại đầy đủ trong các giáo trình dành cho ngành sư phạm (như trong sách Sư phạm thực hành của GS Trần Văn Quế, do Bộ Văn hóa Giáo dục in lần thứ nhất năm 1964 và lần thứ hai năm 1969), đã thể hiện thêm bước nữa nỗ lực của các nhà chức trách miền Nam trong quá trình tiếp thu ngày càng đầy đủ hơn tinh thần của nền giáo dục mới thời hiện đại. Văn bản này có tính cách quan trọng, nên dưới đây xin chép lại nguyên văn để làm tài liệu tham khảo:
   
NGUYÊN TẮC CẢI TỔ CHƯƠNG TRÌNH TIỂU HỌC

I.- Nguyên tắc căn bản của nền giáo dục Việt Nam

1. Nền giáo dục Việt Nam phải là một nền giáo dục nhân bản, tôn trọng giá trị thiêng liêng của con người, lấy chính con người làm cứu cánh, và như vậy, nhằm mục đích phát triển toàn diện con người.
2. Nền giáo dục Việt Nam phải một nền giáo dục dân tộc, tôn trọng giá trị truyền thống mật thiết liên quan với những cảnh huống sinh hoạt như gia đình, nghề nghiệp, đất nước và đảm bảo hữu hiệu cho sự sinh tồn, phát triển của quốc gia dân tộc.
3. Nền giáo dục Việt Nam phải có tính cách khai phóng, tôn trọng tinh thần khoa học, phát huy tinh thần dân chủ xã hội, thâu thái tinh hoa các nền văn hóa thế giới.

II. Đặc tính của nền Tiểu học Việt Nam
Căn cứ vào ba nguyên tắc căn bản của nền giáo dục Việt Nam đã được ấn định, nền Tiểu học Việt Nam cần có những đặc tính sau đây:
A.- Tôn trọng nhân cách trẻ em:
1) Giúp trẻ em phát triển điều hòa và trọn vẹn tùy theo bản chất cá nhân và căn cứ trên định luật nảy nở tự nhiên về thể xác cũng như về tâm lý.
2) Tôn trọng cá tính và sở năng riêng biệt của trẻ.
3) Triệt để áp dụng kỷ luật tự giác.
4) Tránh mọi hình phạt phạm đến nhân vị của trẻ.
B.- Phát triển tinh thần quốc gia dân tộc:
1) Lấy đời sống nhân dân và thực trạng xã hội Việt Nam làm đối tượng.
2) Lấy Quốc sử để rèn luyện tinh thần ái quốc, nêu cao ý chí tranh đấu của dân tộc, gây tình thân ái và đoàn kết.
3) Dùng Quốc văn làm lợi khí sắc bén để trau giồi tư tưởng quốc gia.
4) Nêu cao vẻ đẹp của non sông Việt Nam, những tài nguyên phong phú của đất nước, những đức tính cố hữu của dân tộc.
5) Duy trì đạo lý cổ truyền và những thuần phong mỹ tục của dân tộc.
6) Gây đức tính tự tín, tự lập, tự cường.
C.- Rèn luyện tinh thần dân chủ và khoa học:
1) Triệt để áp dụng tổ chức “hàng đội tự trị”, phát triển tinh thần tập thể (chơi tập thể, làm việc tập thể) và gây ý thức cộng đồng.
2) Rèn luyện óc phê phán, tinh thần trách nhiệm, tinh thần kỷ luật.
3) Kích thích tính hiếu kỳ của trẻ, phát triển tinh thần khoa học.
4) Bài trừ dị đoan, mê tín.
5) Thâu thái tinh hoa văn hóa nước ngoài song song với việc phát huy tinh thần dân tộc.

III. Những nét chính trong việc sửa đổi chương trình Tiểu học
Chương trình Tiểu học ban hành đầu niên học 1956-1957, tuy đã được soạn thảo theo chương trình mới để phù hợp với tinh thần độc lập của nước nhà và sự tiến hóa của dân tộc, nhưng sau 3 năm kinh nghiệm, Bộ Quốc gia Giáo dục nhận thấy cần phải cải thiện thêm cho thích ứng với hoàn cảnh và nhu cầu hiện tại.
Căn cứ vào ba nguyên tắc căn bản của nền giáo dục Việt Nam và những đặc tính của nền Tiểu học, việc sửa đổi chương trình Tiểu học chú trọng đến những điểm sau đây:
1.- Rút nhẹ chương trình
Chương trình Tiểu học cần rút nhẹ để:
a) Sát với tuổi sinh lý và tâm lý của trẻ, thích ứng với nhu cầu thực tế.
b) Tránh lối học nhồi sọ.
c) Giúp cho trẻ phát triển điều hòa về mọi mặt: trí dục, đức dục và thể dục.
d) Gắn liền học với hành, hòa đời sống của học sinh vào đời sống của nhân dân, khiến chúng có nhiều cơ hội học hỏi nhân dân đồng thời giúp đỡ nhân dân.
2.- Bãi bỏ ngoại ngữ: Theo chương trình Trung học sửa đổi lại do Nghị định số 1286 ngày 12/8/1958 thì khi lên Đệ thất học sinh mới bắt đầu học ngoại ngữ và tự do lựa chọn một trong hai sinh ngữ: Anh văn hoặc Pháp văn. Như vậy, việc dạy Pháp văn ở bậc Tiểu học xét ra không thiết thực nữa, cần phải bãi bỏ, để trẻ em có thêm thời giờ trau giồi về Quốc văn mà giá trị cần được nâng cao ở tất cả các ngành và các bậc học.
3.- Bãi bỏ Ban Hướng nghiệp: Ban Hướng nghiệp thiết lập do chương trình ban hành đầu niên học 1956-57 có mục đích tập cho những học sinh bắt buộc phải trở về với công việc đồng áng, quen và thích sự sinh hoạt ở chung quanh, để chúng khỏi bỡ ngỡ sau khi rời khỏi ghế nhà trường tiểu học.
Theo tinh thần giáo dục mới thì không riêng những trẻ em này, mà tất cả các học sinh đều phải được rèn luyện để có thể giúp ích cho đời sống hằng ngày tùy từng địa phương và tùy theo khả năng và sức khỏe của trẻ. Vì vậy, không cần chia thành 2 ban dự bị trung học và hướng nghiệp nữa.

IV.- Phương pháp sư phạm - Tài liệu giáo khoa
Soạn thảo một chương trình đầy đủ chưa phải là hoàn thành được công cuộc cải tiến giáo dục. Để đạt được kết quả mong muốn, điều cốt yếu là phải áp dụng chương trình theo tinh thần mới, việc giảng dạy phải theo những phương pháp sư phạm mới: phương pháp hoạt động, cụ thể, thính thị.
Chỉ thị ngày 24/8/1949 và Thông tư số 843-GD ngày 25/2/1952 của Bộ Quốc gia Giáo dục đã có nói rõ đại cương về tinh thần mới phải theo và phương pháp sư phạm mới phải áp dụng để cho việc giáo dục con em được thích ứng với nhịp sống của dân tộc trên con đường tiến hóa. Thêm vào đó, mỗi môn học sẽ có chỉ thị riêng nhấn mạnh vào những đặc điểm của chương trình cải tổ và dẫn giải những phương sách cần thiết để trường tiểu học có thể tích cực hoạt động theo những khuynh hướng mới và làm tròn nhiệm vụ của nó.   
Ngoài ra, những điều giảng dạy cho trẻ phải được thấm nhuần tinh thần giáo dục mới. Vì vậy, việc biên soạn hoặc lựa chọn tài liệu giáo khoa phải triệt để căn cứ vào ba nguyên tắc căn bản của nền giáo dục Việt Nam nói chung và những đặc tính của nền Tiểu học nói riêng, nhất là về Quốc văn, Việt sử, Địa lý, Đức dục, Công dân giáo dục v.v… là những môn không thể giảng dạy theo những tài liệu lỗi thời, không thích ứng với hoàn cảnh và nhu cầu Việt Nam hiện tại.

b. Nội dung chương trình
Dưới đây chỉ ghi lại chương trình học của 3 môn Việt ngữ, Đức dục và Công dân giáo dục với “Lời chỉ dẫn” giảng dạy cho từng môn của Bộ Quốc gia Giáo dục. Riêng môn Việt ngữ, chỉ ghi phân môn Tập đọc-Học thuộc lòng (không ghi Ngữ vựng, Chính tả, Tập làm văn, Tập viết), để tránh rườm, nhưng cũng bởi vì chỉ cần thông qua phân môn này, chúng ta đã đủ hiểu được nội dung giáo dục tư tưởng, đạo đức truyền thống của môn Việt ngữ mà các nhà giáo dục miền Nam trước đây muốn nhấn mạnh.

VIỆT NGỮ
LỜI CHỈ DẪN
Ngày nay khoa Việt ngữ được dùng để rèn đúc và phát huy tư tưởng dân tộc. Ngoài ra, khoa này còn nhằm mục đích:
1) Về thực tế, trực tiếp làm cho học sinh bậc Tiểu học có một căn bản ngữ vựng cần thiết trong sự học tập.
2) Giúp cho học sinh có những tài liệu dùng trong sự tiếp xúc hằng ngày:
a) Phát biểu tư tưởng của mình bằng lời nói hoặc câu văn.
b) Hiểu biết tư tưởng của những người chung quanh mình khi nghe lời nói hoặc khi đọc câu văn.
Chương trình Việt ngữ gồm có:
- Ngữ vựng
- Tập đọc, Học thuộc lòng
- Chính tả và Văn phạm, Tập viết
- Tập làm văn
Trong thời khắc biểu của các lớp tiểu học đều có ghi những môn ấy, riêng môn Tập làm văn không ghi ở thời khắc biểu lớp Năm [lớp 1 bây giờ]. Trong những giờ Ngữ vựng và Tập đọc, giáo chức phải tập cho học trò nói chuyện (nói cho bạo dạn và cho tự nhiên, có thứ tự, có đầu đuôi, đừng kéo dài từng tiếng một). Còn môn Văn phạm [Ngữ pháp] thì chỉ ghi trong chương trình lớp Nhì và lớp Nhất [lớp 4 và lớp 5 bây giờ], nhưng cũng cốt để dạy đại cương về ngữ pháp mà thôi. Giáo chức sẽ dùng những bài Chính tả hoặc Tập đọc để giúp học sinh nhận xét một vài định luật thông thường riêng của Việt ngữ, để giúp chúng trong việc tập làm văn.
Những vấn đề trong chương trình đã ấn định sẽ học đi học lại kỹ lưỡng theo phương pháp tiệm tiến, đi từ chỗ biết đến chỗ chưa biết, từ chỗ gần đến chỗ xa, từ chỗ dễ đến chỗ khó, từ chỗ cụ thể đến chỗ trừu tượng. Giáo chức phải dùng vật liệu, tranh ảnh hoặc tỉ dụ thiết thực để cụ thể hóa tất cả các vấn đề đem dạy cho học trò. Mỗi vấn đề sẽ dùng làm chủ điểm cho tất cả các môn Ngữ vựng, Tập đọc, Học thuộc lòng, Chính tả, Tập làm văn… Trong lúc dạy Việt ngữ, giáo chức nên nhớ rằng chương trình ấy không phải đứng tách hẳn chương trình của các môn học khác như Đức dục, Công dân giáo dục, Quốc sử, Địa lý v.v… mà phải cố tìm cách cho chương trình các môn học ấy và khoa Việt ngữ có liên lạc với nhau.
Ở lớp Nhì và lớp Nhất, những danh từ khoa học và kỹ thuật (thuật ngữ), những danh từ Hán Việt hoặc ngoại lai (tân ngữ), những danh từ thường dùng trong công văn sẽ chiếm một phần quan trọng. Các tiếng gốc ở chữ Hán sẽ dạy nhiều hơn và giảng kỹ hơn, theo lối tách riêng từng chữ, rồi hợp lại mà giải nghĩa toàn cả tiếng, hoặc các câu thành ngữ.
Đặc biệt chú ý về Việt ngữ: nên nhẹ về phần tầm chương trích cú, nghệ thuật vì nghệ thuật, mà phải chú ý đề cao vấn đề nghệ thuật vì nhân sinh (phục vụ cho đạo đức con người, cho hạnh phúc gia đình, cho an ninh xã hội, cho độc lập tự do).  

CHƯƠNG TRÌNH
(Gồm Ngữ vựng-Tập đọc-Học thuộc lòng-Chính tả-Văn phạm-Tập viết-Tập làm văn (từ lớp Tư), nhưng ở đây chỉ ghi 2 phân môn Tập đọc và Học thuộc lòng, theo Chương trình Tiểu học, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1960)

LỚP NĂM
Tập nhận và nhớ mặt chữ quốc ngữ, đọc từng tiếng, từng câu ngắn. Bắt đầu nửa năm học về sau, học trò đã phải biết đọc từng bài ngắn, liên quan với chương trình Ngữ vựng. Cho học thuộc lòng những câu ca dao, tục ngữ, châm ngôn đượm màu sắc dân tộc có ý nghĩa luân lý hoặc tương quan với chương trình Ngữ vựng nhưng phải là những câu hay, có tính cách thực tế và vừa sức hiểu của học trò. Trong lúc học trò chưa biết đọc, chưa biết chép bài, giáo viên nên dùng thính giác và tập cho học trò lặp đi lặp lại những câu nên thuộc lòng (chú ý đến cách đọc cho đúng giọng).

LỚP TƯ
Tập đọc, học thuộc lòng những bài (văn xuôi hoặc văn vần) hay, ngắn, thiết thực có tương quan với chương trình Đức dục và Ngữ vựng, bài quốc ca, ca dao ý vị (chú ý đến cách phát âm và giọng).

LỚP BA
Tập đọc, học thuộc lòng những bài (văn xuôi hoặc văn vần) hay, ngắn, thiết thực, có tương quan với chương trình Đức dục và Ngữ vựng (tập đọc cho trôi chảy, tự nhiên, đừng ê…a…).

LỚP NHÌ
Tập đọc, giải nghĩa, học thuộc lòng những bài văn hay và ngắn, bằng văn xuôi hoặc văn vần, có tính cách luân lý, thiết thực. Nên chọn những bài văn mới có tinh thần quốc gia hay xã hội (tập đọc cho trôi chảy và có ý vị, đọc tự nhiên, đừng ê…a, để ý đến các “nhỡn tự”, giọng đọc phải thích hợp với ý tưởng, tính cách và tình tiết bài đọc.

LỚP NHẤT
Tập đọc, học thuộc lòng những bài văn hay, vừa sức hiểu biết của học sinh, trích ở tác phẩm của các văn thi sĩ và các nhà chí sĩ hiện đại; tập cho quen các lối văn, tập cho học trò phê bình, giải thích. Đọc những tác phẩm khuynh hướng về đạo lý, về chủ nghĩa quốc gia, về tình cảm, về trào phúng của các văn gia và thi gia cận đại.

ĐỨC DỤC
LỜI CHỈ DẪN
Mục đích môn Đức dục là giúp cho trẻ em những đức tính tốt cần thiết cho một công dân của một nước độc lập. Vậy nguyên tắc của chương trình Đức dục là gây cho học sinh có lòng tự tín và tinh thần tự lập, có tinh thần quốc gia, giàu lòng nhân đạo, bác ái, biết đoàn kết và hy sinh vì chính nghĩa.
Muốn đạt được mục đích nói trên, chương trình Đức dục không thể là một mớ bài luân lý để nhồi vào óc trẻ những lý thuyết suông; trái lại những bài luân lý là những lời huấn giới, những câu châm ngôn hoặc cách ngôn đích đáng, những nhận định chính xác, nêu rõ những đại ý về những nghĩa vụ chính trong đạo làm người. Trong khi giảng giải, ông thầy nên dạy sơ lược về phần lý thuyết và hết sức cụ thể hóa bài học, kể những chuyện vặt thông thường, những thí dụ rút ở đời sống thực tế hay ở truyện danh nhân nước khác. Nên đề cao đạo đức hơn tài năng. Đó là phương pháp làm cho học trò nhận thấy chân lý một cách rõ ràng và sẽ có công dụng là kích thích bản năng đạo lý của đứa trẻ.
Ngoài ra, công cuộc rèn luyện tính tình cốt ở sự thực hành. Bất cứ lúc nào, thầy giáo phải kiểm cố hành vi, cử chỉ học sinh, không để chúng sai lạc ngoài lối dạy, gây cho chúng những tập quán tốt, trừ khử những thói xấu, rèn luyện cho chúng hăng hái và quả quyết trong mọi trường hợp quan trọng.

CHƯƠNG TRÌNH
(Chỉ trích dẫn chương trình Đức dục của 3 lớp đầu Năm, Tư, Ba, lược bớt 2 lớp Nhì, Nhất, theo Chương trình Tiểu học, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1960)

Lớp Năm (= Lớp 1)
Ở ba lớp dưới (Năm, Tư, Ba), chương trình Đức dục chuyên chú về phần thực hành. Giáo viên không ra bài học, nhưng vẫn có giờ nhất định để giảng giải và kể những chuyện lý thú để cảm hóa trẻ, sớm gây cho chúng có những đức tính sau đây:
1) Bổn phận đối với bản thân: Sạch sẽ, ăn uống, thứ tự, thành thực, vui vẻ, bạo dạn.   
2) Bổn phận trẻ trong gia đình: Bổn phận đối với cha mẹ, anh em, ông bà.- Các ngày kỷ niệm trong gia đình.- Cách đối đãi với người ở (tử tế, dịu dàng).
3) Bổn phận trẻ ở học đường: Bổn phận đối với thầy học: yêu mến, tôn trọng, vâng lời.- Bổn phận đối với bè bạn: giúp đỡ lẫn nhau, hòa thuận nhau, thương nhau – kín miệng.
4) Bổn phận đối với người ngoài: Lễ phép: Cách chào hỏi, xưng hô với kẻ dưới, người trên (trong nhà mình, nơi nhà người, ngoài đường).
- Lớp Tư (Lớp 2)
Không có bài học, nhưng vẫn có giờ giảng giải nhất định. Giảng xong cho phép một câu quyết định.
1) Bổn phận đối với bản thân.- Phải tập thể dục. Biết gắng công. Phải học hành và tập rèn đức tính tốt. Khi lầm lỗi biết hối cải. Tiết kiệm. Nhún nhường.
2) Bổn phận trẻ trong gia đình.- Nhắc lại chương trình lớp Năm. Thêm: Giữ tiếng thơm cho cha mẹ, ông bà. Bổn phận đối với họ hàng.
3) Bổn phận trẻ ở học đường: Nhắc lại chương trình lớp Năm. Thêm: Tình bè bạn.
4) Bổn phận đối với người ngoài.- Lễ phép. Ngay thẳng. Yêu mến và giúp đỡ đồng bào.
- Lớp Ba (Lớp 3)
Không có bài học, nhưng có giờ giảng giải nhất định. Giảng xong cho chép một câu quyết định hay một câu châm ngôn.
1) Nhắc lại chương trình lớp Tư: Bổn phận trẻ con đối với bản thân.
2) Bổn phận trẻ đối với gia đình: Hiếu đễ. Bổn phận làm con: a) Khi còn nhỏ; b) Khi trưởng thành; c) Khi cha mẹ già yếu.
3) Bổn phận trẻ ở học đường.- Nhắc qua những điều đã dạy ở lớp Năm. Tình bè bạn. Bổn phận đối với thầy và bạn: a) Ở học đường; b) Sau khi thôi học.
4) Bổn phận đối với người ngoài.- Nhắc lại những điều đã dạy ở lớp Tư. Thêm: Trọng lời hứa. Chân thật. Sự giao tiếp với bà con, họ hàng, làng xóm.

c) Nhận định về Chương trình Tiểu học 1959-1960
Nhìn chung, Chương trình Tiểu học 1959-1960 chỉ là một bản mô phỏng theo Chương trình Tiểu học năm 1949. Ở không ít chỗ, người soạn chương trình chỉ lược đi chút ít nội dung, hoặc thay đổi cách diễn đạt, sửa vài câu chữ. Thậm chí, giống nhau cả ở những “Lời nói đầu” hướng dẫn giảng dạy chương trình dành cho mỗi môn học (mà Chương trình 1959-1960 sửa lại là “Lời chỉ dẫn”).
- Theo nhận định chung của nhiều người, nội dung chương trình quá nặng nề, còn rườm rà, phức tạp, kém thực tế, vượt quá trình độ phát triển về trí năng và tâm lý của trẻ, như dạy Địa lý cho một em học sinh lớp 5 (lớp Nhất cũ) mà lại muốn cho nó phải “hiểu biết những khả năng mới về kinh tế, chính trị và văn hóa của nước nhà, của các nước lân cận và của các nước cường quốc năm châu; để rồi so sánh, suy nghĩ, đặng tìm cách theo kịp người hoặc vượt hơn người”, như trong Lời nói đầu một cuốn sách giáo khoa do Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản.
Nội dung chương trình chuyển tải còn nặng về lý thuyết, thiếu thực tế, chưa sát với hoàn cảnh và nhu cầu địa phương (nhất là đối với các dân tộc thiểu số vùng cao), không thiết thực với hiện trạng nước nhà (xem phần đúc kết của Tiểu ban Tiểu học trong Đại hội Giáo dục Toàn quốc 1964, Văn hóa nguyệt san, tập XIV, tlđd., tr. 593). Lẽ ra phải có một chương trình học cụ thể, có tính cách đại chúng và thực dụng hơn, gắn với đời sống thường nhật và khung cảnh sống của học sinh, và nên phát triển bậc Tiểu học theo hướng “cộng đồng hóa”, nghĩa là phải làm cho chương trình học thích nghi với cộng đồng học sinh đang sống, tùy theo vùng miền: thôn quê khác thành thị, miền rừng khác miền biển… Như ở môi trường nông thôn thì phải dạy ở mức thô sơ cho trẻ nhỏ về canh tác lúa gạo, trồng cây ăn trái, chăn nuôi gia súc, vệ sinh thường thức, kiến thức về một hai ngành tiểu công nghệ thông thường, về tổ chức xã thôn và phong tục tập quán ở thôn quê…; ở miền biển thì nên dạy cho trẻ hiểu về nghề đánh cá, làm muối, làm nước mắm… “Quy tắc là trẻ trong hoàn cảnh nào thì học nhiều về hoàn cảnh đó, còn những hoàn cảnh khác chỉ cần biết qua loa, như vậy học rồi mới có dịp hành. Về các môn Toán, Sử, Địa, Việt ngữ, vẫn chỉ nên dạy những cái thiết thực. Chương trình Toán tỉa bớt đi một nửa cũng không hại… Trẻ chỉ cần làm được những bài toán thường dùng trong đời thôi, đừng bắt chúng làm những toán lắt léo về phân số, động tử, tỉ trọng như hiện nay…” (Nguyễn Hiến Lê, “Phải mạnh dạn cải tổ nền giáo dục Việt Nam”, Bách khoa số 130, ngày 1/6/1962, tr. 35).   
Có tác giả đề nghị nên tăng thêm những giờ âm nhạc, hội họa và thủ công, “để gây khiếu thẩm mỹ trong tâm hồn non nớt của học sinh”, và “để các em yêu mến và tôn trọng công việc lao động, điều cần thiết trong một xã hội vốn chỉ quen cái học từ chương và sách vở.” (xem Nguyễn Khắc Hoạch, Xây dựng và phát triển văn hóa giáo dục, Nxb Lửa thiêng, Sài Gòn, 1970, tr. 100-105).
Một số ý kiến thuộc loại như vừa nêu trên có thể được coi như mầm mống của chủ trương cải cách giáo dục theo hướng “cộng đồng hóa” và “địa phương hóa” mà ngành giáo dục VNCH đã cố gắng thực hiện nhưng còn dang dở, trong những năm cuối cùng của chế độ. 

3. Chương trình Tiểu học 1967-1968
Chương trình Tiểu học áp dụng kể từ niên khóa 1967-1968 thật ra chỉ là một bản sao lại chương trình cũ (1959-1960) ở trên. Sự thay đổi chút ít chỉ được thể hiện bằng đôi ba thông cáo hoặc công văn của cơ quan chức năng ngành giáo dục về việc sửa đổi chương trình học của một vài môn học nào đó trong Chương trình Tiểu học cũ trước, như:
a) Thông cáo số 86/SVL/GD/TTH/T ngày 22/1/1964 của Nha Tổng giám đốc Trung, Tiểu học và Bình dân giáo dục về việc Sửa đổi chương trình Đức dục, Công dân giáo dục và Quốc sử ở lớp Ba và lớp Nhất.
b) Công văn số 4865/GD/HL/1 ngày 30/6/1967 của Bộ Giáo dục về việc phổ biến Chương trình Khoa học bậc Tiểu học.
c) Công văn số 5501-GD/HL/1 ngày 1/8/1967 của Bộ Giáo dục về việc phổ biến Chương trình Đức dục bậc Tiểu học.

II. TÀI LIỆU VÀ SÁCH GIÁO KHOA TIỂU HỌC
1. Những tạp chí giáo khoa Tiểu học
Giai đoạn đầu sách giáo khoa tiểu học còn thiếu, nên thời Pháp thuộc và sau đó từ thời kỳ chuyển tiếp sang Quốc gia Việt Nam qua đến Việt Nam Cộng hòa, nhà nước và một số tư nhân đã cho xuất bản những tạp chí phục vụ cho hoạt động giảng dạy ở các trường sơ đẳng hoặc tiểu học. Căn cứ Mục lục báo chí Việt ngữ trong 100 năm (1865-1965) của Lê Ngọc Trụ (bản in roneo) và Thư tịch báo chí Việt Nam của Học viện Chính trị Quốc gia TP. HCM (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998), cùng một ít tài liệu hữu quan còn lưu giữ được ở vài thư viện, chúng tôi xin liệt kê theo thứ tự thời gian xuất bản, một số tạp chí chuyên về giáo khoa như sau:
- Học báo (1919-1944), Revue pédagogique à l’usage des écoles primaires de l’Annam et du Tonkin (Tạp chí sư phạm dùng cho các trường sơ đẳng ở Trung và Bắc Kỳ), do một nhóm giáo viên biên tập dưới sự chỉ đạo của Sở Học chính Bắc Kỳ, Nhà in Trung Bắc tân văn, Hà Nội (Lê Ngọc Trụ ghi: Năm thứ năm, từ số 9 đến 39, năm 1924).
- Sư phạm học khoa (1922-1939) (Journal des écoles), tuần báo ra ngày thứ Hai (Lê Ngọc Trụ ghi: Số 14 đến 33, năm 1923).
- Khuyến học (1935-1937), bán nguyệt san xuất bản tại Hà Nội. Chủ nhiệm: Nguyễn Xuân Thái (Lê Ngọc Trụ ghi: Năm thứ 1, số 1 ngày 1/9/1935; đình bản số 3 [bộ mới] tháng 4/1937).  
- Sơ học tuần báo (1930-1932), Revue hebdomadaire pour l’enseignement primaire/ Tuần báo dùng cho giáo dục sơ đẳng. Xuất bản ở Hà Nội, Chủ nhiệm là Nguyễn Xuân Mai (Lê Ngọc Trụ ghi: Năm thứ 1, số 1 ngày 29/11/1930, đình bản số 57 ngày 22.5.1932).
- Bạn trẻ học sanh (1940), bán nguyệt san xuất bản tại Sài Gòn. Quản lý: Đoàn Văn Châu (Lê Ngọc Trụ ghi: Năm thứ 1, số 1, ngày 25/4/1940 đình bản).
- Giáo dục tạp chí (1942-1944), Revue pédagogique, publié par un groupe de mandarins et de membres de l’enseignement en Annam/ Tạp chí giáo dục được xuất bản do một nhóm quan viên và thành viên ngành giáo dục ở Trung Kỳ, dưới sự bảo trợ của Thượng thư Bộ Học. Xuất bản hàng tháng tại Huế bằng hai thứ chữ Việt và Pháp. Chủ nhiệm: Nguyễn Khoa Toàn. (Lê Ngọc Trụ ghi Năm thứ 1, số 1-2, tháng 9-10.1942; theo Nguyễn Xuân Hoa trong Lịch sử báo chí Huế, Nxb Thuận Hóa, 2013 thì số 1 ra tháng 9-10 năm 1941, số cuối năm 1944).
Giáo khoa tạp chí do Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản trong niên học 1948-1949 tại Sài Gòn, phục vụ cho việc giảng dạy bậc Tiểu học. Chủ bút là Nguyễn Văn Bường (Thanh tra Tiểu học). Phần Pháp văn do H. Truchet (Thanh tra Liên tỉnh) phụ trách, phần tiếng Việt do một nhóm giáo viên Sài Gòn-Chợ Lớn. Mỗi số đều có Phần tổng quát và Phần giáo khoa. Phần tổng quát đăng vài ba bài viết của giáo chức về lý luận, phương pháp giáo dục/ dạy học; Phần giáo khoa chia ra: Lớp Tiếp liên (Tập I), Lớp Nhứt (Tập II), Lớp Nhì (Tập III), Lớp Ba (Tập IV), Lớp Tư (Tập V) và Lớp Năm (Tập VI), với đủ các môn học trong nhà trường đương thời.
- Giáo dục nguyệt san (Enseignement 1er degré/ Bậc Tiểu học) xuất bản năm thứ nhất 1947, kéo dài đến năm 1949.
- Muốn đậu bằng tiểu học (1953), nguyệt san xuất bản tại Sài Gòn. Chủ nhiệm: Vũ Hữu Tiềm. Tập 1, tháng 4/1953; số cuối cùng: tập 8 tháng 11/1953.
- Hiếu học, tuần báo giáo khoa xuất bản tại Hà Nội vào ngày thứ năm (tập đỏ dành cho bậc Tiểu học). Năm thứ nhất 1953, kéo dài đến 1954. Chủ nhiệm: Bùi Cẩm Chương.
- Tiểu học nguyệt san (1955-? ), do Bộ Quốc gia Giáo dục Sài Gòn xuất bản, số 1-2 tháng 1-2/1955. Ra đều hàng tháng, cung cấp tài liệu giảng dạy cho giáo viên, gồm đủ các môn học thuộc chương trình bậc Tiểu học. Không rõ đình bản từ năm nào, nhưng trong tay chúng tôi hiện còn giữ được số 7 tháng 2/1965 (niên khóa 1964-1965). Bộ biên tập ghi: Chủ bút: Ông Giám đốc Nha Tiểu học (không ghi rõ họ tên); Phụ tá Chủ bút: Ông Đặng Duy Chiểu, Thanh tra Tiểu học Trung ương, Nha Tiểu học; Tổng thư ký: Ông Đinh Gia Dzu, Phòng Học chế Nha Tiểu học; Thư ký: Bà Trần Thị Mẹo, Phòng Thanh tra Nha Tiểu học… Ở mỗi số Tiểu học nguyệt san, trước khi vào phần giáo khoa dạy các bài học theo chương trình của bộ, đều có các phần Luận thuyết, Tạp trở (đăng thông tin…), Văn uyển (đăng thơ, văn dịch), Nghị định (đăng các nghị định, công văn liên quan ngành giáo dục). Phần giáo khoa được sự cộng tác thường xuyên của đông đảo giáo viên, trong đó có một số người được nhiều người biết như Hà Mai Anh, Thềm Văn Đắt, Nguyễn An Khương, Nguyễn Tất Lâm, Văn Công Lầu, Vương Pển Liêm…   
- Hiếu học, tuần báo do Nxb Sống mới ấn hành tại Sài Gòn. Tập I đến số 16 (1959).
- Chăm học (1959), tuần báo xuất bản tại Sài Gòn, ra được từ tập 1 đến tập 12. Giám đốc: Nguyễn Văn Hợi.

2. Sách giáo khoa Tiểu học
Sách giáo khoa bậc Tiểu học viết bằng tiếng Việt đã được biết tới từ thời Pháp thuộc, xuất hiện lai rai có lẽ từ sau Đạo dụ ngày 31/5/1906 ấn định nền học chính mới, và nhất là sau khi Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut ban hành Học chính tổng quy năm 1917 với sự điều chỉnh ở Điều 134 bằng Nghị định ngày 18/9/1924 quy định phải dạy bằng tiếng bản xứ cho ba lớp đầu bậc tiểu học. Đây cũng là lý do sự ra đời của bộ sách giáo khoa “Việt Nam tiểu học tùng thư” viết bằng tiếng Việt dành cho các môn học bậc Ấu học do Nha Học chính Đông Pháp chủ trương và xuất bản.
Hiện chúng tôi còn giữ được bản photo cuốn Méthode de Quốc ngữ (illustrée) dạy vỡ lòng tiếng Việt do J.C Boscq biên soạn dùng cho học sinh các trường học Đông Dương, bản in lần thứ 13 tại Sài Gòn năm 1914. Quyển này được đóng gộp chung với quyển Morale Pratique (Luân lý thực hành) của cùng tác giả với sự cộng tác dịch thuật của Nguyễn Văn Tâm, giáo viên Trung học Mỹ Tho. Quyển sau này cũng dùng cho học sinh các trường học Đông Dương, bản in lần thứ 6 năm 1926 tại Sài Gòn, nội dung toàn tiếng Việt, dạy về luân lý, với những bài học như: Phong hóa, Lương tâm, Thân tộc, Phải vâng lời cha mẹ, Anh em chị em, Huynh đệ hữu ái, Bổn phận tôi tớ, Nhà trường, Khuyến học, Cần học, Kẻ biếng nhác, Tình bậu bạn, Phải giúp nhau, Xấu nết hết bạn…
Trong những năm 20-40 của thế kỷ trước, nhiều sách dạy tiếng Việt hay Quốc văn bậc Tiểu học đã ra đời. Được biết, hiện Thư viện Quốc gia (Hà Nội) và vài tư nhân vẫn còn lưu giữ được một số sách giáo khoa môn tiếng Việt bậc tiểu học như sau:
- Ấu học bị thể (Un peu de tout) của Henri Le Bris, bản cải biên của Huỳnh Văn Ninh để dùng cho học trò các trường ở Đông Dương, in lần thứ 3 tại Sài Gòn năm 1916, gồm những bài tập đọc bổ ích về Kiến thức phổ thông, Địa lý, Lịch sử, Hành chính.   
- Quốc-ngữ sơ học vấn tân của Nguyễn Mạnh Khoa, 37 trang, Nghiêm Hàm ấn quán, Hà Nội, 1924.
- Lên Sáu: Sách vần quốc ngữ của Nguyễn Khắc Hiếu, 23 trang, Nghiêm Hàm ấn quán, Hà Nội, 1924.
- Ấu viên tất độc của Trần Phong Sắc, tác giả tự xuất bản, năm 1925.
- Méthode pratique pour l’étude du Quoc ngu: à l’usage des écoles annamites (Phương pháp thực hành Quốc ngữ dùng cho các trường Annam) của Đỗ Thận, 15 trang, Nhà in Lê Văn Phúc in lần thứ 21, Hà Nội, 1926.
- Sách dạy vần quốc ngữ của Đỗ Thận, 15 trang, Nhà in Lê Văn Phúc in lần thứ 22, Hà Nội, 1927.
- Tiếng một An Nam dùng cho học trò Sơ đẳng tiểu học do Tống Viết Toại biên soạn, Nhà in Đắc Lập, Huế, 1927. Ngoài bìa ghi: “Nhà nước đã nhận sách này vô bản kê những sách học trong các trường Pháp Việt cõi Đông Pháp (Nghị định Quan Toàn quyền ngày 15 Octobre 1927)”.
- Tập đọc và Học thuộc lòng (Lớp Sơ đẳng và Trung đẳng năm thứ nhất) của Mai Văn Phương, Bùi Huy Huệ, 121 trang, Nhà in Trung Bắc tân văn in lần thứ 2, Hà Nội, 1937 (in lần thứ 3 năm 1939).
- Tân Việt văn độc bản (Lớp trung đẳng, năm thứ nhất và thứ nhì), 84 trang, nhà in Legrand, Hà Nội, 1942.
Nhưng đặc biệt, chúng ta ngày nay còn biết khá nhiều tới ba sách giáo khoa rất nổi tiếng một thời, gồm Quốc văn giáo khoa thư chia thành 2 quyển dành cho lớp Sơ đẳng (= lớp Ba sau này) và lớp Dự bị (= lớp Tư hay lớp 2), Luân lý giáo khoa thư lớp Đồng ấu (= lớp Năm hay lớp 1) đều của nhóm Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc… biên soạn trong tủ sách “Việt Nam tiểu học tùng thư” do Nha Học chính Đông Pháp xuất bản khoảng năm 1926 và được sử dụng vừa chính thức vừa rộng rãi trong suốt giai đoạn trước năm 1949. Riêng Quốc văn giáo khoa thưLuân lý giáo khoa thư, vì giá trị giáo dục lâu bền của chúng, gần đây đã được nhiều nhà xuất bản (như Trẻ, Thanh niên Văn học…) cho in lại nên có thể tìm đọc dễ dàng. Riêng một mình tác giả Trần Trọng Kim còn có quyển Sơ học luân lý dùng cho lớp Sơ đẳng, xuất bản lần đầu năm 1919, “soạn đúng như chương trình chính phủ mới định” (“Tựa” của tác giả, Sơ học luân lý, Nxb Tân Việt, Sài Gòn, 1950, tr. X).
Về những môn học khác, trong bộ “Việt Nam Tiểu học Tùng thư” bằng tiếng Việt do Nha Học chính Đông Pháp chủ trương xuất bản, còn có: Hán văn tân giáo khoa thư của Lê Thước và Nguyễn Hiệt Chi lớp Đồng ấu, lớp Dự bị và lớp Sơ đẳng in từng cuốn riêng lần thứ nhất trong năm 1928; Sử ký giáo khoa thưToán pháp, Cách trí, Địa dư lớp Đồng ấu, Cách trí giáo khoa thư lớp Sơ đẳng của nhóm tác giả Trần Trọng Kim-Nguyễn Văn Ngọc…; Vệ sinh giáo khoa thư lớp Đồng ấu và lớp Dự bị của Bác sĩ Guillemet (Chánh Sở Y chính xứ Ai Lao)…




Từ 1949, bước sang thời kỳ Quốc gia Việt Nam (1949-1955), với chương trình Trung và Tiểu học mới ban hành năm 1949, sách giáo khoa các môn học bắt đầu xuất hiện nhiều hơn. Riêng về môn Quốc văn bậc Tiểu học, hiện chúng tôi cũng còn giữ được cuốn Bài đọc Quốc văn của Lê Văn Chánh ở Mỹ Tho biên soạn (“Lời nói đầu” ghi 1/11/1948) dành cho lớp Nhì, lớp Nhứt trường Sơ đẳng, do Nxb Minh tân (Paris) xuất bản (vì sách mất bìa lưng nên không nhận ra năm xuất bản đích xác). Dựa theo danh sách liệt kê giới thiệu ở bìa lưng một quyển sách khác xuất bản năm 1954 của Nxb Minh tân thì sách Bài đọc Quốc văn của Lê Văn Chánh chia làm 3 quyển I, II, III, nhưng quyển chúng tôi đang có trong tay không thấy ghi số quyển gì cả. Sách dày chỉ 94 trang khổ 13 x 19cm, “ngoài những bài trích ở các sách quốc văn, chúng tôi còn dịch phỏng theo hay dựa theo những bài của các tác giả Anh, Pháp và Mỹ…”, với mục đích “tập trẻ con thưởng thức những bài tả cảnh, tả tâm lý, tả hình trạng người và vật một cách thiết thực và luôn tiện dạy các trẻ con dựa theo mấy bài ấy mà mô tả những quan sát của riêng mình” (trích “Lời nói đầu”).
Ngoài quyển Bài đọc Quốc văn nêu trên, tác giả Lê Văn Chánh còn có Học tiếng Việt Nam (lớp Nhì, lớp Nhứt trường Sơ đẳng), Cổ kim đồng thoại (có lẽ thuộc dạng bài đọc thêm cho học sinh tiểu học), đều do nhà Minh tân xuất bản.
Tiên phong xuất hiện trong khoảng thời gian này, có thể kể:
- 100 bài tập đọc, loại sách giáo khoa, 2 quyển, lớp Nhứt và lớp Nhì của “Một nhóm giáo viên” xuất bản, năm 1949.
- Tiểu học Việt Nam Văn phạm (Giáo khoa thư) của Nguyễn Quang Oánh, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, 160 trang, Nhà in Lê Thăng, Hà Nội, bản in lại của Nxb Xuân thu năm 1950. 
- Văn phạm Việt Nam lớp Nhì và lớp Nhất ban Tiểu học của Việt Quang, 105 trang, Nxb Nam Việt, 1951.
- Văn phạm Tiểu học lớp Nhì và lớp Nhất của Bùi Văn Bảo và Vân Trình, “Soạn theo chương trình của Bộ Quốc gia Giáo dục, do Đồng bích xuất bản, in lần thứ nhất tại Hà Nội năm 1952.
- Bộ Việt ngữ độc bản 2 quyển (I & II) của nhóm Huỳnh Văn Đó, Nguyễn Hữu Thông, Tăng Văn Chương soạn theo Chương trình Tiểu học 1949, do Nam Hưng ấn quán xuất bản tại Sài Gòn năm 1951. Lời giới thiệu đầu sách của Nguyễn Văn Trương: “Quyển Việt ngữ độc bản này ra đời rất đúng giờ. Học trò ban Tiểu học cần có nó đặng tập luyện quốc văn, hầu ứng thí vào lớp đệ thất niên trường Trung học”.
Ngoài ra còn có: Sách học Quốc văn lớp Ba, lớp Tư, lớp Năm (in thành từng cuốn riêng) đều do Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản trong năm 1951; Vần Việt Nam, Quốc văn lớp Nhì (quyển I & II) của “Một nhóm giáo viên”, Quốc văn Toàn thư lóp Ba của nhóm Phạm Trường Xuân biên soạn, đều do Nxb Việt Hương ấn hành tại Sài Gòn năm 1951.
- Tân quốc văn lớp Ba của Trần Ngọc Chụ, Hoàng Quý Bình, Hoàng Đình Tuất, Nxb Nam sơn, Hà Nội, 1951 (?). Gồm các môn Tập đọc - Học thuộc lòng - Chính tả - Văn phạm - Tập làm văn. “Bộ Quốc gia Giáo dục đã duyệt y làm sách giáo khoa”.
- Tân quốc văn (Tập đọc - Học thuộc lòng) lớp Nhất của Trần Ngọc Chụ, Hoàng Quý Bình, Hoàng Đình Tuất, Nxb Nam sơn, In lần thứ tư, Hà Nội, 1951.
Về những môn học khác ngoài môn Văn, chúng tôi ghi nhận:
- Một số sách giáo khoa do Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản: Sử Việt Nam lớp Nhì của Bùi Đình San (1950), Khoa học thường thức lớp Ba của Nguyễn Đình Huề (1950).
- Công dân giáo dục phổ thông của Nhật Hoành Sơn, Nxb Ngày mai, Hà Nội, 1949.
- Khoa học Quan sát lớp Nhì và lớp Nhứt của nhóm Huỳnh Văn Đó…, Khoa học Thực nghiệm lớp Nhì và lớp Nhứt, đều do Nam hưng ấn quán xuất bản tại Sài Gòn năm 1951.
- Cách trí lớp Nhứt và lớp Nhì của Lê Văn Chánh, Toán pháp lớp Nhứt của Lâm Tô Bông, đều do nhà Minh tân xuất bản khoảng 1953.
- Khoa học thường thức (Quan sát và Nông phố học) lớp Ba, Địa dư Việt Nam lớp Nhì và lớp Nhứt của “Một nhóm giáo viên” biên soạn, đều do Nxb Việt hương ấn hành năm 1951.
Đến thời VNCH (1955-1975), việc xuất bản sách giáo khoa Tiểu học bắt đầu phát triển mạnh, nói chung (không kể cấp lớp), do cả nhà nước (Bộ Quốc gia Giáo dục) lẫn tư nhân song song thực hiện. 
Về phía nhà nước, từ năm 1958, chính phủ Đệ nhất Cộng hòa cho lập Ban Tu thư thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục để biên soạn và in sách giáo khoa cho hệ thống giáo dục toàn quốc. Ban Tu thư đến năm 1965 đổi thành Sở Học liệu (Chánh sự vụ đầu tiên là ông Trịnh Huy Tiến, kế sau là ông Lý Chánh Đức), dự trù in ra 14 triệu cuốn sách từ lớp Năm (lớp 1) đến lớp Nhất (lớp 5), đến năm 1966 đã in được 7 triệu cuốn. Sở Học liệu sau lại đổi tên thành Trung tâm Học liệu, được coi như một nha không có nhiều sở, đặt dưới quyền của một Giám đốc, có một Phó giám đốc phụ tá. Ngoài các phòng ban bình thường, Trung tâm Học liệu còn có: Văn phòng Ủy ban Quốc gia Soạn thảo Danh từ Chuyên môn, Ban Tu thư-Dịch thuật và Ấn loát, và nhà in. Ngoài bộ phận biên soạn in ấn sách giáo khoa, trung tâm này còn phụ trách một Phòng Phát thanh học đường. Đây là một trong những phòng dùng để thực hiện một chương trình giáo dục đặc biệt dưới hình thức vui chơi giải trí qua đài phát thanh, khởi đầu từ năm 1966 dưới sự trợ giúp của cơ quan JUSPAO và của Nhật, nhằm phổ biến để bổ túc một số bài học dạng kịch ngắn hoặc trò vui chơi sinh động tới đối tượng  học sinh tiểu học trên toàn quốc (phần miền Nam).   
Tháng 4/1974, trung tâm được chính phủ chấp thuận cho biến thành một cơ sở hoạt động theo cơ chế tự trị để dễ dàng hợp tác với các tổ hợp ấn hành sách báo Anh Pháp Mỹ hầu có thể in sách giáo khoa với giá rẻ (xem Văn hóa tập san tập XXIII, số 2 năm 1974, tr. 179). Sách bán của Trung tâm Học liệu có mạng lưới phát hành trên toàn quốc, từ Huế, Đà Nẵng vào tới Ba Xuyên (Cà Mau bây giờ). Các đại lý thuộc vùng Sài Gòn và tỉnh lỵ Gia Định được hưởng hoa hồng 25%; ở xa hơn được hưởng từ 30% đến 35%; người sử dụng có thể đến mua sách ngay tại trung tâm nhưng phải mua từ 10 cuốn trở lên cho mỗi đầu sách, và được bớt 10% so với giá bìa.  
Tính đến năm 1972, Trung tâm Học liệu Bộ Quốc gia Giáo dục đã ấn hành được 40 đầu sách tiểu học, không kể khoảng 50 đầu sách khác (phần lớn loại học vần) dành riêng cho đồng bào các sắc tộc.
Có thể liệt kê sách các môn học do Ban Tu thư, Sở Học liệu và Trung tâm Học liệu thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục đã xuất bản như sau:
- Việt ngữ: Em học vần lớp Một của nhóm soạn giả Văn Công Lầu, xuất bản lần thứ 1 năm 1963, lần thứ 5 năm 1971; Em học Việt ngữ lớp Hai của nhóm soạn giả Văn Công Lầu, xuất bản lần thứ 1 năm 1965, lần thứ 3 năm 1968; Tập đọc từ lớp Ba tới lớp Năm (mỗi lớp một cuốn riêng) của các soạn giả Bùi Văn Bảo, Nguyễn Huy Côn, Hà Mai Anh.
- Đức dục và Công dân giáo dục: Em tập tính tốt từ lớp Một đến lớp Năm của các soạn giả Huỳnh Công Tú, Nguyễn Văn Quan, Trịnh Ngọc Thâm, Văn Công Lầu.
Khoa học thường thức: Em tìm hiểu khoa học lớp Một tới lớp Năm (mỗi lớp một quyển riêng) của các soạn giả Lê Đình Huyên, Trương Thị Tài, Hà Mai Anh, Trần Quang Giu.
- Toán: Em học toán từ lớp Một đến lớp Bốn (mỗi lớp một cuốn riêng) của các soạn giả Hà Mai Anh, Nguyễn Huy Côn; Toán pháp lớp Năm của nhóm soạn giả Châu Ngọc Cảnh.
    - Sử ký: Quốc sử từ lớp Hai tới lớp Năm (mỗi lớp một cuốn riêng) đều của nhóm soạn giả Phạm Văn Trọng.
- Địa lý: Em học địa lý lớp Hai  và lớp  Ba (mỗi lớp một cuốn riêng) của nhóm soạn giả Trần Trọng Phan, Văn Công Lầu; Địa lý lớp Bốn và lớp Năm (mỗi lớp một cuốn riêng) của các soạn giả Đinh Ngọc Ấn, Nguyễn Hồng.
- Vệ sinh: Giữ gìn sức khỏe lớp Một, Tập thói quen tốt lớp Hai, Sống vui sống mạnh lớp Ba, Tăng cường sức khỏe lớp Bốn, Phòng ngừa bệnh tật lớp Năm, tất cả đều của nhóm soạn giả Bùi Văn Bảo.   
Ngoài những sách chính nêu trên, còn có khoảng chục sách khác dành cho một số môn học phụ như Thủ công, Thể dục, Dưỡng nhi, Trò chơi…
Bộ sách của Bộ Giáo dục được đánh giá cao cả về nội dung lẫn hình thức, phần lớn được “soạn thảo và ấn hành trong khuôn khổ chương trình hợp tác giữa Bộ Giáo dục và Phái bộ Kinh tế Hoa Kỳ tại Việt Nam”, như lời ghi ở trang trong, đầu sách. Bìa sách thường được in từ hai đến bốn màu (loại in chồng màu, không phải in offset), bên trong có rất nhiều hình vẽ minh họa hai màu.
Sách giáo khoa do Bộ Giáo dục phát hành có 2 loại: loại viện trợ “tặng, không bán” ngoài bìa lưng có ghi: “Nhân dân Hoa Kỳ với sự hợp tác của Bộ Văn hóa Giáo dục Việt Nam Cộng hòa thân tặng các trường sở tại Việt Nam”; và loại có ghi giá, nhưng được bán với giá rất rẻ, bằng chừng 1/10 sách của các nhà xuất bản tư nhân. Số lượng bản in ghi trong sách mỗi lần xuất bản thường từ 200 đến 250 ngàn cuốn, tuy nhiên vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng cho cả nước.
Có tài liệu cho biết, sách do Trung tâm Học liệu in phát không cho học sinh (và yêu cầu giáo chức sử dụng) quá ít. Riêng tại đô thành Sài Gòn-Chợ Lớn, chỉ vài em có đủ sách, còn thì phải chia ra 7-8 em một quyển. “Ở đô thành còn thế, tình trạng thiếu sách ở thôn quê còn trầm trọng hơn nữa” (xem “Hiện trạng nền tiểu học Việt Nam”, trong Các vấn đề giáo dục, quyển II của nhóm Lê Thanh Hoàng Dân, Trẻ xuất bản, 1971, tr. 40).
Về sách giáo khoa nói chung và sách giáo khoa tiểu học nói riêng, không thể không nói đến bộ phận sách giáo khoa do tư nhân xuất bản, chiếm một tỷ trọng còn lớn hơn so với sách của Bộ Quốc gia Giáo dục. Phần vì nhà nước không kham nổi (số học sinh trường tư chiếm đến gần 20% tổng số học sinh toàn quốc), phần khác, trong một nền giáo dục dân chủ như thời VNCH, ở cả hai bậc Trung và Tiểu học, mọi giáo viên đều được quyền biên soạn sách giáo khoa căn cứ theo chương trình ấn định chung của bộ, rồi tự giao dịch với các nhà in, nhà xuất bản tư nhân để ấn hành; sách của ai soạn tốt sẽ được tín nhiệm dùng rộng rãi, cũng là nguồn lợi lớn cho một số giáo viên có khả năng và các nhà xuất bản kinh doanh năng động. Có thể nói, mảng sách giáo khoa này “sống được” nên đã trở thành một thị trường đặc biệt và cạnh tranh nhộn nhịp, bằng cách luôn cập nhật chương trình, cải tiến nội dung và kỹ thuật in ấn, với sự xuất hiện của hàng chục nhà xuất bản và một số nhà phát hành tư nhân, chủ yếu tập trung tại thủ đô Sài Gòn. Trong thời kỳ này (những năm 60-70 của thế kỷ trước), riêng về sách giáo khoa bậc tiểu học, đáng kể nhất có các nhà xuất bản Sống mới, Việt hương, Nam sơn, Thanh đạm, Thái dương…, và nhà Tổng phát hành Nam cường.
Để hình dung tính cách phong phú của mảng sách giáo khoa tư nhân, dưới đây xin ghi lại một số tên tác giả và tên sách giáo khoa tiểu học tiêu biểu được lưu hành rộng rãi do tư nhân biên soạn, phát hành (không kể rất nhiều những sách dùng cho việc học thêm các môn, nhất là môn Toán, cũng như những sách dùng để luyện thi lấy bằng Tiểu học và thi tuyển vào Đệ thất trường công).
- Việt ngữ:
+ Mẫu tự Việt Nam dành cho các em nhỏ của Trịnh Tuấn Lâm, in lần thứ 8, năm 1967; Vần Việt ngữ lớp Vỡ lòng của Trần Thị Thơm, Nxb Sống mới, 1968; Vui học ABC lớp Mẫu giáo và lớp 1, Em tập đọc lớp 1 đều của Nguyễn Tất Lâm, Nxb Nam sơn, 1974.
+ Quốc văn toàn tập, 5 cuốn, từ lớp Năm (lớp 1) tới lớp Nhất (lớp 5) của Bùi Văn Bảo và Đoàn Xuyên, Nxb Sống mới, 1957;  Quốc văn toàn thư, 5 cuốn, từ lớp Năm (lớp 1) tới lớp Nhất (lớp 5) của Đặng Duy Chiểu, Nxb Sống mới, 1957; Việt ngữ bộ mới, 5 cuốn, của Thềm Văn Đắt-Nguyễn Hữu Thanh-Nguyễn Hữu Bảng, Nxb Nam sơn, 1961;  Quốc văn toàn thư, 5 cuốn, từ lớp Năm (lớp 1) tới lớp Nhứt (lớp 5) của Phạm Trường Xuân-Yên Hà-Kinh Dương, Nxb Việt hương, 1966; Quốc văn bộ mới, 5 cuốn, từ lớp Năm tới lớp Nhất của Lê Thành Phát-Phạm Trường Thiện, Nxb Việt hương; Việt văn toàn thư 5 cuốn từ lớp 1 tới lớp 5 của Bùi Văn Bảo-Bùi Quang Minh, Nxb Nhật Tảo, 1970; Tiểu học Quốc văn 5 cuốn từ lớp Năm (lớp 1) tới lớp Nhất (lớp 5) của Hà Mai Anh, Nxb Sống mới, 1957; Quốc văn tân biên 5 cuốn từ lớp Năm tới lớp Nhất, gồm bộ cũ 1969 và bộ mới 1972 đều do Sống mới xuất bản; Việt văn tân tập 5 cuốn từ lớp 1 tới lớp 5 của Đặng Duy Chiểu và một nhóm giáo viên, Nxb Sống mới, 1970-1973; Tân Việt văn 5 cuốn từ lớp 1 tới lớp 5 của Bùi Văn Bảo, Nxb Sống Mới, 1967-1971; Việt ngữ toàn thư 5 cuốn từ lớp 1 tới lớp 5 của Bùi Văn Bảo-Bùi Quang Minh-Chu Đức Nhuận, Nxb Sống mới, 1974; Tân Việt ngữ, 5 cuốn, từ lớp 1 đến lớp 5 của Nguyễn Tất Lâm, Nxb Nam sơn, 1974; Việt ngữ, 5 cuốn, từ lớp 1 tới lớp 5 của nhóm Lửa Việt, Nxb Cành hồng, 1974.
+ Chính tả Văn phạm, 3 cuốn từ lớp Ba (lớp 3) tới lớp Nhất (lớp 5) của Đặng Duy Chiểu, Chính tả Văn phạm lớp Nhất của Bùi Văn Bảo; Chính tả Văn phạm của Trịnh Thiên Tư, đều do Nxb Sống mới, 1957.
+ Ngữ vựng, 2 cuốn, từ lớp Nhì (lớp 4) tới lớp Nhất (lớp 5) của Bùi Văn Bảo-Đoàn Xuyên-Bùi Quang Kim-Trịnh Ngọc Thâm,  Nxb Sống mới, 1957.
+ Việt luận (lớp Nhất, Nhì tiểu học, các lớp Đệ Thất, Lục, Ngũ, Tứ - Đề thi Trung học Đệ nhất cấp) của Nghiêm Toản, In lần 5, Nxb Thế giới, 1956; Việt luận, 3 cuốn, từ lớp Ba (lớp 3) tới lớp Nhất (lớp 5) của Bùi Văn Bảo,  Nxb Sống mới, 1957; Tập làm văn lớp Ba, Tập làm văn lớp Nhì, Em luyện Việt văn (165 bài luận lớp Nhất) đều của Cao Văn Thái, Nxb Thanh đạm; Luận văn lớp 4, 111 bài luận mẫu lớp 5, đều của Nguyễn Tất Lâm, Nxb Nam sơn, 1974.
- Đức dục: Đức dục, 5 cuốn, từ lớp Năm (lớp 1) tới lớp Nhất (lớp 5) của Đặng Duy Chiểu, Nxb Sống mới, 1957; Đức dục lớp Năm và lớp Tư (in từng cuốn riêng) của Cao Văn Thái và Hoàng Kim Long, Nxb Thanh đạm, Sài Gòn, 1959.
- Công dân giáo dục: Công dân giáo dục lớp Ba, lớp Nhì và lớp Nhất (in từng cuốn riêng) của Nhật Hoành Sơn, Nxb Nguồn sống, Sài Gòn, 1956; Công dân giáo dục lớp Nhất của Lê Nguyên Lam, Nxb Nguồn sống, Sài Gòn, 1956; Công dân giáo dục lớp Nhì và Nhất (in từng cuốn riêng) của Nguyễn Hữu Bảng, Nxb Thanh đạm, Sài Gòn, 1959; Công dân giáo dục lớp Nhì và lớp Nhất (in từng cuốn riêng) của Đinh Xuân Hòa, Nxb Nam Việt, Sài Gòn, 1959; Công dân giáo dục lớp Năm, lớp Tư và lớp Nhất (in riêng từng cuốn) của Phan Văn Chiêu, Nxb Sống mới, Sài Gòn, 1959-1960; Công dân giáo dục lớp Nhất của Lê Đình Huyên và Trịnh Ngọc Nguyễn, Nxb Nam sơn, Sài Gòn, 1960…
- Khoa học thường thức: Câu hỏi thường thức lớp Nhất (lớp 5) của Khổng Trọng Thu; Tiểu học thường thức cẩm nang của Hà Mai Anh, đều do Nxb Sống mới, 1957…
- Toán: Toán pháp, 5 cuốn, từ lớp Năm (lớp 1) tới lớp Nhất (lớp 5) của nhóm Cao Văn Thái-Hà Mai Anh-Vũ Tiến Thu-Khổng Trọng Thu-Nguyễn Mạnh Tuân; Số học, 4 cuốn, từ lớp Tư (lớp 2) tới lớp Nhất (lớp 5), Hình học Đo lường, 4 cuốn, từ lớp Tư (lớp 2) tới lớp Nhất (lớp 5), Quy tắc công thức toán tiểu học của Khổng Trọng Thu; Hình học lớp Nhì, Hình học lớp Nhất, 100 câu hỏi toán của Trương Quan Liêm, tất cả đều do Nxb Sống mới, 1957; Toán pháp, 5 cuốn, từ lớp Năm tới lớp Nhất của nhóm Lê Thuận-Vũ Mạnh Đôn-Nguyễn Doãn Khanh, do Thái dương xuất bản, Sống mới phát hành năm 1965. 
 - Sử ký: Việt sử, 3 cuốn, từ lớp Ba tới lớp Nhất (lớp 5) của Bùi Văn Bảo, Nxb Sống mới, 1957.
 - Địa lý: Địa lý lớp Ba của Đoàn Xuyên; Địa lý lớp Nhì và Địa lý lớp Nhất của Hoàng Thế Mỹ, đều do Nxb Sống mới, 1957.
- Vệ sinh: Vệ sinh, 5 cuốn, từ lớp Năm (lớp 1) tới lớp Nhất (lớp 5) của Bùi Văn Bảo, Nxb Sống mới, 1957.
Qua sự liệt kê tượng trưng như trên, chúng ta thấy rõ ràng sách giáo khoa tiểu học thuộc khu vực tư nhân ở miền Nam trước đây đã thật sự “trăm hoa đua nở”, thậm chí trở thành một thị trường năng động.
Sách giáo khoa nói chung và sách giáo khoa tiểu học nói riêng là một loại sản phẩm văn hóa đặc biệt hơn các loại sản phẩm văn hóa khác, đã trở thành món hàng tinh thần có mức cầu rất cao gần như cơm gạo vậy. Trong điều kiện cạnh tranh, chúng phát triển phong phú đa dạng và cho ra những sản phẩm tốt được tín nhiệm. Vì thế cho nên, mặc dù Bộ Giáo dục có yêu cầu các trường công lập phải dùng sách do bộ tổ chức biên soạn, nhưng sách giáo khoa tư nhân vẫn còn miếng đất màu mỡ để sống là số học sinh tư thục chiếm 20% tổng số học sinh tiểu học cả nước, thậm chí còn canh trạnh lại với khu vực sách giáo khoa nhà nước.
Trong lĩnh vực môn học Việt ngữ, một vài soạn giả nổi tiếng (như Bùi Văn Bảo, Hà Mai Anh, Đặng Duy Chiểu…) có sách phổ biến rộng đến nỗi khiến ta có cảm tưởng cả đời họ chỉ làm việc và sống bằng sách giáo khoa tiểu học. Soạn sách cho tư nhân tạo được uy tín nhất định một thời gian rồi, họ còn được mời vào Ban Tu thư để soạn sách cho Bộ Giáo dục, hoặc trở thành cộng tác viên thường xuyên cho một số tạp chí giáo khoa, như tờ Tiểu học nguyệt san do bộ chủ trương biên tập. Có tác giả (như Bùi Văn Bảo…) có sách tái bản liên tục, mà những cuốn sau chỉ là sự cải biên, với việc sửa chữa bổ sung, cập nhật hóa, phát triển lên từ những sách đã được chính mình soạn trước, nhưng nhờ vậy mà sách được ngày càng hoàn thiện hơn. 
Để cạnh tranh nhằm thuyết phục giới chức tiểu học chọn dùng sách mình, các tác giả cùng nhà xuất bản đều ra sức cải tiến cả về hình thức lẫn nội dung, cho những lần xuất bản sau.   
Nói chung về hình thức, phần lớn sách đều in bìa 2 màu (lúc này chưa phát triển kỹ thuật in offset), bên trong vẽ nhiều hình minh họa nét đen trắng, với một số trang phụ bản bằng hình vẽ nét hoặc hình chụp in một màu. Giấy in sách xấu hay tốt, tất nhiên, cũng khác nhau tùy theo chủ trương kinh doanh của từng nhà xuất bản.
Để tạo “thương hiệu” riêng, mỗi tác giả (hoặc nhóm tác giả) thường đặt cho sách mình biên soạn một cái tên phân biệt với tác giả, nhà xuất bản khác, bằng cách, như ta đã thấy, thay đổi tên gọi môn học (Việt ngữ, Quốc ngữ, Việt văn, Quốc văn…) rồi thêm vào đó một số cụm từ như “toàn thư”, “toàn tập”, “bộ mới”, “tân biên”, hoặc thêm chữ “tân” ở phía trước tên môn học (như Tân Quốc văn…), hoặc đảo “Quốc văn Tiểu học” thành “Tiểu học Quốc văn”…
Cũng có trường hợp sách in sai chính tả hoặc xuất hiện lỗi in (lỗi morasse) nhưng không đáng kể. Lỗi sai kiến thức ít khi xảy ra song vẫn có, như trong những năm 1969-1970, báo chí đã từng vạch lỗi một cuốn sách khoa học nọ đã nhầm lẫn cái hàn thử biểu (thermomètre, còn gọi nhiệt kế hay ống thủy) với cái phong vũ biểu (baromètre, còn gọi khí áp kế). Do thỉnh thoảng có sự sơ suất hoặc cẩu thả như vậy trong sách giáo khoa, nên có người lúc bấy giờ đã viết nhắc: “Tôi yêu cầu Bộ Giáo dục, các giáo sư, các nhà để ý về sự học, yêu cầu quý vị nghĩ phương thức nào để tạo ra những sách vững chắc, bảo đảm mười mươi như tự điển Petit Larousse…, những sách tái bản 30, 40 năm, mà uy tín ở thế giới nguyên vẹn” (Văn hóa tập san, tập XXIII, tlđd, tr. 154).
Vì lý do cạnh tranh và cũng để thu hút người sử dụng, đôi khi có nhóm tác giả cho in ngay ở đầu sách bức thư kêu gọi giáo chức và các bậc phụ huynh học sinh chú ý đến sách của mình, bằng cách mô tả chi tiết những điểm đặc sắc nổi bật về hình thức lẫn nội dung, với lời lẽ không khỏi vương chút mùi quảng cáo: “Tóm lại, Quốc văn bộ mới, với sự phong phú của đề tài đã ghi thêm một giai đoạn mới và cũng là một công trình giáo khoa mà chúng tôi hân hạnh gởi đến quý bạn món quà “Đầu Niên Học”. Chúng tôi đinh ninh sẽ không phụ lòng tín nhiệm của quý bạn đồng nghiệp và ước mong được góp phần trong sự nghiệp chung của giáo giới” (trích thư gởi “Quý vị giáo chức và các bậc phụ huynh học sinh”, in ở đầu sách Quốc văn bộ mới lớp Tư của Một nhóm giáo viên “Việt hương”, Nxb Việt hương).
Để tiêu thụ được nhiều sách, nhất là những sách mới “ra lò” sau, cũng có hiện tượng tiêu cực xảy ra, như tác giả hoặc nhà xuất bản ăn cánh với cấp lãnh đạo giáo dục địa phương (Trưởng Ty Giáo dục/ Chánh Sở Học chánh…) để được giới thiệu sách xuống đơn vị trường học, hoặc chi hoa hồng trực tiếp cho giáo chức. Chính ông Tổng trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục & Thanh niên Ngô Khắc Tỉnh năm 1974 đã có lúc phàn nàn rằng dù Trung tâm Học liệu đã ấn hành được sách giáo khoa giá rẻ, nhưng có nhiều giáo viên vì ăn hoa hồng của các nhà xuất bản nên chỉ buộc học sinh sử dụng sách của nhà xuất bản cho mình hoa hồng, với giá cao gấp 10 lần hơn giá của Trung tâm Học liệu, và chính điều này đã gây khó khăn cho một số gia đình nghèo.
Về nội dung, tất cả đều phải “Soạn theo chương trình của Bộ Văn hóa Giáo dục” (câu ghi ngoài bìa sách), nhưng chương trình của bộ chỉ vạch đề cương chứ không bó buộc, nội dung cụ thể các bài học bên trong có thể rất khác nhau tùy theo soạn giả. Họ chỉ cần tôn trọng chương trình và lời hướng dẫn chung của Bộ Giáo dục về môn học, rồi tự do chọn bài đưa vào sách. Nhờ vậy, nội dung sách giáo khoa phong phú, mỗi người một vẻ, và trong điều kiện được tự do như thế, các giáo chức soạn sách cũng cố thi đua cạnh tranh nhau một cách tự giác để soạn ra những giáo trình được nhiều người vừa ý, chấp nhận.
Riêng môn Việt ngữ, các bài Tập đọc, Chính tả, Học thuộc lòng ở các lớp nhỏ (Năm, Tư, Ba/ 1, 2, 3) một phần do chính soạn giả hoặc cộng tác viên đặt lấy, phần khác trích ra từ một số tác phẩm văn học đã có danh tiếng; ở các lớp lớn hơn (Nhì, Nhất/ 4, 5), bài vở loại này thường được trích từ tác phẩm văn học, sách báo đủ loại, hoặc đăng những bài Học thuộc lòng bằng văn vần do những cộng tác viên là nhà thơ sáng tác.
Để thí dụ cho thấy hình thức, nội dung cụ thể của một sách Việt ngữ được triển khai ra như thế nào từ đề cương chương trình của Bộ Giáo dục, dưới đây xin trích dẫn “Lời nói đầu” trong bộ Tân Việt văn (5 cuốn từ lớp Năm đến lớp Nhất) do Bùi Văn Bảo biên soạn từ năm 1964:
1. Về hình thức: Chữ in rõ ràng, sáng sủa ít lầm lẫn. Các bài tập đọc đều được đưa lên đầu trang và ở cuối tuần [vì bài học được phân bố theo 30 tuần lễ trong năm học-TVC] lại có những bài tập đọc vui bằng văn vần và văn xuôi, những tranh giải trí, gợi óc tò mò và trí phán đoán của trẻ em, khiến chúng càng vui mà học. Ngoài ra các tranh minh họa của một họa sĩ hữu danh, được in nhiều màu tươi đẹp [thật ra chỉ màu đen, đỏ hoặc xanh, tùy lần xuất bản-TVC], sẽ rất thích hợp với cảm quan của các em từ 6 đến 12 tuổi, xưa nay chỉ ưa nét vẽ và màu sắc.
2. Về nội dung: Các bài đều được biên soạn theo đúng phương châm sư phạm là đi từ dễ đến khó và luôn luôn có tính chất vui vẻ, linh hoạt, thiết thực.
a) Về bài Tập đọc cần liên quan đến chương trình Ngữ vựng… Ở đây, từ lớp Năm đến lớp Nhất, tại lớp nào chúng tôi cũng nhờ thẳng các nhà văn yêu trẻ soạn những bài Tập đọc thành một câu chuyện liên tục, sát thực tế và gần gũi với trẻ em hơn. Học sinh trong khi tập đọc, sẽ tìm thấy ở đó những người bạn quen thuộc, cùng làm việc và cảm nghĩ như mình, chắc chắn sẽ thấy thêm phần hứng thú.
b) Để không thiếu sót, ở các bài Chính tả, chúng tôi đã lựa chọn những đoạn văn hay trong nhiều văn phẩm để cho các em làm quen với các lối hành văn khi thì bay bướm, văn hoa, khi thì hùng mạnh, sắc bén của các văn gia nổi tiếng.
c) Về cách giải nghĩa hoặc đặt câu hỏi (…).
d) Về văn vần dùng làm các bài Học thuộc lòng, chúng tôi đã hợp tác cùng một số thi sĩ để soạn riêng những vần thơ trong sáng, dễ hiểu, giàu nhạc điệu cho thích hợp với các em hơn.
(In lại trong Tân Việt văn lớp Năm, Nxb Sống mới, 1971)
Về nội dung giáo dục đạo đức trong các bài học của môn Việt ngữ tiểu học, chủ yếu tập trung ở hai phân môn Tập đọc và Học thuộc lòng, chúng tôi đã có lần phân tích khá kỹ trong một bài viết trước, nên ở đây xin phép không lặp lại dài dòng (xem Trần Văn Chánh, “Những bài học thuộc lòng, một thứ văn chương tiểu học của miền Nam trước đây”, Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (95).2012). Nhìn chung, đa số các soạn giả soạn sách giáo khoa bậc Tiểu học đều cố gắng noi theo những tôn chỉ đã được Bộ Giáo dục nêu ra trong “nguyên tắc của nền giáo dục Việt Nam” (Nhân bản, Dân tộc, Khai phóng) và trong những “lời chỉ dẫn” giảng dạy cho từng môn học mà họ đều ghi ra ở đầu cuốn sách giáo khoa Việt ngữ của mình.

 CÒn nữa


 

2 nhận xét :

  1. Nhớ thời huy hòng của nhà giáo VNCH . Nhà giáo từ trung học trở lên đều được gọi là giáo sư . Các giáo sư rất được kính trọng . Cho nên từ bác sĩ, luật sư đến các sinh viên Văn Khoa, Luật Khoa, Khoa Học và các cử nhân, tiến sĩ đều đi dậy . Thành phố buổi sáng, buổi chiều tràn ngập áo trắng học sinh .

    Trả lờiXóa
  2. Lúc đó dù đang lúc chiến tranh nhưng con người của xã hội miền Nam vì được sự hưởng nền giáo dục nhân bản và tự do nên bản chất của hầu hết dân chúng là hiền thiện và trung thực, ít dối trá ít trộm cắp. Dù sống trong cảnh chiến tranh nhiều tang tóc nhưng dân miền Nam vẫn được hạnh phúc trong đời sống xã hội, nhất là họ không phải sống trong sợ hãi, áp bức, dối trá. Bởi vậy mới thấy nền tảng triết lý của sự giáo dục là quan trọng nhất và nhìn vào tư cách của một cộng đồng thì mình có thể thấy được nền giáo dục mà cộng đồng đó được (hay bị) hưởng.

    Trả lờiXóa