Thứ Sáu, 6 tháng 1, 2017

SỨC PHU TRẠM VÀ NHỮNG CHUYẾN HÀNG RIÊNG CỦA CÁC QUAN

SỨC PHU TRẠM  VÀ NHỮNG CHUYẾN HÀNG RIÊNG CỦA CÁC QUAN
Bùi Xuân Đính
Thời phong kiến, trên các con đường “Thiên lý”, hay “đường Cái quan”, tức đường giao thông lớn từ các địa phương về Kinh đô, cứ 30 dặm (mỗi dặm khoảng trên 500 mét), Nhà nước đặt một trạm, mỗi trạm có một Dịch thừa phụ trách chung và một Dịch mục là cấp phó phụ tá, có trên dưới 50 phu trạm và ngựa để chạy công văn, giấy tờ, hộ tống quan lại các trấn, tỉnh đi việc công về Kinh đô, từ phủ, huyện về trấn, tỉnh (và ngược lại), cả quan đi sứ nước ngoài. Các trạm lần lượt chuyển giao công việc cho nhau mỗi khi có quan hay việc quan đến.
Trải bao đời, các quy định về việc sử dụng phu trạm để chuyển chở đồ đạc của công và của các quan đi việc công được tuân thủ và được giám sát chặt chẽ.  Song, không tránh khỏi việc lợi dụng các trạm này để mưu lợi riêng. Xin nêu hai vụ tiêu biểu dưới thời Nguyễn bị phát giác, được sử cũ ghi lại..

Vụ thứ nhất, vào tháng Một năm Nhâm Thìn, đời Vua Minh Mạng (tháng 12 năm 1832), Hoàng Văn Đản, Trương Hảo Hợp, Phan Huy Chú trên đường đi sứ nhà Thanh trở về đã bắt nhiều phu trạm phải chuyên chở đồ đạc, hàng hóa của riêng họ mua từ nước ngoài về. Việc được tâu báo về Kinh đô Huế. Vua Minh Mạng nghe lời tâu liền dụ các quan bộ Lễ rằng :”Bọn Hoàng Văn Đản, Trương Hảo Hợp, Phan Huy Chú nhân lệnh vua đi sứ, trong bản nhật ký đi sứ ghi rất sơ lược, không có một việc gì đáng xem, thực không xứng chức. Tới khi về, lại sắm sửa riêng gấp hai lần của công, dân phu phải phục dịch, chuyên chở, phí tổn rất nhiều. Ta nghĩ, các trạm đêm ngày bôn tẩu, nên đã nhiều lần gia ơn, mỗi việc cốt phải giảm bớt  cho đỡ phiền. Duy sứ bộ từ Lạng Sơn về Hà Nội, đường thủy không tiện, đường bộ lại khó khăn, nên đã châm chước định lệ : đồ đạc, hàng hóa không kể của công hay của tư, các trạm phải chuyển vận, còn từ Hà Nội về Kinh đô, đường thủy, đường bộ đều thuận tiện dễ dàng, nên chỉ có các đồ đạc, hàng hóa của công mới do các trạm đài đệ, để đỡ cho phu trạm phải vất vả. Định lệ còn đó, sao bọn kia dám vi phạm?”.

Rồi Vua lập tức cách chức ba vị quan trên, giao cho bộ Hình xét xử. Một thời gian sau, bản án được bộ Hình được dâng lên với các mức như sau :

- Hoàng Văn Đản bị đánh 100 trượng, phát đi khổ sai. 

- Trương Hảo Hợp và Phan Huy Chú bị cách chức, về hiệu lực ở bộ chủ quản (làm các việc theo sai phái để lập công chuộc tội).

- Các quan tỉnh Hà Nội là Án sát Bùi Nguyên Thọ lạm cấp tờ dẫn văn (giấy chứng nhận việc vận chuyển hàng hoá hay đồ đạc khi đi qua trạm), Bố chính Nguyễn Văn Mưu, Tổng đốc Nguyễn Văn Hiếu cùng tham gia vào việc chứng nhận việc vận chuyển trên đều bị giáng phạt theo các mức khác nhau.

Bản án cũng đề nghị cho truy thu 100 lạng bạc của công quỹ mà ba viên quan đi sứ đã lấy ra để chi vào việc “bồi dưỡng” các phu trạm chuyên chở đồ đạc của riêng họ.

Vụ thứ hai, vào năm Nhâm Dần đời Vua Thiệu Trị (1842), Lê Ngọc Chấn là quan thanh tra của bộ Hình đi thanh tra các công việc ở tỉnh Hà Tĩnh trở về, đã tự tiện lấy 14 phu trạm và hai con ngựa của trạm này để chuyên chở đồ đạc riêng của gia đình mình. Các quan tỉnh Hà Tĩnh lại còn cắt cử binh lính đi “hộ tống”! Việc bị các quan thanh tra là Vũ Trọng Bình tâu lên. Vua Thiệu Trị cho rằng, Lê Ngọc Chấn khinh thường phép nước, liền hạ lệnh cách chức, giao cho Viện Đô sát (cơ quan thanh tra và xét xử cao nhất của triều đình thời Nguyễn) xem xét. Chấn sau đó bị tội mãn đồ (làm lao dịch với công việc nặng nhất). Hai quan tỉnh Hà Tĩnh là Bố chính Nguyễn Đồng Khoa, Án sát Nguyễn Khắc Trạch cùng bị giáng hai cấp và tội lưu (đi đày).

Không bao lâu sau vụ trên, Trịnh Ngọc Lâm là Thự Bố chính tỉnh Khánh Hòa đi coi thi ở Gia Định, khi trở về đã tự tiện lấy 17 phu trạm về làm việc riêng cho nhà mình. Có người phát giác tâu lên Vua. Vua Thiệu Trị quở trách :’”Nhà trạm đặt ra đã có một quy tắc nhất định. Lính trạm phải chạy quanh năm vất vả trên đường, nên phải định lệ để cho đỡ sự mệt nhọc và dưỡng sức cho họ. Mới đây xảy ra vụ án Lê Ngọc Chấn, hắn là một thuộc viên trong bộ, khi độ nhỏ nhặt, dễ kiêu căng, mắc vào pháp luật, cố nhiên không đáng kể. Còn Trịnh Ngọc Lâm vốn là một viên từng làm việc ở Kinh đường, lại trải coi việc Ty Án sát hai tỉnh, sao đã biết mà còn cố phạm? Rất đáng quái gở”.

Rồi Vua sai bộ Hình nghị xử. Trịnh Ngọc Lâm bị giáng bốn cấp. Vua nhân đó thông dụ các quan lớn nhỏ trong Kinh và các tỉnh : phàm người nào có việc vào Kinh, về tỉnh hay đi công sai mà đáng được do phu trạm đưa đi đều phải y theo lệ định. Các dịch thừa, dịch mục phải chiếu theo giấy tờ của các quan đã được cấp mà điều phu trạm, nếu ai làm trái lệ, không theo văn bằng hay đòi bắt, sách nhiễu thì chuẩn cho quan lại sở tại tố giác, xét đúng sự thật thì tâu lên, nghiêm xử, để dẹp hết mối tệ.

Lời bàn:

Hai câu chuyện trên đây liên quan đến việc sử dụng phương tiện công và quỹ công thời phong kiến. Nhà nước các thời đều có quy định nhằm ngăn ngừa, hạn chế các quan lại lợi dụng quyền hạn của mình để trục lợi trong khi thực thi công vụ. Với suy nghĩ “Mình đi việc công, nên có quyền và có thể kết hợp giải quyết việc riêng” và “chắc cũng chẳng ai biết đâu vào đâu”; nên các vị quan đã “vô tư” sử dụng các phương tiện công, công quỹ và cả nhân viên dưới quyền” để làm việc riêng của mình. Trong các câu chuyện trên, tất cả các quan đều dùng “quyền” ủa mình để “tranh thủ”, “kết hợp” mua thêm hàng hóa (riêng các quan trong vụ thứ nhất lại mua hàng trong khi đi sứ - một việc mà triều đình thời nào cũng có cấm ngặt, lại mua hàng gấp hai lần đồ, hàng của công), sử dụng các phương tiện và phu trạm của Nhà nước để chuyên chở. 

Hành vi lợi dụng của các vị quan đi việc công trên đây được tiếp tay bởi các quan địa phương đặt trạm dịch. Họ biết rõ việc làm của các quan là sai, nhưng hoặc thường “tặc lưỡi” cho qua, thông cảm với “nỗi vất vả của người đi thực thi công vụ”, đặc biệt, sau khi được nhận một chút quà từ các vị quan đó thì họ “vô tư” chứng nhận việc vận chuyển hàng hóa trái phép, đánh đồng việc chuyển đồ, hàng của công với đồ, hàng riêng được các quan kết hợp mua. 

Còn các phu trạm, họ thường chấp nhận “thân phận” của những người “cửu vạn công”, và khi được các quan đi việc công lấy quỹ công “bồi dưỡng” hoặc lấy một chút hàng riêng mua được “tặng” cho thì càng vui vẻ, sốt sắng tải hàng cho các quan. 

Song, hành vi trục lợi của các quan đi việc công, các quan địa phương đặt trạm dịch đã bị phát hiện và tất cả họ đều bị xử phạt thích đáng. Điều đó chứng tỏ việc thanh, kiểm tra dưới triều Nguyễn khá sâu sát và việc xét xử các vụ vi phạm rất nghiêm khắc.

Các câu chuyện trên khiến chúng ta liên tưởng, hệt như xã hội ta ngày nay, nhiều vị cán bộ có chức quyền cứ “điềm nhiên” dùng xe công (đương nhiên là kèm theo cả “phu trạm” là các tài xế) vào việc riêng của gia đình, như chuyển đồ, đưa người nhà về thăm quê, đi lễ hội; thậm chí có người còn cho cả người thân, bạn bè dùng để “xài” vào cả việc riêng, cả việc chơi bời của họ.

Ước sao, việc kiểm tra, xử lý tình trạng sử dụng “lạm bậy” xe công trong xã hội ta hiện nay được như trong các câu chuyện trên đây.

9 nhận xét :

  1. Các quan ngày xưa vận dụng "công tư hỗn hơp" , họ đã đưa bài toán vận trù học vào đời sống "quan tham" nhuần nhuyễn đó chứ ???

    TH

    Trả lờiXóa
  2. Thé mới biết xưa và nay thời nào nghiêm hơn ? Cứ chê các vua là phong kiến không biết thương dân. Còn thời nay, bao nhiêu việc biến công vi tư rồi cũng chìm xuồng !

    Trả lờiXóa
  3. Mai này nên đật lại những tên đường như Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức... các bác ạ. Không phải để tôn sùng cách mù quáng, mà để ghi nhận, ghi nhớ, bảo tồn và phát huy thêm những tinh hoa mà bao thế hệ cha ông đã vất vả lắm mới gầy dựng được. Chúng ta đã để những di sản tinh thần của tiền nhân bị "đổ nát" quá nhiều rồi!

    Trả lờiXóa
  4. những con đường mang tên như thế đã từng được hiện diện tại SAI GON nhưng chế độ ưu việt của chúng ta đã xóa sổ hết rồi

    Trả lờiXóa
  5. Quan ngày nay dùng phương tiện công tải việc tư hà rầm . Một quan tỉnh không biết có mấy cái xe công, rồi tài xế . Có thời tài xế lương cao hơn lương tiến sĩ, còn ngày nay tàixế lương vẫn cao hơn lương giáo viên. Quan bà đi lễ chùa, đi chợ, di du hí, tắm biển nghỉ mát....cũng xe công. Còn công cán nước ngoài, tiền vé máy bay hạng business trở lên đến hạng VIP v.v.. Kinh lí tỉnh nào , cơ quan nào là báo trước, tiệc tùng đưa đón , quà cáp hiện vật, tiền bạc chở không hết . Chả thấy VIP nào từ chối trả lại . Có thì đã đang báo rùm beng !
    Xe công vài năm lại lên hạng . Nhớ thời TBT Nguyễn Văn Linh ra lệnh chỉ xài xe ơông bằng xe Lada của LX , vậy mà đâu đó vẫn có quan BT xài xe Nhật , bảo là đón khách nước ngoài người phương Tây không chịu ngồi xe LX !
    Lúc ô. Phạm Văn Đồng còn làm thủ tướng, có phóng viên nước ngoài hỏi lương tháng của ngài bao nhiêu . TTg trả lời : 4000 VNĐ ( năm 1980 tương đương 2 triệu bây giờ , gạo giá bao cấp 0,4 đ/kg ). TTg có mấy bộ đồ đại cán để tiếp khách. Mùa đông tôi thấy ngài TTg bận cái áo ba đờ xuya cũ !

    Trả lờiXóa
  6. Hôm nay đọc kỹ "lời dụ" của vua Minh Mạng và "lời quở trách" của vua Thiệu Trị, tôi lại thấy có điểm này rất cảm động, đó là điều mà hai vua gọi là "định lệ".

    Xin trích lời vua Thiệu Trị như một tóm tắt vắn gọn về định lệ cho các trạm: "Nhà trạm đặt ra đã có một quy tắc nhất định. Lính trạm phải chạy quanh năm vất vả trên đường, nên phải định lệ để cho đỡ sự mệt nhọc và dưỡng sức cho họ."

    Các phu trạm ngày xưa chắc chỉ là lính trơn hạng bét, là "cu li" và là "trâu bò" thứ thiệt, chứ không được bảnh toỏng và lương cao như các bác tài xế nhà quan bây giờ (như bác CD Saigon vừa nói ở trên). Tôi cảm động quá, vì thời phong kiến ngày xưa mà sao triều đình lại có được cái nhìn nhân bản nhân hậu đến vậy dành cho những người lao động thấp kém nhất?

    Ấy là chưa kể triều đình ra án phạt rất nặng dành cho các quan dám lạm dụng công quĩ, công quyền để lo tí tí cho việc riêng nhà mình, cái tội mà đối với chúng ta ngày nay thì thấy là quá thường.

    Hóa ra ngày xưa làm dân có vẻ sướng hơn làm quan, các bác nhỉ?

    Trả lờiXóa
  7. Theo các vị cao niên, làng tôi trước kia năm ven đường QL nhưng cứ mỗi khi quan đi ngang qua làng (bất kể ngày hay đêm) đám dân phu phải ra khiêng kiệu rước quan và hành lý đi qua địa phận của làng, vì vậy mà lý trưởng và các già làng quyết định rời làng đi cách xa Quốc lộ...Vì vậy mà làng tôi bây giờ mới cách xa đường Quốc lộ.

    Trả lờiXóa
  8. Dân phu ngày xưa bao gồm các thanh niên trai tráng trong làng, mồi khi có việc quan cần huy động nhân lực là số dân phu này phải tham gia (làm công ích) không được trả công và không có lương bỗng gì...

    Trả lờiXóa
  9. Nhà nước CSVN xem triều đại Nhà Nguyễn là triều đại bán nước, chương trình dạy sử của bộ giáo dục cũng ít nói về Nhà Nguyễn mà chủ yếu là ca tụng "công trạng" của ĐCSVN.
    Nhưng xem ra triều đại CSVN mới đúng là "triều đại mục nát" nhất trong lịch sử Việt Nam.

    Trả lờiXóa