Thứ Sáu, 11 tháng 11, 2011

NGUYỄN GIA THIỀU - HỒN THƠ ẤY, CHIẾC PHAO TRÊN CẠN...

Nguyễn Gia Thiều - hồn thơ ấy, chiếc phao trên cạn...
Trần Mạnh Hảo

Khi tiếp cận một số tác gia văn học lớn thời phong kiến như Nguyễn Trãi, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương...hầu như giới nghiên cứu văn học "quy phạm" ở nước ta đều dùng khái niệm "trung đại" (trung cổ) là phạm trù văn hóa khu biệt của phương Tây để làm hệ quy chiếu đo đạc, thậm chí còn làm phương pháp luận tiếp cận nữa.

Chính sự lầm lẫn "lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia" trong phương pháp luận ấy đã dẫn đến những đánh giá khá sai lạc về 9 thế kỷ văn học dân tộc thời phong kiến của ông cha ta. Chúng tôi xin vứt bỏ cái kính chiếu yêu trung cổ - kinh viện lầm lạc kia để nhìn nhận các tác gia văn học thời phong kiến của ta dưới một cái nhìn khác, không phụ thuộc vào những định kiến hay những bùa chú, những công cụ tiếp cận gông cùm lỉnh kỉnh ngoại lai nào. Trước hết, chúng tôi xin đề cập tới một đại tác gia: Nguyễn Gia Thiều.

Có lẽ, đại thi hào Nguyễn Du, người kém Nguyễn Gia Thiều 25 tuổi, kém Đoàn Thị Điểm 51 tuổi, là người đã từng mê đắm Chinh phụ ngâmCung oán ngâm khúc? Vì vậy, trong Truyện Kiều, chúng ta còn gặp đâu đó hồn lục bát Nguyễn Du phảng phất khói sương, hơi hướng hai kiệt tác trước đó. Ví phỏng như không có Chinh phụ ngâmCung oán ngâm khúc, liệu ngày nay chúng ta đã có một tuyệt tác như đang có trên tay: Truyện Kiều không? Nhất là tư tưởng, tình cảm thẩm mỹ của Nguyễn Gia Thiều đã ảnh hưởng đến hồn lục bát Nguyễn Du hơn cả. Đoàn Thị Điểm phải nhờ vào bản Hán văn của Đặng Trần Côn, Nguyễn Du dựa vào cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân mới thành hồn Việt, tiếng Việt tuyệt vời. Nguyễn Gia Thiều không cần vịn tạm vào cây cầu Hán tự, hay mượn lốt Trung Hoa mà Việt hóa hồn người. Ông viết trực tiếp bằng chữ Nôm, bằng tiếng Việt, một thứ tiếng Việt rất đài các hàn lâm, rất thâm sâu thông tuệ: "Trải vách quế gió vàng hiu hắt", kết hợp với tiếng Việt bình dân, vừa hoa hèn cỏ nội, vừa muối mặn gừng cay, rất đời thường dung dị: "Lau nhau ríu rít cò con cũng tình". Chỉ vỏn vẹn 356 câu thơ song thất lục bát, diễn tả nỗi lòng ai oán của cung nữ mà tỏ bày chuyện nhân tình thế thái, chuyện trời đất, tử sinh của thân phận làm người; Cung oán ngâm khúc quả là một kiệt tác được thể hiện với một nghệ thuật thơ trác việt, xuất chúng, mang tính tư tưởng và thẩm mỹ vào loại cao sang nhất, sâu sắc nhất, mỹ lệ nhất trong kho tàng văn học cổ Việt Nam. 


Nguyễn Gia Thiều mượn tâm trạng cung nữ mà nói chí hướng mình, mượn mình mà đối chất, ỉ ôi ta thán thời thế, mượn thời thế mà vẩn vơ nghĩ ngợi kiếp người, mượn kiếp người mà đối thoại, ầu ơ cùng trời đất, mượn trời đất mà rong ruổi nỗi hư không, mượn hư không mà an ủi, xẻ chia nỗi buồn cung nữ. Chính vì vậy, mỗi câu thơ của bậc thiên tài không chỉ đa ngữ nghĩa, đa tầng đa vỉa như vân gỗ trong cây chò chỉ nghìn năm, mà còn nghĩa ở ngoài nghĩa, chữ ở ngoài chữ, tư tưởng ngoài tư tưởng, như khói sương ngoài lại khói sương. Vì vậy, khi đọc Cung oán ngâm khúc, chúng ta không chỉ phải dùng thị giác, thính giác, tri giác, cảm giác, trực giác mà còn phải huy động cả linh giác, huệ giác, vô giác, thiên địa giác, tổng hợp lại trong mơ hồ THI GIÁC mới có cơ gặp được hồn thơ bách tuế thiên tuế này. Ví dụ như khi đọc câu thơ huyền nhiệm này của Ôn Như hầu: "Cái quay búng sẵn trên trời / Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm" mà chỉ tựa vào "cái quay" luân hồi sắc không, bào ảnh Phật giáo, hoặc tiêu dao vô vi với "người đi đêm" áo gấm Lão Trang kia cũng chưa thấu được bờ bến câu thơ. Chừng như cái huyệt, cái rốn, cái thần của câu thơ mang mang rất đạo này lại nằm trong một động từ "búng" rất bé, rất đời, rất ngẫu nhiên ; như thể trên biển cả vô cùng của thế giới đèn cù hư ảnh, vang lên rất đanh, rất sắc một tiếng con tôm nhân tình chợt búng tanh tách. Và cái quay Phật giáo kia, cái "người đi đêm" kia, hóa ra chỉ là trò búng con quay của đứa trẻ con - tạo hóa có tên là thi ca.

Một cái búng tay tí tẹo thi ca lại có thể mở khép được cái vô cùng, chạm vào cái lênh đênh, như chạm vào cái Không của Phật và cái Vô của Lão, hóa giải nỗi siêu hình bằng nghịch ngợm nhân sinh. Từng câu thơ của bậc thi hào là một khối thống nhất các mâu thuẫn lớn trong quy luật đồng nhất, phản phục, thoắt có, thoắt không, lúc thuỷ, lúc hỏa, vừa có nghĩa lại vừa phản nghĩa, như trong phân tử vật chất đã mang sẵn hạt phản vật chất, trong sự sống nào cũng mang sẵn một mầm chết. Chính vì vậy, dùng phương pháp luận cắt lát của phê bình văn học nặng về xã hội học, phê bình lý trí hay phê bình trực giác, phê bình đạo đức học, ngôn ngữ học, phê bình phân tâm học, phê bình cấu trúc... đối với Cung oán ngâm khúc e rằng chưa thể tất.

Phê bình xã hội học từ bấy nay đã chỉ ra rằng Cung oán ngâm khúc tố cáo chế độ phong kiến tàn bạo, vô nhân đạo, chà đạp tình yêu hạnh phúc con người. Cái chế độ tự nhiên đi bắt nhốt hết con gái đẹp thiên hạ vào một cung cấm như tù chung thân, cho một người sợ nắng sợ gió, hom hem, bệnh hoạn gọi là vua độc quyền hưởng lạc, bảo không ác sao được? Đúng quá. Lại bảo tác phẩm này đầy tính nhân đạo chủ nghĩa. Nhà thơ bênh vực, cảm thông, chia sẻ với nỗi buồn đau, nỗi khát vọng hạnh phúc, nỗi tuyệt vọng về tương lai của hàng trăm cung nữ, nhất định là thương người quá đi chứ. Đúng quá. Lại bảo nghệ thuật của thi phẩm này cao siêu, tuyệt vời. Vì hơn hai trăm năm nay rồi, những áng thơ còn rung động, xúc cảm hàng triệu con tim yêu hồn Việt ngữ ông cha. Lại đúng quá. Mà đúng cả với Chinh phụ ngâm, Truyện Kiều và thơ Hồ Xuân Hương nữa.

Phái phê bình phân tâm học thì dùng ông Freud để lý giải tình cảm bị ức chế tình dục của các cung nữ và ngay cả với Nguyễn Gia Thiều, người bị coi là quan hoạn, nên mới tạo ra nỗi khổ, nỗi thèm khát, nỗi hay đầy cảm giác nhục tính của tác phẩm. Nghe ra, cũng có vẻ có lý. Người khác cho rằng, Ôn Như Hầu là đệ tử của Phật, của Lão, trình bày cuộc đời như các cung nữ bị ông vua tạo hóa nhốt chơi, khổ lắm, nhục lắm, mất tự do lắm, nên khuyên ta phải tìm vào cửa Không, cửa Vô mà lánh cho qua bể trần gian. Lại có vẻ đúng. Có người chứng minh Ôn Như hầu yếm thế, chán đời. Có người lại bảo không, bên ngoài thì thở vắn than dài thế thôi, nhưng bên trong còn ham hố lắm, còn yêu đời lắm, còn hy vọng, thèm khát ái ân lắm, cầu mong ơn mưa móc cửu trùng lắm... Phê bình duy mỹ thì bảo: vứt hết những cái đó đi, chỉ lấy cái mỹ lệ văn chương làm tiêu chuẩn thôi, tuyệt đẹp từng câu, từng chữ. Rồi phê bình hình thức, phê bình ngôn ngữ học, phê bình trường ngôn ngữ... đều lôi thiên tài Ôn Như hầu về phía mình như honda ôm giành khách. Trong Cung oán ngâm khúc có tất cả những điều trên và còn nhiều điều hơn nữa, nhưng hình như rồi chẳng có một điều nào cả.

Kìa hàng trăm cung nữ thở than, đau khổ , ám ảnh chuyện mây mưa, hy vọng, tuyệt vọng, rồi níu lấy Phật, lấy Lão, níu cả ông Khổng, thậm chí níu cả ông Táo, ông Tơ như người chết đuối bám cọc. Nghĩa là trong 356 câu thơ song thất lục bát, ta thấy hiện lên cả một thế giới người khổ ải xin tan hòa vào thế giới thần thánh như mực mong hòa trong nước để được sống đời chữ nghĩa. Nhưng rồi quay đi, quay lại, thoắt biến đâu như đèn cù, chẳng còn ai. Cả người đọc thơ bồi hồi, rơi lệ một lúc cũng biến đi. Chỉ còn một mình nhà thơ lặng lẽ trong từng câu chữ, ép hồn vào trang giấy như con bướm khô mà gánh chịu bể khổ kiếp người, gánh chịu cả cái không đâu vô cùng của triết học và tôn giáo. Khiếp quá. Cô đơn quá. Sầu thảm quá.

Khi các cung nữ khóc than khản giọng thì nhà thơ lên tiếng, phủ nỗi buồn vạn cổ lên cỏ cây, lên muôn vật, thậm chí lên cả hậu thế nữa: "Phong trần đến cả sơn khê / Tang thương đến cả hoa kia cỏ này". Câu lục bát hay đến rớm lệ hai thế kỷ thi ca. Chừng như nỗi "phong trần, tang thương " của dân tộc suốt hơn hai trăm năm qua chưa đi hết câu thơ thần diệu này của Ôn Như hầu? Tưởng như chỉ dùng hai câu thơ trên cũng có thể bình được hồn thơ Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, bà Huyện Thanh Quan...thuở ấy. Câu lục bát kia bảo nó là tâm hồn thời đại thì cũng là đệ nhất tâm hồn, bảo nó là tư tưởng thời đại thì cũng là đệ nhất tư tưởng.

Có thể nói, Ôn Như hầu là nhà tư tưởng lớn nhất của thi ca Việt Nam từ trước tới nay. Tất cả tư tưởng của thi hào đã được hồn vía hóa, Việt hoá, thi ca hoá. Thân gỗ của cây triết học, thần học cứng ngắc, khô khan qua cảm hứng thi ca Ôn Như hầu, đã trổ hoa tư tưởng. Thi ca đã biến triết học trong ông thành mỹ học, biến bộ óc tràn đầy sách vở kinh điển, già giặn, siêu hình, siêu việt của ông thành nỗi oe oe chào đời tơ non của trái tim con người. Ngay cả nỗi thống khổ trần gian đi qua thi ca ông cũng thành đẹp thế, cảm động và ngây thơ thế, thương thế: "Thảo nào khi mới chôn nhau / Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra". Câu thơ thuần Việt, không một từ Hán chen vào, dung dị như nhọ nồi rau má mà sâu thăm thẳm những vực cùng đỉnh. Con người ra đời phải chăng vì sợ quá mà cất tiếng khóc đầu tiên? Tiếng khóc ấy như một tiếng thét báo hiệu, báo nguy, báo thức, báo yên và báo động. Khi tư tưởng được phát giác bằng thi hứng, bằng trực cảm, bằng hình ảnh, hình tượng ngôn từ, tư tưởng ấy sống động và bền vững mãi. Trẻ sơ sinh kia sao giống hệt thi ca, vừa ra đời đã cất tiếng khóc? Tiếng khóc ấy phải chăng chính là tiếng hát đẹp nhất của con người trên mặt đất?

Ôi chao, loài người sẽ thế nào đây, nếu mỗi chúng ta vừa ra khỏi bụng mẹ đã hí lên cười hềnh hệch đến méo mó cả phận mình? Cung oán ngâm khúc quả tình đã trở thành một trong những "tiếng khóc ban đầu " của tinh thần văn hóa Việt. Con người sơ sinh - thi ca đã đi qua tiếng khóc thứ nhất dữ dội của mình một cách bi tráng dễ sợ như thế, phỏng còn tiếng khóc nào, nỗi thống khổ nào trên đời dọa nạt được nó? Hơn hai trăm năm nay rồi và nghìn vạn năm nữa, các thế hệ người Việt Nam đều lần lượt dìu nhau đi qua câu thơ này của Nguyễn Gia Thiều, như dìu nhau leo cây cầu kiều bắc qua bể khổ, để suốt những năm ở trọ trên mặt đất không còn lạ gì, ngại gì nước mắt với đau thương, cái mà trong bụng mẹ, thai nhi đã nghiền ngẫm, đã nhấm nháp qua chiếc cuống nhau trần thế. Con người bị vây bủa bởi "tiếng khóc ban đầu" và "nấm cỏ khâu xanh rì", có vẻ như sợ hãi quá, hư vô quá, nhưng mà hay quá, thấm thía quá, đương nhiên quá: "Trăm năm còn có gì đâu / Chẳng qua một nắm cỏ khâu xanh rì".

Hãi thật, phàm là người, xưa nay có ai vượt qua nấm đất cuối của mình đâu? Bản thân cái chết cũng rất tự nhiên như cái sinh, chẳng có gì đáng sợ. Ôn Như hầu gánh trên đôi vai thi ca: một bên là cái sinh: " tiếng khóc ban đầu", một bên là cái diệt: "nấm cỏ khâu xanh rì" mà đi tiêu dao qua tôn giáo và triết học, đi qua cả nỗi yếm thế cùng nỗi yêu đời, đi vào tận sâu cái Không để xóa cái Không, đi hết cái khiếp sợ để không còn khiếp sợ nữa. Vậy thì cái đau về nỗi người bèo bọt nào có xá gì: "Nghĩ thân phù thế mà đau / Bọt trong bể khổ bèo đầu bến mê". Ơ hay, không đi qua hết mê lầm thì làm sao diệt được mê lầm, không đi qua "sóng cồn" thì sao biết được mình là "con thuyền bào ảnh": "Sóng cồn cửa bể nhấp nhô / Chiếc thuyền bào ảnh lô xô gập ghềnh". Hóa ra, ngay trong cái Không này, thi ca đã tìm thấy cái Hữu từ trong cảm giác, từ cảm xúc thẩm mỹ của nỗi "nhấp nhô", "gập gềnh" của cuộc đời bồng bềnh, nhún nhảy như sóng gió, như võng đưa, như những câu lục bát sâu sắc mang tính tư tưởng cao nhất của thi ca Việt Nam vừa trích dẫn.

Ôn Như Hầu dắt díu một đoàn cung nữ đang chết khát yêu đương vượt qua sa mạc của cõi Mộng hướng vào nguồn suối cõi Thực, qua cõi Tâm lần tìm cõi Vật, cũng là dắt díu chính bản thân mình vượt qua siêu hình, vượt qua biển bờ tôn giáo hư không để oà ra gặp cái Ngã, rằng Tôi là có thật, Tôi là chính của Tôi, không phải bào ảnh, ảo giác, không phải mê lầm : "Giấc Nam Kha khéo bất tình / Bừng con mắt dậy thấy mình tay không". Sau giấc hòe ma mị, bèo bọt , nhà thơ trong lốt cung nữ đã kinh ngạc "thấy mình" dù "tay không", không còn gì cả, không còn hư mê, chỉ còn chính bản thân mình, trả cho vô biên cái hư ngã, chỉ mang theo cái chân ngã mà thành thi ca. Nguyễn Gia Thiều rốt ráo chẳng hư vô chủ nghĩa tí nào cả.

Cứ tưởng ông tuyệt vọng chán đời, lánh đời, ai ngờ ông chỉ núp vào Phật Lão chơi tí như trưa nắng núp nhờ bóng cây, đoạn an ủi các cung nữ một chút rồi lại sà ngay vào kiếp người mà hy vọng, mà tình tứ, mà kén vợ gả chồng cho từ hoa cỏ đến chim muông. Những câu thơ viết về khát vọng lứa đôi hài hòa âm dương vũ trụ hay nhất từ xưa đến nay của thi ca Việt Nam trong Cung oán ngâm khúc, khiến trời đất, cát bụi cũng muốn hoá vợ chồng: "Kìa điểu thú là loài vạn vật / Dẫu vô tri cũng bắt đèo bòng / Có âm dương có vợ chồng / Dẫu từ thiên địa cũng vòng phu thê".

Tiếng Việt của ca dao tục ngữ được Nguyễn Gia Thiều nâng cao thành chú rể Việt Nam cưới cô dâu từ ngữ Hán, điển tích Hán, nhập quốc tịch chữ Nôm mà hóa hồn Việt thuần thục đoan trang, bình dân đại chúng mà vẫn yêu kiều thục nữ, vẫn mỹ lệ, tài hoa đến không ngờ. Thành ra Ôn Như hầu chính là ông tơ hồng của văn học, lấy thi ca mà trói buộc chữ duyên tình lên cả vần điệu, lên cả càn khôn. Vượt qua mọi cấm đoán thời phong kiến, cấm đàn bà con gái không được bày tỏ ham muốn xác thịt cả trong đời và trong văn học, Nguyễn Gia Thiều đã ném toàn bộ chăn gối của tinh thần giải phóng phụ nữ vào chính mặt vua chúa, cũng là ném cảnh phòng the vào vẻ đạo mạo giả dối của thời đại, giật tung tấm bình phong, tấm màn che phong kiến xuống tưởng không còn manh giáp: "Chốn phòng không như giục mây mưa", " Khi ấp mận ôm đào gác nguyệt", "Mây mưa mấy giọt chung tình", "Lối đi về ai chẳng chiều ong"... hoặc câu thơ mà phái phân tâm học cũng phải gọi bằng thầy, thơ hay đến nỗi chim chuột cũng phải ngẩn ngơ, mê mẩn: "Bóng gương lấp loáng dưới mành / Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa".

Đối với cái dục, càng diệt, càng ý thức về diệt dục nó càng phát lộ. Thế thì làm sao hàng trăm cung nữ ngày đêm chết khát chờ "ơn mưa móc cửu trùng" có thể hóa các ni cô mà tu thành chính quả trong ngôi chùa "Cung oán"? Thành ra, muốn dắt đoàn cung nữ của mình tới cõi Phật, Nguyễn Gia Thiều phải đưa họ đi hết cõi dục, cõi mà họ đang chết khát, đang bị đày đọa trong địa ngục dục vọng. Đấy là bi kịch đớn đau nhất, tang thương nhất của kiếp người, kiếp làm vợ vua trong thế giới "Cung oán". Để muôn đời, những thân phận cung nữ kia sẽ nhờ buồn thương mà bất tử với thi ca Ôn Như hầu, đặng khóc than về sự trớ trêu của kiếp vợ vua: "Dẫu nhan sắc mấy cũng thừa / Lấy chồng vua lại thành chưa có chồng" (thơ Trần Mạn Hảo).

Thương thay những kiếp hồng nhan bạc phận, dẫu hóa cát bụi vẫn còn thèm khát hạnh phúc chính ra họ đã được hưởng nơi quê mùa, dân dã, điều không thể có trong cung vàng điện ngọc: "Thà rằng cục kịch nhà quê / Dẫu lòng nĩu nịu nguyệt kia hoa này". Chao, thi pháp Ôn Như hầu đâu chỉ rực rỡ những lầu son gác tía. Hồn ông, thơ ông, qua khát khao niềm chăn gốì quê mùa của người cung nữ, đã chớm ánh lên sắc vàng rơm rạ bình dân trong tinh thần "cục kịch nhà quê" rất "oé oẹ", rất nôm na mà vẫn cứ sang trọng, quý phái kiểu "má đào chon chót" ("Giải kết đều oé oẹ làm chi".../ "Song đã cậy má đào chon chót" ).

Có phải Nguyễn Gia Thiều muốn qua lời cung nữ mà ngụ ý, mà bóng gió nói về cuộc trở dạ, cuộc lột xác, thoát thai của văn học Việt Nam từ Hán sang Nôm từng quằn quại mấy thế kỷ từ thời Hàn Thuyên? Ấy là khi dòng thi ca dân tộc bắt đầu tìm cách chia tay với thi pháp "bắt voi bỏ rọ" Hán, tâm thức mực thước Hán cung đình, để bước ra bầu trời tự do, bước sang thi pháp lục bát phóng khoáng, uốn lượn bay bổng Việt, tâm thức nâu sồng Việt bình dân đại chúng, chuyển từ phong cách "phong lưu" qua phong cách "thanh đạm": "Miếng cao lương phong lưu nhưng lợm / Mùi hoắc lê thanh đạm mà ngon"?

Hàng trăm cung nữ chết sầu chết héo, chôn má đào trong nấm mồ chung "vách quế, tiêu phòng" chỉ vì "miếng cao lương phong lưu" giả hiệu ấy! Đến khi biết nuốt vào "lợm" quá, tanh tưởi quá nhưng không nôn ra được nữa rồi, đành ngồi mơ "mùi hoắc lê" dân dã hoa hèn cỏ nội như mơ cảnh Niết Bàn. Mãi mãi, những cung phi ấy không còn được hưởng hạnh phúc "mùi hoắc lê" nôm na tuyệt vời, để chúng ta, hậu thế được hưởng trọn vẹn 356 câu thơ nôm thuần Việt, hồn Việt "thanh đạm mà ngon" của Ôn Như hầu tiên sinh tặng lại.

Giấu nỗi buồn đau của hàng trăm cung nữ bạc phước, bất hạnh trong gan ruột mình, rồi cất lên tiếng ta thán của nghìn năm cung cấm, tâm hồn Nguyễn Gia Thiều quả là nhức nhói, quặn thắt đến cả trời đất, đành nhờ thi ca chuyển tải xót thương tới muôn vàn mai hậu. Thương thay một thời đại cung nữ, một thời đại song thất lục bát, một thời đại của thi pháp vàng son đã biết cách nghiêng xuống tìm tình duyên nơi "Lau nhau ríu rít cò con" nôm na dân tộc, mà vẫn phải mếu máo cười khóc khi hát khúc ngâm "Cung oán": "Cười nên tiếng khóc hát nên giọng sầu".

Đau quá, không chỉ kêu lên một tiếng cô đơn như tiếng kêu "hàn thái hư" Không Lộ thiền sư xưa, mà là một tiếng kêu căm uất dài tới hai trăm năm có lẻ: "Chống tay ngồi ngẫm sự đời / Muốn kêu một tiếng cho dài kẻo căm". Ôn Như hầu dồn cả nỗi oán hận chế độ phong kiến tàn ác, chà đạp tình yêu hạnh phúc con người của không chỉ nghìn muôn cung nữ vào trọn tâm can mình. Ông muốn đập tan thời đại vô luân đó, muốn đập tan cả nền móng những khổ đau, muốn đập tan ngay cả thân xác nặng nề đang chịu thay cái đau quằn quại của bao cuộc đời, để tinh thần được tự do bay lượn trong vô cùng thế giới: "Dang tay muốn dứt tơ hồng / Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra". Tưởng như hai câu thơ này viết về nỗi niềm dân tộc Việt Nam hôm nay đang muốn “dứt tơ hồng”- (tơ đỏ trói buộc), “muốn đạp tiêu phòng” - (chủ nghĩa) mà ra với lồng lộng nhân loại tự do, nhân loại dân chủ ? Thương thay cho người Việt chúng ta hôm nay hình như vẫn còn bị nhốt trong hai câu thơ đau đáu xa xưa của Ôn Như hầu ?

Có thể cùng với bao cung nữ, thân xác Nguyễn Gia Thiều đã nằm lại trong "tiêu phòng" của chế độ phong kiến, nhưng tinh thần ông, kiệt tác của ông là Cung oán ngâm khúc, thực sự đã đạp đổ tung thời đại đau thương ấy mà bay về phía chúng ta, về phía con người. Ở đó, linh hồn nhà thơ đã thực hiện được giấc mơ của hơn hai trăm năm trước, cùng tiêu dao trong thế giới Lão Trang mà con bướm hoài nghi không còn ngơ ngác giữa mộng và thực nữa :"Thoát trần một gót thiên nhiên / Cái thân ngoại vật là tiên trong đời". Chừng như tất cả chúng ta, thông qua tâm sự nghìn thu cung nữ - Nguyễn Gia Thiều, đều chỉ là những cung nam, cung nữ của vì vua tạo hóa?

Được kiệt tác Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm gợi hứng, Nguyễn Gia Thiều, một đại quý tộc, một đại trí thức, một tâm hồn thơ xuất chúng đã mượn nỗi đau cung nữ mà hát lên tiếng thơ nôm tuyệt diệu, vừa cao siêu đỉnh trời tư tưởng, vừa diễm lệ tận cùng tình cảm cỏ hoa, vừa quý phái hàn lâm, vừa nâu sồng dân dã. Cung oán ngâm khúc quả tình có thể xếp ngang hàng với hai kiệt tác Chinh phụ ngâmTruyện Kiều, như tam vị nhất thể, như ba đỉnh núi thi ca trong một quần thể tinh thần văn hóa Việt cuối thế kỷ thứ XVIII, đầu thế kỷ thứ XIX còn sừng sững giữa trời, cùng vòi vọi với đỉnh thi ca đơn độc Ức Trai trên dưới bốn trăm năm trước.

Rất tiếc, trong chương trình văn học từ bậc phổ thông đến bậc đại học, kiệt tác Cung oán ngâm khúc chừng như chưa được đánh giá đúng mức? Tất cả chúng ta, như lớp lớp người xưa, kể cả những tay bơi cự phách nhất như "rái tướng" Yết Kiêu và Dã Tượng đời Trần, đều sẽ lần lượt, kẻ trước người sau bị sự "đành hanh" của tạo hóa chòng ghẹo, đến độ phải chết đuối trên mặt đất, như câu thơ hay đến kỳ lạ của Nguyễn Gia Thiều: "Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán / Chết đuối người trên cạn mà chơi". Nhưng may mắn thay, trò con tạo đùa chơi không thể đánh chìm được hồn thơ Cung oán ngâm khúc, dù là sự đánh chìm "trên cạn". Thi phẩm này cứ trôi lênh đênh như một cái phao tâm linh cứu nạn trên mặt đất, sẵn sàng cho những chơi vơi níu bám, ít ra là đối với những tâm hồn đã được mỹ cảm thi ca cứu rỗi. 

T.M.H

*Bài viết do Nhà thơ Trần Mạnh Hảo gửi trực tiếp tới NXD-Blog. Chúng tôi có biên tập một chút, mong được lượng thứ. (bản gốc xin xem tại đây). Xin chân thành cảm ơn tác giả!

**Chúng tôi có may mắn sở hữu một tư liệu CD ghi âm toàn văn Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều với giọng ngâm trác tuyệt của một nghệ sĩ lão thành. Chư vị nào có nhã hứng muốn thưởng thức, xin cho biết địa chỉ để chúng tôi gửi tặng 01 bản sao. NXD.


HOAN NGHÊNH BÁO LAO ĐỘNG NGHỆ AN ĐÃ LÊN TIẾNG

Lình xình Giải thưởng Hồ Xuân Hương (Nghệ An): 

Muốn giải trong sạch thì nên hủy kết quả để làm lại 

Hoàng Trị

 

Đọc bài “Giải thưởng Hồ Xuân Hương - Không ổn ngay từ khung khổ pháp lý” của tác giả Phạm Xuân Cần trên báo Lao Động Nghệ An số 728 ra ngày 3/11/2011, tôi rất đồng tình với quan điểm và những lý lẽ mà tác giả đã đưa ra. Đó thực sự là một bài viết rất đúng, có tầm, phân tích mổ xẻ được nguyên nhân vì sao giải thưởng Hồ Xuân Hương lần này có nhiều sai sót và nảy sinh khiếu kiện.   

Quả thật thể lệ giải thưởng Hồ Xuân Hương hết sức sơ sài, khung khổ cho giải thưởng thiếu chặt chẽ và không hợp lý, thậm chí có sai sót về thẩm quyền và quy trình xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, cho thấy nó được tư vấn rất tồi. Họ không hiểu luật hoặc cố tình không hiểu, quan liêu nên mới dẫn đến sai sót như vậy. Việc tổ chức thực hiện có dấu hiệu thiếu nghiêm túc giống như tình trạng “sinh con rồi mới sinh cha, “con không giống cha”. 

Xin phản ánh thêm một số sai sót của giải thưởng Hồ Xuân Hương giai đoạn 2005-2010. Trước hết là về tổ chức giải, việc lập danh sách thành viên sơ khảo và hội đồng chung khảo không làm theo quy trình dân chủ. Điều vô lý thứ 2 đó là ban sơ khảo và hội đồng chung khảo đều có tác phẩm dự giải và đều đạt giải cao. Đây là điều rất lạ và cũng nảy sinh tình trạng “chấm cho mình và chấm cho nhau”, còn đâu là công bằng, công tâm nữa? Điều nguy hại nữa là Ban sơ khảo và hội đồng chung khảo khi chấm không có tiêu chí chuẩn xác, không có ba rem thì căn cứ vào cái gì để chấm? Do thể lệ không quy định tỷ lệ thành phần hội đồng, vì vậy mới có chuyện Hội đồng chung khảo gồm 13/14 thành viên “người ngoại đạo” nhưng chấm họa, các ban khác cũng tương tự như vậy nên nhiều tác giả có tác phẩm tham dự giải bất bình với kết quả của Hội đồng.


Xin nói thêm về tổ thanh tra của Sở VHTT&DL. Một số người vừa là thành viên thuộc các ban giải thưởng Hồ Xuân Hương, vừa có tác phẩm dự giải và đạt giải cao, trong lúc đang có nhiều khiếu nại tố cáo mà lại là thành viên của tổ thanh tra là không đúng luật. Từ đó cách thức giải quyết khiếu nại tố cáo và kết luận thanh tra thiếu khách quan…

Cũng như tác giả Phạm Xuân Cần, tôi cảm thấy muốn giải thưởng Hồ Xuân Hương trong sạch thì nên hủy kết quả, làm lại từ đầu. Đây là nghệ thuật gắn với khoa học nên phải làm việc theo tính khoa học, pháp lý. Một khi khung khổ pháp lý không đảm bảo, quy chế đã không đúng thì dù cho phúc khảo hay chấm lại cũng không có tính thuyết phục. Bởi vậy nhất thiết phải thiết lập lại quy trình, văn bản theo đúng pháp lý để giải thưởng đảm bảo tính khách quan, công bằng. Có người lo ngại rằng hủy kết quả, làm lại từ đầu thì sẽ tốn kém thời gian, công sức, tiền bạc, ảnh hưởng đến những người đã được nhận giải thưởng các lần trước… Tôi nghĩ đó là những người chưa hiểu rõ về những sai sót, bất cập của giải thưởng Hồ Xuân Hương lần này, họ không nằm trong cuộc nên mới suy nghĩ như vậy. Có người lại lo ngại rằng nếu hủy kết quả làm lại từ đầu thì tỉnh sẽ mang tiếng.

Thực tế thì dù chưa hủy kết quả nhưng nhiều văn nghệ sĩ ở khắp các tỉnh, thành trong cả nước cũng đã biết về sự “lình xình” của giải thưởng Hồ Xuân Hương lần thứ IV của tỉnh ta, cứ cố trao giải thưởng trong tình hình này có khi còn mang tiếng hơn. Vì vậy nên hủy kết quả, làm lại từ đầu, đồng thời các cơ quan có thẩm quyền phải xử lý nghiêm những tập thể, cá nhân có vi phạm để làm gương cho các giải sau.
                                                                        (Nguồn: Lao động Nghệ An)

Nguồn: Thắng Xòe -Blog.

HÔM NAY, KỶ NIỆM 50 NĂM TRƯỜNG CẤP III QUẢNG OAI

Mái trường xưa dưới chân núi Ba Vì
Phùng Hoàng Anh

Để nhớ về miền đất phủ Quảng Oai xưa ấy – là nơi chôn nhau cắt rốn của mình, nhà thơ Trần Hòa Bình đã lấy bút danh của mình như để nhắc nh về một miền đất mến thương ấy là Bình Phủ Quảng.

Đời nhà Lê, Sơn Tây là một trấn, trải dài từ Từ Liêm (Hà Nội) đến Bạch Hạc (Phú Thọ), lỵ sở của trấn đóng ở xã La Phẩm, huyện Tiên Phong, phủ Quảng Oai (nay La Phẩm là một thôn của xã Tản Hồng, huyện Ba Vì). Thời Pháp thuộc, tỉnh Sơn Tây được thành lập năm 1892 (gồm hai phủ Quảng Oai và Quốc Oai, với 4 huyện : Phúc Thọ, Thạch Thất, Tùng Thiện, Bất Bạt). Để nhớ về miền đất phủ Quảng Oai xưa ấy – là nơi chôn nhau cắt rốn của mình, nhà thơ Trần Hòa Bình đã lấy bút danh của mình như để nhắc nh về một miền đất mến thương ấy là Bình Phủ Quảng.

Bây giờ tên gọi Quảng Oai không còn là đơn vị hành chính cấp huyện như trước nữa, thay vào đó là cái tên gọi hành chính -  huyện Ba Vì. Từ xa xưa, Ba Vì vẫn là miền đất cổ xứ Đoài muôn đời mây trắng bay, nơi có những con sống lớn bao bọc như sông Đà và sông Hồng, dòng sông Tích thơ mộng khởi nguồn từ núi Tản Viên rồi đổ về xuôi, và nơi ấy còn mọc lên một dải núi có hình thế rất đẹp, thi hào Nguyễn Trãi – danh nhân văn hoá thế giới đã gọi tên  núi ấy là núi Tổ của nước Nam trong sách Dư địa chí, còn học giả Nguyễn Hiến Lê thì ca ngợi ngọn núi quê hương ông đẹp như núi Phú Sĩ của Nhật Bản.

Quảng Oai xưa – Ba Vì nay có một truyền thống văn hiến lâu đời, vùng đất này đã gắn với truyền thuyết Sơn Tinh, Thuỷ Tinh, là một trong Tứ bất tử của nước Việt Nam ta từ cổ xưa. Quảng Oai cũng là vùng đất có dày đặc các di tích lịch sử, văn hoá, kiến trúc tiêu biểu như : thành Đa Bang  (của nhà Hồ xây dựng còn lưu dấu tích ở xã Phong Vân), đình Tây Đằng, đình Chu Quyến, đình Tiên Phong, đền Thượng, đền Trung và đền Hạ ở núi Ba Vì,…các danh lam thắng cảnh như vườn Quốc gia Ba Vì, khu K9 ở Đá Chông, cây đa Bác Hồ ở Vật Lại, Ao Vua, Khoang Xanh - Suối Tiên, Thiên Sơn – Thác Ngà, hồ Suối Hai. Quảng Oai còn là vùng đất có nhiều danh nhân, Tiến sĩ  được hậu thế biết đến, được lưu danh trong sử sách và bia đá như Tiến sĩ, Lưỡng quốc Thượng thư Nguyễn Sư Mạnh, Tiến sĩ, Lục bộ Thượng thư Nguyễn Bá Lân (quê Cổ Đô); Tiến sĩ Phan Nhuệ, Tiến sĩ , Thượng thư Trần Thế Vinh (quê Phú Châu); Tiến sĩ Phùng Thế Triết (quê Tiên Phong); Tiến sĩ, Tham Tụng Lê Anh Tuấn (quê Vạn Thắng); Thượng thư Lê Hữu Tá (quê Đông Quang)… Thế hệ sau có các danh nhân như nhà thơ Tản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu, Nhà thơ Ngô Quân Miện (quê Khê Thượng), Học giả - nhà văn Nguyễn Hiến Lê (quê Phú Phương), Hoạ sĩ Sỹ Tốt (quê Cổ Đô). Họ đều là những công dân ưu tú của vùng đất Quảng Oai xưa và huyện Ba vì ngày nay.

Quảng Oai bây giờ chỉ còn là tên gọi của một ngôi trường cấp III ở huyện Ba Vì, đó là Trường Trung học phổ thông Quảng Oai - nằm ở trung tâm trên trục quốc lộ 32 của huyện Quảng Oai xưa, nay là huyện Ba Vì – thành phố Hà Nội, tên gọi Quảng Oai đã gợi nhớ về trường xưa lớp cũ của rất nhiều thế hệ học trò và những thầy, cô giáo đã và đang học tập, công tác dưới mái trường mến yêu ấy.

Năm nay, trường Trung học phổ thông Quảng Oai đã bước sang tuổi thứ 50, ghi dấu mốc một chặng đường xây dựng và phát triển trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo các thế hệ học sinh trường huyện của ngành giáo dục và đào tạo thủ đô Hà Nội trong suốt nửa thế kỉ qua, kể từ khi bắt đầu thành lập trường năm 1961 đến nay. 

Trường cấp III Quảng Oai xưa, trường T.H.P.T Quảng Oai ngày nay được tách ra từ trường cấp III Sơn Tây của tỉnh Sơn Tây cũ, nhằm thu nhận học sinh hai huyện Quảng Oai và Bất Bạt, khi đó Sơn Tây là địa danh hành chính cấp tỉnh thì Quảng Oai là địa danh hành chính cấp huyện. Trường cấp III Sơn Tây ra đời sớm nhất vùng phía Tây thủ đô Hà Nội ngày nay được thành lập năm 1959, sau đó là Trường cấp III Quảng Oai thành lập năm 1961, và sau này có Trường cấp III Tùng Thiện thành lập năm 1966.

Ngày đầu trường mới thành lập chỉ có một lớp 9 từ Sơn Tây chuyển lên và hai lớp 8 mới tuyển với 135 học sinh và 7 thầy, cô giáo. Sau 30 năm kể từ sau ngày thành lập trường, năm học 1991 – 1992 Trường T.H.P.T Quảng Oai đã có bước phát triển về số lượng với 721 học sinh: khối 10 là 379 học sinh, khối 11 là 96 học sinh, khối 12 là 246 học sinh với tổng số 63 thầy, cô giáo, cán bộ và nhân viên. Trong khoảng thời gian ấy, nhà trường đã đào tạo được 10.034 học sinh ra trường. Năm học 1981 – 1982 là năm trường có số học sinh đông nhất thành phố Hà Nội : khối 10 là 775 học sinh, khối 11 là 642 học sinh, khối 12 là 611 học sinh.

Giai đoạn 1961 – 1991, trường T.H.P.T Quảng Oai đã có hàng trăm thầy giáo và học sinh đã hăng hái lên đường nhập ngũ, trên khắp các chiến trường ba nước Đông Dương, đâu đâu cũng có dấu chân của các anh bộ đội là học sinh của trường Quảng Oai, sau chiến tranh có 106 học sinh của trường đã anh dũng hy sinh vì nền độc lập của dân tộc. Máu và thân thể các anh đã đổ xuống ở khắp các chiến trường như cửa sông Hàm Luông, huyện đảo Phú Quốc… Đất nước trải qua cuộc chiến tranh, thầy và trò Trường T.H.P.T Quảng Oai đã khắc phục mọi khó khăn để dạy tốt học tốt, sau 4 năm thành lập, trường đã phải triệt để sơ tán do máy bay Mỹ đánh phá công trình thuỷ lợi hồ đập Suối Hai – Ba Vì. 15 lớp  phải sơ tán về các thôn xóm hẻo lánh thuộc các xã Chu Minh, Tiên Phong, Đông Quang. Những lớp học dưới hầm sâu rất an toàn bởi luỹ dày bao bọc, che chắn để thầy và trò yên tâm dạy tốt và học tốt. Năm 1975 – 1976 trường thiếu lớp học, đã huy động cả thầy và trò lên tận núi Ba Vì khai thác nứa, tre, với hơn  2000 phên tranh đóng bè xuôi sông Đà rồi sông Hồng đầy vất vả và hiểm nguy để dựng trường, dựng lớp. Trong giai đoạn này, khó khăn là vậy, nhưng các thầy cô giáo và nhiều thế hệ học sinh đã đạt được nhiều thành tích trong phong trào thi đua dạy tốt - học tốt như các thầy Nguyễn Văn Dũng, Lý Quốc Hào, Đỗ Văn Đích, Ngô Chính Cát, Nguyễn Lí Kính đã được công nhận là giáo viên giỏi. Học sinh Nguyễn Văn Nho đạt giải Khuyến khích học sinh giỏi miền Bắc, Đỗ Văn Dũng đạt giải Ba môn Vật lý lớp 10 của tỉnh Hà Tây. Năm 1985, Trần Văn Trường đạt giải Nhất môn Toán Thành phố Hà Nội. Chu Văn Nghị đi thi ném lựu đạn đạt giải Nhất toàn miền Bắc năm 1967. Lê Thị Tố Yến đạt huy chương vàng, Bùi Văn Ngọc đạt huy chương bạc giải chạy Việt dã của báo Hà Nội mới…

Đất nước bước vào thời kì đổi mới ( từ năm 1991 đến nay ), trường có 45 lớp với tổng số 2.032 học sinh, có 111 cán bộ, giáo viên, nhân viên, trong đó có hơn chục thầy cô giáo có trình độ Thạc sỹ,  trường có 7 tổ chuyên môn, cơ sở vật chất bề thế với 22 phòng học kiên cố. Trường có đủ các phòng học và phòng chức năng như phòng làm việc của Ban giám hiệu, phòng họp tổ, phòng thư viện, phòng thiết bị, phòng học tin học…Chất lượng học sinh đỗ tốt nghiệp hàng năm đạt  từ 80 – 93 % , trong đó có nhiều học sinh đỗ đại học điểm cao từ 26 – 27 điểm trở lên, đó là các em Phùng Ngọc Vững đạt giải Nhất kỳ thi học sinh giỏi cấp Thành phố môn Hoá học và đạt 27 điểm vào trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, em Lê Tuấn Anh đỗ hai trường Đại học ( Đại học Ngoại thương : 29 điểm, Đại học Y Hà Nội : 29,5 điểm), em Lê Anh Đạt đạt 28 điểm ( trong đó môn Toán được điểm 10. Nhiều em đạt giải trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh, thành phố : Nguyễn Thái đạt giải Nhất môn Hoá học thành phố Hà Nội năm 1989, Nguyễn Thế Ngọc giải Nhất môn Toán tỉnh Hà Tây năm 1999, Đỗ Thị Ánh Vân, Nguyễn Văn Hưng giải Nhất môn Toán tỉnh Hà Tây năm 2004…

Nhiều thầy, cô giáo đã đạt giải cao trong các cuộc thi giáo viên dạy giỏi cấp Tỉnh, Thành phố như cô giáo: Đinh Thị Tuyết đạt giải Nhất môn Thể dục tỉnh Hà Tây năm học 2002 – 2003,Vũ Ba Lê đạt giải Nhất môn Toán tỉnh Hà Tây năm 2005,  Nguyễn Thị Thuý Lộc giải Ba môn Hoá học Thành phố Hà Nội năm 2009 – 2010. Nhiều sáng kiến kinh nghiệm của các thầy cô được xếp loại C, B cấp tỉnh, thành phố Hà Nội.

Những năm qua, nhà trường luôn luôn coi trọng công tác quản lý, chỉ đạo có nhiều bước đột phá, đảm bảo tính khoa học và tính thực tiễn cao. Chi bộ nhà trường có 37 đảng viên, chi bộ Đảng thực sự giữ vai trò lãnh đạo toàn diện các hoạt động của nhà trường, Chi bộ Đảng nhà trường liên tục được Huyện uỷ Ba Vì – T.P Hà Nội công nhận là Chi bộ trong sạch, vững mạnh và được tặng Giấy khen “Chi bộ vững mạnh xuất sắc”. Công tác xây dựng đoàn thể được lãnh đạo nhà trường chú trọng nên nhiều năm liền đạt thành tích cao. Các tổ bộ môn đã  nhiều lần đạt danh hiệu lao động tiên tiến xuất sắc được Sở GD – ĐT Hà Tây và Hà Nội khen thưởng.

Trường T.H.P.T Quảng Oai luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Sở GD – ĐT Hà Tây (nay là T.P Hà Nội), sự ủng hộ của cha mẹ học sinh và nhân dân trong huyện Ba Vì, với ý thức tự lực tự cường, tinh thần chủ động sáng tạo, nhà trường đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giáo dục và đào tạo mà nhân dân giao cho. Hành trình 50 năm xây dựng và phát triển, nhà trường đã đào tạo được nhiều học sinh ưu tú, sau này có học vị Tiến sỹ, Thạc sỹ hiện đang công tác ở khắp mọi miền của tổ quốc, trên nhiều lĩnh vực khác nhau như : lĩnh vực nghiên cứu khoa học có em Phùng Văn Đồng, Tiến sỹ Vật lý, hiện đang công tác ở Viện Vật lý, sĩ quan cao cấp trong quân đội nhân dân Việt Nam có Trung tướng Phương Minh Hoà - Uỷ viên TW Đảng, Tư lệnh Quân chủng Phòng không – Không quân, công tác ở các Bộ, ngành có Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Đào Xuân Học, Nguyễn An Bang  nguyên Chánh văn phòng cơ yếu của Chính phủ, nhiều người làm công tác quản lý ở các Sở, ngành của các Tỉnh, Thành phố trong cả nước như : anh Nguyễn Thanh Tùng, Tỉnh uỷ viên, Phó bí thư Thường trực tỉnh Điện Biên, anh Nguyễn Minh Mận nguyên Tỉnh uỷ viên – Phó giám đốc Sở KH và CN Hà Tây, anh Đỗ Văn Quang, Thành uỷ viên, Bí thư huyện uỷ Quốc Oai…Nhiều người được nhà nước phong tặng danh hiệu cao quí như Nhà giáo ưu tú Phùng Định, nguyên Hiệu trưởng Trường Trung học xây dựng số 4 - Xuân Hoà – Vĩnh Phúc. Thầy thuốc ưu tú, Bác sĩ, Đại tá Phùng Đình Hỹ hiện là Trưởng khoa Vật lý trị liệu phục hồi chức năng Viện Quân Y 105 - Tổng cục hậu cần…Nhiều văn nghệ sĩ như hoạ sĩ Giang Khích, nhà thơ Trần Hoà Bình, nhà báo Nguyễn Quốc Ân…

Với những thành tích đóng góp vào sự nghiệp trồng người cho quê hương, đất nước trong 50 năm qua, nhà trường đã vinh dự được Đảng và nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba ( năm 1996 ), Huân chương Lao động hạng Nhì ( năm 2001 ), nhiều năm liền được tỉnh và thành phố tặng danh hiệu Tập thể Lao động Tiên tiến và Tập thể Lao động tiên tiến xuất sắc. Ngày 11.11.2011 sắp tới, trường T.H.P.T Quảng Oai sẽ long trọng tổ chức Lễ kỉ niệm 50 năm ngày Thành lập trường, nhằm ôn lại một chặng đường xây dựng và phát triển, đồng thời cũng là dịp gặp gỡ giao lưu của các thế hệ học sinh nhân ngày 20.11 năm nay.

P.H.A
                                                                                      

Thứ Năm, 10 tháng 11, 2011

MỘT CÁCH GIẢI QUYẾT HỢP LÝ VỀ LIVESHOW CHẾ LINH

Chế Linh trong chuyến lưu diễn tại Hải Phòng

Chế Linh lại được hát và tặng 500 triệu làm từ thiện

10/11/2011 12:29:35
 
Bee.net.vn -Vi phạm qui trình quảng bá, liveshow Chế Linh bị cấm diễn đến hết năm 2011 tuy nhiên trước sự ái mộ của khán giả, liveshow Chế Linh đã được một đơn vị nghệ thuật khác thuộc Bộ VHTT&DL đứng ra nhận tổ chức vào ngày 12/11/2011.
TIN LIÊN QUAN
Ban đầu Live show Chế Linh chỉ định diễn 01 đêm duy nhất tại Hà Nội, nhưng trước sự ủng hộ nồng nhiệt của khán giả, ca sĩ Chế Linh và nhà tổ chức quyết định biểu diễn thêm 01 đêm nữa vào 20h00 ngày 12/11/2011 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia  - Hà Nội.
.
f

Tuy nhiên trong quá trình triển khai, nhà tổ chức cũ (Công ty TNHH Bích Ngọc - PV) đã có một số sai phạm về việc quảng cáo nên bị rút lại giấy phép biểu diễn, nộp phạt và cấm biểu diễn đến hết năm 2011. Nhưng với sự ái mộ của hàng ngàn khán giả với giọng ca Chế Linh một đơn vị nghệ thuật khác thuộc Bộ VHTT& DL đứng ra tổ chức.

Ông Xuân Ái, đại diện đơn vị tổ chức chia sẻ: “Liveshow Chế Linh được cấp phép biểu diễn  vào 20h00 ngày 12/11/2011 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia  - Hà Nội đúng như kế hoạch ban đầu, để đảm bảo quyền lợi của khán giả và các nghệ sĩ. Những khán giả đã mua vé có thể yên tâm và hoàn toàn tin tưởng vào Nhà tổ chức. Đồng thời Ban tổ chức cũng cam kết sẽ không để lập lại những sai phạm của đơn vị tổ chức cũ”

Về phía ca sỹ Chế Linh sau khi nhận được tin này đã hết sức vui mừng. Anh nghẹn ngào tâm sự: “Việc liveshow tiếp tục được diễn ra với tôi có ý nghĩa vô cùng to lớn. Nó thể hiện sự đón chào, cùng sự mở lòng của khán giả đối với tôi và các nghệ sĩ. Đây sẽ là động lực để tôi cống hiến nhiều hơn nữa cho những người yêu mến mình. Tôi hy vọng liveshow Chế Linh lần 02 tại Hà Nội sẽ là dịp để tôi có cơ hội tri ân với khán giả và quê hương sau nhiều năm xa cách. Tôi mong khán giả sẽ hài lòng với những gì Chế Linh thể hiện  bằng chính trái tim mình”.
.
Chế Linh trong chuyến lưu diễn tại Hải Phòng
Chế Linh trong chuyến lưu diễn tại Hải Phòng
Trong liveshow lần 2 tại Hà Nội sẽ có sự tham dự của các ca sỹ khách mời là: Sơn Tuyền, Hương Lan, Thái Châu, Mạnh Đình… Dẫn chương trình là MC kỳ cựu Nguyễn Cao Kỳ Duyên và nhạc sĩ Đức Huy. Chương trình gồm 28 bài hát của các nhạc sĩ nổi tiếng gắn liền với tên tuổi Chế Linh như Thành phố buồn, Hòn vọng phu, Giọt lệ đài trang… cũng như những bài hát do chính Chế Linh sáng tác dưới nghệ danh Tú Nhi: Một góc phố buồn, Sao đổi ngôi, Xin yêu tôi bằng cả tình người, Đêm trên đường phố lạ…

Ngoài ra, theo BTC cho biết thì trong đêm liveshow lần 2, ca sỹ Chế Linh sẽ tặng 500 triệu cho quỹ từ thiện: Quĩ hỗ trợ trẻ em khuyết tật tại Hà Nội 200 triệu, Quĩ hỗ trợ trẻ em khuyết tật tại Hậu Giang 200 triệu, Quĩ hỗ trợ trẻ em khuyết tật tại Bến Tre 100 triệu.

Lê Phương

Nguyễn Xuân Diện:

Xin chúc mừng Ca sĩ Chế Linh và chúc mừng những người ái mộ ca sĩ. Tôi nghĩ đây là một cách làm rất hợp lý, vừa thể hiện sự tôn trọng đối với sự quản lý của ngành văn hóa, vừa đảm bảo ước nguyện và quyền lợi của Ca sĩ Chế Linh và những người ái mộ.

Chúc đêm công diễn 12.11 tới đây thành công tốt đẹp!

HỠI ƠI! CẢ NƯỚC TA ĐANG MÊ LẦM RỒI Ư!

 

Cuộc bầu chọn các kỳ quan TG – Một sân chơi trống vắng...


(Ngày Nay) - Cách đây một tháng, sau nhiều lần được một tờ báo điện tử mời mọc, ông Nguyễn Xuân Thắng, Phó Chủ tịch Thường trực kiêm TTK Hiệp hội UNESCO Việt Nam, Tổng biên tập Tạp chí Ngày Nay, nguyên Phó Chủ tịch Hiệp hội UNESCO thế giới (WFUCA), đã đồng ý phát biểu quan điểm dưới hình thức một bài phỏng vấn liên quan đến việc Việt Nam đứng đầu trong bảng xếp hạng 7 kỳ quan thiên nhiên do NOWC tổ chức. Bài báo có nhiều nội dung quan trọng nhưng bị coi là không phù hợp trong không khí tưng bừng thắng lợi nên đã không được sử dụng.  

Trước đó gần một năm, tháng 7/2007 ngay sau khi NOWC công bố danh sách 7 kỳ quan kiến trúc thế giới ông Thắng cũng đã cho đăng trên Tạp chí Ngày Nay bài viết mang tính cảnh báo về cuộc bình chọn của NOWC, đồng thời ông đã trình bày quan điểm với một số cơ quan chức năng của Chính phủ về việc này. Nhận thấy thông tin và đánh giá của ông Thắng sẽ góp phần làm rõ một số vấn đề mà dư luận đang rất quan tâm, cần hiểu đúng sự việc xung quanh cuộc vận động bầu chọn hiện nay, Mái Nhà Chung xin đăng bài phỏng vấn ông Nguyễn Xuân Thắng.

- Được hỏi về dư luận khác chiều đối với cuộc bình chọn 7 kỳ quan Ông Thắng cho biết:

Thời gian qua có nhiều người gọi điện đến Hiệp hội UNESCO Việt Nam đề nghị giải đáp có phải cuộc bầu chọn cho Vịnh Hạ Long có liên quan đến Liên Hợp Quốc và do UNESCO chủ trì hay không,  NOWC (New Open World Corporation) là ai, tại sao cuộc bầu chọn không có tiêu chí, mà chỉ theo luật chơi ai đông người ấy chiến thắng. Một số trường trung học hỏi liệu các cháu học sinh có được quyền bầu cho các địa danh thật sự nổi tiếng như trong sách giáo khoa dạy mà không nằm trong lãnh thổ của Việt Nam hay không…

Đứng trước những đòi hỏi chính đáng của đại chúng, chúng tôi thấy có trách nhiệm được chia sẻ một số thông tin để mọi người tham khảo khi tìm hiểu về 02 cuộc bình chọn các kỳ quan thế giới: Năm ngoái kết thúc cuộc bình chọn 7 kỳ quan văn hoá, năm nay đang diễn ra cuộc bình chọn 7 kỳ quan thiên nhiên thế giới.

Thứ nhất, nhà tổ chức sự kiện này là New Open World Corporation. Bản thân tên gọi đã cho thấy đó không phải là một tổ chức quốc tế (organization) như một số cơ quan thông tấn do vô tình hoặc cố ý đã dịch sai làm cho dư luận lẫn lộn hiểu nhầm. Đó là một công ty (corporation), vả lại là công ty tư nhân.

Khác với các tổ chức và cơ chế quốc tế có uy tín, có thẩm quyền đối với các vấn đề quốc tế về văn hoá thông qua hệ thống công pháp quốc tế như UNESCO (ra đời năm 1946, hiện có 191 quốc gia thành viên), ICOMOS (Hội đồng Quốc tế về các công trình kiến trúc và thắng cảnh, thành lập từ 1964 với hệ thống trên 7.500 chuyên gia hàng đầu thế giới về các công trình văn hoá), Công ước Quốc tế về Bảo vệ Di sản Văn hoá và Thiên nhiên (ra đời năm 1972, với 185 quốc gia chính thức phê chuẩn, đến 3-2008 đã có công xếp hạng 851 kỳ quan quốc gia thành di sản mang tính toàn nhân loại, trong đó có Huế, Hạ Long, Mỹ Sơn, Phong Nha, Hội An)… thì ngược lại NOWC được thành lập khoảng năm 2000 theo sáng kiến của một cá nhân. Bản thân công ty này không công bố tôn chỉ, cũng không đưa ra được bất kỳ một tiêu chí nào về lịch sử, văn hoá hoặc khoa học nhằm định hướng cho cuộc bình chọn các kỳ quan thế giới mà họ đang chủ trì.

Thứ hai, thông qua cuộc bầu chọn với quy mô quốc tế rầm rộ này, công ty này đã và đang được hưởng lợi rất lớn từ các hoạt động thông tin và truyền thông. Do đó NOWC đã bị một bộ phận dư luận quốc tế chỉ trích và tỏ thái độ nghi ngờ về mục đích trong sáng trong việc phát động các cuộc bình chọn theo lối bỏ phiếu qua mạng và bằng điện thoai di động, là cách làm thường thấy của các công ty quảng cáo hiện nay. Trong con mắt của các công ty truyền thông thì Việt Nam với số lượng người bình chọn được huy động đống nhất thế giới như hiện nay đang trở thành một miếng mồi béo bở. Chắc chắn NOWC sẽ không bỏ cơ hội đưa ra những yêu sách bắt chẹt mang tính vụ lợi để làm tiền Việt Nam.

Thứ ba, UNESCO và Liên Hợp quốc không liên quan và không có bất kỳ động thái ủng hộ nào đối với NOWC. Ngược lại, UNESCO đã bày tỏ sự lo âu về sự khiếm khuyết tính khoa học và hiệu lực quốc tế của cuộc bình chọn này. Dư luận quốc tế cũng lo ngại rằng một tổ chức dám đưa những giá trị thiêng liêng của các quốc gia để xếp hạng mà chỉ dựa vào sự áp đảo của số đông sẽ gây bất lợi về mặt quan hệ quốc tế, thiệt thòi cho các quốc gia có dân số nhỏ bé và không có nền tin học - truyền thông phát triển. Sau khi NOWC công bố danh sách 7 kỳ quan kiến trúc vào 7-2007, ngay cả báo chí phương Tây cũng phàn nàn không ít về việc Angcor Vat bị gạt bỏ khỏi danh sách vì dân số Campuchia quá bé nhỏ và không có ngành truyền thông phát triển. Nhà báo Ai Cập Al-Sayed khuyến cáo NOWC đã trục lợi thông qua việc khích lệ tính hiếu thắng của một bộ phận dân cư thế giới thiếu cảnh giác, thúc đẩy sự ganh đua mang nặng tính hiềm tị và làm cho thế giới ngày càng chia rẽ, các dân tộc càng xa cách nhau.

- Ông nghĩ sao khi có người cho rằng: “UNESCO có tiêu chí riêng của họ” còn “phong trào bầu cho các địa danh ở Việt Nam theo chương trình NOWC là mang tính tự giác”? Theo ông, có sự khác biệt gì giữa các tiêu chí và khái niệm “Kỳ quan thế giới” của NOWC và “Di sản thế giới” của UNESCO?

Sẽ thật nực cười và bất cập nếu đem NOWC để so sánh với những tổ chức uy tín và có tính hiệu lực quốc tế như ICOMOS hoặc UNESCO. NOWC chỉ đại diện cho quyền lợi của một nhóm người rất nhỏ mượn cớ văn hoá để kiếm tiền. Điều này được minh chứng bằng việc họ không hề đả động đến các tiêu chí bình bầu (khía cạnh văn hoá và khoa học) mà chỉ quan tâm đến số lượng người tham gia bình chọn trên website của họ (khía cạnh kinh tế), tức là càng đông người tham gia thì họ thu càng nhiều lợi. Bởi vậy họ chỉ đưa ra một luật chơi duy nhất là huy động số đông để chọi lại số ít, là “lấy lớn chọi bé”, “cậy đông thắng yếu” để khích lệ thị trường.

Ngược lại, UNESCO là một tổ chức Liên chính phủ được mệnh danh là diễn đàn quốc tế về văn hoá và trí tuệ quan trọng nhất hiện nay, hoạt động không tách rời với tiếng nói, ý chí của trên 190 quốc gia thành viên, trong đó có Chính phủ Việt Nam đại diện cho quyền lợi của 80 triệu nhân dân Việt Nam. Ở một mức nào đó có thể nói UNESCO chính là chúng ta, chứ không phải là “họ”, là “ai đó”. Cho nên thật sai lầm khi có một quan chức ở Bộ Văn hoá nhận xét rằng “họ”- tức là UNESCO - “có tiêu chí riêng của họ”. Đó là sự sai lầm cả về nhận thức và tình cảm, có thể dẫn đến định hướng sai khi cổ động người dân tham gia vào cuộc bình chọn không có tiêu chí và không có lựa chọn này. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến việc các em học sinh ở một số trường phổ thông thắc mắc và các thầy cô giáo không thể giải thích được khi yêu cầu các em chỉ được “chỉ bỏ phiếu cho Hạ Long”, “cho “Phong Nha”, cho “Phang Xi Păng”, trong khi các thày cô lại dạy các em là có những ngọn núi trên thế giới cao hơn, quan trọng hơn, vĩ đại hơn.
Ngoài ra có sự khác nhau căn bản trong các khái niệm. “Kỳ quan thế giới” không phải là khái niệm do NOWC đề xướng. Đây là một tên gọi đã xuất hiện cách đây trên 23 thế kỷ và trong suốt 23 thế kỷ qua nó luôn được mặc định là không tách rời với những công trình tiêu biểu nhất của nền văn minh cổ đại ven Địa Trung Hải. Tự cổ chí kim chưa từng có ai đi ganh tị với những kỷ niệm của quá khứ, đến mức đòi thay đổi nội dung khái niệm đó như người sáng lập ra NOWC đã làm. Bằng việc làm cố chấp và thiếu khoa học ấy chính NOWC đã đắc tội với lịch sử, đang tay xóa sổ gần hết các di tích đã có trong ý niệm từ xa xưa của loài người về một giai đoạn phát triển rực rỡ của văn hoá nhân loại ra khỏi danh sách “7 kỳ quan thế giới mới” thông qua một cuộc bình chọn không tiền khoáng hậu kết thúc vào giữa năm 2007. Trong khi đó UNESCO và Công ước Quốc tế về bảo vệ Di sản Văn hoá và Thiên nhiên đã đưa ra các tiêu chí mang tính phổ quát và khoa học nhất, bảo đảm lợi ích tinh thần căn bản cho mọi quốc gia trên hành tinh này. Đó là 6 tiêu chí cho các công trình văn hoá, vật thể và phi vật thể, 4 tiêu chí cho các di sản thiên nhiên, mà hễ quốc gia nào, dân tộc nào có các tài sản văn hoá và thiên nhiên đủ tiêu chuẩn thì đều được tôn vinh thành di sản mang tính toàn nhân loại, không giới hạn về số lượng. Thực chất, các di sản văn hoá và thiên nhiên chính là các kỳ quan thế giới theo khái niệm rộng. Nhưng theo tôi khái niệm “di sản” còn cao hơn khái niệm “kỳ quan” vì nó thể hiện được tính kế thừa và trách nhiệm bảo tồn. Tinh thần chỉ đạo của Công ước quốc tế về Bảo vệ di sản Văn hoá và Thiên nhiên tiến bộ là ở chỗ nó không chỉ làm nhiệm vụ tôn vinh để đem lại vẻ vang cho ai đó, dân tộc nào đó, mà trước hết nó kêu gọi trách nhiệm của chính các quốc gia sở hữu các di sản đó phải bảo vệ chúng vì lợi ích của chính mình và vì lợi ích chung của toàn nhân loại. Ngược lại, Công ước kêu gọi cộng đồng quốc tế có trách nhiệm đối với từng di sản đang hiện hữu ở mỗi quốc gia khi nó lâm nguy (như đã từng lên án việc phá bỏ bức tượng Phật đứng tại Afganistan, tài trợ cấp cứu cho Cố đô Huế mỗi khi có thiên tai…). Nhưng theo tôi, điểm ưu việt mang tính nhân văn cao của Công ước chính là ở chỗ nó không dành chỗ cho bất kỳ một ý đồ ganh đua hay tư tưởng hẹp hòi nào, dù là ganh đua về văn hoá. Với UNESCO và Công ước quốc tế về Bảo vệ Di sản Văn hoá và Thiên nhiên thì các di sản của bất luận quốc gia lớn hay bé đều có giá trị ngang nhau, đáng tôn kính như nhau, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. Đó chính là nhân lành để hướng đến một thế giới ổn định, hoà bình và phát triển.

- Như vậy, theo ông cuộc chơi này có đủ tầm cỡ để chúng ta tham gia?

Điều này thuộc thẩm quyền phán quyết của các nhà quản lý và các cơ quan có trách nhiệm. Nhưng với tư cách là một công dân, từ đáy lòng tôi thấy bất an trước việc chúng ta đã huy động thái quá sự cố gắng của nhân dân vào một cuộc chạy đua rất tốn kém về tiền của và thời gian nhưng lại không rõ ràng về tiêu chí này. Lợi ích quốc gia là cao cả, là tối thượng và cũng vì lợi ích quốc gia mà chúng ta cần phải hết sức thận trọng chọn bạn mà chơi và chọn sân chơi để thể hiện tầm vóc quốc gia. Đó là nguyên tắc căn bản, bất di bất dịch trong quan hệ quốc tế. Tôi xin mạnh dạn nhận xét rằng: Khẩu hiểu ”Bầu cho Hạ Long là yêu nước” có thể đúng và có ý nghĩa trong một bối cảnh khác chứ không phải trong cuộc chạy đua do một tổ chức tư nhân như NOWC thao túng. Lòng yêu nước của nhân ta vô cùng thiêng liêng, non sông của chúng ta cùng với các di sản văn hoá do cha ông ta để lại là báu vật vô giá, là phước thiêng của dân tộc, không phải là của riêng của địa phương nào, bộ ngành nào. Vì vậy việc huy động tất cả những thứ thiêng liêng ấy cho một cuộc chạy đua không rõ tiêu chí, không rõ ràng về hiệu lực thi hành là một điều cần được mạnh dạn xem xét đánh giá lại. Như vậy mới thực sự là yêu nước, là có ý thức tự tôn dân tộc, là có trách nhiệm đối với nhân dân và Tổ quốc.

- Ông nghĩ thế nào trước một số ý kiến cho rằng nếu các địa danh của Việt Nam được bình bầu là kỳ quan thế giới thì du lịch của Viêt Nam sẽ phát triển?

Đó chỉ là cái lợi bề nổi trước mắt. Nhưng ai dám bảo đảm với Nhà nước, với nhân dân rằng thành quả đạt được từ cuộc chạy đua tốn nhiều công của và thời gian này sẽ đem lại vinh quang cho đất nước và làm cho du lịch Việt Nam chuyển vận? Ai dám chứng minh và dám chịu trách nhiệm về điều này? Chỉ có danh tiếng không làm nên kỳ tích, nhất là đối với ngành du lịch. Nếu môi trường Hạ Long ngày càng ô nhiễm như đà hiện nay, cảnh quan ngày càng bị lạm dụng khai thác bừa bãi, ngành du lịch không cải tiến nội dung và chất lượng dịch vụ thì dù chúng ta có giành được bao nhiêu danh hiệu cao quý thì tình hình cũng khó thay đổi, thậm chí là càng phản tác dụng. Nhân đây cũng xin nói thêm, Du lịch là một ngành kinh tế kinh doanh dựa trên việc khai thác tài nguyên văn hoá của đất nước, còn Văn hoá là cả một sự nghiệp toàn dân nhằm bảo tồn gìn giữ các giá trị cao quý mang tính kế thừa. Hai quá trình này tuy hậu thuẫn nhau nhưng ngược chiều, nếu văn hoá mất đi là vĩnh viễn không thể lấy lại được. Điều này không phải là chúng tôi nói mà là UNESCO nói, thế giới nói, đã được khuyến cáo nhiều trong Thập kỷ Quốc tế phát triển văn hoá do Liên Hợp quốc phát động cách đây 20 năm. Những bài học cay đắng của Indonesia vì quá ưu tiên cho du lịch đã để mất đi văn hoá Bali mà nếu phải huy động một khối lượng tiền bằng cả trăm lần doanh thu do du lịch đem lại trong mười năm tàn phá Bali thì có mất cả một thế kỷ để khắc phục cũng chưa chắc lấy lại được những gì Bali đã mất. Thái Lan cũng vậy, họ đang vô cùng khó khăn khi cố đô Authaya nguy nga tráng lệ 600 tuổi của họ vốn được xếp hạng Di sản văn hoá thế giới từ rất sớm, hiện đang có nguy cơ bị UNESCO đưa ra khỏi danh sách di sản thế giới. Các bạn Thái Lan đang phải đau đầu lựa chọn: Tiếp tục khai thác cạn kiệt Authaya cho du lịch hay gìn giữ Authaya cho các thế hệ mai sau. Chúng ta đang chứng kiến việc danh thắng của một số quốc gia đã và đang bị đưa ra khỏi danh mục các di sản của thế giới, mà đáng tiếc nguyên nhận chủ yếu đều do các hoạt động hoạch định phục vụ các mục tiêu kinh tế tại các quốc gia đó đã phương hại đến giá trị căn bản của các công trình văn hoá và thiên nhiên của chính quốc gia mình.

- Như vậy là có quá nhiều mâu thuẫn mà chúng ta chưa tính đến khi lao vào cuộc chạy đua này. Vậy theo ông thì ai sẽ được lợi nhất trong cuộc bình chọn này?

Xét cái lợi ở tầm quốc tế, người có lợi nhất là Công ty NOWC. Còn trong nước, không còn nghi ngờ gì nữa, đắc lợi nhất chính là các công ty PR ăn theo NOWC: Các nhà kinh doanh truyền thông và tổ chức các sự kiện. Tham mưu để tạo nên các sự kiện càng ồn ào, chi phí càng tốn kém thì họ càng được hưởng lợi.

- Gần đây được tin cả ba danh thắng của Vệt Nam là Vịnh Hạ Long, động Phong Nha và đỉnh Phan Xi Păng đều chiếm vị trí cao nhất trong bảng danh sách xếp hạng của các kỳ quan thế giới, chúng tôi đã liên hệ tham khảo nhận xét của Văn phòng đại diện của UNESCO tại Hà Nội, nhưng họ đã từ chối bình luận về kết quả trên. Ông có thể giải thích vì sao Việt Nam lại đạt kết quả cao như vậy? Theo ông, có thể coi đây là kết quả đáng tự hào?

Tôi không có đủ thẩm quyền để đánh giá việc này. Nhưng chúng tôi đã thử thăm dò thông tin tại một số hội nghị quốc tế trong thời gian gần đây, tra cứu từ nhiều nguồn thông tin khác nhau, thấy chính phủ các nước không cấm và cũng không khuyến khích sự tham gia của nhân dân vào cuộc bình chọn trên mạng này. Họ chỉ coi đó chỉ là cuộc chơi tự phát của cư dân mạng. Tuy nhiên, tôi thực sự lúng túng trước một viễn cảnh mà theo logic như hiện nay rất có thể xảy ra, là trong số 7 kỳ quan thiên nhiên thế giới được bình chọn thì mai đây 3/7 kỳ quan này sẽ nằm tại Việt Nam (nếu vẫn như kết quả hiện nay). Điều đó đồng nghĩa với việc đỉnh Phan Xi Păng của Việt Nam sẽ đứng trên đỉnh Evrest cao 8,848 mét vốn xưa nay được mệnh danh đỉnh núi Thiêng và nóc nhà của thế giới, đứng trên ngọn Phú sĩ mà cả thế giới ca ngợi bốn mùa tuyết phủ của Nhật Bản, hơn cả đỉnh Aconcagua 6,962m của dãy Andes - Cổng trời của châu Mỹ… Điều này nói lên cái gì? Việc Việt Nam đang giành vị trí thứ nhất, thứ hai và thứ ba là hồi chuông, nhưng không phải để ăn mừng mà báo động rằng chúng ta đang hào hứng thi đấu bằng tổng lực trong một sân chơi vắng vẻ.

- Xin cảm ơn về những ý kiến thẳng thắn và bổ ích của Ông.

Nguồn: taị đây.

ĐƠN KHIẾU NẠI GỬI CHÁNH ÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TP HÀ NỘI

Thưa chư vị,

Chiều nay, ngày 10 tháng 11 năm 2011, mười người chúng tôi có Đơn Khiếu nại gửi Ông Nguyễn Sơn, Chánh án Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội, về QĐ số 26/2011/ QĐ-TA ngày 27/10/2011 và Thông báo số 85/TB-TA ngày 17/10/2011 của Tòa án Nhân dân quận Đống Đa.

Vậy là một lần nữa, chúng tôi lại đứng lên, quyết bảo vệ thanh danh, nhân phẩm của mình đã bị Trần Gia Thái - TGĐ Đài PT - TH Hà Nội vùi dập, vu khống trắng trợn, lại được Tòa án Nhân dân quận Đống Đa bao che.

Dưới đây là toàn văn Đơn Khiếu nại đã được chúng tôi đồng ký tên:






NHẬT KÝ ĐƯA TANG CHA CỦA NGÔ THÌ NHẬM

Đám tang Vua Khải Định. Ảnh: Tư liệu

 NHẬT KÝ ĐƯA TANG CHA VỀ QUÊ CỦA NGÔ THÌ NHẬM

Lâm Giang

       Ngô Thì Nhậm sinh ngày 11 tháng 9 năm Bính Ngọ (1746) tại làng Tả Thanh Oai, tục gọi là làng Tó, trấn Sơn Nam (nay là huyện Thanh Trì, Hà Nội), thuở nhỏ tên là Phó, sau đổi Nhậm, tự Hi Doãn, hiệu Đạt Hiên. Ông đỗ tiến sĩ năm Cảnh Hưng thứ 36 (1775), làm quan tới Đốc đồng Kinh Bắc. Năm 1788, Ngô Thì Nhậm ra với nhà Tây Sơn và được Nguyễn Huệ trọng dụng với chức Thị lang bộ Công, tước Tình Phái hầu, sau thăng Thượng thư bộ Binh. Ông mất ngày 15 tháng 2 năm Quý Hợi (9-3-1803).

       Ngô Thì Nhậm để lại khá nhiều sáng tác, phần lớn được tập hợp trong tùng thư Ngô gia văn phái.

       Bài Nhật ký đưa tang cha về quê (Nguyên văn: Hồi táng trục nhật cáo văn) do Ngô Thì Nhậm viết được đặt giữa tập Hào mân ai lục. Hào mân ai lục là tập sách Ngô Thì Nhậm viết vào khoảng năm 1780 đến 1800. Hào mân ai lục, tên tập sách do soạn giả tùng thư Ngô gia văn phái đặt, gồm những bài cáo văn, tế văn, câu đối... do Ngô Thì Nhậm soạn, chủ yếu vào sau khi người cha Ngô Thì Sĩ qua đời.

       Cáo văn, tế văn, là những lời than, thổ lộ nỗi lòng thương nhớ khôn nguôi và cũng là những tâm sự, kể lể nguồn cơn sau khi cha qua đời của Ngô Thì Nhậm. Cáo văn, tế văn được ghi lại từng ngày, như là ghi nhật ký, kể từ việc dẫn quan tài cha từ Lạng Sơn về quê, đến việc ma chay, tế lễ, đến đoạn tang là 3 năm. Cáo văn, tế văn, là những bài văn ngắn, viết theo thể biền ngẫu và văn xuôi. Ngoài cáo văn, tế văn, Hào mân ai lục còn tập hợp những câu đối do Ngô Thì Nhậm đề ở các danh lam thắng cảnh như đình chùa, đền đài, nhà thờ họ, và cả ở điện tế vua Lê Hiển Tông và ở Phủ chúa...

       Hào mân ai lục còn chép một số bài văn viếng người thân, như mẹ vợ, mẹ kế, cô dì... và khép lại tập văn bằng bài Hành trạng kể về công danh sự nghiệp của người cha của mình.

       Tóm lại, Hào mân ai lục, một tập văn có nội dung khá phong phú, phản ánh nỗi lòng đau đáu thương nhớ người cha và những người thân đã qua đời của Ngô Thì Nhậm, đồng thời còn cho biết khá rõ về đời tư của Ngô Thì Sĩ, cũng như gia cảnh cha con Ngô Thì Sĩ và Ngô Thì Nhậm cuối Lê trung hưng. Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu một số đoạn trong bài Nhật ký đưa tang cha về quê.

       “Ngày Quý Mão tháng trước, ở kinh đô nghe tin báo tang, con lập tức dâng khải báo việc đau buồn đó, được Thánh chúa nghĩ tới lòng trung thành của cha, cho con tới bản trấn đón tang, đặc biệt ban cho 100 quan tiền. Lại truyền cho quan quân ở các cơ Mại vũ, Tín sai, Hậu dực, Trung uy, Tiền hùng ở xứ Kinh Bắc cùng tới tận [Đoàn] Thành để hộ tang, lại ban thêm 20 tên lính theo con đi hộ vệ. Lũ con từ ngày Giáp Thìn tháng trước, vượt qua sông Nhĩ Hà tới trấn Kinh Bắc chỉnh đốn hành lý. Ngày Đinh Tý tháng này, qua sông Nguyệt Đức, vượt đường tiến nhanh về phía [Đoàn] Thành. Đêm đó trọ ở Xương Giang, đêm Đinh Mùi trọ ở Cần Dịch, đêm Mậu Thân trọ ở ải Chi Lăng. Sang ngày Kỷ Dậu qua cửa Quỷ Môn, vượt hai ngọn núi trọ ở đất Giang Hán, hôm ấy tới doanh Lộc Mã. Bọn con may nhờ sự che chở, đều được vô sự. Ôm quan tài than khóc, không được trông thấy mặt cha. Than ôi!”

       Sau khi chuẩn bị xong xuôi, ngày Đinh Tị, tháng mười năm Canh Tý (1780), bắt đầu đưa quan tài về quê. Mỗi ngày đều dừng lại nghỉ và làm lễ cúng cơm, Ngô Thì Nhậm viết bài văn khấn kể lể mọi việc xảy ra trên đường đi, hoặc kể lại kỷ niệm xưa của người cha, hoặc những lời than của ông...

Như:

       Từ Đoàn Thành tới đây đã năm ngày đường, (xuất phát từ ngày Đinh Tị, tới nay là Tân Dậu), đá núi gồ ghề, suối khe lầy lội, lũ con không thể tự mình ôm khóc quan tài, lẽo đẽo dọc đường, mắt nhìn mà những buồn rầu, nay có ông chú chạy tang, chỉ cùng nhìn nhau than khóc mà thôi. Khi cha còn sống, rất thương con và em, con em lúc này, không sao được nhìn thấy mặt lần nữa. Tụ họp chia lìa, sao mà nhanh đến thế. Buổi sớm xuất phát từ Mai Tiêu, đến Quang Lang, đường đi hơi bằng phẳng rộng rãi, xin linh cữu cha đi đứng như thường.

       Than ôi thương thay!

       (Ngày Tân Dậu tháng 10 năm Canh Tý).

       ...

       Tháng 10 năm Mậu Tuất, cha từ đất Bắc tới xứ Lạng, con đây bái tiễn tới núi Tam Tằng, cha cầm tay con bảo rằng: “Ta sắp có việc ở An Bác, còn sẽ được gặp con, chớ nên sớm hôm quyến luyến”. Cuối cùng thì không được như thế. Tháng 10 năm nay, cha từ Lạng Sơn về Kinh Bắc, con đây cùng với em Chí khóc đón ở núi Lộc Mã, lặn lội khe núi, ôm quan tài về cho đến mãi địa phận xứ Bắc. Kể từ năm Tuất đến năm Hợi và Tý, trong vòng 30 năm, cha con hẹn gặp nhau mà không sao được.

       Em Chí đi du học ở trong kinh, cha không cho đến thăm hỏi. Còn con đây có thể tới thăm hỏi được, thì cha lại cũng hẹn ngày tới. Từ con đường Tuyên Quang trở về, tiện đường tới mỏ Tống Tinh, lần này cha mong là một. Đã về Kinh tới xứ Bắc, nhân công cán riêng qua miền thượng du ở Bảo Mã, lần này cha lại được tin mà mong là hai. Năm tháng lần lữa, chỉ vì cái duyên cớ lương lậu mà không được gặp mặt. Chốn Kinh Bắc đó là cái nơi bất hiếu của con vậy! Nay vào tới nơi thì cha không còn nữa. Lời dặn dò con năm xưa của cha ở núi Tam Tầng, lại là lời vĩnh biệt của cha. Chao ôi! Đau đớn thay!

       Con đây chỉ dùng sách vở chữ nghĩa để làm quạt nồng ấp lạnh, không được hầu hạ hàng ngày lúc khoẻ mạnh, mà chỉ còn biết than khóc nỗi biệt ly. Lòng cha thật nhân từ, con thì thật bạc ác. Sinh con như thế, thì sinh làm gì? Nhà tranh bày lễ mọn, canh rau nước lã làm đồ cúng tế. Than ôi! Hồn thiêng mong chứng giám cho. Đau đớn thay!

       (Lễ cúng cơm buổi sớm ngày Nhâm Tuất tháng 10 năm Canh Tý)

       ...

       Nay đã qua khỏi vùng rừng núi, tới chỗ đồng bằng, nơi này gọi là đồn Cần Dịch. Thường ngày cha lên làm quan, thường đóng quân nơi này. Xin tạm dừng lại giữa đồn, để kính bày lễ mọn, và khấn cả ngày giỗ tiên tổ.

       Cúi mong linh hồn, xét tới lòng thành. Thương thay!

       (Ngày Ất Sửu tháng 10 năm Canh Tý)

       ...

       Tháng 12 mùa đông năm Đinh Dậu, cha và con cùng đi nhậm chức một ngày. Vừa mới lên đường, cha đã dừng xe lại đây, con đi sau, vì phải vào bái yết cung miếu Yên Thường, nhân trọ lại đó. Cha ở lại dọc đường mới một đêm ba lần sai sứ hỏi tin, lại chia một nửa lính để hộ vệ. Sớm ngày con tới nơi, cha cho ăn cơm, rồi cùng lên đường. Cha có một bài thơ Quan trấn thủ tiễn chân quan Đốc đồng.

       Khi tới Thị Cầu, đáp đò ngang qua sông Nguyệt Đức, lại soạn một bài thơ Quan Đốc đồng tiễn chân quan Trấn thủ. Lòng cha yêu con biết nhường nào!

       Bốn năm lại đây, con vì bận việc làm Đốc đồng nên không được phụng dưỡng cha, bèn lấy lần tiễn đưa trước làm bước ly biệt thứ nhất! Lần tiễn đưa sau làm bước ly biệt thứ hai! Lại tháng 10 năm Mậu Tuất bái tiễn ở núi Tam Tằng làm bước vĩnh biệt thứ ba!

       Nay đứa con côi khóc cha, mất hẳn ba lần tiễn, mà được một buổi khóc, đó là chỗ khiến con đau lòng đứt ruột, nên cùng với nước sông Tiêu Tương, cây ở Bát Lăng muôn năm không bao giờ hết.

       Tới giữa đường mà bày lễ khiển điện (cúng cơm), không lấy gì làm nghi thức, mâm cỗ cúng chỉ có lá bầu, thịt thỏ, gọi là tỏ chút tình tới chốn cao minh mà thôi! Thương thay!

       (Ngày Canh Ngọ tháng 10 năm Canh Tý)

       ....

       Cha trông về kinh thành đã ba năm rồi, lặn lội nghìn trùng, nay đã tới bờ bắc sông Nhĩ Hà. Trông cảnh Trường An ở phía tây, xe như nước, ngựa như rồng, những tiếng ngọc đeo sang sảng quanh toà Tử Vi. Làm tiết độ bảy châu quận, nhưng không sao được về chầu Thiên tử, liền phải cờ quạt về quê, là thơ có dấu ngọc tỉ đưa tới gọi mà không sao kịp. Các quan công khanh đón nhìn sắp tới, cờ quạt xa xa, xuôi gió về phía nam. Than ôi trời xanh thực nỡ lòng nào!

       Khi bệnh tình hấp hối, cha viết thư để lại cho con rằng: “Nếu được về kinh giáp mặt Chúa thượng trình bày, trăm mối sẽ đều được cởi bỏ”, cuối cùng không được như nguyện. Mong rằng hồn thiêng của cha ở trên trời, luôn luyến cửa khuyết, thì nay và xưa cũng không khác gì. Lúc cha còn sống, con chưa thể xin với triều đình, để cha sớm về triều cận, bèn khiến cho ước mong của Tấn công phải mang xuống chín suối, đó lại là cái tội của con, cùng với dòng nước sông này chảy mãi không bao giờ cùng! Nay căng màn ở bến sông, rót chén nước suối kia, khóc than cùng trời, mong được soi tới, đau đớn thay!

       (Ngày Tân Mùi tháng 10 năm Canh Tý)

       ....

       Một số đoạn nhật ký trích dịch trên đây thấy rõ tâm tư tình cảm của Ngô Thì Nhậm đối với người cha thân yêu của mình, đồng thời cũng thấy được nỗi vất vả của việc đưa tang từ nơi ngàn dặm về quê.

       Nhật ký ghi trên dọc đường đi từ Đoàn Thành đến bờ nam sông Nhĩ Hà là 16 ngày: Từ ngày Đinh Tị đến ngày Nhâm Thân, tháng 10 năm Canh Tý, trong đó 3 ngày: Canh Thân, Đinh Mão, Kỷ Tị không thấy ghi.

       Trong những ngày đưa tang, một việc hết sức đau lòng xảy ra mà trong nhật ký không ghi, vì đây là nhật ký của bài văn khấn cúng cơm. Việc này được ghi trong tập Kim mã hành dư, ở bài văn tế bà thứ mẫu họ Hoàng. Bà tên hiệu Tuệ Trang, vợ thứ tư của Ngô Thì Sĩ, sinh được một trai thì không nuôi được, một gái thì còn nhỏ. Ngô Thì Sĩ đột ngột qua đời, bà quá đau lòng mà lâm bệnh nặng, thuốc thang chạy chữa thế nào cũng không khỏi. Bà một mực đòi đi theo ông. Ngày đưa tang đã định, bà không đi theo được, đành ở lại. Nhưng di hài Ngô Thì Sĩ ra khỏi Đoàn Thành được hai ngày thì bà cũng qua đời. Ngô Thì Nhậm phải quay lại lo tang ma cho kế mẫu. Mua ba mẫu ruộng gửi giỗ, hẹn ba năm sau sẽ đưa hài cốt về quê, vì lúc này không thể đưa cả hai di hài cùng về được.

 

Thông báo Hán Nôm học 2002, tr.154-160
*Tác giả đã quá cố Lâm Giang, tên thật là Nguyễn Văn Bến, cán bộ Viện Hán Nôm.