Thứ Bảy, 15 tháng 10, 2011

NỮ "THI SĨ" BỐC THƠM ÔNG TRẦN GIA THÁI LÀ AI?

TRẦN HUYỀN NHUNG LẠI BỐC THƠM THƠ TRẦN GIA THÁI
Nguyễn Hoàng Nguyên

Ngày 8-10-2011, Trần Huyền Nhung tung lên mạng của nhà văn Trần Nhương, mạng của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo bài bốc thơm tập thơ “Lời nguyện cầu trước lửa” của Trần Gia Thái (Chủ tịch Hội nhà báo Hà Nội, tổng giám đốc, tổng biên tập Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội) có tên: “Đọc tập thơ “Lời nguyện cầu trước lửa” của Trần Gia Thái”.

Trước khi nói đến bài bốc thơm thơ Trần Gia Thái của Trần Huyền Nhung, tôi xin bạn đọc tìm hiểu xem Trần Huyền Nhung là ai qua lời nhà thơ Vũ Thanh Hoa ( Vũng Tàu):

“Vụ việc Trần Huyền Nhung và văn chương mạng
VŨ THANH HOA

NVTPHCM- Mấy ngày qua, các bloggers trên trang vnweblogs.com sửng sốt khi phát hiện ra một blogger mới “nhập làng vnweblogs” chưa lâu lộ mặt đạo văn liều lĩnh và trắng trợn tên là Trần Huyền Nhung (tên blog là hoangnhungmedia) và bên 360 plus là blog Tigon’s.

Thỉnh thoảnh post lên vài bài bình thơ, văn, ca khúc… của một số nhà thơ, nhà văn lão làng trên mạng, blogger này bắt đầu tự tin post những bài thơ ký tên “Trần Huyền Nhung” lên vnweblogs.com… nhưng cô ta quên rằng trò chơi mạng bao giờ cũng có hai mặt, tức khắc có người đã phát hiện ngay bài thơ “Nghĩ về anh” ký tên Trần Huyền Nhung  sự thật là của một bloggers thâm niên trên vnweblogs tên Phương Phương. Các blogger bắt đầu vào cuộc, thôi thì có đủ ý kiến khác nhau, người cho là cô ta nông nổi lỡ dại, người cho là cô ta ỷ thế có những người nổi tiếng trên văn đàn mạng đứng sau lưng (những người đã giúp cô viết những bài phê bình), người thì nổi giận lôi đình vì thói ăn cắp trắng trợn… nhưng sự thật cứ hé lộ dần dần khi các bloggers tiếp tục “điều tra”, họ thành lập hẳn một blog cảnh báo cho cư dân mạng trên yahoo 360 để điều tra rõ trắng đen và có những dẫn chứng cụ thể, theo từng đường link và blog bị Trần Huyền Nhung đạo (tại đây) và vô cùng bất ngờ khi biết rằng: hầu như tất cả các bài thơ ký tên Trần Huyền Nhung đều “mượn lại” của các tác giả khác, có bài chưa ai biết và có bài đã nhiều người biết, có bài trên các blog cá nhân, trên các trang web, có bài đã được giải trong một cuộc thi… và Trần Huyền Nhung cũng đã kịp thời gửi đăng thơ và bài viết ký tên mình trên các trang web thiên về văn học như: vanchuongviet.org, trannhuong.com, nguyentrongtao.org, vanthoviet.com, vandanviet.net, Đất đứng, văn nghệ Nam Định… Sau khi phát hiện vụ việc và cảnh cáo, Ban Quản trị trang vnweblogs.com đã chiếu theo nội quy của trang vnweblogs.com để 3 ngày chờ chủ nhân blog hoangnhungmedia giải thích nhưng đáp lại, blogger này lại tiếp tục đăng bài bình thơ của một nhà văn lão làng như chẳng cần biết có gì xảy ra… và kết quả là blog hoangnhungmedia đã bị vô hiệu hóa trên trang vnweblogs.com, một số trang web đã gỡ những bài thơ ký tên Trần Huyền Nhung sau khi  điều tra sự thật là của tác giả khác và  Trần Huyền Nhung cũng bị trục xuất ra khỏi “Ban Quản trị” một trang web văn học.

Đạo văn thời gian qua đã được nói khá nhiều, thôi thì đủ mọi loại thượng vàng hạ cám, nếu in trên giấy trắng mực đen sẽ dễ dàng “bắt tận tay day tận mặt” (vụ cô Lê Thủy) còn trên mạng thì có thể nhanh chóng xóa dấu vết hơn. Từ lâu văn chương mạng vẫn bị coi thường bởi người ta vẫn nghĩ đằng sau các trang web văn chương có sự thiếu khách quan mang nhiều dấu ấn cá nhân của chủ trang, khi các nhà văn lão làng thiếu thận trọng chọn đăng và lăng-xê  các bài viết (nhất là các bài viêt ca ngợi mình) của những ngòi bút không đi bằng con đường chân chính, vô tình làm mất sự tín nhiệm của độc giả. Còn bản thân những blogger như Trần Huyền Nhung đã vội vã, chủ quan coi thường người đọc, nghĩ khá đơn giản về sự nổi danh và quá tự tin vào những mối quan hệ bên ngoài văn chương, mong một sớm một chiều ngồi “chiếu trên” của Văn đàn, mà không biết rằng Ngôi đền Văn chương đích thực  luôn thiêng liêng và trong sáng.”
18.6.2011
BQT vnweblogs.com
.
Trn Huyn Nhung đo văn bo gan hơn c Lê Thy!
(Lên mng lúc 18:30 ngy 13/6/2011)

Vụ Lê Thủy đạo văn vẫn đang ì xèo khắp nơi. Thế mà ngay tại vnweblogs này vừa có blogger ngang nhiên đạo thơ của một blogger khác! Cũng có thể người này đã chôm bài thơ “sưu tầm” từ một trang nào đó và “hồn nhiên” bê nguyên nó đặt vào blog mình với cái tên T.H.N tức Trần Huyền Nhung, và không ngờ tác giả đích thực của bài thơ lại là một nữ blogger của vnweblog? Hy vọng là thế để chúng ta không nghĩ người này quá liều lĩnh và trơ tráo, nhất là cô ta đang được coi là một người yêu văn chương và có nhiều bài viết phê bình văn thơ được đăng tải trên mạng.

Sự việc bị phát giác vào trưa hôm qua, khi BQT được “một người đọc” thông báo trên trang blog Trần Huyền Nhung (http://hoangnhungmedia.vnweblogs.com/) đã đăng nguyên xi bài thơ “Nghĩ về anh” của Phương Phương với tên tác giả THN. Chủ nhân blog hoangnhungmedia sau khi cám ơn một số lời khen về bài thơ thì nhận được thắc mắc của “Một người đọc” (Tôi thấy Bài thơ "Nghĩ về anh" đăng TẠI ĐÂY đề là của tác giả Phương Phương, sao nay lại đăng TẠI ĐÂY đề là của THN? Hai người là một hay là hai?) và đã vội cho bài viết vào chế độ đang soạn thảo và sau đó thì xóa hẳn. Nhưng chúng tôi đã kịp lưu lại những “khoảnh khắc” hiện diện của bài thơ này trên blog Trần Huyền Nhung:

Như vậy, chúng ta biết Trần Huyền Nhung vốn có tài đạo văn; không ngờ, ngay trong bài viết  bốc thơm thơ Trần Gia Thái, đoạn văn  mở đầu có vẻ “lý luận” lại là đoạn Trần Huyền Nhung đạo văn. Xin xem lời nhà văn Khôi Vũ ( Đồng nai) viết trên website của ông như sau :

Trần Huyền Nhung lại copy của người khác đưa vào bài mình
 
Hôm nay KV tôi đọc được trên nguyentrongtao.org bài của nữ doanh nhân Trần Huyền Nhung (có lập blog trên vnweblogs do yêu văn chương?). Đây là bài "phê bình" (khen) tập thơ mới xuất bản của tác giả Trần Gia Thái, Giám đốc Đài TH Hà Nội (Người bị các nhân sĩ Hà Nội kiện về việc cho đưa tin biểu tình & vu khống những người này). Trước bài của Trần Huyền Nhung đã có vài bài viết khen thơ Trần Gia Thái, đồng thời một số bài khác chê tập thơ này, phản đối những người đã "khen".
Chuyện khen, chê trong sáng tác văn học là bình thường. Ở đây, KV tôi chỉ nói đến một phần bài phê bình của Trần Huyền Nhung (ngoài trang nguyentrongtao.org, còn đưa lên cả trên trang http://hoangnhungmedia.vnweblogs.com/ nữa). 

Dưới bài này trên trang nguyentrongtao.org có một comment của bạn đọc như sau:
Ngố Tàu09/10/2011

Bài bình thơ này lại đạo một số đoạn và ý của bài viết tại đây:http://ngonnguhoc.org/forum/viewtopic.php?f=13&t=1656&p=9233.
Pó tay.com!!!

Tò mò, KV tôi bèn vào địa chỉ trên thì thấy đây là trang web của trường Đại học Khoa học Xã Hội Nhân văn - Khoa Ngôn ngữ học có tên là MISS & MISTER NGÔN NGỮ HỌC LẦN 3 NĂM 2011. Tiêu đề bài viết là Thơ Thơ Thẩn Thẩn Thơ thẩn, người gửi là hankaro, Đã gửi: 26 Tháng 5 2010, 16:04.

Tiếp tục tìm xem có đoạn nào giống nhau không thì thấy có đoạn này (trong bài trên trang ngonnguhoc.org:

Nằm trong phương thức biểu hiện trữ tình, thơ được xác lập nhờ mối rung cảm thầm kín giữa những con người và cuộc sống. Sống trong dòng chảy ngọt ngào của thơ ca, con người được tắm mình trong tình cảm của nhà thơ và của chính bản thân mình. Thơ đi vào lòng người những cảm xúc những mối liên tưởng kín đáo bằng ý tứ sâu xa và sức quyến rũ của thanh điệu, tiết tấu... tất cả đã ùa vào cùng một lúc tràn ngập trong lòng người đọc, xoá sạch đi hay khắc sâu hơn những tình cảm con người: những tình cảm nhỏ nhem, ích kỷ sẽ bị loại bỏ, những tình cảm cao quý sẽ được nâng lên. Tâm hồn con người sống với thơ sẽ được “thanh lọc” (Aristot) trở nên trong sáng và đẹp đẽ hơn. Sống với thơ con người sẽ tìm được sự yên tĩnh trong tâm hồn, sẽ được nghĩ ngơi. Nhưng cũng trong lúc đó, tâm hồn con người sẽ tiếp tục cuộc hành trình trên đường đời, để lớn hơn, để khôn hơn... những giây phút nghĩ ngơi như thế không phải là trống rỗng, ngược lại sự im lặng của nó có một ý nghĩa sâu xa trong cuộc đời của một con người. Là khoảnh khắc mà con người sống với chính bản thân mình, sống với cuộc sống nội tâm. Nhưng cũng chính vì thơ là tiếng lòng nên cũng không dễ dàng khơi nguồn những cảm xúc, những nắm bắt của tâm lý đời thường. Cảm xúc của chúng ta trào dâng mãnh liệt, cuộc sống cứ cuộn xoáy lên, từng mãng tràn đầy trong tâm hồn, song để viết thành những lời thơ có vần điệu thì không mấy dễ dàng. 

Cuối cùng, đọc lại bài của Trần Huyền Nhung thì gặp ngay đoạn đầu tiên như sau:

Nằm trong phương thức biểu hiện của trữ tình, thơ ca được xác lập nhờ mối rung cảm thầm kín giữa con người và cuộc sống. Sống trong dòng chảy ngọt ngào của thơ ca, con người tắm mình trong tình cảm của nhà thơ và của chính mình. Thơ ca thấm vào lòng người đọc bởi những cảm xúc trực tiếp và nhiều mối liên tưởng kín đáo, bằng những ý tứ sâu xa và sức quyến rũ của tiết tấu, thanh điệu… Tất cả như cùng một lúc ùa vào, tràn ngập trong lòng người đọc, xóa đi hay khắc sâu thêm tình cảm của con người: Những nhỏ nhen, ích kỷ bị loại bỏ, những gì đẹp đẽ, cao quý được tôn vinh. Tâm hồn của con người với thơ sẽ được “thanh lọc” (Aristot) để trở nên trong sáng hơn, cao thượng hơn. Sống với thơ con người sẽ tìm thấy sự yên tĩnh trong tâm hồn, sẽ được nghỉ ngơi, nhưng cũng chính lúc đó, con người tiếp tục hành trình để trở về bản ngã của chính mình. Những phút nghỉ ngơi ấy không phải là trống rỗng, vô nghĩa; ngược lại sự im lặng lại có một ý nghĩa sâu xa trong cuộc đời của mỗi người, là khoảnh khắc con người sống thật nhất, sống với bề dày của cuộc sống nội tâm. Cảm xúc của ta cứ trào dâng mãnh liệt, cuộc sống cứ cuộn lên, xoáy sâu từng mảng ngập tràn tâm hồn khi đọc những vần thơ của Trần Gia Thái.

So sánh thì thấy giống nhau "hơi bị nhiều": những chỗ in nghiêng ở bài trên được "chuyển qua" bài của THN và được tác giả sửa đôi chỗ (cắt bỏ hoặc thêm vài chữ)!

Được biết tác giả viết blog Trần Huyền Nhung trước đây đã từng bị admin của Vnweblogs cảnh cáo và tạm dừng trang blog một thời gian vì đăng bài giống của các tác giả khác! Sau đó cô THN "nhận lỗi" bằng một bài viết (được cho là nhận lỗi quanh co chứ không dám nhận trực tiếp lỗi của mình). Trước sự "phục thiện"(!) này, Admin của Vnweblogs đã cho trang blog Trần Huyền Nhung tiếp tục hoạt động.


Xin xem người làm nghề “ thó “ thơ văn thiên hạ làm thơ văn mình - Trần Huyền Nhung - ca ngợi thơ Trần Gia Thái hết lời, hệt như những nhà phê bình quốc doanh xưa tụng ca thơ Tố Hữu : “Cảm xúc của ta cứ trào dâng mãnh liệt, cuộc sống cứ cuộn lên, xoáy sâu từng mảng ngập tràn tâm hồn khi đọc những vần thơ của Trần Gia Thái.

 “Lời nguyện cầu trước lửa” là một tập thơ của Trần Gia Thái rất có ấn tượng với tôi ngay từ tiêu đề. Nghe như lòng thành tâm của Trần Gia Thái trước một vấn đề thuộc về tâm linh. Lần dở vào trang trong, tôi bắt gặp bài thơ “Lời nguyện cầu trước lửa” (Tr.67), đúng như ý nghĩ ban đầu của tôi khi cầm tập thơ trên tay. Nội dung bài thơ không những giàu tính nhân văn cao cả, mà còn mang đậm chất Thiền của kinh nhà Phật. Cuộc sống đầy rẫy những bon chen, ghen ăn tức ở… lúc này không có mặt trong “lời nguyện cầu trước lửa” của Trần Gia Thái. Ta có cảm tưởng như Trần Gia Thái đã thiền vào thơ, để rồi Anh cảm nhận xung quanh mình chỉ còn là:

“Gió và gió
Hoa tràn theo gió
Gió cuốn hương của muôn loài thảo dược thấm quyện lên một trời hương tinh khiết
Nhìn họ, ta tin những điều thiện cát trong lá sớ kia sẽ thành hiện hữu
Mãn nguyện một đêm hương
Sương ngủ quên trên lá
Trăng đã khóc
Những giọt nước mắt hoan hỉ mừng cho sự giải thoát
Sẽ không còn nữa cảnh đói niềm tin”
                         ( Trích “lời nguyện cầu trước lửa”- tr.69)

Kẻ viết bài này, xin mượn lời nhà thơ Trần Mạnh Hảo, trong bài “ Đọc tập thơ Trần Gia Thái, buồn về hội chứng “méo mó hình hài vẹo xiêu nhân cách” của nền văn học hôm nay”, bình về bài thơ “ Lời nguyện cầu trước lửa”, là cái đinh, là điểm nhấn số một của tập thơ, được Trần Huyền Nhung  bốc thơm như sau:

“Một người chưa biết viết câu văn tiếng Việt đơn giản, viết sai ngữ pháp, viết thật tối nghĩa, phản nghĩa, lủng củng như Trần Gia Thái, sao có thể lãnh đạo toàn ngành báo chí từ báo chữ, báo nói, báo hình của thành phố Hà Nội ? Bó tay !Đọc cả tập thơ “ Lời nguyện cầu trước lửa”, chúng tôi chẳng tìm thấy sự lớn lao nào cả, chí thấy toàn chữ là chữ, toàn nói là nói, nhưng chất thơ thì biến thành vô hình, biến thành không có thật.

Xin trích nguyên văn bài thơ “ Lời nguyện cầu trước lửa” ( trang 67) được lấy làm tên cho cả tập thơ để thách đố bạn đọc xem có tìm ra câu thơ nào không ? Chắc Trần Gia Thái cho bài thơ này hiện đại lắm, “lớn lao đến mức thành vô hình” lắm lắm, tâm huyết lắm, là cái đinh của cả tập thơ:

“Lời nguyện cầu trước lửa

( Kính tặng Đại Đức Thích Minh Pháp)

Ấy là lúc chuyển sang nghi thức cuối cùng của Đàn lễ tân niên
Trang nghiêm Đại Đức tọa theo tư thế Đức Phật ngự trên tòa sen
Tự tay ông khơi ngọn lửa
Lớn dần lớn dần lửa đồng điệu cùng âm vang lời cầu nguyện của những thiện nam tín nữ
Lửa bay phần phật như cờ vàng rồi hợp thành một tháp lửa vàng
Vàng cuồn cuộn hất ngược vào không trung
Đêm và ngày giao hòa
Quyền uy phủ vàng mật thất
Tựa như muôn lưỡi mác uốn cong kết thành đài lửa
Hoàng Liên
Hoàng Liên
Tòa sen vàng đấy ư ?
Trong quầng lửa kỳ biến dường như quần tụ những gương mặt chúng sinh rạng ngời ký thác trên dung nhan Phật
Từ mơ hồ vọng về lời sấm
Gió bão nắng mưa nóng lạnh đội lên từ sâu thẳm đất hay ngồn ngộn kéo về từ vũ trụ bao la ?
Không, không hẳn thế
Đấy là lời vị Đại Đức có đôi mắt sáng như sao và giọng nói trầm hùng vang động
Ông nói với lửa bằng ngôn ngữ riêng
Ngọn lửa dịu dần dịu dần hóa thân vào một vầng trăng viên mãn sau cái lắc chuông đường đột như một khẩu lệnh cắt đứt chuỗi âm thanh tưởng như triền miên vô tận ấy khiến ta bừng tỉnh
Ôi, giá như bức tường kia là một tấm gương thì các phật tử lúc này sẽ được chiêm ngưỡng chính mình và cảm nhận rõ sự thăng hoa hàm súc
Gió và gió
Hương hoa tràn theo gió
Gió cuốn theo hương của muôn loài thảo dược thấm quyện nên một trời hương tinh khiết
Nhìn họ, ta tin những điều thiện cát trong lá sớ kia sẽ thành hiện hữu
Mãn nguyện một đêm hương
Sương ngủ quên trên lá
Trăng đã khóc
Những giọt nước mắt hoan hỉ mừng cho sự giải thoát
Sẽ không còn nữa cảnh đói niềm tin”
( hết bài thơ)

Đọc xong bài được Trần Gia Thái gọi là thơ này, chúng tôi không biết nó thuộc thể loại gì : văn xuôi, văn tế, văn tường thuật, văn đưa linh…hay mê cung triết học ? Cầu mong ông Trần Gia Thái thương tình mà chỉ giáo cho sự tò mò có thể phát ốm của chúng tôi được giải tỏa phần nào ? Với kiến văn hạn hẹp người trần mắt thịt, chúng tôi xin cá với ông Trần Gia Thái bài sớ trên của ông mà là thơ thì chúng tôi xin …chết liền.”

Xin trích những lời bốc thơm vô tội vạ, bốc thơm không biết ngượng của Trần Huyền Nhung trước những câu không thể được gọi là thơ của Trần Gia Thái trong bài thơ “ Lời nguyện cầu trước lửa” :

“Trăng đã khóc” hay chính là Trần Gia Thái đã nhỏ những “ giọt nước mắt hoan hỉ” từ chính tấm lòng của mình? Vâng, Anh đã mừng cho sự “giải thoát” chúng sinh. Anh cầu nguyện cho những cảnh đói nghèo không còn xuất hiện trong xã hội này nữa. Lòng tin vào Đức Phật từ bi trong Trần Gia Thái rất cao. Nếu không có một tấm lòng từ bi bác ái, thì tôi nghĩ rằng Trần Gia Thái không thể viết lên được những câu thơ như thế.”

Trần Huyền Nhung còn tung ra hàng chục dòng tụng ca lên mây xanh thơ Trần Gia Thái, khen tới bến hơn cả những bài bốc thơm thơ Trần Gia Thái của Hữu Thỉnh, Vũ Quần Phương, Nguyễn Sĩ Đại; ví dụ như :”


“Đọc tập thơ “Lời nguyện cầu trước lửa”, ta còn nhận ra giá trị nhân văn trong mỗi trang thơ của Trần Gia Thái.
“Giản dị, chân tình, mộc mạc, thăng hoa… đó là tất cả những gì người đọc tìm thấy trong thơ Trần Gia Thái. Xin đặt bàn tay lên ngực thành kính “lời nguyện cầu trước lửa” cùng Người con của quê hương Bình Lục – Hà Nam!”

Vấn đề tôi muốn nói ở đây là sự ngụy biện đến ngớ ngẩn của Trần Huyền Nhung, bênh vực hành vi tội lỗi của Trần Gia Thái, dùng đài truyền hình Hà Nội chiếu hai cuốn phim hạ nhục, phỉ báng những người yêu nước chống giặc Trung Quốc xâm lược quanh Hồ Gươm Hà Nội là xấu xa, phản động, đáng phải trừng trị.

Trần Huyền Nhung viết :

Lời nguyện cầu trước lửa”, Trần Gia Thái tuyệt nhiên không hề nói tới chuyện chính trị trong thơ, ta không được quyền “lẫn lộn” giữa thơ và đời thực. Ý thức được vai trò “đệm đàn” của nhà phê bình – làm sao “đệm” nhưng “không át tiếng hát”, nghĩa là gợi lên cái nhịp cầu (không ai bắc nổi) nối thực với mơ, giữa trời với đất ( ý Hoài Thanh). Gần đây, một số nhà phê bình đã “đệm đàn” làm “át cả tiếng hát” của Trần Gia Thái. Đang chuyện thơ thì nhảy qua chuyện chính trị, thậm chí bàn luận những vấn đề chẳng liên quan tới tập thơ “lời nguyện cầu trước lửa” gì cả. Trong cách hành văn, như thế gọi là “lạc đề”, thậm chí một số người còn “lậu đề” một cách trắng trợn”

Trần Huyền Nhung bảo “ Không được nói chuyện chính trị trong thơ”. Thế mà, trong bài bốc thơm này, Trần Huyền Nhung lại trích hơn hai lần thơ Tố Hữu - một nhà thơ chính trị số một Việt Nam - làm cơ sở cho “lập luận” của mình.

 Trần Huyền Nhung lại phán : “TA KHÔNG ĐƯỢC LẪN LỘN GIỮA THƠ VÀ ĐỜI THỰC” ! Thơ được viết ra từ con người cụ thể, con người thực, hồn thơ xuất phát từ đời thực mà thăng hoa, mà đi vào lòng người thực. Tách thơ ra khỏi đời, tách thơ ra khỏi người viết ra nó, thì thơ được hư vô viết ra ư ? Chế Lan Viên từng quở trách thứ thơ siêu hình kia : “ Đời đẻ ra thơ mà thơ lại hòng quên “. Đời là cơ sở, là cội nguồn của thi ca. Hô hào tách thơ ra khỏi cuộc đời, Trần Huyền Nhung đang một mình chơi thơ trên sao Hỏa (!) ?

Dụng ý của Trần Huyền Nhung nhằm chống lại những bài viết nói về thân nhân bất hảo của Trần Gia Thái, kẻ dùng truyền hình thóa mạ những người yêu nước.Một kẻ chống lại nhân dân mình, xỉ vả, bôi nhọ những người yêu nước trên truyền hình như Trần Gia Thái, kẻ đó liệu có tâm hồn đẹp không, có nhân cách tốt không ?

Không, một trăm lần không ! Một kẻ chống lại dân tộc mình, chống lại đồng bào mình, làm tay sai cho ngoại bang như Trần Gia Thái không thể nào có một tâm hồn cao đẹp, tất nhiên không thể nào thành nhà thơ chân chính.

Than ôi, mèo mả gà đồng xưa nay gặp nhau là lẽ thường tình.

Chúng ta không hề ngạc nhiên khi một người chuyên đi đạo văn người khác làm văn mình như Trần Huyền Nhung lại bốc thơm thơ Trần Gia Thái đến thế .,.

Hà Nội 13-11-2011
Nguyễn Hoàng Nguyên

Thứ Sáu, 14 tháng 10, 2011

Đi tìm vẻ đẹp Ca trù - Bài 10: CA TRÙ - NGHỆ THUẬT CỦA TRI ÂM

Vẻ đẹp của nghệ thuật ca trù
Vẻ đẹp của nghệ thuật ca trù
 Nguyễn Xuân Diện

Vẻ đẹp của ca trù là vẻ đẹp của âm thanh đã chuốt thành những chuỗi ngọc lung linh mà người hát trao cho người nghe hát, cũng đồng thời là những người làm ra các bài thơ đó, lại cũng là người phẩm bình, chấm điểm tiếng hát, tiếng phách ấy. 

Xưa nay, đến với ca trù là những tâm hồn yêu tiếng hát, tiếng thơ, tiếng tơ, nhịp phách ca trù, để sẻ chia tâm sự, để hoà mình vào thế giới nội tâm sâu thẳm của những tri âm, để hào hứng dốc sạch túi tiền vào một cuộc hát mà thưởng cho một ngón nghề tài hoa. 

Khác với nghệ thuật chèo hay hát văn, đi thưởng thức ca trù gọi là đi “nghe hát”, chứ không phải là đi “xem hát”. Người hát ca trù không có múa và diễn với các trang phục nhiều màu vẻ như chèo hay hát văn. Đào nương ca trù chỉ ngồi yên gần như bất động trong suốt cuộc hát trên một mảnh chiếu cạp điều, với vẻ mặt bình thản, đoan trang. Đào nương chỉ có một cỗ phách tre đặt trước mặt và “đối thoại” với khách nghe chỉ bằng giọng hát và tiếng phách của mình. Do đó, vẻ đẹp của ca trù là vẻ đẹp của âm thanh đã chuốt thành những chuỗi ngọc lung linh mà người hát trao cho người nghe hát, cũng đồng thời là những người làm ra các bài thơ đó, lại cũng là người phẩm bình, chấm điểm cho tiếng hát, tiếng phách ấy.

PHÁCH VÀ TIẾNG HÁT ĐÀO NƯƠNG

Tiếng phách và tiếng hát của đào nương là một nét rất độc đáo của ca trù. Cỗ phách trong ca trù bằng gỗ hoặc tre, gồm bàn phách, hai lá phách (hai lá phách dẹt cầm ở tay trái, một là phách tròn cầm ở tay phải). Phách ca trù không chỉ giữ nhịp cho lời hát, mà nó thực sự là một tiếng hát khác của người đào nương. Phách ca trù có 5 khổ. Người ca nữ trước tiên là học cho thật thành thạo 5 khổ phách. Yêu cầu là phải gõ phách đúng cao độ và trường độ, có thể tập phách với đàn. Sau khi gõ phách đã thành thạo thì sẽ học hát.

Ca trù chỉ có năm khổ phách, nhưng phách lại là một yếu tố rất cơ bản để đánh giá trình độ của người ca nữ. Người ca nữ giỏi là người biết biến hóa tiếng phách của mình, tuỳ theo từng bài thơ hoặc tuỳ theo ý riêng của mình. Người trong nghề nghe tiếng phách mà biết cá tính sáng tạo của người ca nữ. Song điều quan trọng nhất là cho dù có biến hoá thế nào, thì phách ca trù vẫn có trong một khuôn khổ nhất định, và sự biến hoá này là để phục vụ cho việc phô diễn sự tinh tế của bài thơ mà nghệ sĩ đang thể hiện. Những nghệ sĩ có tiếng phách hay là Nguyễn Như Tuyết, Quách Thị Hồ, Kim Đức.


Cách lấy hơi nhả chữ là một nét rất độc đáo của ca trù. Khác với các lối hát cổ truyền khác, cách lấy hơi trong hát ca trù tinh tế và phức tạp hơn. Trong khi hát chèo, người nghệ sĩ lấy hơi chủ yếu là từ khoang miệng, trong hát quan họ, người nghệ sĩ lấy hơi ở khoang miệng và cổ họng; thì hát ca trù, người nghệ sĩ lấy hơi không chỉ ở khoang miệng hay cổ họng mà còn vận hơi từ đan điền lên, lấy hơi ở khoang mũi nữa. Điều này rất khó, nhưng cái khó hơn là làm sao khi chuyển hơi mà người nghe không thể nhận ra, không để lộ và làm thô sự biến hoá này. Tất cả các kỹ thuật đổ hột, sang hơi, đổ con kiến đều ở nơi cổ họng của đào nương. Đạt được như vậy, tiếng hát của đào nương sẽ trở nên tinh tế, giàu âm sắc và đạt được đến sự biểu cảm cao nhất.

Quá trình luyện tập cách lấy hơi là một khổ luyện thật sự. Quan trọng nhất là học lấy hơi cho ra chất riêng của ca trù. Các giáo phường xưa, khi dạy hát ca trù, người ta dạy điệu Bắc phản đầu tiên rồi mới sang các làn điệu khác. Bắc phản là một điệu hát sử dụng nhiều âm ư kéo dài, tiết tấu chậm. Do đặc điểm của lối giữ hơi, nhả chữ và luyến láy trong lối hát mà đào nương ca trù có khoé miệng luôn đoan trang, đài các, đôi môi cắn chỉ luôn mím lại, khi đổi giọng sang hơi thì chỉ rung lên khe khẽ. Miệng cô đào luôn ở hình chữ “nhất”, rất kín đáo.

Bấy nhiêu vẫn chưa nói hết cái công phu của đào nương. Mọi cố gắng của cô đào sẽ còn thể hiện ở năng lực cảm thụ văn chương nữa. Đào nương trước hết cảm thụ ý thơ, bài thơ để mới có thể nhập vào nó, phô diễn ý thơ thơ một cách đúng và hay nhất. Nếu chỉ cậy tốt giọng hoặc cố phô giọng hát trời phú, thì dù tiếng vàng tiếng ngọc thật đấy, nhưng nếu không diễn tả tình ý của bài thơ, ý thơ thì chỉ là một giọng hát vô hồn.

Nghệ sĩ Nhân dân Quách Thị Hồ là một bậc thầy về kỹ thuật luyến láy trong nghệ thuật ca trù Việt Nam trong thế kỷ 20.

ĐÀN ĐÁY

Theo nhiều nhà nghiên cứu thì đàn đáy là một nhạc cụ chỉ có duy nhất ở Việt Nam. Và đàn đáy cũng chỉ dùng trong khi hát ca trù. Cây đàn này gắn bó với một thể loại ca nhạc độc đáo của người Việt, và chỉ với một thể loại mà thôi và trở thành một nhân tố đặc trưng, khu biệt ca trù với các thể loại ca nhạc khác. Các căn cứ sớm nhất về đàn đáy trong mỹ thuật cổ là các bức chạm gỗ ở một số đình làng như đình Lỗ Hạnh (Hiệp Hoà, Bắc Giang), Hoàng Xá (Ứng Hòa, Hà Tây), Tam Lang (Can Lộc, Hà Tĩnh).

Đàn đáy có cần đàn dài khoảng 1,2 m, với 3 dây. Thùng đàn thường là đóng bằng gỗ ngô đồng. Đàn đáy cho một âm thanh trầm đục sâu lắng nền nã, hoà với tiếng phách có âm thanh sắc giòn tạo nên một sự đối chọi âm thanh vừa độc lập lại vừa bén quyện. Thỉnh thoảng lại xen một tiếng trống chầu gọn chắc, đĩnh đạc, khiến cho cuộc hát rất thi vị, mà trong đó chủ khách vừa tôn vinh nhau, lại vừa khẳng định sự độc lập và chủ động của mình.

Nhiều người đã biết đến những danh cầm đàn đáy của ca trù trong thế kỷ 20 như Chu Văn Du, Đinh Khắc Ban, Phó Đình Kỳ. Gần đây, tại một liên hoan ca trù, những người yêu ca trù lại biết thêm một danh cầm nữa. Đó là kép đàn Nguyễn Phú Đẹ.

TRỐNG CHẦU VÀ QUAN VIÊN

Người Quan viên là người cầm chầu (đánh trống chầu). Trống chầu là một nhạc khí truyền thống, có đường kính khoảng 15 cm, tang trống bằng gỗ mít, cao khoảng 18cm. Dùi trống còn gọi là roi chầu, được làm bằng gỗ găng.

Tiếng trống chầu là để ngắt câu, ngắt mạch thơ, giục hát, khen câu thơ hay, thưởng giọng hát đẹp, thưởng cho nhịp phách tuyệt kỹ hoặc cho cung đàn ngọt. Đánh trống chầu là một nghệ thuật. Người có trình độ thẩm âm cao và có sự am hiểu văn học thì mới có thể cầm chầu để thưởng thức, khen chê đích đáng.

Trong lối hát tuồng, hát chèo, cũng có sự khen chê, thưởng phạt như trong lối hát ca trù. Song trống chầu trong ca trù thì biểu thị sự tinh tế rất cao. Vì trống chầu ca trù là để “bình phẩm” cả tiếng phách, tiếng hát, tiếng đàn, và hơn hết là lời thơ. Người cầm chầu vừa phải bộc lộ khả năng thẩm âm, lại vừa phải bộc lộ khả năng cảm thụ văn chương nữa. Và do vậy, tiếng trống chầu rất giàu cá tính sáng tạo của người thưởng thức.

Cái trống chầu là nhạc khí giữ vai trò nối sợi dây liên hệ giữa người nghe hát và người hát, người đàn. Người cầm chầu là người lịch lãm, biết thưởng thức vẻ đẹp của văn chương và âm nhạc. 

Trong một cuộc hát ca trù, những khách nghe (quan viên) đều bình đẳng trước văn chương và âm nhạc. Tham gia cuộc hát có thể là một ông quan to đương chức, một hưu quan, một ông đồ hỏng thi, một thầy khóa…Khi vào chiếu hát, mọi người quên đi chức tước, quyền hành, bình đẳng trong thưởng thức. Mọi người thay nhau cầm chầu. Ai có bài thơ mới làm thì đưa cho cô đào hát. Người hát, người đàn, người nghe cùng góp cho cuộc thưởng thức nhạc - thơ thêm hoàn hảo. Đó là một lối chơi tao nhã của cha ông ta suốt nhiều thế kỷ qua.

Ca trù - một lối chơi tao nhã, lịch lãm của các văn nhân tài tử xưa nay, trong đó văn chương, âm nhạc hoà quyện làm một, tạo nên một vẻ đẹp hoang sơ mộc mạc mà khúc triết tinh tế, dân gian mà bác học, thực mà ảo huyền vi diệu. Ca trù sinh ra trong cái nôi của văn hoá dân gian, lớn lên trong nguồn mạch bất tận ấy và mang trong mình diện mạo của bản sắc văn hóa Việt Nam. Ca trù trở thành một bộ môn nghệ thuật bác học vào bậc nhất của nền âm nhạc cổ truyền Việt Nam.

Đóng góp của ca trù vào văn hóa Việt Nam thật lớn. Từ ca trù, một thể thơ hết sức độc đáo ra đời và trở nên có vị trí sáng giá trong dòng văn học chữ Nôm của dân tộc. Đó là thể thơ Hát nói, với hàng nghìn bài thơ chữ Nôm chứa đựng rất nhiều tâm trạng, rất nhiều biến thái vi tế của tâm hồn Việt Nam qua nhiều thế kỷ. Về mặt âm nhạc, có hai nhạc khí là đàn Đáy là Phách, trải qua quá trình sử dụng lâu dài đã trở nên những nhạc khí đặc trưng của ca trù, góp phần đưa ca trù trở nên một thể loại thanh nhạc kinh điển của Việt Nam. Xưa nay, đến với ca trù là những tâm hồn yêu tiếng hát, tiếng thơ, tiếng tơ, nhịp phách ca trù, để sẻ chia tâm sự, để hoà mình vào thế giới nội tâm sâu thẳm của những tri âm, để hào hứng dốc sạch túi tiền vào một cuộc hát mà thưởng cho một ngón nghề tài hoa.

Sau năm 1945, trong một thời gian khá dài sinh hoạt ca trù vốn tao nhã và sang trọng trước đây đã bị hiểu lầm và đánh đồng với các sinh hoạt thiếu lành mạnh ở một số ca quán đô thị khiến cho xã hội chối bỏ và quyết loại sinh hoạt ca trù ra khỏi đời sống văn hóa. Ca trù đã không được nuôi dưỡng và phát triển một cách tự nhiên, không được tôn vinh đúng mức, phải chịu tồn tại thiếu sinh khí và tàn lụi. Nhiều nghệ nhân, nghệ sĩ đã phải cố quên đi nghiệp đàn hát và giấu đi lai lịch của mình. Khoảng chục năm trở lại đây, ca trù đang tìm lại cho mình một chỗ đứng trong đời sống văn hóa phong phú đa dạng hôm nay.

Và như vậy, sau sáu bảy mươi năm vắng bóng, ca trù lại bắt đầu đi tìm tri âm. “Tri âm ta lại bắt đầu tri âm”.

N.X.D

Ghi chú: Loạt bài Đi tìm vẻ đẹp ca trù được hoàn thành vào năm 2006, đăng tải 10 kỳ trên tạp chí Thế giới mới.


Đi tìm vẻ đẹp Ca trù - Bài 9: HỒN CỔ NHẠC TRONG TRANH

Hồn cổ nhạc trong tranh 
Nguyễn Xuân Diện


Trong bài Giai nhân nan tái đắc (Người đẹp khó gặp lần hai) của Cao Bá Quát có câu: Phong lưu công tử đa xuân tứ/ Trường đoạn tiêu nương nhất chỉ thư (Chàng công tử phong lưu lòng tràn ngập ý xuân, có thể làm đứt ruột người con gái đẹp chỉ vì một bức thư tình). Người đẹp khó gặp lần hai, có phải vậy nên đó ở bên nhau rồi, không muốn rời nhau một bước? Và người nghệ sĩ cầm cọ đó được trời phú cho một “nghề riêng” là chép lại những cảm xúc đó thành những hình hài trên tranh. Những cung cầm, tiếng hát dìu dặt được biến hóa trong màu, trong sắc để ghi lại những cuộc tao ngộ đầy xúc cảm. Những bức tranh về đề tài đào nương, ca trù đó ra đời trong những khoảnh khắc như vậy.
Năm 1943, để minh họa cho tập Giai phẩm của Nhà xuất bản Đời Nay, họa sĩ Nguyễn Gia Trí cũng đó ký họa một cảnh hát ả đào. Ca nữ với khuôn mặt đẹp và búi tóc vấn khăn như đang chuẩn bị dạo đầu cho một khúc hát. Vận một chiếc áo dài may bằng lụa của người con gái Hà thành trước năm 1945, đơn giản nhưng ở cô lại toát nên được một nét đẹp quí phái. Cái mỏng manh mềm mại của lụa, cái đoan trang của nét mặt ca nữ, như đối lại với mảng đậm, mảng chìm của hộp đàn, như thể nhấn nha thể hiện tâm tình của lời hát lúc thăng trầm diệu vợi. 
Không chỉ là những ký họa để nắm bắt những giây phút xuất thần của các đêm hát, không ít các tác giả cũng dựng những chất liệu rất đa dạng để mô tả cái sâu lắng của nghệ thuật ca trù. Họa sĩ Chu Mạnh Chấn (Hà Tây) cũng có một bức tranh sơn mài vô cùng sinh động về đề tài này. Trong một phòng khách ấm cúng của một ca quán phong lưu, với bức tranh tứ bình trên vách, các câu đối và bức trung đường treo trang trọng, giọng ca của cô đào cất lên như vấn vít cả không gian. Một chậu cây cảnh được kê giữa nhà như điểm thêm cho cái thú chơi tao nhã của những tay sành điệu. Một quan viên cầm chầu như đang lắng nghe từng nhịp phách, cung đàn để khen, để thưởng. Tiếng hát cất lên trầm bổng, tiếng phách reo như tôn như nhấn cho từng câu chữ, đến nỗi cô đào rượu phải khép nép sau tấm rèm cửa đợi cho trọn khúc hát mới dám bước vào. Cái thẳm sâu, trong veo của chất liệu sơn mài, cái óng ánh của nét vàng nét bạc, khiến cho thần thái của đêm hát như càng khắc sâu vào tâm khảm của người xem. Cho dù người ta không nghe thấy tiếng hát cất lên trực tiếp từ bức tranh nhưng dường như cái không gian này lại gợi nhớ da diết cái không gian văn hóa cổ xưa khi ca trù trở thành một nếp sinh hoạt không thể thiếu trong xã hội cổ truyền.
Ca trù xưa không chỉ là một thú vui của các gia đình phong lưu, mà nó cũng là một sinh hoạt mang tính chất lễ nghi ở các đình làng. Họa sĩ Phạm Văn Đôn đã mô tả cảnh này trong một bức tranh sơn mài khác Lễ hội ca trù. Trước ban thờ tổ ở một đình làng, cảnh hát ca trù được diễn ra long trọng. Quan viên, kép đàn và đào nương như đang say sưa dâng tiếng hát của mình lên đấng linh thiêng. Người ta như nghe thấy đâu đây âm vang của những khúc tiên nhạc dìu dặt.
Vẽ nhiều và gần như trở thành một niềm đam mê không dứt với đề tài này phải kể đến họa sĩ Phạm Công Thành. Ông là một giáo sư danh tiếng của Đại học Mỹ thuật Hà Nội. Các tác phẩm sơn mài của ông về Ca trù ít nhiều mang những sắc thái và giá trị đương đại đối với các vấn đề của bộ môn nghệ thuật này, mà tác phẩm ở Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 2005 là một ví dụ. Ông cho biết dù vẽ không có mẫu, chỉ thuần túy là vẽ trong tưởng tượng, nhưng ông vẫn nhớ như in nét mặt của cụ Quách Thị Hồ. Người mà ta có thể nhận thấy lẫn trong đám đông, bà đang ngồi nghe những tiếng phách tiếng đàn của thế hệ con cháu mình. Ở tác phẩm này ông muốn đặc biệt chú trọng đến những người thưởng thức ca trù, những công nhân, công chức, học sinh và cả những “phó thường dân” trong xó hội. Đó cũng là ước vọng của người tâm huyết với bộ môn nghệ thuật ca trù đang có nguy cơ mai một. Ông mong rằng nghệ thuật ca trù có ngày sẽ trở thành tài sản của tất cả các tầng lớp trong xã hội, và sức hấp dẫn của nó là vượt ra khỏi biên giới của tuổi tác, nghề nghiệp, đến với tất cả mọi người. Nó sẽ mãi tồn tại trong xã hội đương đại, giống như đó từng ghi một dấu ấn không phai trong quá khứ. 



Nói về ca trù, không ai là không nhắc đến Nghệ sĩ nhân dân Quách Thị Hồ. Say tiếng ca của bà, họa sĩ Nguyễn Mộng Bích đó vẽ một bức tranh lụa Chân dung Nghệ sĩ Quách Thị Hồ. Tác phẩm này đã nhận được giải thưởng ở Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1995. Khuôn mặt bà vừa toát lên vẻ thanh thản, nhưng cũng chứa chất trong lòng không ít nỗi ưu tư với nụ cười nụ chúm chím rất đặc trưng của cụ trên môi. Bà được khắc họa ngồi bên một trong số bốn bức tranh tứ bình của tranh Hàng Trống. Cái uy danh lừng lẫy của một con người như được hiện ra, nhưng cái cô độc, cực nhọc của một nghệ nhân đó luống tuổi cũng đó được toát lên.

NSND Quách Thị Hồ. Tranh: Mộng Bích
Vẽ về đề tài ca trù, không chỉ các thế hệ cao niên từng được tham dự và thưởng ngoạn ca trù trong các đình, tại các tư gia, không ít các họa sĩ trẻ nghe âm hưởng ca trù cũng đó đắm say lòng. Đối với họ, ca trù không chỉ là sự miêu tả một cảnh hát, mà còn là âm vang của hồn đàn, hồn phách. Do đó ngoài một không gian hiện thực, cái không gian ảo ít nhiều đó được chú trọng. Ví dụ ở bức tranh khắc thạch cao của Nguyễn Anh Tuấn cái không gian của cuộc hát dưới một đêm trăng như mờ, như tỏ, ít nhiều có tính trừu tượng, làm lay động cả tâm can con người. Không ít các tác giả chọn cách vẽ có tính đương đại hơn là cách kể một câu chuyện thuần túy. Âm hưởng của ca trù được biến hóa ra thành những không gian trừu tượng vô hình.

Hội họa có cách hưởng thụ và trải nghiệm văn hóa riêng của mình. Và ca trù cũng nhờ đó mà được lưu giữ hình hài cho muôn đời sau, như ngày nay chúng ta cũng biết đến ca trù qua nhiều bức chạm ở đình làng. Hôm nay những thanh âm vọng từ muôn xưa lại hiện lên trong sắc màu trên toan, trên vóc, trên lụa lưu giữ lại cho các thế hệ sau một chút hồn Việt. Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời. 

N.X.D

Thứ Năm, 13 tháng 10, 2011

Đi tìm vẻ đẹp Ca trù - Bài 8: NGHỆ SĨ NHÂN DÂN QUÁCH THỊ HỒ

Quách Thị Hồ 
-Sênh phách giọng sầu gửi bóng mây
Nguyễn Xuân Diện 

Tiếng hát của Quách Thị Hồ đẹp và tráng lệ như một tòa lâu đài nguy nga, lộng lẫy, mà mỗi tiếng luyến láy cao siêu tinh tế của bà là một mảng chạm kỳ khu của một bức cửa võng trong cái tòa lâu đài ấy. Tiếng hát ấy vừa cao sang bác học, vừa mê hoặc ám ảnh, diễn tả ở mức tuyệt đỉnh nhất các ý tứ của các văn nhân thi sĩ gửi gắm trong các bài thơ. 

Có một thời gian rất dài ca trù không được quan tâm. Có lẽ từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, cùng với những tàn dư xấu xa của chế độ phong kiến, sinh hoạt cô đầu, hay hát ả đào, vốn đã có tiếng rất xấu từ đầu thế kỷ, cũng bị quét đi, không thương tiếc. Các cô đào, dù hát còn hay, dù còn thanh sắc cũng giấu kỹ phách, các kép hát thì gác đàn lên xà nhà, giấu đi cái hành trạng một thời làm nghề hát xướng của mình để nhập vào cuộc sống mới. Không ai dám hát, không ai dám đàn, không ai dám nhận mình là cô đầu nữa. Con cái các đào kép một thời lững lẫy bỗng đâm ra xa lánh, sợ sệt cha mẹ mình. Tiếng xấu sinh hoạt ả đào trùm lên cả xã hội. Nhắc đến cô đầu người ta sợ. Nhắc đến hát ả đào, người ta nghĩ đến một thú ăn chơi làm cho người ta khuynh gia bại sản, có hại cho phong hoá và luân lý. Người ta cho cô đầu là cái người: “Lấy khách - khách bỏ về Tàu, lấy nhà giàu - nhà giàu hết của”.

Mà cũng có chỗ không oan. Với vẻ thanh thoát của vóc dáng của những người không phải chịu cảnh chân lấm tay bùn, các cô lại khéo ăn nói, do được tiếp xúc toàn với văn nhân nho sĩ, nên nhiều người đã bị các cô làm cho mê mẩn. Có người phải bán ruộng, bán nhà; có kẻ phải giấu lương tháng, lừa dối vợ con để lấy tiền đi hát. Nhà hát lại là nơi hấp dẫn nhất trần đời: nào các cô hát hay, nào các cô tiếp rượu khéo, nào các cô đấm bóp ấm êm. Biết bao cảnh đánh ghen tầy trời nơi các ca quán. Biết bao đôi vợ chồng phải ly biệt, tan cửa nát nhà vì cô đầu. Tiếng xấu ấy, trăm năm còn in vết.

Các người ca thưở trước đều tìm một nghề khác kiếm sống, giấu biệt cái nghề ca hát của mình đi. Có đào nương phải kiếm một gánh nước chè độ nhật cho đến tận lúc cuối đời. Nhiều đào nương lần hồi kiếm các công việc để độ nhật, và giấu biệt đi cái nghề ca hát của mình, cho dù nó đã từng đem lại ít nhiều vinh quang cho bà trong thời trẻ trung. Có đào nương trở về với công việc đồng áng, cố che lấp đi cái nghề ca hát của mình. Gặp lại các bà để hỏi về ca trù, các bà còn run sợ, các bà không dám nói. Mặc dù thưở trước Tổ đã cho các bà ăn lộc, cho các bà những hào quang, nhưng nay thì các bà dứt khoát dứt ra khỏi cái liên hệ này. Tìm gặp các bà, có cảm giác như họ đang ôm trong mình một khối u lớn. Có bà trả lời giằn dỗi, như hắt nước lạnh vào người đang hỏi chuyện. Lâu dần trong số họ trở nên kiêu ngạo, cao đạo, nào tránh gặp báo chí, nào tránh gặp truyền hình, nào tránh các cuộc giao lưu. Không ai dám đến gần khiến cho người đào nương già nua lại trở nên cô độc, thù ghét xung quanh, khinh ngạo mọi người trong và ngoài nghề.

Trong hoàn cảnh ấy, chỉ có một người phụ nữ, người mà nét tài hoa và đa tình còn in trên khuôn mặt đã nhăn nheo, mà nét kiêu sa lừng lẫy chốn ca trường còn trong từng âm thanh giọng nói - vâng chỉ có người ấy là dám nhận mình là một ả đào, như bà đã từng nói là bà dám đeo cái biển trước ngực “Tôi là ả đào”. Bà kể rằng: Hồi trước có mấy ông lãnh đạo văn hóa nói thẳng vào mặt tôi rằng: "Cái nghề ca trù của bà chỉ phục vụ bọn thực dân phong kiến, cái cây đã chết, cho nó chết, lấy đâu hoa mà nở". Lúc đó tôi cười: "Rồi xem, hoa có nở không?".(Báo Lao Động chủ nhật, số 40, ngày 20.10.1991, tr.5). Đấy, thái độ của bà rõ ràng và tự tin như vậy! Vâng, cả cuộc đời của bà lúc nào cũng một niềm thuỷ chung với nghề tổ. Bà được Tổ cho ăn lộc, đem cho bà vinh quang và cả đắng cay nữa. Bà dám sống cho nghề tổ, chịu vinh, chịu nhục vì nghề. Khi bà ba mươi tuổi, đang lừng lẫy chốn ca trường, thi sĩ Trần Huyền Trân viết tặng bà bài thơ Sầu chung. Một bài thơ mà từng chữ, từng lời hiểu bà từ gan ruột. Bà là Quách Thị Hồ nghệ sĩ lớn nhất của ngành ca trù trong thế kỷ XX.

Giáo sư Trần Văn Khê thăm Bà Quách Thị Hồ

Bà Quách Thị Hồ và khách tri âm: Nhà thơ Ngô Linh Ngọc
Cho đến một hôm, GS Trần Văn Khê, từ Pháp trở về. Ông ghi âm tiếng hát của bà để đem đi giới thiệu với thế giới.

Năm 1978, Hội đồng Âm nhạc Quốc tế của UNESCO và Viện Nghiên cứu Quốc tế về Âm nhạc So sánh đã trao bằng danh dự cho bà vì bà có công lao đặc biệt trong việc bảo tồn một bộ môn nghệ thuật truyền thống có giá trị văn hóa và nghệ thuật cao. Và từ đó tên tuổi của bà cùng tiếng hát ca trù độc đáo của Việt Nam trở nên vang lừng trong bốn biển. Năm 1988, tại Liên hoan quốc tế Âm nhạc truyền thống tại Bình Nhưỡng, có sự tham gia của 29 quốc gia, băng ghi âm tiếng hát của Quách Thị Hồ, đại diện cho Việt Nam được xếp hạng cao nhất.

Hai Nghệ sỹ Ca trù: Quách Thị Hồ và Nguyễn Thị Phúc (1952). Ảnh: TL

Bà được nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân. Và cho đến hôm nay, bà là người đầu tiên và duy nhất được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân ngành ca trù. Sau bà, không còn ai được phong Nghệ sĩ Nhân Dân về ca trù nữa. Và bà thật xứng đáng với danh hiệu này. Tiếng hát ca trù độc đáo, lạ lùng và đầy sức hấp dẫn của Quách Thị Hồ đã vang lên, đại diện cho Việt Nam, làm rạng rỡ cho âm nhạc và văn hoá Việt Nam.

Sau đó, Đài Tiếng nói Việt Nam mới ghi âm tiếng hát của bà, phát trong các chương trình ca nhạc cổ truyền. Năm 1984, Trung tâm Nghe Nhìn (nay là Hãng Phim Truyền hình) tổ chức làm phim “Nghệ thuật ca trù” (Kịch bản và đạo diễn Ngô Đặng Tuất) tại Lỗ Khê. Đây cũng là dịp tập trung nhiều nhất các danh ca, danh cầm nổi tiếng trong giới ca trù như: Quách Thị Hồ, Nguyễn Thị Phúc, Nguyễn Thị Hào, Chu Văn Du, Nguyễn Thế Tuất, Phó Đình Kỳ, Đinh Khắc Ban, Phó Thị Kim Đức, Nguyễn Thị Mùi. Nhà nghiên cứu Ngô Linh Ngọc dẫn chương trình và đọc lời bình cho toàn phim. Năm 1980, Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội tổ chức biên soạn cuốn sách Hát Cửa đình Lỗ Khê, được dư luận đánh giá tốt.

Nghệ sĩ Quách Thị Hồ tạ thế lúc 3h 45 phút, ngày 4 tháng Giêng năm 2001, tức ngày 10 tháng Chạp năm Canh Thìn. Thọ 92 tuổi. Trong sổ tang đọc thấy dòng chữ của một nhà nghiên cứu: “Nghệ sĩ Quách Thị Hồ ra đi có mang theo tất cả những gì là cao quý, sang trọng và bác học của nghệ thuật ca trù trong thế kỷ XX”.


Nghĩ đến hôm bà mất, càng thấy thương bà, khi mất, không có đất chôn. Con cháu phải mua một mảnh đất mấy mét vuông bên Gia Thuỵ để làm nơi yên nghỉ cho bà. Ba thước đất đã vùi sâu một nghệ sĩ tài hoa, sống đã làm vẻ vang cho ca trù, danh thơm bốn bể, cùng với cả trăm cay nghìn đắng, mà vẫn sáng ngời lòng thuỷ chung với Tổ với nghề. Nay bà khuất nẻo suối vàng, nhưng tiếng hát của bà còn vang mãi, với non sông này, với nghệ thuật này.

N.X.D
Đọc thêm: 
Bà Quách Thị Hồ: Người ta đã vục mặt chúng tôi xuống bùn


Quách Thị Hồ: Này, cậu hỏi tôi sao không truyền nghề ca trù à? Ai mà học?

•Thưa bà, có một số ca sĩ nói rằng họ là học trò của bà.

Quách Thị Hồ: Tôi muốn họ quên tôi đi. Xấu hổ lắm! Bởi mấy anh chị ấy đến tôi chỉ xin học vẹt, học lỏm từng bài, để mà đi khoe, đi diễn, rằng ta hát ca trù, chứ có ai muốn học nghề, học đến nơi đến chốn đâu? Mà học làm gì?

Bà Quách Thị Hồ dựng đứng lưng song song với thanh tựa, miệng khép lại như để dấu biến những ngôn từ lệch đang ùn ứ bên trong. Bà chẳng khóc. Dễ gì mà lấy được nước mắt của bà?

Quách Thị Hồ: Hồi trước có mấy ông lãnh đạo văn hóa nói thẳng vào mặt tôi rằng: “Cái nghề ca trù của bà chỉ phục vụ bọn thực dân phong kiến, cái cây đã chết, cho nó chết, lấy đâu hoa mà nở”. Lúc đó tôi chỉ cười: “Rồi xem, hoa có nở không?".

Quách Thị Hồ: Người ta đã vục mặt chúng tôi xuống bùn.

•Tại sao vậy, thưa bà?

Quách Thị Hồ: Có lẽ người ta hiểu lầm hát ca trù - cô đầu - ả đào ở Khâm Thiên, ở Vạn Thái, ở Bạch Mai là loại “hát ôm”, đĩ điếm và họ thấy quan lại thường đến ăn chơi ở đó nên cho là văn hóa… đồ trụy. 

Lưu Trọng Văn
Nguồn: Báo Lao Động Chủ nhật, số 40, ngày 20.10.1991, tr.5.

Đi tìm vẻ đẹp Ca trù - Bài 7: CA TRÙ TRONG HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO ĐẠI VIỆT

Hát Ca trù trong đón tiếp ngoại giao cấp nhà nước
Nguyễn Xuân Diện
Một văn bia quan trọng vừa được phát hiện tại kho bản rập của Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Đó chính là văn bia Bản huyện giáo phường lập đoan bi ký được soạn vào niên hiệu Long Đức 3, dưới thời Lê, tức là năm 1734, ghi nhận một sự kiện đặc biệt: dùng ca trù trong đón tiếp ngoại giao. Đây là một thông tin hiếm hoi và duy nhất về chuyện giới thiệu âm nhạc ca trù của nước ta với bên ngoài. Từ đó cho phép nhận định rằng nghệ thuật ca trù vào thế kỷ XVIII đã là một trong những đại diện của âm nhạc nước ta được giới thiệu trong hoạt động đối ngoại ở cấp quốc gia.
Theo sự ghi nhận của thư tịch cổ, ca trù được tổ chức như sau: Hát thờ: hát thờ tổ (còn gọi là tế tiên sư, có 9 làn điệu chuyên dùng); hát thờ thành hoàng trong các đình làng, hát thờ thần trong các đền miếu. Hát chơi: Hát khao trong các tư gia (mừng nhậm chức, sinh con trai, khánh thành nhà, đám cưới), hát chơi trong dinh thự. Hát thi: Hát thi tại các làng quê (thi giữa các giáo phường để chọn người hát giỏi). Hát chơi trong các dịp đặc biệt: Hát chúc hỗ mừng thọ vua, hát trong nghi lễ đón tiếp sứ giả nước ngoài. Trong bài này chỉ xin nêu 3 trường hợp là hát ca trù trong đón tiếp ngoại giao, trong Thánh lễ của công giáo và trong hát thi.
 
Hát ca trù trong đón tiếp ngoại giao

Giáo phường ca trù không những biểu diễn phục vụ trong các lễ hội dân gian ở các làng xã mà còn vượt ra khỏi địa phương để tham gia vào các nghi thức tiếp khách của nhà nước. Đây là một vấn đề chưa đề cập tới trong bất kỳ tài liệu nghiên cứu nào trước đây.

 
Tài liệu mà chúng tôi phát hiện được là văn bia Bản huyện giáo phường lập đoan bi ký, bản rập mang số ký hiệu 15639 - 15640, thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Tấm bia này hiện để tại đình xã Đức Lạp, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Bia được tạo vào niên hiệu Long Đức 3, dưới thời Lê, tức là năm 1734. Tấm bia gồm 2 mặt, khổ 60 x 43 cm, có 40 dòng, mỗi dòng từ 10 đến 31 chữ. Trán bia có chạm mặt trời và mây. Diềm bia không hoa văn.  

Nội dung: Ông trùm giáo phường xã An Thanh, huyện Lập Thạch, phủ Tam Đái là Khổng Đắc Toàn và vợ là Nguyễn Thị Đề cùng các con và gia tộc đã được bản huyện đã chia cho giữ cửa đình Đức Lạp, tổng Yên Xá. Nay vâng lệnh quan phủ cử gấp về kinh để nghinh đón sứ giả, nhưng vì thiếu tiền để chi phí nên bán lại quyền lợi được hưởng ở cửa đình này cho quan viên xã Đức Lạp cùng huyện lấy 85 quan tiền sử để chi dùng. Có kê ra các lễ tiết và quyền lợi được hưởng cùng bản giao ước giữa hai bên.

Đây là một thông tin hiếm hoi về chuyện giới thiệu âm nhạc của nước ta với bên ngoài. Ngoài văn bia này, chúng tôi chưa gặp một tài liệu nào khác cho các thông tin tương tự. Thông tin này cho thấy các giáo phường trong dân gian đã được góp phần tham gia vào các hoạt động lễ tiết của nhà nước. Từ đó cho phép nhận định rằng nghệ thuật ca trù vào thế kỷ XVIII đã là một trong những đại diện của âm nhạc nước ta được giới thiệu trong hoạt động đối ngoại ở cấp quốc gia. 

 
Hát ca trù trong Thánh lễ Thiên chúa giáo

Trong quá trình điền dã nghiên cứu, Gs. Nguyễn Hồng Dương (Viện Nghiên cứu Tôn giáo) ghi chép được một số bài thơ thể hát nói (ca trù) trong thánh lễ nhà thờ công giáo ở huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Tiếc rằng chung ta không biết là các bài thơ này được hát lên như thế nào, và khi tấu các bài thơ này lên thì có dùng nhạc đàn đáy và cỗ phách ca trù hay không. Được biết, đây chính là vùng đất mà Nguyễn Công Trứ được cử đến làm Dinh điền sứ, trông coi việc khẩn hoang ở đây và lập nên các làng mạc. Có thể, vì Hy Văn Nguyễn Công Trứ là một tài tử, ham mê đàn hát ả đào mà ảnh hưởng đến cả một vùng này khỉến cho việc phụng thờ, kính chúa cũng ít nhiều tiếp thu nghệ thuật ca trù vào sinh hoạt của người công giáo. Đây là một hiện tượng hy hữu trong nghiên cứu về ca trù cũng như ảnh hưởng của sinh hoạt ca trù trong xã hội.
 
Một cuộc hát thi

Theo thư tịch cổ, kết hợp với sự khảo cứu của các học giả đi trước, và tham khảo các nghệ nhân ca trù, chúng tôi thấy có các trường hợp thi trong hát ca trù như sau: Thứ nhất: Thi giữa các giáo phường với nhau để chọn đào kép hay nhất vào hát thờ ở cửa đình, phục vụ lễ hội địa phương (cuộc thi do Hội đồng chức sắc địa phương tổ chức); Thứ hai: Cuộc thi do Ty giáo phường tổ chức để chọn lấy đào kép hay để phục vụ hát chúc hỗ trong các khánh tiết của nhà nước; Thứ ba là cuộc sát hạch do giáo phường tổ chức để công nhận người đào nương đã đạt đến trình độ được phép hành nghề (gọi là lễ mở xiêm áo).


Về cuộc thi thứ nhất, chỉ thực hiện ở những làng giàu có về kinh tế, hoặc chỉ tổ chức vào những năm đặc biệt như làng được triều đình ban thưởng hoặc làng có người đỗ đạt cao. Thể lệ thi hát được thể hiện dưới các bản thông báo treo tại đình khi làng tổ chức thi hát.


Dưới đây xin giới thiệu về thể lệ thi hát, được chép trong sách Quang Liệt xã Văn Hội điều lệ (A.995/1-2). Thể lệ này được thể hiện dưới các bản yết thị, thông báo treo tại đình Quang Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội, khi làng tổ chức thi hát.


Bảng thông báo có nội dung như sau: Ngày, tháng, năm, niên hiệu, các quan viên sắc mục... của bản xã, kê ra thể thức ở dưới đây: Báo cho giáo phường bản huyện cùng các giáo phường ở các phủ, xứ được biết: ngày...tháng...năm nay, bản xã theo lệ, có mở tiệc cầu phúc, xướng ca thờ thần. Bản xã theo lệ có mở cuộc thi nghề ca hát. Khi thông báo, các giáo phường sẽ đợi ở đình ngoài. Mỗi ngày, nếu là trong huyện thì đào nương và quản giáp một đôi, nếu là các phủ, xứ khác thì hai đôi. Tất cả đều vào thi. Tôn trọng theo phép tắc, không được tranh giành. Đợi đến ngày ra bảng, ai trúng thì có tên yết trên bảng, ngay hôm đó vào hát nhận giữ thẻ. Nếu ai không trúng, không có trong bảng, sẽ nhận tiền phấn sáp, mỗi đôi 3 mạch 30 văn cổ tiền và không được vào hát nữa để phép thi được nghiêm.


Ngày vào thi, thông báo về thể thức như sau: Năm...tháng...ngày... các quan viên, sắc mục bản xã, bản tổng, kê ra đây các thể thức như sau:Báo cho giáo phường bản huyện cùng các giáo phường trong các phủ, xứ được biết. Hễ bản xã vào tiệc cầu phúc, hát xướng thờ thần, có lệ thi hát. Khi biết thông báo này, đào nương quản giáp xếp lượt rất đông, nên phải theo thứ tự vào thi. Khi biết ngày thi, cứ mỗi ngày 5 đôi cho vào thi. Nam thi thơ, nữ thi phú, mỗi người vài câu. Ngay ngày hôm đó treo bảng ghi tên người đỗ. Người nào trúng sẽ vào thi tiếp. Người nào không trúng, phát cho tiền trầu cau, mỗi đôi cổ tiền 1 mạch 20 văn, và không được vào thi nữa.


Việc thi hát và thi kỹ thuật trình diễn gồm 3 vòng thi trong đó vòng 1 gồm 22 điệu; vòng 2 gồm 11 điệu; vòng 3 gồm 21 điệu. Ca trù cách thức mục lục (VNv.160, thư viện Hán Nôm) giới thiệu các điệu hát trong 3 vòng thi với thứ tự như sau:

Vòng 1 gồm: Giáo cổ (giáo trống), Thư cách, Hát nam, Thư phòng, Hát giai, Tiến chức, Thăng quan, Nhạc hương, Thét nhạc, Hà nam, Độc phú, Ngâm vọng, Bắc phản, Hát mưỡu, Hát nói, Cung bắc, Dồn đại thạch, Hãm, Dựng, Huỳnh, Bỏ bộ, Dồn dựng.

Vòng 2 gồm: Rung trống, Chạy đuổi, Hát giai, Hát tầng, Ngâm hát gái, Hát nam, Hát truyện, Hát mưỡu, Hát nói, Dựng, Huỳnh.

Vòng 3 gồm: Giáo cổ, Thư cách, hát giai, Thư phòng, Tiến chức, Thăng quan, Nhạc hương, Thét nhạc, Ngâm vọng, Bắc phản, Hát mưỡu, Hát nói, Dồn cung nam, Gửi thư, Đại thạch, Hãm, Dựng, Huỳnh, Nói dồn, Gióng chinh phu, Biếm gái.
Những người thi đỗ sẽ được hát chính thức trước điện thờ, còn những người không trúng đều được làng phát tiền phấn sáp hoặc tiền trầu cau để vui vẻ ra về. Xem thế đủ biết lệ thi hát ở những làng xã ngày xưa là một dịp so tài sắc vui vẻ thu hút sự tham gia của đông đảo các giáo phường xa gần.
 
Ai hay hát mà ai hay nghe hát

Có lẽ trong các lối hát và ngâm vịnh cổ truyền Việt Nam hiếm có một lối hát nào lại xâm nhập sâu rộng hầu hết các sinh hoạt văn hóa tinh thần như là lối hát ca trù. Có thể nói, nghệ thuật ca trù trải mấy trăm năm, cả Thần và Người đều chuộng. Ở nơi đình miếu, đền đài thâm nghiêm các vị thần thánh nghe hát trong hương trầm đượm tỏa, trong sự sùng phụng của con dân. Trước khi dâng lên các vị thần thì các chức sắc địa phương cũng đã nghiêm trang thẩm định để chọn ra những đào hay kép giỏi, để những đào kép giởi nhất dâng thần khúc hát tuyệt kỹ. Nơi giáo đường thênh thang uy nghiêm, Đức Chúa cũng nghe những lời xưng tụng của con chiên thành kính. 
 
Và trong dân gian, mỗi khi khao vọng, cho dù là khao thọ, khao thi đỗ, khao được thăng chức, hay khai trương cửa hiệu, hoặc mừng đón nhau về hoặc mừng tiễn nhau đi đều vời đến đào kép ca trù đến, tùy việc tùy duyên mà thưởng ngoạn câu thơ khổ phách cung đàn.

Rồi những khi thư thả việc công, những khi buồn thế thái nhân tình, hoặc câu chuyện tình duyên gặp khi trắc trở, ai đó lại đến một ca quán vịn vào tiếng hát, tiếng thơ, tiếng tơ, nhịp phách ca trù, để sẻ chia tâm sự, để hoà mình vào thế giới nội tâm sâu thẳm của những tri âm, để hào hứng dốc sạch túi tiền vào một cuộc hát mà thưởng cho một ngón nghề tài hoa.


Có thể nói ca trù đã đồng hành cùng tâm hồn Việt, trải biết mấy thăng trầm cùng lịch sử vẫn lại đang về tìm lại chỗ đứng trong đời sống văn hóa văn nghệ phong phú đa dạng hôm nay. Vâng! Của tin vẫn một chút này!


N.X.D

Đi tìm vẻ đẹp Ca trù - Bài 6: CHUYỆN RIÊNG CỦA ĐÀO NƯƠNG

Ả đào. Ảnh của Charles-Edouard Hocquar chụp năm 1883.
Chuyện riêng của đào nương
Nguyễn Xuân Diện
Sau khoảng năm, sáu năm học tập chuyên cần, các cô đào làm một bữa tiệc để mời những người sành nhất trong vùng đến thường thức và nhận xét về trình độ. Nếu được công nhận, coi như được cấp “giấy phép hành nghề”, cô đào mới chính thức đi vào con đường nghệ thuật. Đào nương xưa phải tuân thủ hàng trăm thứ kiêng kỵ, cốt sao cho giữ được tiếng hát đẹp màu âm sắc và giữ được tiếng thơm của con nhà nền nếp.
Vào nghề theo nghiệp 

Cô đào là người hát, còn kép là người đàn. Học hát ca trù là cả một công phu. Người nào thông minh cũng phải ba bốn năm ròng mới cầm được lá phách ra hát, còn thì nếu chỉ chuyên cần học tập cũng mất khoảng 5 năm. Khi việc học đã thành thục, để được đi hát, đào nương phải có trầu cau trình với Quản giáp.

Vị Quản giáp sai chia cho khắp phường để báo cho biết đào nương này đã thành nghề và ra hát. Bấy giờ giáo phường sẽ họp nhau một buổi để sát hạch, công nhận về kết quả học tập và trình độ. Các cô đào sẽ chọn ngày lành làm lễ báo cáo với tổ nghề, mời một “quan viên” có danh vọng và sành sỏi thưởng thức trong vùng, nổi tiếng phong lưu hào phóng đến nghe và cầm chầu cho buổi hát đầu tiên. Đó là một ngày tiệc vui vẻ ở giáo phường.

Từ đó, cô đào mới chính thức bước vào nghề hát, coi như được cấp “giấy phép hành nghề”, đi vào con đường nghệ thuật. Lễ này giáo phường gọi là lễ mở xiêm áo; và gọi là vậy thôi, chứ không có chuyện ai trao áo cho ai cả.

Đào nương xưa phải tuân thủ hàng trăm thứ kiêng kỵ, cốt sao cho giữ được tiếng hát đẹp màu âm sắc và giữ được tiếng thơm của con nhà nền nếp.

Để giữ gìn tiếng hát, các cô không uống rượu, kiêng ăn các đồ ăn cay, các chất mỡ. Có cô cầu kỳ còn dùng cơm nếp giã nhuyễn, nắm lại rồi cắt lát thành từng miếng mỏng, phơi khô để ăn dần, làm vậy là để khi ăn, miếng cơm sẽ quyện trôi đờm, tiếng hát sẽ trở nên thuần khiết trong trẻo.

Lại có câu chuyện rằng các cô nghe đồn nước ở cái giếng đền ca công làng Ngọc Trung xứ Thanh rất lành mà lại thiêng, đào nương nào tắm được bằng nước giếng này sẽ trở nên xinh xắn và có giọng hát thật đẹp. Các cô tìm vào cho bằng được, cố ăn uống, tắm giặt lấy vài ngày để lấy khước.

Ngoài chuyện kiêng ăn kiêng uống, các cô đào còn phải kiêng tên các vị tổ nghề. Khi hát đến các chữ Bạch, Hoa, Lễ, Thanh... thì các cô phải hát trệch đi thành Biệc, Huê, Lỡi, Thinh. Đến mỗi làng để hát thờ, các cô phải biết và nhớ tên các vị thần làng, có khi là đến cả chục cái tên, để mỗi khi hát đến những chữ đó cũng phải hát trệch đi, chứ nếu không nhớ ra mà cứ hát cả tên huý của các ngài thì cụ tiên chỉ cầm chầu sẽ gióng mấy tiếng trống mà dừng ngay cuộc hát lại.

Ngày xưa đào và kép thường là vợ chồng, anh em của nhau. Họ đều được học nghề từ một ông thầy, cũng một thời gian, lại hiểu biết các ngón nghề của nhau nên dùng tiếng đàn và tiếng hát nâng đỡ cho nhau rất nhiều. Vì thế ngày xưa đi thi hát ở đình người ta không cho đào và kép là vợ chồng, anh em với nhau vào thi cùng một lúc. Trong cuộc sống và trong nghề nghiệp, đào và kép rất trân trọng nhau, giữ gìn từng lời ăn tiếng nói và cùng nhau nâng cao nghề nghiệp cho nhau. Đào kép khi nhận được một lời mời đi hát ở chốn đền miếu, nhất định phải kiêng chuyện gối chăn, giữ mình thanh tịnh để hát trước cửa đình.

Nghệ nhân đàn đáy Nguyễn Phú Đẹ ở Hưng Yên kể rằng mẹ ông là một đào hát, được vua nhà Nguyễn vời vào kinh đô Huế để hát. Đào nương và kép được vời vào cung gọi là đào ngự, kép ngự. Đó là một vinh dự lớn mà đào kép nào cũng mong đạt được. Sau khi lặn lội đường xa, vào kinh hát trước sập rồng, đến khi trở về, đang độ xuân thì, vậy mà không ai dám lấy bà vì cho rằng bà đã thuộc về đức vua. Bà những tưởng đã lỡ dở đường tình duyên. May sao, có người kép đàn thương bà lấy làm vợ. Hai cụ sinh được mấy người con, trong đó có hai anh Nguyễn Phú Đọ, Nguyễn Phú Đẹ. Ngày nay, cụ Nguyễn Phú Đẹ đã 85 tuổi, vẫn là một tay đàn lão luyện.

Trong xã hội ngày xưa, chung một kiếp cầm ca, các cô đầu (ả đào, đào nương) cũng phải chịu biết bao thiệt thòi về duyên phận. Họ chỉ dám lấy người trong nghề với nhau, để chồng đàn vợ hát, đùm bọc chở che cho nhau trước sự để ý của bàn dân thiên hạ. Con cái của đào kép không được ghi danh đi thi, vì họ vẫn mang cái tiếng “xướng ca vô loài”(kẻ xướng ca không xếp vào loại nào trong xã hội)...

Đã vậy, đào nương ca trù lại còn mang thêm cả cái tiếng oan mà cô đầu rượu đổ sang. Đó là cái tiếng mà cô đầu, ả đào đã phải mang lâu nay, khi thiên hạ bảo cô đầu: Lấy khách - khách bỏ về Tàu, lấy nhà giàu - nhà giàu hết của. Lại có câu Lấy quan - quan cách, lấy khách - khách về tàu.

Đào rượu không phải là các đào nương

Ca quán ngày xưa có hai loại cô đầu. Đó là cô đầu hát và cô đầu rượu. Cô đầu hát có từ khi có ca trù. Còn cô đầu rượu nảy sinh trong ca quán cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Năm 1905, một người Pháp là A.Chéon đã ghi lại được “tiếng lóng của bọn hát ả đào ở Hà Nội và Hải Phòng”.

Dưới đây xin dẫn một đoạn: Bán-nông dểnh vất mấy tí-hôi (Ông đi hát với tôi); Trịnh bất-sở mô-khóm dặng?(Nhà trò ở phố nào?); Bạt kí-đó khứa (Nhà có khách); Ngãng tí-ha, hay là ngãng-khứa?(Người ta hay là người khách?); Ngãng mây tím: (Người Tây); Bi-hỡi bánh-nông ngạng tí-lời (Mời ông ngồi chơi); Bị hời bánh thông lác lẻo, lác vẹt, lác thớm (Mời ông xơi nước, xơi trầu, xơi thuốc); Khổm bánh thồng này, tí-hôi moi-góm men-cóm lắm (Ông này tôi quen lắm); Tí - hôi kí - đó vất bạt bị- sự bị - hột bị - hận nước chóm(Tôi có hát nhà chị một bận trước); Từ nghiện ấy đến nay, tí hôi cũng miên cóm, mông mớ dóm đẫn(Từ ngày ấy đến nay, tôi cũng quên không nhớ được); Bị-sị mọi-gọm ngãng dểnh vất (Chị gọi người hát); Bị-hời bánh-mông ghẽo vẹt (Mời ông đánh trống); Mi chóm miệt cọm lắm(Chi tiền kiệt lắm); Mải-dóm chí-kiệt, mọm dọm dẽm (Giải chiếu, dọn rượu); Bị-hời dẽm khởm dặng nước-chóm? (Mời rượu ai trước?)...

Đó là lối nói năng trong các ca quán đầu thế kỷ trước. là cách nói lóng của các cô đầu rượu hoặc của chủ ca quán với khách đến quán. Việc phải sử dụng tiếng lóng trong giao tiếp như vậy rõ ràng là để tránh không cho người người khác, nhất là nhà chức trách biết.

Các cô đào rượu không biết hát. Họ không xuất thân từ các giáo phường ca trù ở nông thôn, cũng không xuất thân từ các giáo phường nền nếp ở thành thị. Cô đầu rượu không vào các ca quán để học nghề đàn hát. Các cô chỉ đến đây để kiếm việc làm, “ăn trắng mặc trơn”, không phải lam lũ. Nghề của các cô đào rượu là giao đãi với quan viên, đáp ứng các nhu cầu thư giãn của họ. Chính các cô đầu rượu, cô đầu ôm này đã khiến cho bao nhiêu gia đình phải khuynh gia bại sản, phải ly tán. Các báo chí trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã có rất nhiều phóng sự và hý họa về các cuộc đánh ghen tày đình xảy ra ở các ca quán Khâm Thiên mà nguyên nhân chỉ vì các cô đầu rượu này.

Người ta nghĩ đến Khâm Thiên là nghĩ ngay đến một khu nhiều tệ nạn, trong khi những tiếng nói bênh vực sinh hoạt ca trù tao nhã và tách bạch đào rượu với đào hát thì lại trở nên yếu ớt hoặc lịm dần trong một thời gian quá lâu. Cô đầu hát bị đánh đồng với cô đào rượu. Tiếng xấu về sinh hoạt ca trù đã kéo dài và hằn lên suy nghĩ của người đời cũng đã quá lâu. Hình ảnh của đào nương ca trù: Mặt tròn thu nguyệt. Mắt sắc dao cau. Vào - duyên khuê các. Ra - vẻ hồng lâu. Lời ấy gấm - Miệng ấy thêu - tài lỗi lạc chẳng thua nàng Ban -Tạ. Dịu như mai - Trong như tuyết - nét phong lưu chi kém bạn Vân – Kiều, theo tháng năm cũng mờ nhòe, sau biết bao nghi ngại.

Mong sao tri âm lại tỏ tri âm, để “tiếng họa mi của nền cổ nhạc” lại cất lên, giữa “cánh đồng âm nhạc” Việt Nam, trong thiên niên kỷ mới.

N.X.D