Thứ Ba, 20 tháng 12, 2011

TRÍ THỨC NHO GIÁO VỚI VIỆC NHO GIÁO HÓA XÃ HỘI

TRÍ THỨC NHO GIÁO VỚI VIỆC NHO GIÁO HÓA XÃ HỘI
(làng xã: từ góc nhìn tư liệu học - foklore)
TS. Nguyễn Xuân Diện
Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Trải qua cả ngàn năm, theo chân các nhà cai trị để có mặt ở Việt Nam rồi trở thành một nền tảng tư tưởng của các triều đại phong kiến, Nho giáo khẳng định được địa vị của mình, và đi tới các vùng quê khắp nơi, để lại dấu ấn thông qua văn tự và các sinh hoạt văn hóa tinh thần của người dân nông thôn Việt Nam. Từ sự xâm nhập lúc ban đầu, Nho giáo đã được khúc xạ và được bảo lưu trong văn nghệ dân gian. Tham gia vào các sinh hoạt văn hóa dân gian, trí thức Nho giáo luôn gắn bó với các sinh hoạt làng xã, trong đó có việc soạn thảo thư tịch để phục vụ sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng. Đây có thể xem là một nét riêng của trí thức Nho giáo Việt Nam so với các nước trong khu vực Đông Á cùng chịu ảnh hưởng của Nho giáo.
Bài tham luận này dựa trên những tài liệu do các nhà Nho tham gia biên soạn, chỉnh lý đang lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, từ cách tiếp cận liên ngành tư liệu học và foklore, để điểm lại những cố gắng của trí thức Nho giáo trong quá trình Nho giáo hóa xã hội.
Phổ biến truyền bá biên dịch kinh điển Nho giáo:
Trong quá khứ đội ngũ các nhà trí thức đều đọc được chữ Hán Nôm. Các hình thức dịch Nôm như diễn âm, giải âm, diễn ca, diễn nghĩa các tác phẩm chữ Hán cũng chỉ nhằm chủ yếu cho 2 đối tượng là người còn đang đi học (học các tác phẩm kinh điển qua bản diễn Nôm) và tầng lớp bình dân (diễn Nôm các tích truyện, hoặc kinh Phật, diễn ca các bài thuốc). Kinh điển Nho gia cũng đã từng được chú ý dịch sang chữ Nôm - tiếng Việt. Hiện ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm có 25 tên tài liệu là bản dịch kinh điển sang quốc âm (chữ Nôm), dịch Nôm hầu hết Tứ thư, Ngũ kinh trong đó chủ yếu là Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Trung Dung(1). Riêng việc dịch Nôm Kinh Thi đã thấy có hai khuynh hướng là Thi học và Kinh học. Xu hướng Thi học đã tước bỏ những chú giải của Tống Nho, để trả lại vẻ đẹp ban đầu của Kinh Thi. “Các bản dịch Nôm khá đa dạng về thể loại (văn xuôi, thơ lục bát, thơ song thất lục bát, thơ đan xen không đều đặn giữa song thất với lục bát), và cũng đa dạng về hướng tiếp nhận, đan xen cả việc tiếp nhận theo hướng kinh học và văn học, trong đó các bản dịch xuôi có thiên hướng tiếp nhận kinh học hơn, còn với các bản dịch thơ, đặc trưng thể loại đã giúp cho dịch giả phần nào thoát khỏi sự chi phối của yêu cầu “kinh học hóa” để chuyển hướng dần sang cách tiếp nhận Kinh Thi với tư cách một tác phẩm văn học” (2).
Việc phổ biến và truyền bá kinh điển Nho gia đến với xã hội còn được thể hiện ở những lời dẫn dụng Nho điển trong khi các nhà Nho soạn văn bia, câu đối, hoành phi cho các địa phương. Các sưu tập hoành phi, câu đối và văn bia mà chúng ta đã sưu tầm được đầy rẫy những chữ nghĩa rút ra từ kinh điển Nho gia. Đáng tiếc là cho đến hiện nay, chưa có khảo sát nào về vấn đề này, để từ đó có thể rút ra những kết luận bổ ích về sự xâm nhập của Nho điển trong làng xã cổ truyền Việt Nam.
Tham gia vào tín ngưỡng dân gian
Trí thức Nho giáo ở Việt Nam luôn sống giữa cộng đồng làng xã. Con đường vào đời của họ là dùi mài kinh sử, theo nghiệp bút nghiên, trải qua các kỳ thi, và “tiến vi quan, thoái vi sư”. Nếu đỗ đạt, họ ra làm quan theo sự điều động của nhà vua, nếu không đỗ đạt, họ suốt đời ở lại chốn hương thôn, trở thành những trí thức của làng quê. Họ trở thành thầy đồ dạy học, thầy lang bốc thuốc, họ như những lãnh tụ tinh thần của cộng đồng, trở thành chỗ dựa của xóm làng. Họ tham gia vào các sinh hoạt tín ngưỡng của dân làng bằng việc văn bản hóa các truyền thuyết, sự tích ở địa phương. Kết quả là cho đến nay, sưu tập về thần tích, sự tích, huyền tích dân gian, tín ngưỡng dân gian có thể coi là một sưu tập có trữ lượng rất lớn.
         Trong số đó sưu tập thần tích có quy mô nhất, ghi chép lai lịch, hành trạng thần kỳ và công đức lớn lao của hàng nghìn vị thần linh, các vị thành hoàng được thờ ở khắp nơi, mang ký hiệu AE với 568 cuốn chép thần tích của các vị thần của 2821 làng xã (thôn, trang, ấp) thuộc 22 tỉnh từ Nghệ An trở ra Bắc.

         Tiến hành nghiên cứu văn bản học mảng thư tịch này, có thể bóc tách các lớp văn hóa được lưu lại. Trường hợp thần tích Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đồng Tử là những ví dụ(3). Đáng chú ý nhất là chúng ta sẽ thấy được sự can thiệp của nhà Nho vào văn bản tín ngưỡng, cũng như áp đặt tư tưởng Nho giáo vào trong hệ thống bách thần; nói cách khác, người ta thấy được
các thần linh được dân gian thờ cúng đã hiện lên như thế nào qua lăng kính nhà Nho(4).
         Ngoài thần tích trong kho AE, còn một sưu tập khác ghi lại các câu chuyện linh dị, các sự tích thần kỳ, thiêng liêng lưu truyền trong các làng quê Việt Nam. Các nhà nghiên cứu thường đưa các sưu tập này vào mục tiểu thuyết chữ Hán (Trần Nghĩa), văn xuôi tự sự (Nguyễn Đăng Na), truyện truyền kỳ (Nguyễn Huệ Chi) (5).
Các khảo cứu về văn bản học của Nguyễn Văn Hoài (đối với Nam thiên trân di tập Công dư tiệp ký)(6), Nguyễn Thị Oanh (đối với Lĩnh Nam chích quái) (7), Đào Phương Chi (đối với Việt điện u linh)(8) cho thấy trong suốt nhiều thế kỷ, các nhà Nho đã dành cho các tác phẩm này sự quan tâm đặc biệt, thể hiện ở việc sao chép, thêm bớt, bình luận, tăng bổ, chú giải… theo những quan điểm riêng của mình, mà kết quả là làm cho chúng trở nên rất phức tạp về văn bản học, biến những tác phẩm từ loại hình văn học chức năng sang loại văn học hình tượng và ngược lại.
Thần sắc (kho AD) với 411 cuốn là các bản sách chép các sắc phong của triều đình phong cho các vị thần thành hoàng qua các thời kỳ lịch sử. Tài liệu này nói lên sự đánh giá của nhà nước phong kiến đối với các vị thần trong cả nước qua từng thời kỳ, từng triều đại cũng như hệ thống thần linh phong phú và phức tạp của thần điện Việt Nam.
Khổng Tử không nói đến “quái, lực, loạn, thần”, không tin quỷ thần, hoặc đối với thần linh thì “kính nhi viễn chi”. Nhưng ở Việt Nam, thần quyền có một vị trí quan trọng trong đời sống quá khứ. Các triều đại phong kiến Việt Nam đều rất coi trọng đến việc tế lễ, thờ phụng các vị thần, đời nào cũng có ban tặng sắc phong cho các vị thần, đưa vào điển lễ. Vương quyền và thần quyền đi song song với nhau trong tâm thức dân gian. Các cuộc tế lễ ở đình làng luôn có sự tham gia của các nhà Nho ở hầu hết các nghi thức: soạn văn tế, soạn bài hát thờ, soạn tục lệ thờ cúng, sưu tầm chỉnh lý thần tích.
Ghi lại sinh hoạt làng xã:
Cho đến nay, những Cổ chỉ, Xã chí, Tục lệ, Hương ước, Địa chí địa phương có thể xem là những sưu tập tư liệu hết sức đặc sắc mà các nhà Nho đã ghi lại và đang trở thành nơi lưu giữ những ký ức về mọi mặt đời sống quá khứ.
Kho Cổ chỉ ký hiệu AH, có 21 cuốn, bao gồm nhiều loại hình tư liệu khác nhau, trong đó có cả các gia phả, thần tích, ngọc phả...Sưu tập cổ chỉ được tập hợp theo từng xã, có ghi tên, chức tước và chữ ký của người thừa lệnh sao chép, nhận thực. Có những bản còn ghi rõ nơi tàng trữ và đóng dấu của địa phương ở phần cuối văn bản. Sưu tập này được sưu tầm được tại một số xã thuộc 5 tỉnh Hưng Yên, Ninh Bình, Sơn Tây, Lạng Sơn, Phúc Yên.
Xã chí có ký hiệu kho AJ, gồm 107 cuốn sưu tập các bản điều tra về địa chí một số thôn xã thuộc 27 tỉnh, từ Khánh Hòa trở ra Bắc, do các nhà Nho thực hiện theo yêu cầu của Viện Viễn Đông bác cổ Pháp tại Hà Nội.
Tục lệ có ký hiệu kho AF, gồm 732 cuốn, ghi chép về tục lệ, khoán ước của 74 huyện, phủ, châu, thuộc 18 tỉnh từ Nghệ An trở ra Bắc. Các bản tục lệ cũng được đóng theo từng xã, thôn; trang đầu hoặc trang cuối văn bản thường ghi năm tháng lập hoặc sao chép tục lệ, nhiều bản còn ghi được đầy đủ cả tên người lập khoán lệ, tên những người ký tên xác nhận (9).
Biên soạn địa chí là một việc rất được các nhà Nho quan tâm. Địa chí hiện thống kê được khoảng 113 cuốn. Nghiên cứu địa chí ngoài việc quan tâm đến bản thân cuốn địa chí, còn góp phần nghiên cứu về sự đánh giá và hiểu biết, cũng như sự gắn bó, tâm trạng và cảm quan của người viết đối với vùng đất mà họ quan tâm biên chép. Các ghi chép của Dương Văn An, Lê Quý Đôn, Trịnh Hoài Đức, Bùi Dương Lịch, Vũ Phạm Khải, Phan Huy Chú…đã thể hiện rất rõ điều này. Cuốn địa chí xưa nhất là Dư địa chí của Nguyễn Trãi được viết trong niềm tự hào về non sông gấm vóc Đại Việt có chủ quyền, có văn hiến, có nhân dân anh hùng và sáng tạo.
Ngoài những sưu tập kể trên, hiện ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm cũng còn có nhiều thác bản văn bia khoán ước, điều lệ được sưu tầm từ nhiều địa phương trong nước. Trong đó, đặc biệt phải kể đến các văn bia có nội dung khuyến học, khuyến tài. Thống kê cho biết có đến 780 văn bia thuộc loại khuyến học được tìm thấy trong kho thác bản của Viện Nghiên cứu Hán Nôm (10).
Làng xã cổ truyền rất coi trọng người có học hành và người đỗ đạt. Hệ thống khoa cử để cho tất cả mọi người trong xã hội, bất kể sang hèn, giàu nghèo đều có cơ hội thể hiện tài năng và trình độ học vấn là một trong những lý do để các làng xã coi trọng việc học hành. Và hình ảnh “võng anh đi trước võng nàng đi sau” luôn là giấc mơ cao sang của các thôn nữ, vợ của các khóa sinh. “Một người làm quan cả họ được nhờ” cũng là kỳ vọng của các dòng họ đối với con đường nghiên bút của các sĩ tử trong họ. Những người đi thi, đều có khát vọng được ghi tên tuổi, quê quán trên bảng vàng bia đá, lưu mãi tiếng thơm, đều có khát vọng cống hiến cho triều đình và đất nước. Dưới sự sắp đặt của những người có chữ hoặc đã đỗ đạt trong làng, một số thiết chế văn hóa đã được thiết lập như các văn chỉ được xây dựng để thờ Đức Khổng Tử và các vị tiên hiền, tiên nho trong làng; ruộng học điền được lập; các hương ước có thêm phần khuyến học, miễn lính, miễn phu cho các khóa sinh; v.v. Đặc biệt nhất phải kể đến các hội Tư văn ở các làng xã, được xem là một tổ chức bao gồm những người có học trong làng.
Đây là mảng tài liệu tổng hợp về mọi mặt đời sống nông thôn Việt Nam trong lịch sử như phong tục, tập quán, lề thói, thổ ngơi, diên cách, di tích, lễ hội của các làng quê.
Xây dựng gia đình truyền thống:
Ý thức về dòng họ đi liền với việc xây dựng và duy trì nền nếp gia phong rất được các nhà Nho quan tâm. Với quan niệm “Quốc hữu sử, Gia hữu phả” thường là câu mở đầu của các gia phả, các nhà Nho đã biên soạn những bộ gia phả cho dòng họ mình và thậm chí còn viết gia phả cho các dòng họ khác. Gia phả không chỉ cho biết việc của một dòng họ, quá trình thiên di phát tán, phát triển của một dòng họ mà còn cho chúng ta biết về sự hình thành một vùng đất, những cư dân đầu tiên đến sinh cơ lập nghiệp, và sự đóng góp của các dòng họ cụ thể đối với một làng quê, một vùng đất cụ thể...Nhiều gia phả dòng họ lớn đã ghi được nhiều sự kiện mà chính sử đã không thể ghi chi tiết, từ đó đã bổ sung cho chính sử. Thống kê cho biết Viện Nghiên cứu Hán Nôm có 264 cuốn gia phả (11).
Về tài liệu gia huấn hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, thống kê được 51 tên sách (12). Gia huấn góp phần xây dựng tiêu chuẩn, lối sống cho mọi người theo đạo đức Nho giáo.
Nói đến gia huấn, người ta vẫn nghĩ đến một cuốn sách giấy dó, trên viết chữ Hán Nôm, ít người biết gia huấn còn được khắc trên đá. Chọn hình thức lưu giữ trên bia đá, hẳn các nhà Nho mong muốn những lời giáo huấn này sẽ lưu truyền mãi mãi và vững bền như cùng các giá trị truyền thống của các bản gia huấn. Đó là những quyển sách đá ghi những lời vàng ngọc của tổ tiên truyền dạy lại cho con cháu. Chúng tôi đã tìm được một số gia huấn được khắc trên bia đá, trong đó có một số văn bia tiêu biểu cho loại này như sau:
Văn bia Tích thiện gia huấn bi ký (13) do Tiến sĩ Nguyễn Nghiễm soạn năm 1765, khi ông đang giữ chức Binh bộ thị lang, hiện còn tại miếu làng Tiên Điền, xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Văn bia ghi lại lời dạy của ông đối với con cháu trong gia tộc, khuyên giữ gìn gia phong, tu dưỡng đạo đức, dốc sức làm việc thiện để vun trồng cội phúc, làm gương cho hậu thế.
Văn bia Tân san gia huấn bi (14)tại nhà thờ họ Nguyễn ở xã Phú Đa, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc khắc bài văn bia do Phạm Vĩ Khiêm soạn năm 1767, khắc rõ 10 điều gia huấn, khuyên con cháu: Giữ lòng ngay thẳng, chăm chỉ học hành, hiếu thuận nhân từ, ăn ở kính nhường, vợ chồng hòa thuận, cung kính đôn hậu, bạn bè tin cậy, hòa mục với láng giềng, phụng dưỡng cha mẹ, chăm chỉ nghề nghiệp.
Nhà thờ họ Vũ, xã Phù Ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên có tấm bia Miễn tử tôn cần học thi (16), tạc năm 1660, khắc bài thơ Đường luật và đôi câu đối khuyên con cháu cần cù học hành giữ nghiệp tổ tiên cày bừa trên ruộng sách, sau này được hiển vinh nơi khoa giáp rồi ra giúp vua giúp nước.
Nhà thờ họ Vũ, xã Mộ Trạch, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, có tấm bia Tu cấu đường châm (16) do Tiến sĩ Vũ Đăng Long soạn năm 1675, khắc bài châm nói về việc tu dưỡng lòng trung tín, dốc sức học hành.
Một võ quan cao cấp dưới triều Lê Cảnh Hưng là Nguyễn Sỹ Trung vào năm 1766 cũng tự tay soạn văn bia Từ huấn bảo minh (17) khắc một bài văn vần 50 câu căn dặn con cháu phải giữ gìn đạo đức, cần kiệm, trung hiếu, không rượu chè bê tha, không làm điều phi nghĩa, để giữ lấy truyền thống của tổ tiên, đặt tại nhà thờ họ Nguyễn của mình ở xã Đặng Xá, huyện Gia Lâm, Hà Nội.
Đặc biệt nhất, phải kể đến bia Vũ Vu thiển thuyết khắc hẳn cả một cuốn sách của Ninh Ngạn (1715 - 1781) được con trai là Ninh Tốn dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 42 (1781), hiện đặt tại nhà thờ họ Ninh ở xã Yên Mỹ, huyện Tam Điệp tỉnh Ninh Bình. Văn bia gồm 2 phần. Phần 1 là lời dẫn ghi lại sự nghiệp của Ninh Ngạn và tác phẩm của ông. Phần 2 khắc toàn văn bộ sách gồm 2 quyển thượng, hạ, gồm 45 chương sách. Trong đó có các chương 1 và 2 bàn về chữ hiếu, cách đánh giá về hiếu và bất hiếu; chương 3 bàn về quan hệ giữa nuôi và dạy con cái trong gia đình; chương 6 và 7 bàn về quan hệ vợ chồng; chương 8 và 9 bàn về Nhân và Tín; chương 10 bàn về đạo làm người; chương 12 bàn về ba loại “tâm bệnh” là giầu, sang và thọ; chương 13 bàn về việc phải coi điều thiện làm thầy, thấy ai có điều thiện, dù là kẻ dưới đều nên coi là thầy mà học; chương 29 và 30 bàn về việc làm điều tốt không cốt ở tiếng khen, đánh giá người phải xét ở lời nói và việc làm; chương 31 và 32 bàn về việc lập đức, lập thân và lập danh; chương 33 và 34 chuyên bàn về những điều cần tránh như rượu chè, cờ bạc, sắc dục, lười biếng, nói năng khinh xuất; chương 39 và 40 bàn về sống - chết, vinh - nhục ở đời (18).

Sưu tập văn học dân gian và sáng tác thơ ca

Nhà Nho Việt Nam sống giữa làng xã, tham gia vào các sinh hoạt làng xã. Không chỉ soạn thảo các văn bản ghi chép về phong tục tập quán hay phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của cộng đồng, hoặc sưu tầm, ghi chép lại các câu chuyện thần kỳ linh dị trong dân gian mà còn sưu tập thơ ca dân gian. Một trong những kết quả đó là kho tàng truyện thơ Nôm.
Kho tàng truyện thơ Nôm có một khối lượng tác phẩm đáng kể với 106 tên tác phẩm truyện Nôm và 47 tác phẩm truyện thơ của các dân tộc ít người, được viết bằng chữ Nôm của dân tộc họ (19). Truyện thơ Nôm khuyết danh do các nhà Nho hoặc ghi lại được, hoặc sáng tác dựa trên các tích truyện lưu truyền trong dân gian, và có mục đích là dành cho đông đảo công chúng rộng rãi ở tầng lớp bình dân (có người gọi mảng văn học này là truyện Nôm bình dân).
Theo các soạn giả của bộ sách Kho tàng ca dao người Việt thì chúng ta có 12 sưu tập ca dao được ghi chép bằng chữ Nôm (20). Đó là các tập Nam phong giải trào, Thanh Hóa quan phong, Nam giao cổ kim lý hạng ca dao chú giải, Đại Nam quốc túy, Quốc phong thi tập hợp thái, Việt Nam phong sử, Nam âm sự loại, Nam phong nữ ngạn thi, Khẩu sử ký, An Nam phong thổ thoại, Phỏng Thi kinh Quốc phong, Lý hạng ca dao. Các sưu tập ca dao này cũng đã được sử dụng trong quá trình tuyển chọn đưa vào bộ sách.
Gần đây, Nguyễn Thúy Loan cho biết có 7 cuốn sách Hán Nôm sưu tập tục ngữ của người Việt (21) và giới thiệu trong tập sách Tục ngữ trong sách Hán Nôm (22). Những sưu tập này đều do các nhà Nho thực hiện.
Ngoài ca dao, tục ngữ chúng ta còn thấy có các sưu tập thơ ca dân gian. Đáng chú ý về mảng này là các tác phẩm thơ văn giáng bút, theo thống kê của Nguyễn Xuân Diện riêng ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã có 254 cuốn sách, trong đó có 226 bản là bản in(23). Các tập thơ văn này được sưu tập từ 98 Thiện đàn nằm ở hầu hết các tỉnh ở châu thổ Bắc bộ. Nghi lễ giáng bút là một hoạt động mang đậm tín ngưỡng dân gian dưới ảnh hưởng của Đạo giáo. Nhưng nội dung thơ văn giáng bút cũng chính là nội dung, mục đích hoạt động của các thiện đàn lại do các nhà nho chủ trương. Đó là một chương trình tuyên truyền rộng khắp suốt thời gian nửa cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX tập trung vào hai vấn đề: Kêu gọi lòng yêu nước thương nòi và Chấn hưng văn hóa dân tộc.
- Kêu gọi lòng yêu nước thương nòi: Giáng bút lời các vị anh hùng liệt nữ của dân tộc như: Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão, Hai Bà Trưng, Bà Triệu...; Giáng bút lời các vị thần tiên trong thần điện Việt Nam như: Tản Viên Sơn Thánh, Phù Đổng Thiên Vương, Liễu Hạnh Công chúa, Từ Đạo Hạnh...; Giáng bút lời các tiên nho, các nhà văn hóa như: Tô Hiến Thành, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan...Thơ văn giáng bút còn nhắc nhớ, thúc giục lòng yêu nước, thương yêu giống nòi, thấy được nỗi nhục của dân mất nước.
- Chấn hưng văn hóa dân tộc, xây dựng nếp sống mới: Đề cao việc nâng cao dân trí; Bài bác hủ tục; Đề cao phụ nữ (giáng bút lời Thánh Mẫu cho phụ nữ); Khuyên sống lương thiện, thương yêu đùm bọc nhau; In ấn kinh sách về tôn giáo, lịch sử, văn học, ngôn ngữ.
Thơ ca giáng bút chủ yếu viết bằng chữ Nôm rất thuận lợi cho việc truyền miệng và không gặp trở ngại về mặt văn tự đối với người bình dân không biết chữ .
Một giá trị rất đặc biệt của thơ văn giáng bút cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, là dưới ảnh hưởng của các phong trào yêu nước, nó đã làm phát khởi những biểu tượng mới trong văn hóa Việt Nam. Đó là những biểu tượng về Quốc Hồn, Quốc Túy, Quốc Dân, Nòi Giống, Yêu Nước Thương Nòi, Giống Lạc Hồng, Con Rồng Cháu Tiên được nhắc đến rất nhiều, rất khẩn thiết và nhằm đến đối tượng là các tầng lớp nhân dân lao động.
Một mảng nữa, nằm ở gạch nối giữa văn học và sử học là các bộ sử ca, diễn ca lịch sử bằng chữ Nôm, theo thể thơ lục bát như: Thiên Nam ngữ lục, Việt sử diễn âm, Đại Nam quốc sử diễn ca,...Là các tác phẩm sử học, nhưng các tác phẩm này lại chứa đựng ít nhiều cảm quan, tâm thức dân gian trong việc xây dựng các hình tượng anh hùng dân tộc. Hình ảnh Bà Triệu vú dài ba thước chẳng hạn, đấy là một hình ảnh phóng đại của lối nói dân gian. Đấy là chưa kể đến cách sử dụng ngôn từ, hình ảnh, lối nói ví von của dân gian trong miêu tả, xây dựng nhân vật.
Sáng tác và sưu tầm nghệ thuật sân khấu, ca nhạc dân gian:
Sân khấu dân gian:
Hai loại hình ca vũ để lại nhiều văn bản thư tịch nhất là tuồng và ca trù. Điều này hoàn toàn không khó hiểu, vì đây là hai loại hình ca vũ nhạc gắn liền với sinh hoạt của cung đình và trí thức.
Tuồng luôn đề cao tư tưởng quân quốc, kịch bản đa số bắt nguồn từ các tích truyện của Trung Hoa.
Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện có 23 pho tuồng, và 49 pho tuồng là các bản photocopy do thư viện Hoàng gia Anh trao tặng (24. Tác giả Phan Ngọc cho biết, khi ông cùng với ông Lê Ngọc Cầu viết quyển Nội dung xã hội và mỹ học Tuồng đồ thì đã có trong tay trên 100 vở tuồng đã phiên chuyển quốc ngữ (25).
Về chèo, hiện chúng ta có 7 kịch bản chèo cổ (Hà Ô Lôi, Nhị Độ Mai, Kiều, Hoa Vân, Lưu Bình - Dương Lễ, Trương Viên...). Việc trình diễn các tích chèo được diễn ra tại làng (địa điểm là giữa đình - một nơi công cộng), trong hội làng (thời điểm có đông nhất các thành viên, thành phần tham dự: chức sắc, quan viên, dân làng). Các kịch bản chèo Nôm còn lại đến nay cho thấy các nhà nho đã trực tiếp văn bản hóa các tích chèo, góp phần gìn giữ di sản sân khấu dân gian.
Ca nhạc dân gian:
Vốn ca nhạc dân tộc được ghi chép rất tản mạn, có thể hình dung như chúng ta đang có các sổ tay của những người yêu nghệ thuật ca hát. Ca trù tạp lục (VHv.2940) có chép các bản đàn Giao duyên, Cổ bản, Nam bằng, Kim tiền, Nam ai, Nam thương, Tứ đại cảnh...Ca trù thể cách (AB.160) có chép ca từ của một số làn điệu Hát lý, Hát bội, Hát sắc bùa. Đại Nam quốc âm ca khúc (AB.146) có ca từ các điệu Nam bằng, Nam ai, Tứ đại cảnh; các bản đàn Kê Khang, Tư Mã Phượng Cầu, Tam Thiên tụng, Phú lục (26).
Về Ca trù hiện chúng ta có 49 cuốn sách, 70 văn bia có liên quan đến ca trù (27). Nguồn tài liệu này đóng một vị trí đặc biệt và vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu về ca trù một bộ môn nghệ thuật kết hợp giữa thơ - nhạc - vũ đạo vốn có mặt trong hầu hết sinh hoạt văn hóa tinh thần của ngưòi Việt qua nửa thiên niên kỷ. Ca trù được ghi chép khá đầy đủ và toàn diện trước hết là vì ca trù gắn liền với sinh hoạt của giới nho sĩ có học vấn nhất định. Các tư liệu thư tịch và bi ký này đã cho phép khẳng định một số vấn đề sau: lịch sử và sự phát triển của bộ môn nghệ thuật ca trù trong không gian trình diễn nghệ thuật riêng của nó; về sinh hoạt và tổ chức giáo phường ca trù; về các làn điệu ca trù, đặc biệt là thể thơ hát nói. Các văn bản Hán Nôm về ca trù ghi rõ lề lối hát ca trù tại các đình làng, ca quán, tại buổi lễ tế tổ, hoặc tại tư gia, thậm chí là quy cách và nội dung các vòng thi ca trù. Nhờ những ghi chép của các nhà nho xưa mà chúng ta biết họ đã quan tâm đến nghệ thuật ca trù như thế nào, và để nghiên cứu về lịch sử và nghệ thuật ca trù.

KẾT LUẬN

1. Nghiên cứu về Nho giáo và ảnh hưởng của Nho giáo tại Việt Nam ngoài các các vấn đề mang tính chính thống như quá trình truyền bá kinh điển; ảnh hưởng của Nho giáo đối với văn học, sử học, giáo dục và khoa cử, đạo đức và luật pháp, chính trị v.v. thì một vấn đề không kém phần quan trọng đó là nghiên cứu ảnh hưởng và tác động của Nho giáo, Nho học đối với văn hóa dân gian. Với thao tác tiếp cận liên ngành, đa ngành những dấu ấn hay biểu tượng cũng như sự khúc xạ của Nho giáo trong những tầng sâu của văn hóa dân gian sẽ được phát hiện và bổ sung cho những hiểu biết về một xã hội Việt Nam đã được đặt dưới ảnh hưởng của Nho giáo như thế nào.
2. Trí thức Nho giáo Việt Nam đã tham gia soạn thảo thư tịch để phục vụ sinh hoạt của đời sống xã hội vào sinh hoạt của cộng đồng làng xã và để lại một khối lượng thư tịch lớn. Những thư tịch này cho thấy trí thức Nho giáo đã tích cực xây dựng một xã hội theo Nho giáo, từ cấp trung ương đến cấp địa phương, tới đơn vị nhỏ nhất là làng xã.
3. Việc tham gia vào sinh hoạt làng xã đã góp phần vào việc Nho giáo hóa xã hội Việt Nam dưới thời quân chủ. Quyết tâm ấy thể hiện không chỉ ở việc ra sức truyền bá kinh điển Nho gia mà họ còn trực tiếp tham gia vào mọi mặt của đời sống văn hóa, tín ngưỡng của làng xã; xây dựng gia đình theo truyền thống Nho giáo; ghi lại sáng tác dân gian và tự sáng tác các tác phẩm mang đậm chất foklore.
4. Để có một cái nhìn toàn diện, đầy đủ về vai trò của trí thức Nho giáo trong việc Nho giáo hóa xã hội từ góc nhìn foklore còn cần bổ sung bằng các cứ liệu của các ngành nhỏ của văn hóa dân gian như: Lễ hội, Tín ngưỡng, Phong tục, Nghệ thuật tạo hình (mỹ thuật, kiến trúc và điêu khắc dân gian), Nghệ thuật biểu diễn (âm nhạc, múa, trò diễn). Bài này chỉ giới hạn khảo sát về những nỗ lực của trí thức Nho giáo để Nho giáo hóa xã hội nhìn từ góc nhìn liên ngành tư liệu học - folklore.
CHÚ THÍCH

1. Xem thêm bài Tổng quan tài liệu Nho giáo và Nho học ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm (khảo sát và đánh giá về trữ lượng và giá trị của Nguyễn Xuân Diện, tạp chí Hán Nôm số 1- 2005.

2. Nguyễn Tuấn Cường Tiếp nhận Kinh Thi tại Việt Nam thời Trung đại - Từ góc nhìn phiên dịch Hán Nôm. Bài tham gia Hội thảo quốc tế tại Viện Văn học.
3.3 Xem bài của Nguyễn Xuân Diện trong kỷ yếu hội thảo khoa học Sơn Tinh và vùng văn hóa cổ Ba Vì. Sở VHTT Hà Tây, 1997; và bài của Đỗ Lan Phương trên tạp chí Văn hóa dân gian số 1 năm 2004.
4. Xem thêm bài của Trần Ngọc Vương trong kỷ yếu hội thảo khoa học Sơn Tinh và vùng văn hóa cổ Ba Vì. Sở VHTT Hà Tây, 1997
5. Xem: Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam gồm 4 tập (Trần Nghĩa chủ biên). Nxb. Thế Giới, Hà Nội 1997. Văn Xuôi tự sự Việt Nam. Truyện truyền kỳ Việt Nam. Nguyễn Huệ Chi chủ biên. Nxb. Giáo dục, Hà Nội 1999; Nguyễn Đăng Na chủ biên. Nxb. Giáo Dục. Hà Nội 2001.
6. Nguyễn Văn Hoài: Sơ bộ đối chiếu những mục truyện tương đồng giữa Nam Thiên Trân Di Tập và Công Dư Tiệp Ký Tiền Biên. Luận văn Thạc sĩ đã bảo vệ thành công năm 1998. Bản lưu tại Thư viện Hán Nôm, ký hiệu La.89.
7. Nguyễn Thị Oanh: Nghiên cứu văn bản Lĩnh Nam Chích Quái. Luận án Tiến sĩ đã bảo vệ thành công năm 2005.
8. Đào Phương Chi: Nghiên cứu văn bản Việt Điện U Linh và quá trình dịch chuyển của văn bản. Luận án Tiến sĩ đã bảo vệ thành công năm 2007. Bản lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
9. Xem bài của Đinh Khắc Thuân trong Nho giáo ở Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế. Nxb. KHXH. Hà Nội, 2006.
10. Nguyễn Hữu Mùi: Nghiên cứu Văn bia khuyến học Việt Nam (Từ thế kỷ XV đến những năm đầu thế kỷ XX). Luận án Tiến sĩ đã bảo vệ thành công năm 2006. Bản lưu tại Thư viện Hán Nôm.
11. Nguyễn Thị Oanh, bài tham gia Hội thảo khoa học Quốc tế về Gia phả tại Thư viện Thượng Hải, ngày 7 đến 12 tháng 5 năm 2000.
12. Nho giáo ở Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế. Nxb. KHXH. Hà Nội, 2006. Trang 226 và 154.
13. Bia có ký hiệu số M.96, thư viện Hán Nôm.
14. Bia có ký hiệu số 14534, thư viện Hán Nôm.
15. Bia có ký hiệu số 4914, thư viện Hán Nôm
16. Bia có ký hiệu số 19828 - 29, thư viện Hán Nôm.
17. Bia có ký hiệu số 3375, thư viện Hán Nôm.
18. Xem bài của Hoàng Lê Hai tấm bia về Ninh Ngạn và cuốn Vũ Vu thiển thuyết của ông. Tạp chí Hán Nôm số 1 năm 1986. tr. 62-64.
19. Kiều Thu Hoạch: Truyện Nôm, nguồn gốc và bản chất thể loại. Nxb. KHXH. Hà Nội, 1993.
20. Nguyễn Xuân Kính và Phan Đăng Nhật đồng chủ biên: Kho tàng Ca dao người Việt. Nxb Văn hoá Thông tin. Hà Nội, 1995.
21. Bảy cuốn sách đó là: Nam quốc phương ngôn tục ngữ bị lục, Nhân sự thường đàm ngạn ngữ tập, Phương ngôn tục ngữ, Tục ngạn tập biên, Đại Nam quốc túy, Khẩu sử ký, Nam âm sự loại. Trong đó có 5 cuốn lưu tại thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
22. Tục ngữ trong sách Hán Nôm. Nguyễn Thúy Loan. Nxb. Văn học. Hà Nội, 2007. 589 tr.
23. Nguyễn Xuân Diện: Văn thơ Nôm giáng bút với việc kêu gọi lòng yêu nước và chấn hưng văn hóa dân tộc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. In trong sách Nghiên cứu Chữ Nôm. Nxb. KHXH. Hà Nội, 2006.
24. Nguyễn Thị Trang: Phông sách tuồng Nôm trong kho sách Hán Nôm. In trong Thông báo Hán Nôm học năm 1995. Nxb. KHXH. Hà Nội, 1996. Trang 408 - 413.
25. Phan Ngọc: Bản sắc văn hoá Việt Nam. Nxb Văn hoá Thông tin, H, 1998, tr. 305.
26. Nguyễn Xuân Diện: Tư liệu Hán Nôm về ca trù, trữ lượng và giá trị. Tạp chí Hán Nôm số 1- 1999, tr.18.
27. Nguyễn Xuân Diện: Nguồn tư liệu Hán Nôm với việc nghiên cứu ca trù. Luận án Tiến sĩ Ngữ văn đã bảo vệ thành công năm 2007. Bản lưu tại thư viện Hán Nôm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu. Ba tập. Gs. Trần Nghĩa và Gs. Francois Gros đồng chủ biên. Nxb. Khoa học xã hội. Hà Nội, 1993.
2. Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu. Bổ Di. Tập Thượng và Hạ. Trần Nghĩa chủ biên. Nxb. Khoa học xã hội. Hà Nội, 2002.
3. Văn khắc Hán Nôm Việt Nam. Nguyễn Quang Hồng chủ biên. Nxb. Khoa học xã hội. Hà Nội, 1993.
4. Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 - 1919. Ngô Đức Thọ chủ biên. Nxb. Văn học. Hà Nội, 1993.
5. 50 năm Sưu tầm Nghiên cứu Phổ biến Văn hóa - Văn nghệ dân gian. Nhiều tác giả. Hội Văn Nghệ Dân gian Việt Nam. Nxb. Khoa học xã hội. Hà Nội, 1997.
6. Một thế kỷ sưu tầm nghiên cứu văn hóa văn nghệ dân gian Việt Nam. Nhiều tác giả. Hội Văn Nghệ Dân gian Việt Nam. Nxb. Văn hóa - Thông tin. Hà Nội, 2001.
7. Nghiên cứu Chữ Nôm. Kỷ yếu Hội nghi Quốc tế về Chữ Nôm. Nhiều tác giả. Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Hội Bảo tồn chữ Nôm Hoa Kỳ đồng tổ chức. Nxb. KHXH. Hà Nội, 2006.
8. Nho giáo ở Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế. Nhiều tác giả. Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Viện Harvard-YenChing tổ chức.Nxb. KHXH. Hà Nội, 2006.
 
[Tóm tắt]
         Văn nghệ dân gian bao gồm các lĩnh vực sinh hoạt văn hóa tinh thần của nhân dân lao động sống một đời sống khép kín sau lũy tre làng – một biểu tượng của một xã hội đóng kín cả về nghĩa đen và nghĩa bóng. Tìm hiểu về dấu ấn của Nho giáo trong văn nghệ dân gian cũng chính là tìm hiểu con đường thâm nhập của Nho giáo vào cơ tầng làng xã vốn được xem như những ốc đảo biệt lập. Trải qua cả ngàn năm, theo chân các nhà cai trị để có mặt ở Việt Nam rồi trở thành một nền tảng tư tưởng của các triều đại, Nho giáo khẳng định được địa vị của mình, và đi tới các vùng quê khắp nơi, để lại dấu ấn thông qua văn tự và các sinh hoạt văn hóa tinh thần của người dân nông thôn Việt Nam. Từ sự xâm nhập lúc ban đầu, Nho giáo đã được khúc xạ và được bảo lưutrong văn nghệ dân gian. Tham gia vào các sinh hoạt văn hóa dân gian, văn nhân trí thức xưa luôn gắn bó với các sinh hoạt làng xã, trong đó có việc soạn thảo các thư tịch để phục vụ sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng. Kết quả là họ đã để lại trong kho tàng thư tịch cổ Việt Nam một khối lượng thư tịch lớn các văn bản phản ánh nhiều mặt của cuộc sống trong quá khứ.
Tham luận này đi sâu phân tích khối lượng tư liệu đồ sộ này dưới ánh sáng của khoa học liên ngành, đa ngành, góp phần nghiên cứu các vấn đề sau: Trí thức Nho giáo và quá trình Nho giáo hóa xã hội Việt Nam; Trí thức Nho giáo với các thư tịch Hán Nôm được soạn thảo phục vụ sinh hoạt của đời sống xã hội; Quá trình bảo lưu và khúc xạ của Nho giáo trong lòng xã hội Việt Nam.
***

Confucian Scholars and the Influence 
of Confucianism on Society
Nguyen Xuan Dien, PhD
Folklore includes many spiritual and cultural realms of people who have a close life inside the “bamboo rampart”- the symbol of a closed society in both a literal and figurative sense. To study the impact of Confucianism in folklore requires studying Confucianism’s penetration of the village’s community structure which was considered to be an “isolated oasis”. Through thousands of years, Confucianism appeared in Vietnam as a guide for rulers and as a foundation of dynasties.  Confucianism’s influence pervaded all aspects of life in Vietnam, particularly the spiritual culture of people in the rural villages in Vietnam. From the beginning the values and ideals of Confucianism was reflected and maintained in Folklore at certain levels.  Participating in folkloric activities, Confucian scholars developed an interest in the community activities of the village chronicling the religious ceremonies and customs and traditional practices and beliefs of the community. In doing this they created and maintained a large number of documents incorporating details of the traditional culture. These materials serve as an invaluable source of information about the past.
Applying interdisciplinary methodologies and a review of this body of materials, this study focuses on studying two points:
1. The role of Confucian scholars and the process by which Confucianism influenced Vietnamese society;
2. The role of Confucian scholars and their work, the body of Sino-Vietnamese documents, in chronicling the traditional social activities, and helping preserve and perpetuating them.  

Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo Nghiên cứu tư tưởng Nho gia Việt Nam từ hướng tiếp cận liên ngành, do Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Harvard-YenChing (Hoa Kỳ) đồng tổ chức, Hà Nội, 2008.

MẤY ĐIỀU HỎI LẠI GIÁO SƯ TRẦN NGỌC VƯƠNG

 

MẤY ĐIỀU HỎI LẠI GIÁO SƯ TRẦN NGỌC VƯƠNG
Đào Tiến Thi

Tôi từng đọc một vài công trình của PGS.TS Trần Ngọc Vương, từng tiếp thu được một số tư liệu và nhận định; về con người, tôi cũng từng gặp đôi lần và vẫn kính cẩn gọi bằng thầy, coi ông như một người thầy đáng kính.

Nhưng tôi thấy trong bài viết Giới trí thức tinh hoa trong lịch sử Việt Nam trên tạp chí Tia sáng ngày 9-9-2010, được blog Nguyễn Xuân Diện đăng lại ngày 17-12-2011, thì có nhiều điều nghe khó lọt.
Bài của PGS.TS Trần Ngọc Vương có 3 phần:
- Trí thức Nho học Việt Nam, hay trí thức Việt Nam thời phong kiến
-  Trí thức Tây học Việt Nam, hay trí thức Việt Nam thời Pháp thuộc
- Trí thức mới Việt Nam, hay trí thức Việt Nam thời XHCN
Tôi xin chỉ nói về hai vấn đề đầu.
1. Phần thứ nhất, theo tác giả thì trí thức Nho giáo ở ta có một lịch sử lâu đời nhưng đóng góp cho tư tưởng học thuật thì không đáng kể, thua hẳn trí thức Nho giáo Trung Hoa và thua trí thức Phật giáo Việt Nam. Theo cảm nhận của tôi, điều này có lẽ đúng và hình như cũng có người nói rồi. Tuy nhiên chỗ này cũng nên tìm rõ cội nguồn. Không nên vội kết luận Không có ai có hứng thú đi vào những tư tưởng triết học”. Nói như thế thì hóa ra trí thức Nho giáo Việt Nam hoặc lười biếng hoặc mang căn tính nô lệ, chỉ biết học của Tàu hay sao?
Theo tôi có hai nguyên nhân khiến trí thức Nho giáo Việt Nam khó có thể chuyên tâm đi vào học thuật.
Thứ nhất, với nền sản xuất tiểu nông là chủ đạo, con người phải vật lộn với nhu cầu mưu sinh đầy khó khăn, chúng ta khó mà có được những nhà tư tưởng thuần túy, chỉ biết có học thuật. Trí thức Nho học luôn gắn sự tồn tại bản thân với nghiệp làm quan, nếu có lui về ẩn dật thì lại gắn với ruộng vườn. Trước dư luận xã hội, cả hai trạng thái trên đều cần có danh phận (đỗ đạt, chức tước, bổng lộc của triều đình). Dư luận xã hội không khuyến khích những người “tử vì đạo” (theo nghĩa say mê một học thuyết, không quan tâm nhu cầu mưu sinh cũng như dư luận xã hội). Trong bối cảnh ấy khó có cá nhân nào đủ bản lĩnh đi ngược đám đông. Hoài Thanh từng cay đắng thốt lên điều này:
“Quang cảnh học giới nước ta tiêu điều làm sao! Dễ thường thế giới không có nước nào mà những người tự nhận là học giả lại lạnh lùng với việc học như ở nước mình. Người mình vẫn được tiếng là hiếu học nhưng đúng ra chỉ hiếu lợi và hiếu danh. Khi sự học không đưa đến cho mình lợi và danh thì ít ai còn màng đến nó nữa”[i]
Thứ hai, cũng có những lúc có tài năng lớn xuất thiện, nhưng lại gặp lúc vận nước nghiêng ngả nên họ phải đặt việc cứu nước cứu đời lên trên hết. Đấy là trường hợp của Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu và nhiều sỹ phu cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Nếu cho phép đặt ra chữ “nếu”, vâng, nếu không phải bôn ba cứu nước thì thiết nghĩ thay vì nhà cách mạng Phan Bội Châu, chúng ta có sẽ có nhà tư tưởng Phan Bội Châu. Tôi dám “nếu” điều này vì đọc thấy ngay trong thơ văn tuyên truyền cách mạng của Cụ, thứ trước tác vốn phải làm gấp, không trau chuốt, lại phải đại chúng hóa, mà luôn chứa những tư tưởng lớn của thời đại. Và chỉ trong 15 năm cuối đời bị an trí ở Huế, với tuổi già sức yếu, sự bó buộc, và đặc biệt là nỗi đau buồn về đất nước, Cụ  vẫn còn viết được hai tác phẩm triết học đồ sộ: Chu dịch diễn giảiKhổng học đăng (hai tác phẩm nay in ở Phan Bội Châu toàn tập, tập 9 và 10, khoảng 1500 trang khổ 16 x 24). Trong lời giới thiệu Chu dịch diễn giải, nhà sử học Chương Thâu viết: “Như là một học giả uyên bác, Cụ đã dồn hết sức lực và tâm huyết để nghiên cứu thêm, giải thích lại một số thành tựu vĩ đại của văn hóa Phương Đông dành cho các thế hệ con cháu mai sau”[ii].Khổng học đăng, tư tưởng chủ quan của người khảo cứu càng lớn hơn. Chương Thâu đánh giá: “Bộ sách này đủ cho ta thấy rõ tư tưởng học thuật và đời sống tinh thần của cụ Sào Nam. Cụ không viết theo lối nghiên cứu khách quan của học giả, mà Cụ viết theo sự tâm đắc của bản thân mình. Bởi thế nên Cụ có rất nhiều tư tưởng chủ quan của mình. Nhưng cũng vì thế mà ta thấy rõ được những ý kiến để bồi bổ cho linh hồn và để nuôi dưỡng cái hoài bão cao đẹp của mình”[iii].
2. Phần thứ hai của bài, nói về trí thức thời Pháp cai trị, PGS.TS. Trần Ngọc Vương  càng có xu hướng hạ thấp một cách phi lịch sử:
“Gia nhập xã hội hiện đại theo con đường bị cưỡng bức, không hề được chuẩn bị đầy đủ về mọi phương diện để thích nghi, thiếu nghiêm trọng những kinh nghiệm và thực tế tương ứng được với xã hội hiện đại từ truyền thống, tóm lại, với tính nhược tiểu thể hiện khá “hoàn hảo”, giới trí thức Việt Nam khi trở thành “tầng lớp trí thức bản xứ” thêm một lần nữa bị chủ nghĩa thực dân vày vò, ép ướp hoàn toàn có chủ đích chỉ nhằm biến đổi họ thành đám vong quốc nô có chữ nghĩa. Lịch sử còn lưu lại vô số bằng chứng cả trực tiếp cả gián tiếp chứng minh cho đường lối chính trị, chính sách trí thức thuộc địa này của thực dân Pháp”.
Ở đây có hai khía cạnh đáng nói:
- Tác giả sai lầm về phương pháp.
- Tác giả bất chấp sự thật lịch sử.
Tác giả viết: Lịch sử còn lưu lại vô số bằng chứng…” thế nhưng lại không đưa ra bằng chứng nào mà chỉ gói gọn trong một câu ở chú thích:  
“Các bộ lịch sử, lịch sử tư tưởng Việt Nam của cả các tác giả người Việt lẫn người Pháp đều cung cấp nhiều tài liệu liên quan đến điều này”.
Trong khoa học không cho phép lối chứng minh như thế, bởi vì:
Thứ nhất, luận điểm mà không có luận chứng (dẫn chứng, lý lẽ) thì luận điểm ấy là áp đặt, không có sức thuyết phục; còn nếu bỏ lửng, bắt người đọc tìm đọc thì có khác nào đánh đố, và còn thể hiện không tôn trọng người đọc.
Thứ hai, quan trọng hơn điều thứ nhất, sự thật lịch sử không chỉ tìm ở mỗi trong các bộ sử, lại càng không thể ở trong các sách lịch sử tư tưởng, bởi ở đấy rất có thể lịch sử đã bị cắt xén, giải thích theo ý người viết. Thực ra tìm sự thật lịch sử trong trường hợp này không khó, vì nó là trước tác, hãy còn rành rành trên giấy trắng mực đen. Sao PGS.TS. Trần Ngọc Vương không tìm ở trong chính trước tác của các nhà trí thức thời bấy giờ cùng không khí học thuật của thời đó để từ đó phán xét tư tưởng của họ mà lại tìm qua sự phán xét của người khác?
Và thực tế như mọi người đã biết, biết bao nhận định sai lầm, oan uổng kéo dài mấy chục năm đối với rất nhiều học giả, nhà văn lớn, như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Trọng Kim,... Nhận định của các học giả Pháp cũng không phải bao giờ cũng khách quan, chính xác. (Mà cũng lạ, biết bao lời ca ngợi của các học giả Pháp dành cho Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Mạnh Tường,… thì PGS.TS. Trần Ngọc Vương lại không biết?)
Đi xa hơn, PGS.TS. Trần Ngọc Vương còn muốn xóa sổ tầng lớp trí thức Tây học trước Cách mạng tháng Tám:
“Hệ quả cuối cùng của chính sách thực dân, dù những chính sách cụ thể trong từng thời kỳ nhất định có đổi thay theo hướng xoa dịu sự phản ứng của một cư dân bản địa dù sao cũng có hàng nghìn năm lịch sử đồng thời trên từng bình diện nhất định phải đáp ứng những đòi hỏi của tình hình khó khăn mà “mẫu quốc” lâm vào, vẫn cứ là một tầng lớp trí thức bản xứ với rất ít cá nhân thực sự đạt tới trình độ tinh hoa, đội ngũ chuyên gia tuy có số lượng khá hơn nhưng không toàn diện, gắn bó quá trực tiếp với sự điều tiết từ chính quốc chứ không phải gắn bó với xã hội và nền kinh tế tại chỗ, và một lượng đông đảo nhất những trí thức cấp thấp. Chất lượng của một tầng lớp trí thức như vậy, xét trên tương quan của một sự so sánh lịch đại, nghĩa là so sánh về khả năng đáp ứng những nhu cầu phát triển từng thời điểm lịch sử khác nhau, chắn chắn là còn kém hơn thời kỳ tiền thực dân”. 
Gộp cả ý của hai đoạn ta thấy, PGS.TS. Trần Ngọc Vương gần như phủ định hoàn toàn tầng lớp trí thức Tây học trước Cách mạng:
Một, họ là con đẻ của chủ nghĩa thực dân.
Hai, họ không đáp ứng được nhu cầu lịch sử.
Ba, kết luận lại, lớp trí thức Tây học còn kém hơn thời kỳ tiền thực dân” (tức trí thức Nho học nửa sau thế kỷ XIX – ĐTT).
1. Nhận định thứ nhất thực ra không mới. Nó là một định kiến đã lâu. Tuy nhiên, trong vài thập niên gần đây, dư luận xã hội đã phải nghĩ lại, đã phải cải chính rất nhiều, không hiểu sao PGS.TS. Trần Ngọc Vương vẫn bám lấy định kiến đó. Một phép suy luận đơn giản cũng cho thấy: với âm mưu của thực dân “nhằm biến đổi họ (trí thức bản xứ - ĐTT) thành đám vong quốc nô có chữ nghĩa” hay âm mưuxoa dịu sự phản ứng của một cư dân bản địa” không bao giờ lại có thể đẻ ra một lớp trí thức tài năng, có lòng yêu nước, tự tôn dân tộc cao. Còn thực tế thì đã quá rõ ràng. Nguyễn Khánh Toàn, Đặng Thai Mai, Đào Duy Anh, Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Thái Học, Trần Huy Liệu, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Xuân Hãn, Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Tôn Thất Tùng, Trần Hữu Tước, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tuân, Phạm Ngọc Thạch, Đặng Văn Ngữ, Lương Định Của, Nguyễn Xiển,… toàn những trí thức do trường Tây đào tạo, những trí thức này hoặc đã tham gia các  phong trào cách mạng trước năm 1945, hoặc từ năm 1945 một lòng đi theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tham gia suốt hai cuộc kháng chiến, chính họ là lực lượng rường cột cho nền văn hóa, khoa học mới, và cả rường cột cho giai đoạn non trẻ của chế độ mới.   
Ở đây cần nói thêm để không đến quá “oán” cũng như không quá “ơn” chính sách khai thác thuộc địa của chủ nghĩa thực dân. Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, ngoài ý muốn của họ, đã khách quan mang lại những điều kiện thuận lợi cho sự tiến bộ của xã hội Việt Nam nói chung, của đời sống học thuật nói riêng. Thực dân Pháp (cũng như bất cứ thứ thực dân nào) không có mục đích “khai hóa” nhưng để khai thác được thuộc địa, họ buộc phải đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật và khoa học. Người Pháp ngay khi chưa chinh phục xong Việt Nam, họ đã làm đường sắt, xây cầu, trạm bưu điện, khí tượng, rồi sau đó mở trường đại học, viện nghiên cứu, bảo tàng,… Tầng lớp trí thức ra đời một cách “vô tư” như thế. Mặt khác, do lòng yêu nước, tự tôn dân tộc, lớp trí thức mới nắm ngay lấy công cụ tri thức mà nhà trường thực dân trang bị để làm vũ khí đấu tranh, để xúc tiến công cuộc tiến bộ cho xứ sở mình. Nhiều nhà Nho chủ trương cho con đi học trường Tây để sau này đánh lại Tây là như vậy. Ngoài ra cũng phải kể đến một số quan toàn quyền, một số chính khách, nhà khoa học Pháp có đầu óc tiến bộ, họ đã có những chính sách tích cực nhất định, góp phần thúc đẩy xã hội Việt Nam theo chiều hướng tích cực.
2. Về nhận định thứ hai, chúng tôi không hiểu thế nào mới là “đáp ứng những nhu cầu phát triển từng thời điểm lịch sử khác nhau”?
Thử hỏi, làm thế nào để đưa chữ Quốc ngữ trở thành văn tự quốc gia ngay từ cuối những năm hai mươi, để từ đó tiếp thu văn hóa nhân loại, giúp đất nước nhanh chóng thoát khỏi “đêm trường trung cổ”, nếu không phải là những hoạt động đầy hăng hái bắt đầu từ lớp sỹ phu đầu thế kỷ XX, tiếp theo là các nhà báo, nhà văn chuyên về hoạt động văn hóa như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Hữu Đang và các trí thức trong nhóm Tri tân, Thanh nghị,…? Ai đã làm nên cuộc cách mạng trong văn học những năm ba mươi, bốn mươi nếu không phải là những nhà văn xuất thân trường Tây (Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Nam Cao,…) để trong vòng chưa đầy mười lăm năm, văn học Việt Nam tiến những bước khổng lồ, bắt kịp vào thế giới hiện đại? Ai đã dấy lên rầm rộ phong trào đòi thả cụ Phan Bội Châu và để tang cụ Phan Châu Trinh những năm 1925 – 1926, rồi phong trào Dân chủ những năm ba mươi, và cả Văn hóa cứu quốc những năm chuẩn bị Tổng khởi nghĩa? Nếu không có lớp trí thức ra đời ngay trong lòng chế độ thuộc địa sẽ không có gì cả.
3. Không biết PGS.TS. Trần Ngọc Vương đặt ra tiêu chí nào của giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX để kết luận tầng lớp trí thức giai đoạn này không đáp ứng được vai trò lịch sử, lại còn “chắn chắn là còn kém hơn thời kỳ tiền thực dân”?
Tôi không hiểu lớp trí thức nửa đầu thế kỷ XX kém cái gì so với lớp tiền bối của họ (lớp nhà Nho nửa sau thế kỷ XIX). Tài năng? Nhân cách, Sự đóng góp vào sự phát triển của lịch sử? Hay là tất cả?
Những nhà Nho tích cực nhất của nửa sau thế kỷ XIX có hai loại: loại chỉ bằng ngòi bút với những kiến nghị, điều trần như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch; loại trực tiếp đánh giặc theo tư tưởng tôn quân với đường lối chiến lược, chiến thuật cũ kĩ như Thủ khoa Huân, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Quang Bích, Phan Đình Phùng,… Cả hai loại nhà Nho đó, tuy ta kính phục họ về nhiệt tình yêu nước, về tài đánh giặc nhưng phải nói, so với yêu cầu lịch sử, họ là lạc hậu. Chính họ nhiều khi cũng nhận ra điều đó. Nhiều người đánh giặc biết chắc thất bại, đánh giặc chỉ vì cái nghĩa đáng làm mà thôi. Còn lớp trí thức đầu thế kỷ XX (xuất thân Nho học nhưng tiếp thu Tân học) tìm đường giải phóng dân tộc theo xu hướng cách mạng tư sản dân quyền thì đã thực sự tiến kịp thời đại. Chỉ riêng về văn hóa, họ đề cao khoa học, kỹ nghệ, đề cao thực học, đề cao nếp sống văn minh, phê phán kịch liệt lối hư văn, bài trừ óc mê tín, thói hủ lậu,… cũng là bước tiến kịp thời đại đáng nể, thậm chí còn hơn chúng ta ngày nay với bao trò mê tín, đồng bóng cùng lối sống thực dụng đến thảm hại. Các lớp trí thức sau lớp sỹ phu, tuy không làm cách mạng giải phóng dân tộc mạnh mẽ nhưng tiếp tục hoạt động rất tích cực về văn hóa, văn học, đã đưa văn hóa, văn học nước nhà phát triển theo chiều sâu, nhờ thế nước ta bắt đầu thoát khỏi “đêm trường trung cổ, hội nhập vào thế giới hiện đại từ cuối những năm hai mươi của thế kỷ XX. Giả sử lớp trí thức nửa đầu thế kỷ XX vẫn tiếp tục con đường của Nguyễn Trường Tộ, Phan Đình Phùng,… thì lịch sử nước ta đi lên hay tụt lùi?
Mặt khác, theo quan điểm duy vật lịch sử, đánh giá mỗi nhân vật lịch sử không phải là xem họ làm được gì so với yêu cầu của thời đại mà là họ đã làm gì so với người đi trước đó. Ở đây chúng ta dễ dàng nhận thấy lớp trí thức đầu tiên của thế kỷ XX mà tiêu biểu là hai cụ Phan tuy vẫn là trí thức Nho học nhưng họ đã vượt rất xa những trí thức Nho học cuối thế kỷ XIX, cả về tầm vóc tư tưởng, tri thức văn hóa lẫn tinh thần dấn thân. Còn lớp trí thức những năm ba mươi trở đi thì thì thực sự đã là những trí thức hiện đại, ngang hàng các trí thức Phương Tây. Đọc những sự kiện hội đàm giữa phái đoàn ta với phái  đoàn Pháp những năm 1945 – 1946, các trí thức của ta có tư thế thật đáng tự hào. Trong khoảng vài thập kỷ, lịch sử dân tộc tăng tốc một cách đáng ngạc nhiên nhờ sự đóng góp quan trọng của tầng lớp trí thức này.
Cũng cần nói thêm rằng lớp trí thức khoa học lẫn trí thức văn nghệ sỹ Tây học cho đến 1945 còn rất trẻ, thường chỉ trên dưới ba mươi hoặc chỉ ngoài hai mươi, cứ như bây giờ thì nhiều người hãy còn ở tuổi ăn bám gia đình, thế mà họ đã làm được khối việc như ta đã biết. Nhưng sự nghiệp của họ không nên chỉ tính mấy năm trước Cách mạng, mà còn phải tính giai đoạn sau Cách mạng nữa. Tuy nhiên sau 1945, do dân tộc phải lao vào hai cuộc chiến, rồi do những sai lầm, phiến diện trong quan niệm, mà giới trí thức Tây học trước 1945 (thường gọi là trí thức cũ) người thì được phát huy, người thì bị thui chột, nhiều người còn mắc nạn. Cùng theo Bác Hồ từ Pháp về, tài chế tạo vũ khí của ông Trần Đại Nghĩa có đất dụng võ, danh tiếng ông trở nên lẫy lừng, trong khi đó tài triết học của ông Trần Đức Thảo trở thành tai họa cho chính ông, khiến ông bị đặt ra ngoài lề cuộc sống, suốt đời sống trong nghèo khổ và sợ hãi, đến mức gần như bị bệnh hoang tưởng, tâm thần. Trong số nhà văn, cũng có người sở trường còn phù hợp, cũng có người không. Không ít nhà văn Tiến chiến (Phan Khôi, Trương Tửu, Văn Cao,…) dính vào vụ Nhân văn giai phẩm đầy nghiệt ngã.
Tóm lại, dù đứng ở góc độ nào để đánh giá thì lớp trí thức Tây học trước Cách mạng đã có những cống hiến xuất sắc. Nhiều người gọi đây là “thế hệ vàng”, quả là không ngoa. Không biết bao giờ nước nhà mới lại có một thế hệ như thế.
Bài viết này chưa phải là bài tranh luận, càng chưa phải là bài nghiên cứu. Nếu tranh luận hay nghiên cứu cần bàn một cách toàn diện và có cứ liệu đầy đủ hơn. Mà chỉ vì thấy những nhận định của PGS.TS. Trần Ngọc Vương có nhiều “gợn” quá nên tôi mạn phép đặt ra một số câu hỏi và nêu một số cảm nhận như trên. 



[i] Hoài Thanh: Vấn đề học thuật ở nước ta chỉ là một vấn đề tâm lý và luân lý, Sông Hương, Huế, 1936, in lại trong Hoài Thanh toàn tập, tập 4, NXB Văn học, 1999).
[ii] Phan Bội Châu toàn tập, tập 9, NXB Thuận Hóa, 2000.
[iii] Phan Bội Châu toàn tập, tập 10, NXB Thuận Hóa, 2000.

*Bài do tác giả gửi trực tiếp cho NXD-Blog.
Xin chân thành cám ơn!

Thứ Hai, 19 tháng 12, 2011

LUẬT SƯ CỦA BÀ BÙI THỊ MINH HẰNG CHÍNH THỨC GỬI ĐƠN KHIẾU NẠI

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
________________________
Hà Nội, ngày 18  tháng 12 năm 2011

ĐƠN KHIẾU NẠI
Về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đối với bà
 Bùi Thị Minh Hằng

       Kính gửi: Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội Nguyễn Thế Thảo

I. Người khiếu nại:
Bà Bùi Thị Minh Hằng, sinh ngày 20/07/1964, hộ khẩu thường trú tại số 106 Lê Hồng Phong, phường 4, Tp.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Hiện bà Bùi Thị Minh Hằng đang bị cưỡng bức giáo dục tại Cơ sở giáo dục Thanh Hà, địa chỉ xã Gia Khánh, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc thuộc quản lý của Tổng cục Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp – Bộ Công an.
Liên hệ gia đình: Bùi Trung Nhân, con trai bà Bùi Thị Minh Hằng trú tại số 90 C5 Lê Hồng Phong, phường 7, Tp.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, điện thoại 0165.5535.606.
Căn cứ điểm a, khoản 1, điều 17 của Luật khiếu nại, tố cáo, quy định:
“Người khiếu nại có các quyền:… vì lý do khách quan khác mà không thể tự mình khiếu nại thì được uỷ quyền cho cha, mẹ, vợ, chồng, anh, chị, em ruột, con đã thành niên hoặc người khác để khiếu nại;”
Người được ủy quyền khiếu nại: Luật sư Hà Huy Sơn, Văn phòng luật sư Trần Vũ Hải địa chỉ 81 phố Chùa Láng, quận Đống Đa, Hà Nội thuộc Đoàn luật sư Hà Nội theo Giấy ủy quyền ngày 15/12/2011 – kèm theo. 
II.  Người bị khiếu nại:
Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội Nguyễn Thế Thảo vì đã ban hành Quyết định số 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 do Phó Chủ tịch Vũ Hồng Khanh ký thay về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đối với bà Bùi Thị Minh Hằng. (QĐ 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 – kèm theo) 
III. Nội dung:
Khoảng trưa ngày 27/11/2011, nghe tin ở Hà Nội công an bắt một số người tại khu vực Bờ Hồ Hoàn Kiếm vì cho rằng họ có hành vi tự phát biểu thị thái độ ủng hộ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị Quốc hội đưa vào chương trình làm việc khóa 13 của Quốc hội ban hành Luật biểu tình, bà Bùi Thị Minh Hằng cùng 03 người khác đã đứng giơ trên tay mảnh giấy ghi “Phản đối đàn áp người ủng hộ Quốc hội ra luật biểu tình” ở cạnh khu vực Nhà thờ Đức Bà. Sau đó bà Hằng bị bắt đưa vào Công an phường Bến Nghé, quận I, Tp.Hồ Chí Minh. Ngày 28/11/2011 bà Hằng được đưa đến Cơ sở giáo dục Thanh Hà, tỉnh Vĩnh Phúc và được giao Quyết định số 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.
Việc Chủ tịch ban hành Quyết định 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 nêu trên đã vi phạm các quy định của pháp luật như sau:
Thứ nhất:
Căn cứ điều 87 “Nội dung quyết định đưa vào cơ sở giáo dục” của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, quy định:
Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, chức vụ của người ra quyết định; họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị đưa vào cơ sở giáo dục; hành vi vi phạm pháp luật của người đó; điều, khoản của văn bản pháp luật được áp dụng; thời hạn và nơi thi hành quyết định; quyền khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định đưa vào cơ sở giáo dục theo quy định của pháp luật.”
Thế nhưng, Quyết định 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 không ghi “điều, khoản của văn bản pháp luật được áp dụng;”.
Thứ hai:
Căn cứ điều 87 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 thì Quyết định phải ghi rõ “nơi cư trú của người bị đưa vào cơ sở giáo dụcnhưng Quyết định 5225/QĐ-UBND lại ghi:
“Chỗ ở hiện nay: Không có nơi cư trú nhất định”
Để xác định nơi cư trú của bà Bùi Thị Minh Hằng thì phải căn cứ vào quy định của Luật cư trú năm 2006.
Khoản 1, điều 12 của Luật cư trú năm 2006, quy định:
Nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú.
Chỗ ở hợp pháp là nhà ở, phương tiện hoặc nhà khác mà công dân sử dụng để cư trú. Chỗ ở hợp pháp có thể thuộc quyền sở hữu của công dân hoặc được cơ quan, tổ chức, cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật.
Nơi thường trú là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn định, không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký thường trú.”
Và khoản 1, điều 24 của Luật cư trú năm 2006, quy định:
"Sổ hộ khẩu được cấp cho hộ gia đình hoặc cá nhân đã đăng ký thường trú và có giá trị xác định nơi thường trú của công dân.”
Bà Bùi Thị Minh Hằng có chỗ ở hợp pháp và thường xuyên sinh sống được Giấy chứng nhận QSDĐ và quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BB558764 do UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cấp 07/09/1999 là ở số 106 Lê Hồng Phong, phường 4, Tp.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (Bìa GCN – kèm theo).
Mặt khác, Sổ hộ khẩu do Công an thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cấp và CMND số 273278857 do công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cấp ngày 25/11/2004 và ngay tại điều 1 của Quyết định 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 của Chủ tịch UBND Tp.Hà Nội đều xác định nơi thường trú của bà Bùi Thị Minh Hằng là số 106 Lê Hồng Phong, phường 4, Tp.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Như vậy nơi cư trú của bà Bùi Thị Minh Hằng là 106 Lê Hồng Phong, phường 4, Tp.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

Như vậy, với các bằng chứng và các căn cứ pháp luật nêu trên cho thấy việc Quyết định 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 của Chủ tịch UBND Tp.Hà Nội cho rằng bà Hằng “Không có nơi cư trú nhất định” là không đúng.
Thứ ba:
Căn cứ khoản 1, điều 3 của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27/06/2003 và Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 sửa đổi, bổ sung, quy định:
“Đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục
Người có một trong các hành vi vi phạm pháp luật sau đây có tính chất thường xuyên (có từ hai lần vi phạm trở lên trong thời hạn 12 tháng), nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng không có nơi cư trú nhất định:”
Bà Bùi Thị Minh Hằng không phải là người không có nơi cư trú nhất định vì vậy bà Hằng không phải là đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục như quy định tại các Nghị định nêu trên và điều 25 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002.
Thứ tư:
Căn cứ khoản 2, điều 86 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, quy định:
“Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký và phải được gửi ngay cho người bị đưa vào cơ sở giáo dục, cơ quan Công an cấp tỉnh, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú.”
Quyết định 5225/QĐ-UBND ký ngày 08/11/2011 thế nhưng đến ngày 28/11/2011 (tức 20 ngày sau) sau khi bị bắt bà Bùi Thị Minh Hằng mới được nhận, trong khi bà Hằng có địa chỉ nhà ở tại số 106 Lê Hồng Phong, Tp. Vũng Tàu nơi bà Hằng ở cùng với con trai là Bùi Trung Nhân 18 tuổi.
Kết luận: Quyết định số 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đối với bà Bùi Thị Minh Hằng có nơi cư trú tại số 106 Lê Hồng Phong, phường 4, Tp. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu là hoàn toàn trái pháp luật.
Căn cứ điều 71, Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001, quy định:
Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm.
Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật.
Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân.”
Căn cứ khoản 1, 2, 4, 5 điều 9 của Công ước quốc tế về những quyền dân sự và chính trị năm 1966, Việt Nam tham gia năm 1982, quy định:
“Điều 9:  
1. Ai cũng có quyền tự do thân thể và an ninh thân thể. Không ai có thể bị bắt giữ hay giam cầm độc đoán. Không ai có thể bị tước đoạt tự do thân thể ngoại trừ những trường hợp và theo những thủ tục luật định.
2. Khi bị bắt giữ, bị cáo phải được tức thì thông báo về lý do bắt giữ, và phải được thông báo không chậm trễ về tội trạng bị cáo buộc.
4. Những người bị bắt giữ hay giam cầm đều có quyền yêu cầu toà án thụ lý không chậm trễ về tính hợp pháp của sự giam giữ, và phải được phóng thích nếu sự giam giữ được xét là bất hợp pháp.
5. Các nạn nhân trong những vụ bắt giữ hay giam cầm bất hợp pháp có quyền khiếu tố đòi bồi thường thiệt hại.”

YÊU CẦU:

1- Ông Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội hủy ngay Quyết định số 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đối với bà Bùi Thị Minh Hằng;
2-  Trả tự do ngay và bồi thường danh dự cùng các thiệt hại về tinh thần, vật chất cho bà Bùi Thị Minh Hằng do việc ban hành Quyết định số 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 của Chủ tịch gây ra.
Hy vọng Ông Chủ tịch thực hiện đúng quy định của pháp luật và xứng danh là Chủ tịch của Thành phố vì hòa bình và Thăng Long 1000 năm văn hiến.
Trân trọng,
Nơi nhận:                                                                               Người làm đơn 
-   Như trên;
-   Bà Bùi Thị Minh Hằng;
-   Ông Bùi Trung Nhân;
-   Lưu VP, 04b.
                                                                                           Luật sư Hà Huy Sơn

Phụ lục
- QĐ 5225/QĐ-UBND
- Giấy ủy quyền cho luật sư 




REUTERS: LÃNH TỤ BẮC HÀN KIM JONG IL QUA ĐỜI Ở TUỔI 69

North Korea state TV says Kim Jong il has died

(Reuters) - North Korean leader Kim Jong-il died Saturday on a train trip, a tearful state television announcer, dressed in black, reported Monday.
The announcer said that the 69-year old had died of physical and mental over-work on his way to give "field guidance." He had suffered a stroke in 2008, but appeared to have recovered. The reclusive state had begun the process of transferring power to his son Kim Jong-un, believed to be in his late 20s.


(Created by David Chance; Editing by Jack Kim)

BBC đưa tin:
Lãnh tụ Bắc Hàn Kim Jong-il qua đời
Cập nhật: 03:24 GMT - thứ hai, 19 tháng 12, 2011
.
Truyền hình nhà nước Bắc Triều Tiên loan báo lãnh đạo Kim Jong-il vừa qua đời, gây chấn động cho toàn dân.

Thông tin về cái chết của ông được thông báo trên truyền hình quốc gia trong một bản tin đầy xúc động.

Phát thanh viên truyền hình mặc đồ tang nói ông Kim chết hôm thứ Bảy 17/12, vì làm việc quá sức về cả tinh thần và thể chất.

Ông Kim Jong-il năm nay 69 và sức khỏe đã kém nhiều năm nay.

Thông báo trên tryền hình cũng nói lãnh tụ Kim, ngơười dẫn dắt dân tộc từ khi cha ông, Kim Il-sung, chết năm 1994, đã qua đời trên tàu hỏa khi đang đi thăm một khu vực bên ngoài thủ đô.

Cái chết của ông khiến cho toàn dân Bắc Triều Tiên vô cùng bàng hoàng.

Con trai thứ ba Kim Jong-un của ông, người mới hơn 20 tuổi, từng được trông đợi sẽ lên kế nhiệm ông, nhưng chưa có thông tin chính thức nào được công bố trong quốc gia bí mật này.

Năm 2008, được tin ông Kim bị đột quỵ nhưng năm nay ông đã có chuyến thăm Trung Quốc và Nga, trong đó các bức hình và video chụp ông khi công bố cho thấy ông khỏe mạnh và nhanh nhẹn.

Cũng có tin nói ông Kim, người thích hút xì gà, ưa rượu cô nhắc và món ăn ngon, bị tiểu đường và bệnh tim mạch.

Hãng thông tấn Nam Hàn Yonhap đưa tin quân đội nước này đã được lệnh báo động sau khi nghe tin lãnh tụ Bắc Hàn qua đời; và Hội đồng An ninh Quốc gia triệu tập ngay một cuộc họp khẩn.
Nguồn: BBC Tiếng Việt.

Báo chí Việt Nam đưa tin:
- VietNamnet: Chủ tịch CHDCND Triều tiên Kim Jong Il qua đời
- VNExpress: Chủ tịch Triều Tiên Kim Jong il qua đời
- Dân trí: Nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-il qua đời
- Bee:Nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Il qua đời

15h12: Tổng hợp tin tức do trang Ba Sàm thực hiện:

- Lãnh tụ Bắc Hàn Kim Jong-il qua đời(BBC). – Chủ tịch Bắc Hàn Kim Jong Il qua đời(NV). – Lãnh tụ Bắc Triều Tiên Kim Jong Il qua đời(VOA). – Nhà lãnh đạo Kim Jong Il qua đời (TT). – Chủ tịch CHDCND Triều Tiên Kim Jong Il qua đời (VNN). - Nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Il qua đời (Bee). – Hàn Quốc báo động khẩn khi lãnh đạo Triều Tiên qua đời (VNN). – Hàn Quốc họp khẩn cấp Ủy ban An ninh Quốc gia (TTXVN). – Phản ứng các nước về cái chết của Chủ tịch Triều Tiên (VNE). – Nhật, Mỹ sát sao dõi theo Triều Tiên (VNN). – Điểm mặt những nhà lãnh đạo chết ‘bất đắc kỳ tử’ (Đất Việt). – Mỹ cam kết vì sự ổn định trên bán đảo Triều Tiên (TTXVN). – Triều Tiên bắn đại bác tưởng niệm ông Kim Jong Il (Bee). – Những hoạt động ngoại giao gần đây của ông Kim Jong il (Bee).

- Video báo tang của Đài truyền hình quốc gia: North Korean State TV announces Kim Jong Il’s death (14sJakeB190):




PHẢN HỒI BÀI VIẾT CỦA TRẦN NGỌC VƯƠNG VỀ "GIỚI TRÍ THỨC TINH HOA"

Một số suy nghĩ sau khi đọc "Giới trí thức tinh hoa trong lịch sử Việt Nam"
của Trần Ngọc Vương
Nguyễn Vinh Anh

Xin kính chào tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện và các quý vị,

Bài viết vừa lên rất đáng chú ý, nhưng vì chủ đề quá lớn, nên tôi  chỉ dám lạm bàn một vài điểm, mà tôi thấy ngay là rất đáng suy nghĩ. 

Tiếp nối một số luận điểm ở phần đầu bài, chủ yếu dựa trên các đúc kết của học giả Trần Đình Hượu về những giới hạn của giới Nho sĩ, tác giả đi đến nhiều nhận định tổng quát về giới chuyên gia, trí thức thời thuộc Pháp, và giai đoạn sau Cách mạng, trước và sau "các đấu tố" 1960-1970. 

Các nhận xét về sự bất lực của giới nhà nho cựu học trong việc hiện đại hóa đất nước là điều có lẽ không còn cần phải bàn cãi, vì điều này đã được nhà cải cách Phan Chu Trinh phê phán một cách rất triệt để, và nhiều học giả trước 1945 cũng đã tiếp tục hướng này.

Về trí thức, giới chuyên môn trước 1945:

Vấn đề vẫn đang còn dở dang chính là  nhóm những người mà tác giả gọi là “tầng lớp trí thức bản xứ”. Đây là tầng lớp mà di sản để lại rất đa dạng, mà hiện nay sự hiểu biểu về họ chắc chắn còn rất thiếu, trong tình trạng tư liệu tản mát và các nghiên cứu về giai đoạn này nhìn chung chưa thực sự phát triển.

Chính ở đây, khái quát mà tác giả đưa ra rất cần phải được xem xét lại, cả trên phương diện tư liệu, cũng như về các thao tác nhận thức. Khi tác giả viết: "Chất lượng của một tầng lớp trí thức như vậy (tức tầng lớp trí thức bản xứ), xét trên tương quan của một sự so sánh lịch đại, nghĩa là so sánh về khả năng đáp ứng những nhu cầu phát triển từng thời điểm lịch sử khác nhau, chắn chắn là còn kém hơn thời kỳ tiền thực dân.", thì chắc chắn cần phải làm rõ xem, dựa trên những thao tác so sánh nào mà tác giả rút ra nhận định xác quyết này?

Về trí thức, giới chuyên môn sau 1945:

Từ chỗ phê phán toàn bộ giới nhà nho, lướt qua giai đoạn trước 1945 coi như không có gì thực sự đáng nói, tác giả đi thắng đến kết luận dưới đây (kết luận này tạm hiểu ngầm là dành cho giai đoạn hiện tại, nếu không phải là cho toàn bộ lịch sử Việt Nam): 

"Có thể nói, ở ta mới có những người trí thức lớn,- không đông lắm mà nói thực thì cũng chưa được “lớn” lắm - nhưng chưa thể nói rằng đã có giới trí thức tinh hoa. Mà chừng nào trí thức tinh hoa chưa thành một giới, nôm na là núi không có đỉnh, thì khó lòng bàn đến “tầm” trí tuệ Việt Nam, tuy đó là điều không hiếm người thành tâm khao khát khẳng định".

Đây là một nhận định, nghe vẻ ngoài thì rất có vẻ có lý, vì nó được suy ra từ những cái không đáng kể của những giai đoạn trước (mà tác giả vừa trình bày), để luận về hiện tại, hoặc về toàn thể. Điểm tích cực của quan điểm này là nó dội một gáo nước lạnh vào những người vẫn còn sống trong trạng thái hoang tưởng của chủ nghĩa tự tôn dân tộc mù quáng. Tuy nhiên, tôi thiết nghĩ, những kẻ đã bị rơi vào hoang tưởng rồi thì khó có gì có thể đưa họ ra nổi, ngoại trừ thực tế phũ phàng.

Còn đối với độc giả bình thường thì sao?

Những người mà tác giả gọi là “thành tâm khao khát” thì thuộc loại nào đây, hoang tưởng hay bình thường?

Có lẽ bài viết này sẽ dễ dàng thuyết phục được những ai chỉ biết đến có một loại "núi", một loại "đỉnh". Từ chỗ nói rằng "núi" ở Việt Nam không có đỉnh , tác giả kết luận không thể bàn đến "tầm" (cao của) trí tuệ Việt Nam.

Cá nhân tôi, khi đọc đến đến đây, tôi có cảm giác tác giả đã đẩy lô gíc của sự ngụy biện đi đến một cái "đỉnh". Vậy mục đích của sự ngụy biện này là gì?

Theo tôi, thực tế mà nói, đã có "núi" là ít nhiều có "đỉnh", đỉnh thấp hay cao mà thôi. Và, không thể vì cho rằng, những trí thức lớn không đông, mà không đủ tạo thành một giới. Phủ nhận những cái đỉnh cao tương đối đó, phủ nhận một giới trí thức tinh hoa nhất định, dù số lượng hết sức ít ỏi ấy, chính là phủ nhận một cách hết sức tinh vi khả năng vượt lên của "trí tuệ Việt Nam", của văn hóa Việt Nam (bao gồm cả những người gốc Việt, sống ở khắp nơi trên thế giới, vẫn tự coi là người Việt Nam).

Phải chăng bản chất của thái độ, một mặt, tích cực đối thoại với những kẻ hoang tưởng, tin tưởng một cách thành tâm vào một tầm trí tuệ Việt Nam siêu việt không có thật (những kẻ này thường thuộc nhóm nắm quyền lực), và mặt khác, phủ nhận sự tồn tại của những đỉnh cao trí tuệ tương đối dù còn rất ít ỏi trong xã hội Việt Nam (thường thuộc vào nhóm mang tư tưởng cải cách), không gì khác hơn chính là để biện minh một cách tinh vi cho sự khoanh tay ngoảnh mặt của nhiều nhóm người, ngầm hoặc công khai tự coi là "trí thức", trước các vấn đề trọng yếu của xã hội, mà người trí thức đích thực phải coi như là các thách thức đối với chính bản thân mình ?

Phải chăng một thái độ như vậy chính là để biện minh cho sự vắng mặt của những khát vọng vượt lên bản thân, vươn lên tầm nhân loại ở trong chính con người họ? một thái độ như thế chính là để củng cố một tâm lý "hòa cả làng"? một tâm lý khuất phục cúi đầu? …  

Còn nhiều câu hỏi đặt ra từ đây, nhưng theo tôi hiểu, các bài viết mà tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện đưa ra cùng lúc với bài viết này, có thể đã chính là những phản biện gián tiếp trước thái độ ngụy biện đáng sợ trong bài viết này.  

N.V.A
*Bài do tác giả gửi trực tiếp cho NXD-Blog.
Xin chân thành cám ơn tác giả!