Thứ Hai, 12 tháng 12, 2011

VUA TỰ ĐỨC VỚI VIỆC BẢO VỆ AN NINH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC

Vua Tự Đức với việc bảo vệ an ninh biên giới phía Bắc

TẠP CHÍ XƯA & NAY SỐ 391 THÁNG 11-2011
Mai Thị Huyền

Thời Nguyễn, Việt Nam đã trở thành một quốc gia thống nhất về mặt lãnh thổ. Triều Nguyễn trong quá trình xây dựng và củng cố chính quyền luôn đặt vấn đề duy trì và bảo vệ vững chắc cương giới làm nhiệm vụ hàng đầu. Tuy nhiên, trên thực tế rất nhiều vấn đề nảy sinh khiến triều đình gặp khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ quan trọng đó. Trong khoảng thời gian 1848-1883, thời trị vì của Tự Đức, tình trạng mất ổn định về an ninh quốc phòng đã diễn ra một số tỉnh biên giới phía Bắc: Cao Bằng, Lạng Sơn, Hưng Hoá(1), Tuyên Quang và Quảng Yên(2).

Các tỉnh biên giới phía Bắc của nước ta đều nằm ở vị trí có đường biên giới giáp với phía nam Trung Quốc. Qua biên giới các tỉnh này, việc thông thương với Trung Quốc tương đối thuận tiện, song những vùng này có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, dân cư thưa thớt; là địa bàn quan trọng trong việc xây dựng hệ thống phòng thủ về quân sự, nhưng do địa hình hiểm trở nên cũng hạn chế tầm nhìn, tầm bao quát của nhà nước phong kiến trung ương, các nhóm phản loạn vì vậy dễ có điều kiện trú ẩn lâu dài.

Tỉnh Quảng Yên vừa có đường biên giới phía Bắc giáp Trung Quốc, lại có bộ phận phía Đông nam giáp biển Đông. Nơi hội tụ nhiều dạng địa hình khác nhau, đồng bằng, đồi núi và hệ thống hải đảo, được coi là địa bàn điển hình nhất về dạng địa hình của các tỉnh biên giới phía Bắc.

Sau khi kế vị năm 1847, Tự Đức đã dành sự quan tâm đặc biệt đến các tỉnh biên giới phía Bắc. Kế thừa kinh nghiệm xây dựng hệ thống quân sự ở thời Minh Mạng, ông tiếp tục củng cố ở tỉnh Quảng Yên nhiều ải và bảo lớn. Mặt khác, Tự Đức còn bổ nhiệm các chức quan từ Kinh thành làm tổng đốc ở các tỉnh Hưng Hoá, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Cao Bằng để giữ yên biên cương phía Bắc.

Giai đoạn 1848-1878 cũng là thời điểm xảy ra nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân ở Trung Quốc. Phổ biến là phong trào ở các tỉnh Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu. Song điển hình nhất vẫn là những tổ chức lấy danh nghĩa tôn giáo để tập hợp nông dân chống lại triều đình. Sau một thời gian, triều đình Mãn Thanh tập trung quân đội đàn áp, các nhóm quân rơi vào thế đường cùng buộc phải tràn sang biên giới Việt Nam tìm nơi trú ẩn.

Hoạt động của nhóm Tam Đường

Tiền thân của nhóm Tam Đường là tổ chức Thiên Địa hội ở Trung Quốc. Trong những năm 1807-1851, Thiên Địa hội là một tổ chức lớn tiêu biểu cho các nhóm quân nổi dậy chống triều đình Mãn Thanh. Sau nhiều lần tập trung quân truy quét lực lượng này, nhà Thanh về cơ bản đã loại bỏ được những hạt nhân quan trọng của Hội Thiên Địa. Những tướng lĩnh cầm đầu của tổ chức này đã bàn kế hoạch sang Việt Nam: Quảng Nghĩa Đường Lý Đại Xương, Đức Thắng Lưu Sỹ Anh, Lục Thắng Đường Hoàng Nhị Vãn(3).

Nhóm Tam Đường tiến hành gây rối ở các tỉnh biên giới phía bắc nước ta bắt đầu bởi sự kiện tháng 11-1858, quân của Lục Thắng Đường quấy nhiễu ở Thất Khê (tỉnh Lạng Sơn). Sau đó cánh quân của Hoàng Nhị Vãn nhân cơ hội tiến nhanh sang tỉnh Cao Bằng. Với hai nghìn quân, Hoàng Nhị Vãn đã chiếm giữ được các châu Thạch An, Thượng Hạ Pha, Bình Quân. Triều đình nhiều lần tập trung binh lực và điều động các lãnh binh thay phiên nhau truy quét cánh quân của Hoàng Nhị Vãn song vẫn chưa có hiệu quả. Phải mất 7 năm sau, vào tháng 5-1865 triều Nguyễn mới loại bỏ hoàn toàn các cánh quân này ra khỏi tỉnh Cao Bằng.

Hoạt động của các nhóm giặc Cờ

Các nhóm giặc Cờ cũng đều có nguồn gốc từ tàn quân của tổ chức Thiên Địa hội ở Trung Quốc(4). Nhóm Cờ vàng với đại diện là Hoàng Sùng Anh, Bàn Văn Nhị là thủ lĩnh quân Cờ trắng, Lưu Vĩnh Phúc đứng đầu giặc Cờ đen. Tuy nhiên khi dạt sang Việt Nam, sự phân hoá của các nhóm giặc cờ thành nhiều khuynh hướng khác nhau đã gây ra sự căng thẳng ở các tỉnh biên giới. Năm 1868, quân Cờ trắng tập trung cướp bóc ở châu Lục Yên, tỉnh Tuyên Quang. Sau trận này, vì xung đột về quyền lợi và phạm vi chiếm đóng, quân Cờ trắng đã bị quân Cờ đen loại bỏ.

Đứng đầu quân Cờ vàng là Hoàng Sùng Anh, hay còn gọi là Hoàng Anh. Trong năm 1862, quân Cờ vàng của Hoàng Sùng Anh hoạt động mạnh ở tỉnh Tuyên Quang. Sau 4 tháng, nhận thấy tình hình cướp bóc ở Tuyên Quang không đem lại kết quả, đến tháng 4-1862, Hoàng Anh vờ đưa ra kế hoạch đầu hàng triều Nguyễn. Nhưng đến tháng 6-1868, quân của Hoàng Sùng Anh lại hợp sức với quân Cờ đen tấn công thành Lào Cai. Hoàng Sùng Anh tạo phản, bị triều đình truy đuổi, năm 1869 buộc phải rút hết quân về tỉnh Cao Bằng. Liên tiếp bị quân và dân địa phương Cao Bằng đánh đuổi, cánh quân Cờ vàng buộc phải trú ẩn ở Bảo Thắng (tỉnh Hưng Hoá). Sau 5 năm, triều đình vẫn chưa thể truy quét tận gốc cánh quân cướp bóc này. Đến tháng 8-1874, không chịu nổi sự truy kích của triều Nguyễn, Hoàng Anh lại xin hàng. Nhưng sang năm 1875, nhóm quân của Hoàng Anh lại tạo phản. Tháng 6-1875, triều Nguyễn tập trung lực lượng tấn công nhiều phía, kết hợp với nhóm người Thổ ở địa phương, điều động Tuần phủ tỉnh Hưng Hoá là Nguyễn Huy Kỷ cùng quan sở tại Nguyễn Văn Giáo nhằm tiêu diệt hoàn toàn tên đầu sỏ này. Đến tháng 8-1875, Hoàng Sùng Anh bị tiêu diệt.

Quân Cờ đen bắt đầu gây sự ở Lào Cai vào tháng 6/1868. Tuy nhiên, như trên đã khẳng định, quân Cờ đen không phải một mình làm chủ vùng đất này mà ở Lào Cai cũng có sự có mặt của quân Cờ vàng. Quân Cờ đen đã loại bỏ quân Cờ trắng của Hoàng Nhị Vãn và không thôi hi vọng làm bá chủ. Sự tồn tại của quân Cờ vàng đã cản trở mục tiêu chiếm đóng của quân Cờ đen, vì vậy quân Cờ vàng nhanh chóng bị quân Cờ đen gây áp lực phải chuyển địa bàn sang nơi khác. Mâu thuẫn giữa hai cánh quân diễn ra gay gắt, đặc biệt là sau năm 1870, quân Cờ đen công khai chống đối các nhóm quân khác nhằm tranh giành quyền lợi ở các tỉnh biên giới phía Bắc.

Quân Cờ đen được coi là nhóm quân hoạt động mạnh nhất ở khu vực biên giới phía bắc. Thủ lĩnh quân Cờ đen là Lưu Vĩnh Phúc(5). Năm 1868, ông chỉ huy quân Cờ đen tràn sang các tỉnh biên giới phía bắc nước ta. Đương thời, những hoạt động của quân Cờ đen đã được miêu tả lại trong một số câu thơ:

Bao giờ cho hết khoá này
Cho dân khỏi phải khổ lây vì giời (vì vua)
Bao giờ sắt nặng biết bay (có máy bay)
Cờ đen hoạ có đến ngày phải tan(6).

Để loại bỏ tận gốc cánh quân Cờ vàng, điều cần thiết cho quân Cờ đen là phai có một địa bàn an toàn hoạt động lâu dài. Vì vậy, nhân cơ hội triều Nguyễn dụ hàng, Lưu Vĩnh Phúc đã chấp nhận. Tự Đức ban cho Lưu Vĩnh Phúc làm Đề đốc trấn hạt Thập Lục Châu, cho tự do thu thuế. Trong quá trình hoạt động, quân Cờ đen đã tạo những bước chuẩn bị cần thiết về lực lượng, căn cứ, nhanh chóng loại bỏ quân Cờ vàng. Năm 1875, quân Cờ vàng bị quân Cờ đen tiêu diệt hoàn toàn.
Địa bàn hoạt động của quân Cờ đen ngày càng rộng lớn và sức ảnh hưởng của nhóm quân ngày càng mạnh. Năm 1829, quân Cờ đen đánh bại Hà Quân Xương, một tên cầm đầu các nhóm cướp bóc ở Bảo Thắng (Hưng Hóa), chiếm lấy thị xã Lào Cai làm căn cứ(7). Quân Cờ đen làm chủ hoàn toàn vùng biên giới, tự thu thuế của cư dân các vùng xung quanh. Sau này, Lưu Vĩnh Phúc đã phối hợp với quân của Hoàng Thủ Trung, Phùng Tử Tài và Hoàng Kế Viêm đánh dẹp các nhóm cướp bóc ở các tỉnh biên giới phía Bắc. Đội quân Cờ đen trở thành lực lượng đắc lực chống Pháp và đã giành thắng lợi ở hai trận Cầu Giấy (1874, 1883). Năm 1877, Lưu Vĩnh Phúc đã xin triều Nguyễn ở lại Bảo Thắng (tỉnh Hưng Hoá) sinh sống. Sang năm 1878, quân Cờ đen buộc phải rút hết về Trung Quốc theo yêu cầu của Pháp(8).

Các thủ lĩnh quân sự khác

Cùng thời điểm với các hoạt động của nhóm Tam Đường, Tạ Văn Phụng cũng gây rối tại tỉnh Quảng Yên. Tạ Văn Phụng trước đó là lính mộ của Pháp, năm 1861 mạo danh là dòng dõi nhà Lê và tự xưng là minh chủ. Tạ Văn Phụng lợi dụng sự bất mãn của dân nghèo vùng biển đối với triều Nguyễn lôi kéo họ nổi dậy ở phía Bắc, tạo điều kiện cho Pháp xâm lược nước ta ở phía Nam. Cuối năm 1863, Tạ Văn Phụng đã tập hợp hơn 500 chiếc thuyền ở đảo Cát Bà, vùng núi Đồ Sơn, chủ trương tiến đánh kinh thành Huế nhưng không thành. Tán tương Trần Huy Sách đem quân chặn đánh quân của Tạ Văn Phụng ở La Khê (tỉnh Quảng Yên) bị thua nặng, tất cả đều hi sinh. Tháng 5-1865, Tạ Văn Phụng bị Tán lý Đặng Trần Chuyên, Đốc đinh Ông Ích Khiêm đem quân truy đuổi. Trên đường trốn thoát, Tạ Văn Phụng bị bắt về Kinh xử tử.

Năm 1867, tàn quân cũ của khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc là Ngô Côn đã tràn sang biên giới phía Bắc nước ta. Ngô Côn tập hợp quân tấn công và chiếm được tỉnh thành Cao Bằng. Với 2000 quân, trên đà thắng thế Ngô Côn chia quân cướp bóc ở tỉnh Lạng Sơn. Đối phó với tình hình này, Tự Đức đã đưa ra nhận định: “Trẫm liệu tính thì lũ Ngô Côn gian giảo lắm, nhưng chúng cũng ngại chết, đã bị quan quân nước Thanh bức bách không có lối về, cho nên tràn sang nước ta, cũng là cầu một chỗ dung thân, việc xin hàng của hắn cũng là một cái thật ở trong cái dối, mà sự thế hiện này của ta bất đắc dĩ mới phải dùng quân… Cho Phan Khắc Thận đeo ấn Hữu Tướng quân đi ngay xem xét tình trạng của chúng ra sao? Nên xử trí thế nào để tâu về xét định”(9). Đồng thời ông lập bổ nhiệm các chức quan ở địa phương: Phạm Chi Hương làm Tổng đốc Lạng Bằng quân vụ đại thần, Tiễu phủ sứ Ông Ích Khiêm làm Tán lý quân thứ; yêu cầu quan lại ở Bắc kỳ tập hợp quân địa phương để dự trữ phòng bị.

Các tướng lĩnh chỉ huy quân sự cũng gặp khó khăn trong việc đối phó với Ngô Côn. Đoàn Thọ, Vũ Trọng Bình và Lê Bá Thận nhận thấy với địa thế hiểm trở ở các tỉnh biên giới, lại thêm khí hậu khắc nghiệt, binh lính không hợp với địa hình, nên rất khó có thể tiêu diệt hoàn toàn Ngô Côn. Tháng 3-1869, Ngô Côn đã chiếm giữ Đồng Đăng, Kỳ Lừa (tỉnh Lạng Sơn) nhằm phục vụ âm mưu chặn đường vận lương của quân doanh Lạng Sơn, Thái Nguyên. Triều đình buộc phải lập tức điều động nhiều cánh quân từ Kinh thành và địa phương, kết hợp với sự trợ giúp của Phùng Tử Tài – thống lĩnh quân nhà Thanh để đối phó. Đến năm 1870, tướng giặc Ngô Côn bị tiêu diệt hoàn toàn.

Những tháng cuối năm 1862, thủ lĩnh Tô Tứ bắt đầu hoạt động ở Tiên Yên (tỉnh Quảng Yên). Tỉnh thần Đặng Xuân Bảng đã cấp 500 phương gạo và 500 quan tiền cùng thuốc đạn, ống phun lửa, tập hợp nhân dân chống lại. Song đến năm 1866, Tô Tứ lại chuyển hướng sang hoạt động ở tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn. Tự Đức lo ngại lập tức sai Thống quản thị vệ đại thần Đoàn Thọ ra Bắc kỳ làm Tổng thống quân Bình kiêm chức Tuyên Thái Lạng quân thứ dẹp giặc. Nhưng Đoàn Thọ vừa tới Lạng Sơn thì bị quân của Tô Tứ vây thành vào ban đêm. Vũ Trọng Bình chạy thoát, quan quân triều đình ở Lạng Sơn bị thương rất nhiều. Tự Đức xuống dụ: “Bọn giặc Tô Tứ không có mấy, mà đã bao lâu chưa bình được cũng đáng quái lạ. Xét bản đồ thì nơi ấy núi khe hiểm cao, quân ta chỉ đi đằng trước và bên tả hữu xa ngăn chặn, bọn giặc giữ chỗ hiểm chống cự, con đường sau có nhiều ngả, không đoái hoài lo đến. Nay nên sức cho hào lý sở tại mộ lính Thổ dõng, tìm con đường tắt, chia ra ngăn chặn hoặc sức người Thổ trước đến đấy mượn hộ lính dõng người nước Thanh, thẳng đánh vào con đường sau, quân ta ở mặt nước đánh giáp lại, có thể một trận đánh dẹp tắt được”(10). Mặt khác, Tự Đức cử thêm Thượng thư Lê Tuấn làm khâm sai Thị sứ đem quân truy quét. Tháng 10-1871, Tô Tứ âm mưu chạy về trấn Đông Hưng (Trung Quốc) bị quan quân triều đình chặn đánh và tiêu diệt.

Tháng 9-1878, Lý Tương Tài thuộc quân của Phùng Tử Tài, người Quảng Đông (Trung Quốc), đổi tên là Lý Đạt Đình, phao tin Việt Nam là đất tổ, đem hơn một vạn quân tấn công tỉnh Lạng Sơn, sau đó mở rộng phạm vi sang phố Đồng Bộc, Kỳ Lừa. Tự Đức đưa ra biện pháp bổ nhiệm Nguyễn Đình Nhuận làm Bố chính tỉnh Lạng Sơn; điều động quân tại Kinh thành phối hợp với 500 quân Thanh Nghệ và nhờ Triệu Ốc (Trung Quốc) hỗ trợ đánh dẹp. Phùng Tử Tài theo lệnh nhà Thanh một lần nữa mang quân sang nước ta. Sau khi Lý Tương Tài bị quân Thanh bắt sống, giải về nước chặt đầu, toàn bộ quân của Phùng Tử Tài đã rút quân khỏi các tỉnh biên giới phía Bắc nước ta. Như vậy, năm 1878 là mốc đánh dấu sự chấm dứt hoàn toàn những hoạt động của các nhóm cướp bóc ở các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam.

Quyết tâm của triều đình Huế

Hiện trạng xung đột vũ trang giữa quan quân triều đình và các nhóm cướp bóc ở các tỉnh biên giới phía bắc nước ta (1848-1878) diễn ra khá  mạnh mẽ. Giai đoạn từ 1862-1868, là thời điểm cuộc khởi nghĩa nông dân Thái Bình Thiên quốc và các phong trào nông dân ở Trung Quốc bị triều đình nhà Thanh đàn áp. Các tàn quân bị đẩy xuống phía nam và tiến sang biên giới phía bắc Việt Nam. Một mặt chúng kiếm kế sinh nhai, mặt khác cũng thể hiện mong muốn chiếm đóng và thể hiện phạm vi ảnh hưởng của chúng ở địa bàn này.

Nhìn chung, những hoạt động của các nhóm cướp bóc mang tính chu kỳ, thường tập trung vào những tháng cuối năm là thời điểm tình trạng đói kém xảy ra. Mục đích chính vẫn là cướp bóc để bù đắp tình hình đói kém, vì vậy khi bị quan quân triều đình truy quét, chúng nhanh chóng dạt sang các vùng lân cận. Tuy nhiên, có rất nhiều các nhóm quân khác nhau cùng tranh giành ảnh hưởng và quyền lợi trên địa bàn ở các tỉnh biên giới nên không thể tránh khỏi tình trạng tự bản thân chúng thanh toán, loại bỏ lẫn nhau. Đây cũng là một điểm thuận lợi cho triều đình sử dụng chính sách “dĩ di trị di” nhằm hạn chế bớt thương vong của binh lính.

Thực tế, những hoạt động quân sự ở các tỉnh biên giới đã có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống người dân và gây ra nguy cơ mất ổn định về mặt an ninh quốc phòng. Hiện tượng cướp bóc của các nhóm quân đã khiến triều đình tiêu tốn một khoản chi phí không nhỏ nhằm chẩn cấp cho người dân sau khi các toán quân đã rút lui. Mặt khác, việc điều động quan quân triều đình ở Kinh thành đến các địa phương cũng gây xáo trộn về mặt chính trị ở chính các địa phương đó do bản thân những người được bổ nhiệm còn chưa quen với các vùng biên giới. Triều Nguyễn đã điều khá nhiều tướng lĩnh tài giỏi như Nguyễn Đăng Giai, Lê Tuấn, Nguyễn Tri Phương để đối phó với tình hình hỗn loạn ở biên giới phía bắc, làm phân tán lực lượng chủ lực chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp ở phía nam.

Triều Nguyễn có vai trò chủ đạo trong việc đưa ra chính sách đối phó với các nhóm cướp bóc. Cơ bản nhất vẫn là việc bổ sung binh lính từ Kinh thành đến các địa phương; xây dựng hệ thống đồn bốt phòng thủ; phát huy sức mạnh của nhân dân ở các địa phương. Đặc biệt, bắt đầu từ năm 1868, Tự Đức đã gửi thư cầu viện nhà Thanh mang quân sang nước ta giúp việc đánh dẹp các nhóm cướp bóc. Năm 1878, trong một bức thư gửi tuần phủ Quảng Tây, Tự Đức viết: “Hiện nay quan binh của thượng quốc đã chia ra đóng đồn khắp tỉnh Lạng Sơn, tướng thần cùng binh dũng của hạ quốc cũng đã được phái đi khắp mạn bắc để án ngữ. Nhưng ngặt vì bọn giặc rất đông, lại đều là những quân thuộc đường, đánh giỏi. Đến nay như quan binh thượng quốc xưa nay có tiếng là hùng mạnh, lại đã từng quen thuộc mà bao ngày hết sức đánh dẹp mới có thể đuổi được chúng chạy trốn”(11). Trên thực tế, biện pháp đó đã mang lại những hậu quả bước đầu, có thể dẹp trừ các nhóm cướp bóc. Nhưng sâu xa, biện pháp cầu viện nhà Thanh sẽ gây nên những yếu tố bất lợi cho tình hình nước ta. Thời điểm nửa đầu thế kỷ XIX, Việt Nam là đối tượng tranh giành phạm vi ảnh hưởng và quyền lợi của rất nhiều thế lực. Sự cầu viện của nhà Nguyễn góp phần tăng thêm mâu thuẫn Phap-Thanh vốn đã ươm mầm từ nhiều năm trước về vấn đề Việt Nam.

Qua việc tìm hiểu những xung đột vũ trang chủ yếu ở giai đoạn 1848-1878, có thể thấy rõ ý thức của triều đình mà đứng đầu là Tự Đức trong việc bảo vệ biên cương. Mỗi khi có sự tấn công của các nhóm phản loạn hay cướp bóc, Tự Đức luôn họp bàn với các quan quân để tìm phương pháp đối phó. Ông luôn tìm ra những biện pháp cấp bách để có thể đẩy lùi tình trạng bất ổn về an ninh, quốc phòng ở các tỉnh biên giới phía Bắc. Thái độ của Tự Đức cũng như quan quân triều đình và địa phương trước sau đều kiên quyết bảo vệ vững chắc cương giới đất nước.

Chú thích
1. Hưng Hoá: gồm Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Yên Bái, Sơn La và một phần Phú Thọ ngày nay.
2. Quảng Yên: là tỉnh Quảng Ninh ngày nay.
3. Ba nhân vật này được coi là lãnh đạo chủ chốt của Thiên Địa hội. Thiên Địa hội cũng hoạt động cùng thời với Hội Thượng Đế (do Hồng Tú Toàn sáng lập) nhưng mang màu sắc tôn giáo thần bí hơn. Xem Bạch Thọ Di, Trung Quốc thông sử, tập 19, tr. 221, Sở Tiêu Kinh, Thượng Hải ấn hành, 1999.
4. Giặc Cờ bị phân hoá thành nhiều phe phái thủ lĩnh của đội quân nào thì lấy màu cờ làm tên của cánh quân đó. Quân Cờ đen thì có cờ hiệu màu đen, quân Cờ vàng có cờ hiệu màu vàng, quân Cờ trắng có cờ hiệu màu trắng.
5. Lưu Vĩnh Phúc sinh năm 1837, tại Cổ Sâm, châu Khâm, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Trước khi làm thủ lĩnh quân Cờ đen, ông đã tham gia vào tổ chức Thiên Địa hội của Ngô Á Chung, sau khi bị triều đình Mãn Thanh truy quét phải chạy sang nước ta.
6. Chế Tuyết, Chiến mưu Lưu Vĩnh Phúc giặc Cờ đen, Vĩnh Yên, 1937, tr. 20.
7. Lưu Chính Lạc, Lưu Vĩnh Phúc tại Thượng Tư, Uỷ viên Hội văn sử Chính Hiệp, huyện Thượng Tư, tỉnh Quảng Tây, Nxb Nguyên Lưu, Nam Ninh, 2002.
8. Văn Tân, Lưu Vĩnh Phúc tướng Cờ đen và các hành động của ông ở Việt Nam, tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 94, 1962.
9. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 7, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 2000, tr. 1124.
10. Đại Nam thực lục, Sđd, tr. 997.
11. Thơ văn Tự Đức, Nxb Thuận Hoá, Huế, 1996, tr. 348.
Nguồn: Ba Sàm.

 

Thứ Bảy, 10 tháng 12, 2011

Thư giãn cuối tuần: TÁI CHÍN, TÁI GIÁ, TÁI BẢN VÀ TRẨY HỘI

Tái chín và Tái giá

Một chị hàng phở góa chồng, vẫn đương xuân sắc. Nhờ có duyên bán hàng, phở lại ngon nên lúc nào quán cũng đông khách. Trong đám khách ruột của chị, có một bác văn nghệ say đắm chị. Bác ấy sáng nào cũng ghé quán ăn phở để được ngắm chị, và rồi ngỏ lời cưới chị.

Chị hàng phở cam phận giữa đường đứt gánh, quyết thờ chồng nuôi (con) giai. Nhưng bác kia cứ không buông tha. Một tối, chị hàng phở mời người khách kia đến nhà chơi và đưa ra vế đối, hẹn rằng nếu đối được thì chị sẽ ...Vế đối rằng:

NẠC - MỠ nữa mà chi! Em nghĩ CHÍN rồi! Đừng nói em câu TÁI - GIÁ.

Bác kia choáng quá! Tự mày mò đối lại mà không được. Bác ấy mang đến nhờ Lâm Khang đối cho, vì bác quyết lấy chị hàng phở. Lâm Khang pát xê sang bác Gốc Sậy, nhưng bác ấy chưa tìm được bác Gốc Sậy để nhờ.

Bây giờ, trời Hà Nội đang mùa đông rét mướt. Nghĩ đến cảnh chị hàng phở và bác khách hàng kia đều chăn đơn gối chiếc, mà mình thì không đối được, xin trình lên đây, để chư vị bốn phương cùng giúp đỡ họ. Xin có nhời cảm ơn trước!

Tái bản truyện Tiếu lâm Việt Nam 
Những chuyện trích dưới dây là do tôi phiên dịch từ cuốn Tiếu lâm tân truyện (2 quyển) in năm Khải Định 1 (1916), tại nhà in Phúc Yên. Hai cuốn này có mang ký hiệu VNv.269 và VNb.98, hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. 

Ăn cho ích vào thân
Có hai vợ chồng thầy ký nuôi một thằng ở, ngày nào cũng để nó ăn cơm nguội. Thằng ở tinh quái, nghĩ ra một kế xỏ chủ nhà. Một hôm cô ký đang ngồi ở đằng sau, thằng ở nói rằng: “Mình ở nhà này mới một tháng, chỉ ăn cơm nguội mà dái to như thế này”. Cô ký nghe thấy, cứ lẳng lặng đi ra. Từ đấy, bữa nào cũng bắt chồng ăn cơm nguội, cơm sốt thì cho thằng ở ăn. Chồng lấy làm lạ, hỏi mãi, vợ không nói. Sau tức quá, nói to lên rằng: “Tại làm sao mà cứ bắt người ta ăn cơm nguội mãi thế”. Vợ bất đắc dĩ nói rằng: “Ăn cho ích vào thân, chứ tại làm sao mà căn vặn mãi”.

Tằm anh đã đói chưa
Một phú ông có hai con gái xinh lắm. Một hôm thành gia thất chị, bố sai em đi xem người nào may khéo, để may nhiều quần áo lịch sự, mà may trong ba hôm xong. Cô ta đi đến một người bảo như thế. Người thợ thấy cô ta xinh, muốn chim. Khi cô ả đến giục thì anh ta ngẩn mặt ra, không nói đến sự may. Cô ta hỏi rằng: “Sao anh ngẩn mặt thế”. Anh ta nói rằng: “Bây giờ tôi có việc cần, chưa có thể may được”. Cô ta hỏi rằng: “Việc gì”. Anh ta nói rằng: “Bây giờ con tằm tôi nó đói, phải cho nó ăn bồ hôi người mới no được”. Cô ta hỏi: “Thế ăn bồ hôi tôi có được không?”. Anh ta nói rằng: “Tốt quá”, rồi dắt cô ta vào phòng, lấy cái “ấy” ra, di từ trên đến chân, rồi từ chân lại di đến trên, sau anh ta ấn ngay vào. Cô ta về một phút, lại đến hỏi rằng: “Tằm anh đã đói chưa?”.

Nhả ngay ra không thì chết
Một anh phải lòng một chị nhà thổ. Chị nọ lấy hai cái lông cho anh ta làm của tin. Anh kia nhận lấy, quý hóa không biết chừng nào, làm một cái túi bỏ vào, đêm ngày đeo ở trước mình. Một hôm đi chơi ở ngoài phố, nhớ đến nhân tình, mở túi ra xem, gió bay mất. Anh ta vội vàng chạy theo gió, chạy đến ngã ba, thấy một anh thợ giầy, miệng ngậm hai chỉ tóc, anh mất của chỉ vào  mặt bảo rằng: “A, mày chực nuốt sống của ông à. Muốn sống nhả ngay ra không thì chết”.
 .
Úm ba la, ba ta cùng khỏi
Một chị, chồng đi vắng, ở nhà ngồi cắt củ từ, thấy củ hay hay, mới tê mê tẩn mẩn lấy một củ cho vào chốn ấy, không ngờ lấy ra không được, phát sốt điên cuồng cả người lên. Đến lúc chồng về, chị ta giả cách ngộ cảm, lên giường đắp chăn nằm. Anh chồng thấy vậy, ngẩn người ra, vẫn định về làm khoản ấy, ai ngờ về vợ lại như thế, buồn mình mới ra ngoài sân, nghịch chó cái cho đỡ buồn, nghịch thế nào mà tự nhiên anh ta mang con chó lên giường, cũng đắp chiếu kín nằm rên khư khử. Ai hỏi thì nói trá rằng đau bệnh. Kỳ thực cậu ta bị chó cái giữ, lôi ra không được, cho nên phải ôm chó cái lên giường. Thành thế ra chồng nằm rên một giường, vợ nằm rên một giường. Hai vợ chồng cùng bị bệnh cả. Người nhà thấy vậy sợ lắm, chạy đi kể chuyện với ông thầy pháp ở bên cạnh nhà: “Không biết làm sao hai vợ chồng tự nhiên phát bệnh như thế, để thầy xem có phép gì cứu được không”. Ông thầy bảo rằng: “Ma làm đấy, phải cúng thì mới khỏi”. Người nhà mời ngay ông ta đến cúng hộ cho. Ông thầy đến, vào thăm chồng, hỏi bệnh ra làm sao, người chồng nói nhỏ vào tai rằng: “Ông có cúng thì cúng cho nhà tôi, vì không biết làm sao mà tự nhiên nó phát sốt như vậy, còn tôi thì không phải bệnh”, mới nhỏ to kể thật chuyện mình cho thầy nghe. Ông thầy lại vào thăm người vợ, thì người vợ nói sẽ rằng: “Ông có cúng xin ông cúng cho nhà tôi, vì không biết làm sao mà tự nhiên phải đau bão làm vậy, còn như tôi thì không phải gì cả”. Cũng kể thật cả chuyện mình cho ông thầy nghe. Ông thầy biết rõ rằng, hai bên cùng phải một bệnh mà bên nọ giấu bên kia, song cũng cứ làm thinh như không, ra sân đặt đàn để cúng. Nhưng mà chỉ tơ tưởng chuyện hai vợ chồng nhà chủ, cho nên tê tê buồn buồn, sẵn thấy có chai rượu ở trên bàn, đem xuống để ngay cái ấy vào miệng chai, chẳng may không lôi ra được, cứ chịu chết đứng ở ngoài sân, hai tay ôm lấy chai rượu. Chị kia trông thấy bật cười đến nỗi băng cả củ từ ra, con chó cái thấy củ từ, nghĩ là miếng thịt chạy ra đớp. Thầy pháp tưởng chó đến cắn mình, sợ quá sun lại, chai rơi xuống đất. Thế là ba người cùng khỏi cả. Bởi vậy, thầy pháp ra trước đàn bắt quyết mà niệm chú rằng: “úm ba la, ba ta cùng khỏi”.


ĐỌC LẠI NHỮNG BÀI BÁO NGÀY NÀY 4 NĂM TRƯỚC

Báo Tuổi Trẻ số ra ngày 10.12.2007, là tờ báo duy nhất đưa tin về việc người dân biểu tình phản đối Trung Quốc

Lời dẫn: Nhân kỷ niệm 4 năm nổ ra các cuộc biểu tình tự phát đầu tiên của quần chúng tại hai thành phố Hà Nội và HCM để phản đối nhà cầm quyền Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa, bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Khi ấy, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Dũng đã lên tiếng phản đối.

Hai năm sau, ngày 17.03.2009, tại Hội nghị quốc gia lần thứ Nhất về Biển Đông, tổ chức tại Học viện Ngoại giao Việt Nam, GS. TS, Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học, Bộ Công An đã phát biểu: Khi cần thiết, ví dụ như sau sự kiện TQ lập huyện đảo Tam Sa chẳng hạn, phải cho hàng triệu người xuống đường ở Hà Nội và Tp HCM.

Nhân dịp này, xin giới thiệu lại bài viết trên VietNamnet, được post lên vào sáng 10.12.2007, cách nay đúng 4 năm:

 VietNamNet
Sức mạnh đồng thuận Việt Nam: 
Nhìn từ Hoàng Sa -Trường Sa
10/12/2007 12:41 (GMT + 7)


Cho dù nhiều giá trị có thể bị lẫn lộn, nhiều đường biên quốc gia mờ nhoà trong thời toàn cầu hoá thì lòng yêu nước sẽ và mãi là những giá trị trường tồn. Và mỗi khi chủ quyền dân tộc, sự toàn vẹn lãnh thổ đất nước bị xâm phạm, là lúc những người Việt, trong và ngoài nước, ở mọi thành phần, mọi lứa tuổi, bằng cách này hay cách khác đã lên tiếng!

Tình yêu nước và ý thức dân tộc không phải của riêng ai. Và mỗi người, khi mang trong mình dòng máu Việt, đã chọn cách không im lặng. 

Trong hàng nghìn lá thư của độc giả trong và ngoài nước gửi về Tuần Việt Nam – VietNamNet những ngày qua, kể từ khi sự kiện Hoàng Sa – Trường Sa xảy ra, thấy gì? 

Trên các diễn đàn mạng tràn ngập cờ Tổ quốc và những bài viết về Trường Sa, Hoàng Sa của cộng động mạng Việt Nam, thấy gì? 

Trong cuộc biểu tình hoà bình của người dân hôm qua (8/12), thấy gì?

 
Chiến sĩ ở đảo Trường Sa (Ảnh: Phạm Tuấn)

Đó là lòng yêu nước cháy bỏng, sục sôi trong từng lời từng chữ. Là nỗi đau đớn khi chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc bị xâm phạm. Là sự đau đáu đến vận mệnh đất nước, ở ngay những người trẻ, mà những tưởng cuộc sống bộn bề lo toan và đề cao hưởng thụ cá nhân này đã làm phai nhoà.

Và sau mỗi dòng thư, đó còn là lời khẳng định ý sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc. 

Không cần một lời hiệu triệu. Cũng chẳng cần những sự hô hào. Bạn và tôi, bất kể quá khứ hay chính kiến khác nhau, đã cùng nhìn về một hướng. Để nói lên rằng: Tình yêu với đất nước này, dân tộc này, ngôn ngữ này là vĩnh cửu. Để nói rằng: khi chủ quyền bị xâm phạm, mọi người Việt, dù đứng ở vị trí nào sẵn sàng đoàn kết một lòng vì sự tồn vong của dân tộc! 

Trong những dòng thư tâm huyết gửi về, nhiều nhân sĩ, trí thức trong và ngoài nước thiết tha kêu gọi, hơn lúc nào hết, người Việt hãy cùng nhau đoàn kết một lòng vì lợi ích dân tộc. Chính những người Việt ở nước ngoài sẽ là những đại sứ góp phần vận động bạn bè thế giới hiểu và ủng hộ Việt Nam. Vượt qua những khác biệt và quá khứ, rất nhiều người đang âm thầm tự nhận lãnh sứ mệnh “bảo vệ Tổ quốc từ xa” như lời cựu Chủ tịch nước Lê Đức Anh nói về họ. 

Chỉ người Việt Nam mới thương lấy nhau, mới thiết tha và sẵn sàng xả thân bảo vệ lợi ích dân tộc. Chân lý bất biến đó, phải qua nhiều trả giá đau đớn mới được vỡ lẽ. 

Trong suốt thế kỷ XX đầy bão táp, đã chứng kiến bao nhiêu cuộc móc ngoặc, mặc cả và chia chác của các nước lớn trên lưng dân tộc nhỏ bé này? 

Khi hai cuộc chiến tranh khốc liệt bước vào giai đoạn kết thúc, khi các bên đã ngồi vào bàn đàm phán cho một kết cục hoà bình thì phía hậu trường, những đồng minh tưởng như thân tín cũng bước vào cuộc mặc cả sau lưng chúng ta.

 
Trường Sa – đảo thuộc chủ quyền Việt Nam (Ảnh: Phạm Tuấn)

Đương nhiên, chẳng có gì là khó hiểu khi các nước lớn sẵn sàng hy sinh lợi ích của nước khác, vì lợi ích của chính mình. Lợi ích quốc gia đã biến những khẩu hiệu về tình đoàn kết thuỷ chung như nhất, những mỹ từ của đồng minh duy nhất, đồng minh truyền thống trở thành sáo rỗng. 

Ngày nay, không còn dễ dàng cho một nước, cho dù quyền lực có lớn mạnh đến đâu có thể xâm lược các nước khác. Nhưng trong một thế giới toàn cầu hoá, khi chủ nghĩa nước lớn ngày càng có nhiều hình dạng mới, khi những hành động xâm phạm chủ quyền dân tộc ngày càng trở nên tinh vi hơn, sự nghiệp bảo vệ chủ quyền và độc lập toàn vẹn (về cả lãnh thổ cũng như về tinh thần) của một quốc gia nhỏ, yếu vì thế phải đối mặt với những khó khăn khôn lường. 

Yếu thực lực thì luôn bị chèn ép, lấn lướt. Yếu thực lực đồng nghĩa với chấp nhận thiệt thòi trong mọi tranh chấp. Đó là thực tế hiển nhiên dù vô cùng cay đắng. 

Một nhà lãnh đạo thuộc cấp cao nhất Việt Nam, khi nói về thực tế này, đã kết luận: Muốn thoát khỏi mọi uy hiếp, muốn phát triển được để tồn tại trong thế giới này, muốn bảo vệ được chủ quyền và độc lập dân tộc thực sự, toàn vẹn, nhất thiết dân tộc này phải phấn đấu bằng mọi giá thoát ra khỏi nỗi nhục nghèo, hèn. 

Đất nước này phải mạnh lên!

Đột phá để phát triển, giải phóng mọi nguồn lực, trong đó có tiềm lực con người để thoát khỏi thân phận nghèo hèn, chính là sứ mệnh lịch sử của những thế hệ ngày hôm nay. 

Hãy để sự kiện hôm nay, như lời giục giã đối với mọi người dân Việt lên đường cho cuộc dấn thân vĩ đại đó. 

Minh Anh
(Nguồn: Tuần Việt Nam – VNN/Viet-Studies)
Nguồn: Ba Sàm.

Thứ Sáu, 9 tháng 12, 2011

BBC, RFA QUAN TÂM VÀ ĐƯA TIN VỤ CHỊ BÙI HẰNG BỊ ĐƯA ĐI CẢI TẠO

BBC: Trại cải tạo ‘tiếp nhận’ Bùi Hằng

Bà Bùi Thị Minh Hằng, người tham gia biểu tình phản đối Trung Quốc tại TP HCM, đã bị giam ở trung tâm Thanh Hà, Vĩnh Phúc, cơ sở thuộc Cục Quản lý trại giam (V26) của Bộ Công an với thời hạn hai năm.

Thông báo “tiếp nhận người có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục ”được gửi đến người con trai của bà Hằng là anh Bùi Trung Nhân theo dấu bưu điện vào ngày 1/12/2011.

Nhưng đến ngày 8/12/2011, sau khi bị tạm giữ ở công an phường Bến Thành vì phát tán tờ rơi tìm mẹ, anh Nhân, cậu con trai 18 tuổi của bà Hằng mới nhận được thông báo này.

Quyết định nhặt trong sân

Ông Nhân nói với BBC rằng thông báo này được gửi vào sân nhà nơi ông đang ở tại Vũng Tàu.
Theo thông báo, đây được coi là quyết định chính thức số 5225 của Ủy Ban Nhân dân Thành phố Hà Nội.

Theo đó, bà Hằng phải chấp hành việc giam giữ cải tạo tại trung tâm vốn được biết đến là nơi dành cho các ‘học viên’ nghiện ma túy trong thời hạn 24 tháng tính từ ngày 28/11/2011.

Báo chí Việt Nam có đoạn viết về trung tâm này như sau: “Đúng như tên gọi của nó, Cơ sở Giáo dục Thanh Hà chỉ là nơi giáo dục pháp luật, giáo dục trách nhiệm công dân, dạy nghề, dạy văn hóa nhằm phục thiện cho những người lầm lỗi. Dẫu không có án phạt tù nhưng hành vi của những người phải đưa đến cơ sở này đã từng gây phương hại đối với cộng đồng và xã hội.”

Theo gia đình, thông báo được viết rất ngắn gọn được ký bởi Thượng tá Bùi Khánh Chúc, phó giám đốc Cơ sở Giáo dục Thanh Hà, có trụ sở đặt tại tỉnh Vĩnh Phúc.

"Trại viên Bùi Thị Minh Hằng" được gửi đến đây từ ngày 28/11 mà không cho biết  nguyên nhân cụ thể," thông báo viết.

Ông Nhân cho hay anh vẫn chưa nhận được thêm bất cứ tin tức gì từ bà Hằng và có thể sẽ yêu cầu được chính quyền xác minh lại vấn đề này.

 'Ủng hộ thủ tướng’

Trước đó, theo lời một nhân chứng có mặt tại khu vực nhà thờ Đức Bà, những người cùng bà Hằng giương cao các khẩu hiệu với nội dung “ủng hộ Thủ tướng và Quốc hội thông qua luật biểu tình” và “phản đối đàn áp người yêu nước” bị bắt và đưa về công an phường Bến Nghé, thành phố Hồ Chí Minh.

“Dù không đồng ý yêu cầu về làm việc tại công an phường Bến Nghé, họ đã chuẩn bị các biện pháp cưỡng chế chúng tôi về câu lưu tại đây.

“Lúc ở Nhà thờ, chị Hằng vẫn đứng chụp ảnh thoải mái mà không bị ai gây khó dễ hay bắt bớ gì chị Hằng.

“Đến khi tôi bị đưa lên tầng bốn và chị Hằng bị đưa đi làm việc nơi khác, tôi mới hiểu ra rằng chúng tôi bị câu lưu.”

Kể từ vụ việc này, các nhân chứng và người thân đã mất liên lạc với bà Hằng.

Bà Bùi Thị Minh Hằng được dư luận biết tới gần đây qua các cuộc biểu tình Chủ Nhật “chống đường lưỡi bò” và “phản đối Trung Quốc xâm lược” tại Hồ Gươm và nhiều lần tuần hành khác.

______________________
RFA Việt ngữ:
Chị Bùi Thị Minh Hằng đã bị áp giải ra Thanh Hà tỉnh Vĩnh Phúc 

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2011-12-09

Tin chính thức từ gia đình bà Bùi Thị Minh Hằng cho biết hiện bà đã bị giam giữ trong thời hạn 24 tháng tại cơ sở Giáo dục Thanh Hà thuộc thị trấn Thanh Hà tỉnh Vĩnh Phúc theo quyết định số 5225 của UBND thành phố Hà Nội.

Từ thành phố Vũng Tàu nơi gia đình chị Hằng cư trú, con trai của chị là Bùi Trung Nhân nói với chúng tôi:

-Dạ em là Bùi Trung Nhân con út của bà Bùi Thị Minh Hằng.
-Cho tới ngày hôm nay thì chị Bùi Minh Hằng đã bị giữ bao lâu rồi?
-Tính cho tới ngày hôm nay thì đã bị giữ ngày thứ 13 rồi
-Lý do khiến mẹ bị giữ là gì và ở đâu?
-Lý do thì họ vẫn chưa trả lời nhưng mà địa điểm bị giữ thỉ khi em vào hỏi người ở công an phường Bến Nghé thì mới biết.
-Sau đó thì họ chở ra Hà nội phải không?
-Dạ vâng
-Thông tin mới nhất mà em nhận được từ an ninh là tài liệu gì?
-Em nhận được thông báo mới nhất là thông báo tiếp nhận của cơ sở giáo dục đào tạo thị trấn Thanh Hà tỉnh Vĩnh Phúc.
-Và trong nội dung đó báo về vấn đề gì?
-Nội dung gửi cho em là xác nhận hiện tại cơ sở Giáo dục Thanh Hà đang giữ mẹ em là trại viên Bùi Thị Minh Hằng, bị gửi vào đây ngày 28 tháng 11 năm 2011. Thời gian chấp hành là 24 tháng theo quyết định số 5225 ngày 8 tháng 11 năm 2001 của UBND thành phố Hà Nội.
-Đó là quyết định theo quản lý hành chánh phải không?
-Vâng
-Và gia đình có dự định bao giờ ra Bắc để thăm mẹ hay không?
-Dạ em nghĩ là sau khi thu xếp công việc nhà thì em sẽ ra đó.
-Xin cám ơn em.

Thưa quý vị bà Bùi Thị Minh Hằng được biết đến sau những lần tham gia biểu tình chống Trung Quốc tại Hà nội. Bà bị bắt nhiều lần và được trả tự do với những răn đe không được tham gia biểu tình cũng như các hoạt động chống Trung Quốc khác. Bà Bùi Thị Minh Hằng bị bắt vào ngày 27 tháng 11 tại Sài Gòn khi cuộc biểu tình ủng hộ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng xảy ra cùng ngày tại Hà Nội.
Nguồn: RFA.

THÔNG TIN CHÍNH THỨC VỀ CHỊ BÙI THỊ MINH HẰNG

Thưa chư vị,

Như chư vị đã biết, kể từ hôm 27.11.2011, chị Bùi Thị Minh Hằng biệt tăm tích đến nay, gia đình và bạn bè của chị vô cùng hoang mang lo lắng. Con trai của chị là Bùi Trung Nhân đã lên Tp HCM để phát tờ rơi TÌM MẸ.

Đến hôm nay, theo tin mới nhất từ gia đình cho biết: Hiện nay, chị Bùi Thị Minh Hằng đang bị giam giữ & cưỡng ép cải tạo tại Cơ sở giáo dục Thanh Hà (Vĩnh Phúc).

Văn bản thông báo chính thức được gửi đến gia đình chị Bùi Thị Minh Hằng tại Vũng Tàu vào trưa ngày 07/12. Như vậy, sau 11 ngày giam giữ cơ quan CA đã có thông báo gửi đến gia đình.

Nội dung bản thông báo cho biết: Chị Bùi Thị Minh Hằng bị áp giải vào Cơ sở Giáo dục Thanh Hà hôm 28/11/2011, với thời gian giam giữ là 24 tháng.

Văn bản này còn cho biết, việc bắt giữ chị Bùi Thị Minh Hằng dựa trên quyết định số 5225 của Ủy Ban Nhân dân TP Hà Nội, nhưng không nêu rõ ai là người đã ký quyết định này.

Điều đáng nói, quyết đinh số 5225 của UBND TP. Hà Nội đã được ký vào ngày 08/11/2011. Điều này cho thấy, việc bắt giữ chị Bùi Thị Minh Hằng đã được chuẩn bị sẵn từ trước.

 



Văn bản thông báo của Cơ sở Giáo Dục Thanh Hà gửi đến gia đình về việc giam giữ chị Bùi Thị Minh Hằng

Trước việc bắt giữ người không qua xét xử, con trai chị Hằng là Bùi Trung Nhân cho biết: Hiện nay, gia đình đang liên lạc với luật sư để nhờ hỗ trợ về mặt pháp lý. Đồng thời, em cũng bày tỏ mong muốn tiếp tục được dư luận quan tâm, lên tiếng để mẹ sớm được tự do.
___________________
Dưới đây là các thông tin và ý kiến về tình hình các cơ sở giáo dưỡng hiện nay:

Giáo dục, giáo dưỡng đang bị lạm dụng :
http://phapluattp.vn/20101214125330284p0c1015/giao-duc-giao-duong-dang-bi-lam-dung.htm 

Chỉ nên xem việc đưa vào cơ sở giáo dưỡng là biện pháp hành chính
http://hanoimoi.com.vn/newsdetail/Xa-hoi/521967/chi-nen-xem-viec-dua-vao-co-so-giao-duong-la-bien-phap-hanh-chinh.htm 

Tòa sẽ xem xét áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dục, cơ sở giáo dưỡng
http://phapluatxahoi.vn/20110831100752937p1002c1022/toa-se-xem-xet-ap-dung-bien-phap-dua-vao-truong-giao-duc-co-so-giao-duong.htm

Đi "giáo dục" thành... phế nhân
http://giadinh.net.vn/20100507080226690p0c1005/di-giao-duc-thanh-phe-nhan.htm

Một thanh niên kiện chủ tịch tỉnh Thái Nguyên
http://vietbao.vn/Xa-hoi/Mot-thanh-nien-kien-chu-tich-tinh-Thai-Nguyen/70056033/157/

BN tổng hợp.

CHỚ RẮP TÂM XUYÊN TẠC LỊCH SỬ!

Chớ rắp tâm xuyên tạc lịch sử!

SGTT.VN - Thời điểm chuyến thăm hữu nghị cấp nhà nước của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sang Campuchia tưởng không thể nào tốt hơn khi chính Thủ tướng Hun Sen vừa khẳng định phiên toà xét xử các thủ lĩnh Khmer Đỏ đang trưng bày “sự thật lịch sử” về Việt Nam. 

Ngoài nghi thức cao nhất dành cho nguyên thủ quốc gia, Quốc vương Norodom Sihamoni đã ra tận cửa xe ôtô để chào đón Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và mời ông đi lên bục danh dự. 

Quốc Vương Norodom Sihamoni đã ra tận cửa xe ôtô để chào đón Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Ảnh: TTXVN

Tài sản chung vô giá 

Tại cuộc hội đàm, Quốc vương Sihamoni đã bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với sự ủng hộ và giúp đỡ quý báu của Việt Nam dành cho Campuchia trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thoát khỏi thảm hoạ diệt chủng, khôi phục và phát triển đất nước. Cả Tổng bí thư lẫn Quốc vương đều khẳng định quyết tâm củng cố và tăng cường hơn nữa mối quan hệ láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài, coi đây là tài sản chung vô giá của hai dân tộc.

Tuyên bố chung về chuyến thăm hữu nghị cấp nhà nước khẳng định các nguyên tắc và phương hướng chỉ đạo quan hệ giữa hai nước trong thời gian tới. Hai nước sẽ tăng cường gặp gỡ tiếp xúc cấp cao; nhất trí lấy năm 2012 làm “năm hữu nghị Việt Nam – Campuchia” để kỷ niệm 45 năm hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao.

Một trong năm phương hướng nhằm tăng cường quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước trên tất cả các lĩnh vực là tiếp tục triển khai có hiệu quả các thoả thuận về quốc phòng, an ninh; tăng cường phối hợp, không cho phép bất cứ lực lượng chính trị, quân sự nào sử dụng lãnh thổ của nước này để chống lại nước kia; hai bên cũng phối hợp phòng chống các loại tội phạm xuyên quốc gia; hợp tác bảo vệ an ninh biên giới; duy trì cơ chế phối hợp tuần tra chung trên biển...

Chính phủ hai nước tăng cường chỉ đạo các bộ ngành, địa phương triển khai có hiệu quả các thoả thuận tại kỳ họp lần thứ 12 uỷ ban hỗn hợp (8.2011) và kết quả hội nghị xúc tiến đầu tư, thương mại trước đó (4.2011). Hiện có gần 100 dự án của các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào Campuchia, với mức vốn 2,2 tỉ USD. Năm 2010, thương mại song phương đạt 1,9 tỉ USD, ước tính năm nay đạt 2,4 tỉ USD. Hai bên đang tìm cách tăng kim ngạch lên 5 tỉ USD. Hai nước cũng thường xuyên trao đổi thông tin và phối hợp hoạt động tại các tổ chức quốc tế, khu vực và các diễn đàn đa phương, góp phần giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển. 

Không thể xuyên tạc lịch sử 

Việt Nam và Campuchia khẳng định tăng cường hợp tác giữa Việt Nam, Campuchia và Lào, xây dựng Tam giác phát triển thành khu vực hữu nghị, ổn định, an ninh và phát triển bền vững.

Theo người phát ngôn của Thủ tướng Campuchia, ông Ieng Sophallet, Thủ tướng Hun Sen đã bảo đảm với Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng rằng vụ xét xử các thủ lĩnh Khmer Đỏ đang giúp người dân Campuchia hiểu rõ vai trò của Việt Nam chống lại chế độ Khmer Đỏ. Ông nói: “Vụ xử chế độ Polpot đang làm sáng tỏ sự giúp đỡ của Việt Nam dành cho Campuchia và rất công bằng”.

Phiên toà quốc tế xử Khmer Đỏ diễn ra hơn hai tuần, và đầu tuần này toà cho tiến hành hỏi cung nhân vật số 2 của Khmer Đỏ là lý thuyết gia Nuon Chea. Ông này đã không có một lời nào đụng đến vai trò của các thế lực đã ủng hộ Khmer Đỏ trong giai đoạn từ năm 1975 – 1979, cũng như không hề nói tới mối quan hệ quốc tế trước đó của Khmer Đỏ. Chấn động hơn hết, Nuon Chea đã phủ nhận mọi trách nhiệm của phe lũ và cho rằng “Việt Nam mới là thủ phạm”(?).

Lịch sử “những cánh đồng chết” chưa thể bị lãng quên một cách nhanh chóng như thế. Máu và nước mắt của hai dân tộc Việt và Khmer không phải là nước lã! Vẫn biết có thế lực đang “ngậm đắng nuốt cay” trước việc những đứa con đẻ của họ, các tội đồ của văn minh loài người bị lôi ra trước toà án lịch sử. Phá không được thì bôi nhọ và xuyên tạc. Dã tâm chia rẽ hai dân tộc Việt Nam – Campuchia, chia rẽ tình đoàn kết ASEAN trong nỗ lực xây dựng tinh thần tự cường khu vực nhất định không sớm thì muộn sẽ thất bại. 

Quảng Trí

Lời bình của NXD:  

Đúng là đang có những dã tâm chia rẽ hai dân tộc VN-CPC, chia rẽ tình đoàn kết ASEAN trong nỗ lực xây dựng tinh thần tự cường khu vực. Nhưng nhân dân VN, nhân dân CPC, nhân dân ba nước Đông Dương luôn tỉnh táo và không rơi vào bẫy! Nhân loại hãy nêu cao cảnh giác! 

CHÚC MỪNG SINH NHẬT TRANNHUONG.COM!

Chúc mừng Sinh nhật TranNhuong.com

TN.com: Thấm thoắt đã 5 năm Trannhuong.com có mặt trong thế giới mạng. Là một trang web cá nhân, một mình kì khu nuôi web, không cướp-giết-hiếp câu khách như báo lề phải nhưng đã có 7,5 triệu lượt bạn đọc ghé thăm là một niềm vui của chủ web.

Trong 5 năm Trannhuong.com đã tổ chức trao giải thưởng 3 lần:

 
- Giải 10 câu khúc khích (2008)
- Giải thi câu đối. (2009)
- Giải thưởng Văn chương Trannhuong.com (2011)


Trần Nhương ngẫu hứng mấy câu nhân ngày kỉ niệm này:

Văn thơ họa web lão ham chơi
Tí tách lên đời tuổi bảy mươi
Một mình kì cạch làm minh mạng (*)
Bầu bạn vui vầy… ai ấy ơi…
------ 
(*) Minh mạng đây là trang mạng sáng, nếu bạn hiểu là vua Minh Mạng thì cũng chẳng sao (hí hí)

Nguyễn Xuân Diện - Blog xin chúc mừng TranNhuong.com và trang chủ Trần Nhương!
Và xin có mấy câu nôm na chúc mừng:
Mừng bác Trần Nhương
Từ khi bác Trần Nhương mở tiệm,
Khách vào ra nhộn nhịp tưng bừng!
Anh em Nam - Bắc – Tây - Đông,
Người trong bốn biển về chung một nhà!
Hôm nay đã tròn năm năm chẵn,
So mấy trang, đã hẳn hơn rồi,
Thơ văn cho chí chuyện cười,
Đắng cay thời sự, ngậm ngùi thế nhân.
Gửi gắm chuyện phong trần dâu bể,
Lại kinh bang tế thế luận bàn.
Biết bao tâm sự thở than
Biết bao phản biện ruột gan phơi bày.
Năm năm chẵn hôm nay kỷ niệm,
Chúc trang nhà phát triển không ngừng!
Chúc mừng trang chủ Trần Nhương
An khang  - phúc lộc – thọ trường – vững tâm!


TÔI BỊ XẾP ĐẢNG VIÊN LOẠI 3 VÌ ĐI BIỂU TÌNH CHỐNG TRUNG QUỐC GÂY HẤN


TÔI BỊ XẾP ĐẢNG VIÊN LOẠI 3
VÌ ĐI BIỂU TÌNH CHỐNG TRUNG QUỐC GÂY HẤN

Đào Tiến Thi

Chắc là các chi bộ đảng khi cuối năm xếp loại đảng viên cũng làm như chúng tôi:  bước thứ nhất là làm bản tự kiểm rồi đem ra bình xét ở tổ đảng, sau đó bước hai là bỏ phiếu ở chi bộ. Mỗi người bỏ phiếu cho các đảng viên trong chi bộ theo các loại:
– Đảng viên đủ tư cách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ (gọi tắt là loại 1)
– Đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ (gọi tắt là loại 2)
– Đảng viên đủ tư cách, hoàn thành nhiệm vụ (gọi tắt là loại 3)
– Đảng viên không đủ tư cách, không hoàn thành nhiệm vụ (gọi tắt là loại 4)
Loại 1 –  “Đảng viên đủ tư cách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ” thì thường dành cho đảng viên là cán bộ lãnh đạo, còn lại đều loại 2 – “Đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ”, không có loại 3. Thông lệ nhiều năm đã thế.
Tuy nhiên năm nay đến bước hai, tôi chỉ được 10/18 bầu vào loại 2, còn lại là loại loại 3. Bí thư chi bộ gộp cả hai người vắng mặt để tính, thành ra tôi chỉ được 10/20, không đủ xếp vào loại 2 và tạm để trống, chờ đảng ủy cấp trên xem xét. Cũng có thể thấy đấy là điều đã định đoạt.
Kể ra nếu xét một cách chính xác – tức là đảng viên thực sự phải thể hiện vai trò tiên phong – thì xếp tôi vào loại 3, loại “thường thường bậc trung”, tôi cũng rất bằng lòng, vì xét thấy mình cũng chẳng có gì tiên phong cả. (Chỉ riêng cái chuyện trước cảnh nhà cầm quyền Trung Quốc luôn luôn sách nhiễu, bắn giết ngư dân, gây ra bao cảnh nghèo đói, mẹ góa con côi, lại còn hai lần cho tàu to xông thẳng vào vùng biển của Việt Nam mà cắt cáp tàu thăm dò dầu khí, rồi la lên là Việt Nam gây hấn, thì sự đóng góp của tôi với hai cuộc biểu tình là quá bé nhỏ. So với với những người đi biểu tình nhiều lần, so với những người bị bắt bớ, đánh đập, giam cầm, so với những bạn trẻ măng, những ông bà già, thì tôi còn rất đáng xấu hổ). Thế nhưng theo thông lệ lâu nay thì loại 3 là loại chỉ dành cho những người “có vấn đề” thực sự, thì tôi thấy bất công. Cũng giống như học sinh hiện nay, tuy đạo đức rất xuống cấp, ai cũng biết thế, nhưng khi xếp loại hạnh kiểm thì vẫn xếp vào loại “tốt” là chính, nếu hư vừa vừa thì xếp xuống loại “khá”. Loại trung bình chỉ dành cho học sinh hư, hỗn thực sự, tức là loại học sinh “cá biệt”, thường có trong “sổ đen”. Loại này rất hiếm.
Cho nên tôi phải hỏi lý do (hỏi thôi chứ biết ngay vì sao rồi) thì bí thư trả lời tại tôi đi biểu tình. Đi biểu tình là trái điều 6 trong 19 điều cấm của đảng viên, ông ấy giải thích thế.
Tôi nói rằng tôi đi biểu tình là phù hợp với quyền công dân đã được ghi trong hiến pháp (điều 69). Hơn nữa đây là biểu tình để phản đối hành động xâm phạm bờ cõi nước ta của nhà cầm quyền Trung Quốc, biểu tình để thể hiện quyết tâm chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam thì không thể là sai trái được. Chính Giám đốc công an Hà Nội Nguyễn Đức Nhanh cũng thừa nhận những cuộc biểu tình chống Trung Quốc trong tháng 7, 8 vừa qua là biểu tình yêu nước[1]. Và mới đây nhất, trước việc đại biểu Quốc hội hỏi về thái độ và chủ trương của Chính phủ về việc người dân biểu tình biểu thị lòng yêu nước, ngày 25-11-2001, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định Đảng và Chính phủ luôn trân trọng biểu dương, khen thưởng xứng đáng tất cả hoạt động, việc làm của người dân vì mục tiêu yêu nước, bảo vệ chủ quyền quốc gia[2]. Tôi cũng nhắc lại cả vế sau trong phát biểu của Thủ tướng: Chính phủ không hoan nghênh và buộc phải xử nghiêm với những động cơ, hành vi lợi dụng danh nghĩa yêu nước, bảo vệ chủ quyền để gây phương hại cho đất nước và xã hội. Tôi không có hành vi nào lợi dụng danh nghĩa yêu nước, bảo vệ chủ quyền để gây phương hại cho đất nước và xã hội. Công an đến cơ quan làm việc với tôi, chỉ để tìm hiểu sự việc và tâm tư của tôi, không hề bảo tôi có tội lỗi gì. Phòng tổ chức cán bộ và ông giám đốc nắm rõ điều này. Và theo tôi biết, tất cả những cuộc biểu tình chống Trung Quốc gây hấn vừa qua, cho đến lúc này, công an chưa tìm thấy bất kỳ ai lợi dụng lòng yêu nước để gây phương hại cho đất nước cả.
Tôi cũng khẳng định: Nếu những quy định đối với đảng viên làm tôi không thực hiện được tư cách công dân đối với Tổ quốc thì tôi buộc phải chọn tư cách làm người công dân. Tôi không thể vì mình là đảng viên mà khoanh tay để mặc quân cướp nước giày xéo Tổ quốc tôi, lăng nhục đồng bào tôi.
Rất tiếc là vì thời gian đã quá muộn, bí thư cho kết thúc cuộc họp cho nên tôi chỉ được phát biểu ngắn gọn như trên, không được trao đổi, tranh luận với ai. Vì vậy dưới đây tôi xin trao đổi thêm một số vấn đề thuộc về nhận thức “Những điều đảng viên không được làm” (thường gọi “19 điều cấm đảng viên”) trong Quy định số 115-QĐ/TW ngày 7-12-2007 của Bộ chính trị (gọi tắt là QĐ115) và Quy định số 47-QĐ/TW ngày 1-11-2011 của Ban chấp hành Trung ương (gọi tắt là QĐ115), tức Quy định “Những điều đảng viên không được làm” sửa đổi, thay thế cho Quy định 115. 
Điều 6 trong QĐ115 cấm đảng viên những việc sau: Tổ chức tham gia các hội trái quy định của pháp luật. Tổ chức, tham gia mít tinh, biểu tình khi chưa được cấp có thẩm quyền cho phép.
Như vậy QĐ115 không cấm hoàn toàn biểu tình mà chỉ cấm “khi chưa được cấp có thẩm quyền cho phép”. Và điều này thiết nghĩ đâu chỉ cấm riêng với đảng viên mà là đối với tất cả công dân nói chung, một khi chúng ta chủ trương “Sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật”.
Tuy nhiên cái điều cấm này không thể áp dụng vì quyền biểu tình đã được hiến định (điều 69 của Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam) trong khi Luật biểu tình lại không có. Cho nên không một cơ quan nào dám/ có quyền cấp phép biểu tình cũng như dám/ có quyền từ chối việc cấp phép biểu tình. Cũng có nghĩa là người dân đi biểu tình không bị một hạn chế nào về vấn đề này như Giáo sư Hoàng Xuân Phú[3] và nhiều học giả khác đã phân tích.
Chắc là các nhà lãnh đạo Đảng cũng đã nhận ra điều bất cập này nên trong QĐ47 vừa ban hành thay thế cho QĐ115, điều 6 đã được viết lại như sau:
(Cấm) Tổ chức, tham gia các hội trái quy định của pháp luật; biểu tình tập trung đông người gây mất an ninh trật tự.
Như vậy chỉ cấm loại biểu tình gây mất an ninh trật tự. Điều này thì tất nhiên rồi, nước nào chả thế.
Thực tế những cuộc biểu tình chống Trung Quốc gây hấn vừa qua, theo quan sát của tôi, chưa có cuộc nào gây mất an ninh trật tự (trong khi có rất nhiều cuộc không phải biểu tình đã gây mất an ninh trật tự thì lại không được chấn chỉnh, xử lý nghiêm khắc). Chính Giám đốc công an Hà Nội Nguyễn Đức Nhanh cũng khẳng định những cuộc biểu tình chống Trung Quốc vừa qua chỉ có “một số trường hợp tràn xuống lòng đường, cản trở giao thông[4]” mà thôi.
Xin trở lại một chút câu chuyện của tôi đặt ra ban đầu. Tôi đâu có buồn vì bị xếp đảng viên loại 3. Như trên đã nói, nếu làm đảng viên – công dân mà không được quyền bảo vệ Tổ quốc thì tôi sẽ chọn làm người công dân thường để được bảo vệ Tổ quốc.  Tôi chỉ buồn vì cảm thấy vận nước hiện nay trong cơn hiểm nghèo mà đa số đảng viên  lại thờ ơ, thậm chí còn quy tội cho những người biết lo lắng hay làm một việc gì đó vì quốc gia xã tắc. Thực ra những quy định trên đối với đảng viên, như đã phân tích, cũng không ảnh hưởng nhiều lắm đến quyền và nghĩa vụ công dân, nhưng do nhận thức của nhiều cấp ủy và đảng viên hiện nay không đến nơi đến chốn đã làm cho đa số đảng viên co mình lại trước những vấn đề sống còn của đất nước. Tôi rất buồn khi nhiều đảng viên, nhất là những đảng viên giữ chức vụ, luôn tìm cách lảng tránh khi đề cập những vấn đề thuộc về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Họ lảng tránh bằng những chữ đôi khi nghe rất “mềm”. Ví dụ: “Đã có Đảng và Nhà nước lo”. (Khổ chưa, chính họ là đảng viên, lại còn đảng nào ở ngoài họ lo cho họ nữa!) Ví dụ: “Bổn phận của mình là làm tốt công việc mình được giao. Việc đại sự quốc gia là của các nhà lãnh đạo” (Hỡi ôi, chẳng lẽ ngày xưa các cụ dạy sai: “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”). Nhiều người chỉ nói đến những chữ Trung Quốc, Hoàng Sa, Trường  Sa, Biển Đông là sợ hãi như phạm phải điều cấm, câu chuyện đang sôi nổi bỗng im bặt và buộc phải chuyển sang đề tài khác. Cứ đà này, chẳng mấy chốc sẽ là tình cảnh Quanh Hồ Gươm không ai bàn chuyện vua Lê như câu thơ Chế Lan Viên. Và lòng yêu nước của người Việt Nam, cũng nói theo ý thơ của Chế Lan Viên, sẽ chỉ là rêu phong chuyện cũ!
Tuy nhiên, có lẽ cũng chưa phải tất cả đã đáng buồn. Quanh tôi và qua báo chí, tôi vẫn thấy nhiều người dấn thân, bất chấp những lực cản vô lý. Mới đây nhất là việc ông Andre Manras Hồ Cương Quyết, một người hai quốc tịch Pháp - Việt đã hoàn thành một bộ phim để lên án nhà cầm quyền Trung Quốc tàn ác với ngư dân Việt Nam. Và tôi cũng rất cảm động khi ngày 25-11-2011, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã dõng dạc khẳng định trước Quốc hội về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cũng như chủ quyền của Việt Nam đối với lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý trên Biển Đông nói chung. Thủ tướng nói vo, vô cùng mạch lạc, nhớ đến từng con số, sự kiện, và nói với tất cả sự trang nghiêm và xúc động. Tới đây hy vọng rằng sau mỗi sự kiện Trung Quốc vi phạm chủ quyền Việt Nam thì không chỉ mỗi người phát ngôn Bộ Ngoại giao lên tiếng, không để lời phát ngôn đó bị lọt thỏm vào thinh không, không để nhà cầm quyền Trung Quốc cứ tùy tiện làm theo ý họ. Nhưng muốn thế phải rũ bỏ được những húy kỵ không biết bắt nguồn từ đâu đã nói trên.
Tái bút: Tôi chỉ muốn thông qua việc của tôi mà nêu một hiện tượng, một vấn đề xã hội để cùng nhận thức lại. Những việc, những người tôi nói đến trong bài tôi đâu chỉ thấy ở cơ quan tôi, mà thấy ở rất nhiều nơi. Cho nên hãy chỉ coi nó như những ví dụ mà thôi. Vì vậy các comments của quý vị độc giả xin không chĩa cụ thể vào chi bộ đảng cũng như đảng ủy nơi tôi đang sinh hoạt. Xin cảm ơn tất cả. 
Đ.T.T


[1] Báo Pháp luật ngày 3-8-2011 dẫn lời ông Nguyễn Đức Nhanh: “Qua theo dõi, thấy các cuộc biểu tình này biểu thị thái độ yêu nước, phản đối Trung Quốc xâm lấn biển Đông. Khi tuần hành, đại bộ phận bà con chấp hành luật pháp nhưng cũng có một số trường hợp tràn xuống lòng đường, cản trở giao thông”. http://phapluattp.vn/2011080211294657p0c1013/cong-an-tp-ha-noi-khong-dan-ap-nguoi-bieu-tinh.htm
[2] Xem http://www.thanhnien.com.vn/pages/20111125/thu-tuong-nguyen-tan-dung-dam-bao-chu-quyen-tren-bien-dong.aspx.
[3]Khi không (hoặc chưa) có luật nào quy định cụ thể hơn về việc biểu tình, thì có nghĩa là pháp luật không (hoặc chưa) có hạn chế nào cả, và công dân hoàn toàn có quyền biểu tình, như Hiến pháp cho phép.  Xem Hoàng Xuân Phú: Quyền biểu tình của công dân. http://www.pagewash.com/nph-index.cgi/000010A/uggc:/=2fkhnaqvraunaabz.oybtfcbg.pbz/2011_08_20_nepuvir.ugzy
[4] Xem chú thích (1).

*Bài do tác giả gửi trực tiếp cho NXD-Blog.

Thứ Năm, 8 tháng 12, 2011

VĨNH BIỆT ĐƠN DƯƠNG TRONG KHÚC HÁT TỐNG BIỆT BI THƯƠNG

Diễn viên Đơn Dương qua đời ở tuổi 54.

Sáng 7/12 (giờ Hà Nội), diễn viên Đơn Dương qua đời tại bang California (Mỹ) sau ca phẫu thuật tai biến. Trước khi mất đột ngột, anh đã lên kế hoạch về Việt Nam ăn Tết cùng gia đình, sau gần 9 năm xa quê.

 

Đạo diễn Lê Cung Bắc, anh rể của Đơn Dương cho biết, em trai và con trai của nam diễn viên từ TP HCM sẽ bay sang California, Mỹ để lo việc hậu sự cho anh. 

Một ngày trước (6/12), diễn viên Đơn Dương bị tai biến nhẹ, nhưng anh vẫn sinh hoạt bình thường, chỉ thấy nhức đầu, tê tay, sau đó vào bệnh viện khám. Bác sĩ cho biết, anh bị tắc tĩnh mạch đưa máu lên não và nếu phẫu thuật sẽ khỏe lại. Chính vì thế, Đơn Dương đồng ý. Chiều cùng ngày, sau phẫu thuật, anh trò chuyện được chút ít rồi rơi vào tình trạng hôn mê sâu và phải gắn ống thở oxy. Đến sáng nay, nam diễn viên trút hơi thở cuối cùng. 

Trước khi ngã bệnh và qua đời đột ngột, Đơn Dương đã lên kế hoạch về Việt Nam ăn Tết cùng gia đình. Năm ngoái, anh đã được cấp visa về nước trong thời hạn 5 năm và theo lời kể của gia đình, anh rất vui mừng khi nhận được visa. 

"Đáng lẽ Đơn Dương đã về từ tháng 10 năm nay, nhưng định đến Tết để ở được lâu hơn. Trò chuyện với tôi, Dương cũng nói là muốn gặp lại bạn bè cũ như Nguyễn Chánh Tín, Đào Bá Sơn... để chơi cho vui vì lâu ngày quá không gặp", đạo diễn Lê Cung Bắc kể. 

Gia đình Đơn Dương cho biết, sau khi hỏa táng, tro cốt của nam diễn viên này sẽ được mang về Việt Nam, bởi ước mơ cuối đời của anh là quay về quê hương. Từ khi sang Mỹ định cư vào năm 2003, Đơn Dương chưa một lần quay lại Việt Nam. Theo lời kể của đạo diễn Lê Cung Bắc, tại Mỹ, Đơn Dương cũng nhận được vài lời đề nghị đóng phim mà nếu nhận vai anh sẽ có nhiều tiền. Nhưng nam diễn viên cho rằng, những vai này dễ gây hiểu lầm vì tính cách phản diện, vì thế anh không nhận. Để có thu nhập sống ở Mỹ, anh cùng vài người bạn làm công việc kinh doanh địa ốc.

Đơn Dương (phải) trong phim "Mê Thảo thời vang bóng".
Đơn Dương (phải) trong phim "Mê Thảo thời vang bóng".

"Vợ tôi (Bùi Thị Giang, chị ruột của Đơn Dương) đã khóc rất nhiều khi biết tin. Đây là mất mát quá lớn và sâu sắc với gia đình", đạo diễn Lê Cung Bắc nói.

Diễn viên Đơn Dương (tên thật Bùi Đơn Dương) sinh ngày 27/8/1957 tại Đà Lạt. Năm 1982, bắt đầu bằng một vai nhỏ trong phim Pho tượng của đạo diễn Lê Dân, Đơn Dương được nhiều đạo diễn chú ý và sau đó anh xuất hiện khá nhiều trong các bộ phim khác.

Đến năm 1999, bộ phim Ba mùa mà anh tham gia nhận giải thưởng LHP Sundance. Từ đây, diễn viên này được một vài đạo diễn Hollywood để ý đến. Năm 2001, anh được mời vào vai thiếu tá An trong phim Chúng ta là những người lính cùng ngôi sao Hollywood Mel Gibson và một vai khác trong Rồng xanh. Hai bộ phim này có nội dung xuyên tạc lịch sử Việt Nam.

Đơn Dương từng để lại dấu ấn trong nền điện ảnh Việt Nam với các bộ phim: Mê Thảo thời vang bóng (đạo diễn Việt Linh), Đời cát (đạo diễn Nguyễn Thanh Vân), Canh bạc, Ngõ đàn bà, Dấu ấn của quỷ, Lời thề...

Đơn Dương và Hồng Ánh trong "Đời Cát".
Đơn Dương và Hồng Ánh trong "Đời cát".

Từ năm 2003, Đơn Dương định cư tại Mỹ. Năm 2009, theo tờ Calitoday, diễn viên Đơn Dương bị một tòa án ở Fairfax (Virginia) kết án có tội trong vụ cô Trần Thị Phương Liên kiện anh "lén chụp hình ảnh khỏa thân và thu băng audio sex để tống tiền". Tòa Fairfax yêu cầu nam diễn viên bồi thường cho người bị hại 200.000 USD. Tuy nhiên, nam diễn viên này đã phản tố người tố cáo là cô Liên Trần về hành động vu khống, lăng mạ. Sau đó, cô Trần Thị Phương Liên tự ý bãi nại, hủy kiện.

Theo đạo diễn Lê Cung Bắc, cô này đã xin lỗi Đơn Dương. Gia đình nam diễn viên khẳng định, những lời buộc tội của cô Phương Liên đối với anh đều sai sự thật.

Thoại Hà.
Nguồn: VNE.
Đọc thêm:
Nguyễn Quang Lập:
Đơn Dương ơi, kiếp sau nhớ về Đất Việt nhé, đừng quên!

Chiều nay Hồng Ánh gọi điện cho mình, nói anh Đơn Dương mất rồi. Mình lặng đi mấy giây rồi hỏi mất làm sao, vì sao mất. Ánh nói anh Dương bị tai biến, ảnh kêu đau đầu rồi lịm đi. Đưa bệnh viện cấp cứu, bệnh viện mổ xong, ảnh đã tỉnh. Nhưng chỉ vài giờ sau thì hôn mê, bệnh viện bó tay. 
Thế là xong một kiếp người.

Mình quen Đơn Dương từ năm 1998, khi anh đóng phim Đời Cát. Theo mình Đơn Dương là diễn viên nam xuất sắc nhất của nước ta hiện thời. Với các phim Mê thảo thời vang bóng. Ba Mùa, Đời cát, Chung cư, cỏ lau có thể nói chắc cho đến bây giờ chưa ai thay thế được anh.

Đơn Dương bỏ nước đi Mỹ cũng vì phẫn chí. Sau các phim Rồng xanh, chúng tôi là người lính Đơn Dương bị chửi bới, nhiếc móc, thóa mạ cùng với những qui kết chính trị rất nặng nề đã khiến anh cảm thấy không còn có đất sống, anh đi Mỹ chỉ vì thế và cũng chỉ vì thế mà thôi. Khi Đơn Dương lâm nạn mình bị tai nạn nằm bẹp một chỗ, không cách nào lên tiếng bảo vệ anh như là bảo vệ một tài năng hiếm hoi của Đất nước. Dù biết một nghìn tiếng nói của mình cũng chẳng ăn thua, nhưng thà cất lên một tiếng nói còn hơn ngồi nhìn bạn mình bị làm nhục.

Bây giờ nghĩ lại cứ muốn khóc òa.

Nhớ Đơn Dương những đêm mưa phùn Hà Nội bá vai nhau vừa đi vừa hát nghêu ngao. Nhớ những lần rượu say thách nhau vật tay cười nghiêng ngả, những buổi karaoke hát váng trời. Nhớ lắm.

Giao thừa tết năm ngoái đột nhiên nhận được điện thoại Đơn Dương. Mình hỏi có về nước không. Đơn Dương nói có chứ, nhất định em sẽ về. Cứ nghĩ tết này Đơn Dương sẽ về, đang mừng là mình đã ở Sài Gòn, thế nào cũng được vui tết cùng anh. Ai ngờ anh đã đi, đi cực nhanh, nhanh đến nỗi không cho ai kịp gửi một lời chào.

Chào nhé Đơn Dương! Thôi kiếp này không sống được ở nơi đây thì hẹn nhau kiếp sau vậy.

Đơn Dương ơi, kiếp sau nhớ về Đất Việt nhé, đừng quên! Kiếp sau Đất việt mình không khốn khổ như thế này đâu, chắc chắn là như vậy.
Nguồn: Quê Choa
______________________

Xin vĩnh biệt Nghệ sĩ Đơn Dương trong khúc hát Tống biệt đau thương!



(Trích trong phim Mê Thảo - Thời vang bóng.
Tiếng hát: Nghệ sĩ Nhân dân Thanh Hoài.
Đàn: Đơn Dương)

Hoa đào rơi rắc lối thiên thai
Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi
Ngõ hạnh suối đào xa cách mãi
Ngàn năm thơ thẩn bóng giăng soi
Trần ai tri kỷ
Luống ngậm ngùi
Đôi lứa sắp phân ly
Cõi nhân tâm dan díu nghiệp tơ tằm
Say cũng luỵ, không say thời cũng lụy

Ơ à ơ
Nhị Hà ơi nước tự lưng trời tuôn ra biển rộng
Không vời được đâu
Ấy con thuyền ai kia bến nước sâu thăm thẳm
Giữa chập chùng bao con sóng ngoài xa
Ngẩn ngơ một bóng thông già chơ vơ sườn núi mơ xa mây ngàn

Đàn ai gẩy như mưa rơi gió cuốn
Nợ nhân tình càng vướng càng đau
Yêu nhau yêu mấy yêu càng tan nát
Chờ ai biển rộng sông dài tang tính tình tang
Ai ơi có biết đêm tàn
Ai ơi có biết đêm tàn

Ai ơi có biết đêm tàn lòng yêu càng nặng trái ngang càng nhiều
Dù tan nát cũng liều thân cỏ
Xin nhận về sóng gió muôn nơi
Lênh đênh góc bể cuối trời

Lênh đênh góc bể cuối trời
Tình như ngọn lửa ngoài khơi bão bùng
Ngày tận cùng so giùm khúc hát
Điệu càng đau như hạt mưa bay
Thì giòng sông trôi lấp lửng chân mây
(ới a ới a)

Thôi xin, xin chàng về nơi núi mờ xa
Nhận em một lạy cho qua một đời
Đường khúc khuỷu khung trời rạn vỡ
Mùi yêu thương nặng nợ ấm êm
Thôi anh về đi chân cứng đá mềm

Xin đừng nhìn chi đau thắt lòng nhau
Xin đừng lưu luyến nát tan lòng nhau
Tình hãy hẹn trùng hoan trong gió
Xin hẹn tình trùng vút trong mây
(í a ới a ới a)