Thứ Sáu, 25 tháng 11, 2011

THƯ GỬI ÔNG TRƯƠNG DUY NHẤT

Nguyên văn bài viết trên trang Trương Duy Nhất:

“Người phụ nữ của năm”: tôn vinh hay phỉ báng?

bieu tinh Dựng Bùi Thị Minh Hằng thành “người phụ nữ của năm”, tôn vinh cách yêu nước bằng “máu trên máu dưới” của người phụ nữ văng tục này thành “biểu tượng của lòng ái quốc” thì chẳng khác gì phỉ báng chính hình tượng người phụ nữ và phỉ báng lòng ái quốc của người Việt.         
Tôi ủng hộ các cuộc biểu tình của dân chúng và trí thức trong thời gian qua. Tôi kính trọng và ngưỡng mộ những tấm gương trí thức xuống đường. Tôi phản đối những hành động trấn áp, bắt bớ của chính quyền đối với những người biểu tình. Thậm chí, tôi cũng… tôn trọng cả cái cách “yêu nước” bằng “máu trên máu dưới” của người phụ nữ mang tên Bùi Thị Minh Hằng.
          
Nhưng tôn vinh Bùi Thị Minh Hằng thành “người phụ nữ của năm”, dựng hình tượng người đàn bà văng tục này thành “biểu tượng của lòng ái quốc của người Việt Nam hiện đại”, là “bà Trưng bà Triệu thời nay” thì chẳng khác gì phỉ báng chính hình tượng người phụ nữ và phỉ báng lòng ái quốc của người Việt.
          
Xem đoạn clip thể hiện “lòng yêu nước” bằng cả “máu trên và máu dưới” của “người phụ nữ của năm”, được tôn vinh là “biểu tượng của lòng ái quốc”: http://truongduynhat.vn/?p=4290

 Nguồn: http://truongduynhat.vn/?p=4290
 ______________________________________

Thư của Nguyễn Xuân Diện
KÍNH GỬI TRƯƠNG TIÊN SINH VÀ CHƯ VỊ ĐỘC GIẢ

Thưa Trương Tiên sinh,

Tại hạ được biết, vào giờ Tý đêm qua, bên trang nhà Trương Duy Nhất.vn của tiên sinh có đăng tải bài viết trên. Đây là phản ứng đầu tiên của cư dân mạng xung quanh cuộc bình chọn "Người Phụ nữ của năm 2011" mà NXD-Blog chủ trương. Thay mặt những người bình chọn, xin có đôi lời thưa cùng tiên sinh như dưới đây:

- Khi bình chọn, không phải những người tham gia không biết và không nhắc đến trong khi BÌNH để CHỌN.

- Chính vì có cái đoạn video clip đó được loan tải rộng rãi trên internet mà chúng tôi lại thêm quyết tâm bình chọn cho bà Bùi Thị Minh Hằng, vì lẽ, chúng tôi nhiều lần đi biểu tình cùng bà nên hiểu chuyện hơn ai hết. Khi bà bị bắt lên xe trong sự oan ức như vậy khiến bà có những lời lẽ tệ đến vậy, và khi clip đó được đưa lên mạng, bà đã nhận được sự phê bình nghiêm khắc của những thân hữu Hà Nội của bà. Ngay sau đó, chỉ trong một tuần, hình ảnh của bà thay đổi hoàn toàn. Điều này, khiến một nhà văn quân đội đã nhận xét ngay khi đó: "Trời! Cái bà này tài ghê cơ! Trong khi các em chân dài dính sì căng đan mãi không gột được, thì bà này, chỉ sau có mấy hôm đã thay đổi và cải thiện hình ảnh của mình đến bất ngờ. Đẹp và nữ tính. Áo dài và giọng nói cuốn hút". Và sau đó, không bao giờ thấy Bùi Thị Minh Hằng như trong clip đó nữa!

- Một người có thể có những khuyết điểm hoặc sai lầm. Sai mà sửa là điều quý lắm! Ở trường hợp này, người phụ nữ ấy là đáng trân trọng, nhất là khi những cuộc biểu tình khởi đầu cho việc hình thành một xã hội dân sự hiện nay.

Thưa tiên sinh, 
Chúng tôi tôn vinh người phụ nữ trần gian, chứ không định phong thánh. (Mà ngay trong các Thánh Mẫu của nước Việt, thì Thánh Mẫu Liễu Hạnh cũng trần gian hơn ai hết). 

Đối với phụ nữ, chúng tôi chỉ nhìn vào khuôn mặt của họ mà thôi!

Kính chúc Trương tiên sinh và phu nhân cùng quý quyến an khang - vạn phước!

Trân trọng
Ngu đệ: Lâm Khang Nguyễn Xuân Diện bái thư!



Thứ Năm, 24 tháng 11, 2011

TIN NÓNG: TRUNG QUỐC VI PHẠM CHỦ QUYỀN VIỆT NAM Ở HOÀNG SA

Trung Quốc vi phạm chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa 

Bộ Ngoại giao Việt Nam hôm nay tuyên bố việc Trung Quốc cho phép khai thác du lịch ở quần đảo Hoàng Sa là vi phạm chủ quyền của Việt Nam.

Tuyên bố này được đưa ra sau khi có tin ngày 22/11, tỉnh Hải Nam của Trung Quốc đã cấp phép cho một công ty du lịch đưa khách đi tham qua từ đảo Hải Nam tới quần đảo Hoàng Sa. Người phát ngôn ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị khẳng định việc làm trên của Trung Quốc vi phạm chủ quyền của Việt Nam. 

"Việt Nam khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa", ông Lương Thanh Nghị nói trong cuộc họp báo thường kỳ hôm nay. 

"Mọi hoạt động của nước ngoài tại khu vực này mà không được sự đồng ý của Việt Nam là vi phạm chủ quyền của Việt Nam và trái với tinh thần DOC", ông Nghị đề cập Tuyên bố chung về quy tắc ứng xử trên Biển Đông mà Trung Quốc ký với ASEAN. 

Người phát ngôn ngoại giao Việt Nam cũng nhắc lại rằng hòa bình, ổn định, an ninh và tự do hàng hải ở Biển Đông là lợi ích chung trong khu vực và tất cả các nước trên thế giới.

"Các bên liên quan cần giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982)", ông Nghị nói. "Việt Nam hoan nghênh việc ASEAN và Trung Quốc nhất trí thực hiện đầy đủ Tuyên bố về Cách ứng xử của các bên ở Biển Đông, và hướng tới xây dựng một bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC)".

Cũng trong buổi họp báo hôm nay, người phát ngôn Bộ Ngoại giao cho biết phản ứng của Việt Nam trước việc Mỹ triển khai quân đội ở Australia. "Chúng tôi mong rằng việc hợp tác giữa các quốc gia sẽ có đóng góp tích cực và có trách nhiệm vào các nỗ lực chung nhằm duy trì hòa bình, ổn định và hợp tác ở khu vực và trên thế giới", ông Nghị cho hay.

Trong chuyến công du châu Á vừa rồi, Tổng thống Mỹ Barack Obama tuyên bố sẽ triển khai tổng cộng 2.500 thủy quân lục chiến tới miền bắc Australia. 

Phan Lê
Nguồn: VNExpress.net.

TIN NÓNG: MIẾN ĐIỆN THÔNG QUA LUẬT BIỂU TÌNH

Miến Điện thông qua Luật Biểu tình 
Thanh Phương - RFI 

Trong khi ở Việt Nam vẫn còn tranh cãi với nhau là nên hay không nên có luật biểu tình, thì tại Miến Điện, Quốc hội nước này vừa thông qua luật cho phép người dân biểu tình ôn hòa, tiến thêm một bước trên con đường dân chủ hóa.

Hôm nay, 24/11/2011, Quốc hội Miến Điện đã thông qua Luật biểu tình, cho phép người dân kể từ nay được biểu tình ôn hòa. Luật này quy định là những người biểu tình phải báo cho chính quyền trước 5 ngày và không được phép tập hợp trước các trụ sở chính phủ, trường học, bệnh viện và các tòa đại sứ. Theo lời một dân biểu Miến Điện được hãng tin AFP trích dẫn hôm nay, một điều khoản cấm người biểu tình hô khẩu hiệu cuối cùng đã bị bác.

Luật Biểu tình hiện còn chờ được Tổng thống Thein Sein ký phê chuẩn để có hiệu lực. Theo nhận định của trang thông tin của người Miến Điện lưu vong Tiếng nói Dân chủ Miến Điện (DVB), nếu luật này được ban hành, như vậy là lần đầu tiên từ một thế kỷ qua tại Miến Điện, các cuộc biểu tình được hợp pháp hóa.

Cho tới nay, rất hiếm khi xảy ra biểu tình ở Miến Điện và phần lớn các cuộc biểu tình đều bị đàn áp. Vào tháng trước, nhiều người đã bị bắt giữ ở Miến Điện trong một cuộc tập hợp của nông dân có đất đai bị trưng thu. Tuy nhiên, vào tuần trước, 5 nhà sư đã biểu tình suốt hai ngày để đòi trả tự do cho toàn bộ tù chính trị, nhưng lực lượng an ninh đã không can thiệp.

Phải trở ngược đến năm 2007 mới thấy có những cuộc biểu tình lớn ở Miến Điện. Vào năm đó, các cuộc biểu tình, do các nhà sư Miến Điện chủ xướng, đã thu hút đến 100.000 người trên đường phố Rangoon, tạo thành một phong trào phản kháng lớn nhất kể từ khi giới tướng lãnh lên nắm quyền năm 1988. Phong trào đã bị chính quyền quân sự Miến Điện dìm trong biển máu, khiến ít nhất 31 người thiệt mạng.

Tháng ba vừa qua, tập đoàn quân sự đã chuyển giao quyền lực cho một chính phủ gọi là « dân sự », nhưng thực tế vẫn do quân đội kiểm soát. Tuy vậy, chính quyền mới trong những tháng gần đây đã có liên tiếp nhiều hành động theo hướng dân chủ hóa chính trị, có lẽ để nhằm phá vỡ thế bị cô lập trên trường quốc tế.

Ngoài quyền tự do biểu tình, cách đây một tháng, người dân Miến Điện cũng đã bắt đầu được hưởng quyền tự do công đoàn và tự do đình công, những quyền mà họ đã bị tước đoạt từ nửa thế kỷ qua. Việc kiểm duyệt báo chí cũng đã được giảm nhẹ. Thậm chí, chính quyền Miến Điện, vì muốn tuân theo « ý nguyện của nhân dân », đã không ngần ngại đình chỉ một công trình đập thủy điện do Trung Quốc tài trợ và xây dựng, mà không sợ làm mích lòng đồng minh Bắc Kinh.

Bên cạnh đó, giới lãnh đạo mới của Miến Điện đã bắt đầu đối thoại trực tìếp với nhà đối lập Aung San Suu Kyi và cho phép đảng của bà, Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ, được đăng ký hoạt động trở lại. Là một người đã từng ngồi tù và quản thúc tại gia nhiều năm, nay bà Aung San Suu Kyi có thể sẽ ra tranh chức dân biểu trong cuộc bầu cử Quốc hội một phần.

Những nỗ lực dân chủ hóa nói trên đã được quốc tế nhìn nhận, cụ thể qua việc Miến Điện sẽ được giao giữ chức chủ tịch luân phiên ASEAN vào năm 2014. Về phía Hoa Kỳ, Tổng thống Mỹ Obama quyết định gởi Ngoại trưởng Hillary Clinton đến thăm Miến Điện vào đầu tháng 12 tới để khuyến khích chính quyền nước này tiếp tục cải tổ chính trị. Đây sẽ là lần đầu tiên một người đứng đầu ngành ngoại giao của Hoa Kỳ đến thăm Miến Điện từ nửa thế kỷ qua. Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon cũng sẽ đến Miến Điện trong những ngày tới.

Nhật Bản còn đi xa hơn khi hôm nay loan báo sẽ cử các quan chức đến Miến Điện vào tuần tới để bàn về việc tái lập viện trợ phát triển cho nước này, vốn đã bị đình chỉ vào năm 2003, do việc bà Aung San Suu Kyi bị bắt giam.

Tuy nhiên, hiện giờ, cánh cửa của quốc tế vẫn chưa thật sự rộng mở đối với Miến Điện, vì một trong những đòi hỏi chủ yếu của các nước phương Tây là trả tự do cho toàn bộ tù chính trị vẫn chưa được đáp ứng.

Nguồn: RFI Việt ngữ.
_____________________

BBC: Người Miến Điện sẽ được phép biểu tình? 

Một nghị sĩ Miến Điện nói quốc hội nước này vừa thông qua dự luật cho phép công dân biểu tình trong hòa bình - bước mới nhất trong tiến trình cải tổ ở Miến Điện.
Ông Aye Maung nói với hãng tin AFP rằng luật này sẽ còn chờ Tổng thống Thein Sein ký để chính thức thành luật.
Nó đòi người biểu tình phải "thông báo cho giới chức trước năm ngày".
Người biểu tình sẽ được phép cầm cờ và biểu tượng của đảng nhưng phải tránh các tòa nhà chính phủ, trường học, bệnh viện và sứ quán, theo lời vị nghị sĩ.
Dự luật được đưa ra quốc hội tuần này, bốn năm sau ngày xảy ra đợt biểu tình lớn do các nhà sư phát động mà đã bị đàn áp nặng nề.
Khi đó ít nhất 31 người chết và hàng trăm nhà sư bị bắt - nhiều người vẫn còn bị giam.
Quốc hội mới của Miến Điện khai mạc hồi tháng Giêng sau gần năm thập niên bị quân đội cai trị.
Cuộc bầu cử tháng 11 năm ngoái là cuộc bỏ phiếu lần đầu sau 20 năm.
Giới quan sát đã ngạc nhiên khi giới lãnh đạo đã có một loạt bước cải tổ mà có vẻ nhằm chấm dứt sự cô lập quốc tế.
Tuần rồi, Asean đồng ý để Miến Điện nắm chức chủ tịch luân phiên của tổ chức vào năm 2014.
Tháng 12, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton sẽ thăm Miến Điện - chuyến đi đầu tiên của một ngoại trưởng Mỹ sau 50 năm.
Tuy vậy, chính phủ Mỹ nói vẫn còn quá sớm để bàn về việc dỡ bỏ cấm vận.
Trong khi đó, hôm nay Nhật Bản nói sẽ gửi phái đoàn đến Miến Điện thảo luận việc nối lại viện trợ, đã bị ngừng từ năm 2003.
Đảng của bà Aung San Suu Kyi cũng nói sẽ quay lại chính trường sau khi tẩy chay cuộc bầu cử năm ngoái.

CẦN PHÂN BIỆT LUẬT BIỂU TÌNH VỚI QUYỀN BIỂU TÌNH


CẦN PHÂN BIỆT LUẬT BIỂU TÌNH VỚI QUYỀN BIỂU TÌNH

Nguyễn Tường Thụy

Hiện nay, nhiều người còn nhầm lẫn giữa quyền biểu tình với luât biểu tình. Họ cho rằng, khi có luật biểu tình thì mới có quyền biểu tình, nếu biểu tình là vi phạm pháp luật.

Đây là một quan niệm hết sức sai lầm mà cả đến ông thạc sĩ, đại biểu quốc hội Hoàng Hữu Phước cũng không tránh khỏi.

Chính vì ý nghĩ không có luật biểu tình thì không được phép biểu tình nên ông Phước tỏ thái độ rất gay gắt đối với biểu tình, nào là biểu tình chỉ nhằm vào chống chính phủ, nào là gây kẹt xe, nào là làm ô danh đất nước … Từ mớ lý luận kỳ quặc đó, ông đề nghị với Quốc hội loại bỏ Luật biểu tình khỏi danh sách dự án luật. Nghĩa là ông cho rằng cứ treo cái luật đó lại là xong.

Những người mang quan niệm này dường như không để ý đến việc quyền biểu tình đã được ghi vào Hiến pháp. Hiến pháp là luật “mẹ” cho nên dù có luật biểu tình hay không thì vẫn không thể tước đi của công dân quyền biểu tình. Không thể nói trong khi chờ luật thì không được biểu tình. Tôi tin rằng, nếu Trung Quốc có hành động gây hấn, xâm phạm chủ quyền của Việt Nam như hồi cuối tháng 5 năm nay một lần nữa hoặc có sự kiện nào bức xúc thì những người biểu tình lại xuống đường, dù Luật biểu tình có hay không.

Vì vậy, muốn tước đi quyền biểu tình của công dân chỉ còn cách sửa Hiến pháp. Nhưng tôi đố ông nghị nào dám đề nghị Quốc hội xóa quyền biểu tình của công dân ra khỏi Hiến pháp, nếu không muốn nước ta đóng biên giới ở nhà chơi một mình, cho dù có ghét biểu tình đến mấy.

Liên hệ với điều 4 của Hiến pháp về sự lãnh đạo của ĐCSVN. Rõ ràng, hiện nay chưa có luật về sự lãnh đạo của Đảng, thế nhưng ĐCSVN vẫn đương nhiên thực hiện quyền lãnh đạo của mình chứ Đảng đâu chịu ngồi chờ ra Luật thì mới dám thực hiện quyền ấy.

Trong sự kiện biểu tình Mùa Hè vừa qua, vì chưa có Luật biểu tình, chính quyền nhiều lúc tỏ ra rất lúng túng . Không thể cấm biểu tình, vì cấm là vi hiến, chính quyền liền có “sáng kiến” đưa ra điều khoản về việc cấm tụ tập đông người của Nghị định 38/2005/CP để giải tán những cuộc biểu tình nào họ muốn. Việc này đúng sai ra sao không thuộc nội dung của bài viết này.

Vậy ai là người cần luật biểu tình? Những người biểu tình hay chính quyền? Có thể nhiều người sẽ trả lời ngay là người biểu tình cần chứ Nhà nước thì không. Tôi lại nghĩ với ý thức công dân, với trách nhiệm đối với xã hội, với đất nước thì cả hai bên đều cần.

Chính quyền cần Luật biểu tình để quản lý hoạt động biểu tình, hướng hoạt động biểu tình sao cho vừa có ích cho đất nước, vừa đảm bảo được quyền của công dân. Người biểu tình cần Luật để thực hiện quyền công dân của mình, có căn cứ pháp luật để đấu tranh, cần thiết thì khởi kiện nếu chính quyền vi phạm.

Luật biểu tình sẽ có những điều khoản cụ thể bắt buộc người biểu tình và chính quyền phải tuân theo, đồng thời kèm theo chế  tài để đảm bảo cho Luật được tôn trọng.

Với các cuộc biểu tình vừa qua, chính quyền bí quá, đành phạm luật, cứ bắt rồi thả như cóc bỏ đĩa; chẳng ai sợ kể cả phải chịu vài cái đạp vào mặt, vài quả đấm vào mạng mỡ hay bị cho đi du lịch khắp các ngóc ngách của trại giam dăm ngày. Cùng lắm thì bị chụp cho cái tội gây rối trật tự công cộng hay tụ tập đông người. Tuy vậy, sự qui kết ấy khó mà thuyết phục được ai, đâu có dễ dàng đem xét xử. Rồi chính quyền truyền lệnh xuống các địa phương, cho người đi vận động, canh giữ, gây chuyện đối với người biểu tình. Kết quả là, chính quyền đạt được cái gì chưa thấy nhưng tin tức và hình ảnh được truyền đi khắp thế giới, các “thế lực thù địch” tha hồ “lợi dụng”. Còn người biểu tình thì hình như đông hơn, can đảm hơn, đoàn kết hơn. Dân và chính quyền xa nhau hơn.

Nhưng người biểu tình cũng coi chừng, khi ra luật có khi người biểu tình lại không thể làm những việc tùy thích như khi chưa có luật, lơ mơ vào tù như bỡn. Khi có Luật thì có thêm những khoản cấm. Không có luật thì không có những khoản cấm ấy, mà đã không cấm thì được phép làm. Vậy có khi chính quyền cần Luật biểu tình hơn ấy chứ.

Ông nghị Phước đừng tưởng ra Luật biểu tình tức là ban cho người dân cái quyền được biểu tình mà ra sức ghìm nó lại bằng cách“kính đề nghị Quốc hội loại bỏ Luật lập hội và Luật biểu tình khỏi danh sách dự án luật”. Quyền ấy là quyền đương nhiên của con người, đã được ghi vào Hiến pháp rồi, thưa ông.

23/11/2011
TƯỜNG THỤY


TẠP CHÍ XÂY DỰNG ĐẢNG: CÓ CẦN LUẬT BIỂU TÌNH?



Có cần Luật Biểu tình?
6:44' 23/11/2011
Trong phiên họp ngày 17-11-2011, khi Quốc hội thảo luận tại hội trường về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh Quốc hội khóa XIII, đại biểu Hoàng Hữu Phước (TP. Hồ Chí Minh) đề nghị “Quốc hội loại bỏ Luật Lập hội và Luật Biểu tình khỏi danh sách dự án luật suốt nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII” với lý do: “Biểu tình là hành động để chống lại chính phủ nước mình hoặc chống lại một chủ trương của chính phủ của nước mình” và bản chất của biểu tình là “dễ bị lợi dụng để gây biến loạn” đã lập tức gây phản ứng trong dư luận.
Dư luận phản ứng trước hết bởi phát biểu của đại biểu Hoàng Hữu Phước thể hiện nhận thức ấu trĩ, lệch lạc về biểu tình. Trong thời đại ngày nay, biểu tình được hiểu là những hành vi hợp pháp, dân chủ, văn minh nhằm biểu thị thái độ, tình cảm, quan điểm ủng hộ những điều đúng đắn, tốt đẹp và có lợi cho nhân dân, cho đất nước, đồng thời phản đối những hành vi phạm pháp, có hại. Biểu tình là thước đo tâm tư, nguyện vọng của người dân, mức độ đúng, sai của các chính sách để qua đó, Đảng và Nhà nước có chỉnh sửa phù hợp, thúc đẩy xã hội phát triển.
Thứ hai, không phải đến bây giờ trên diễn đàn Quốc hội mới nói đến biểu tình mà chỉ 11 ngày sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, ngày 13-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 31 quy định về thể thức tổ chức các cuộc biểu tình. Hiến pháp năm 1959, Điều 25 ghi rõ: “Công dân nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa có các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu tình”. Hiến pháp 1980 xác định: “Công dân có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do biểu tình, phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân”. Đến Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), Điều 69 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”. Như vậy, biểu tình là một quyền cơ bản của người dân mà Hiến pháp đã quy định thể hiện tính tự do, dân chủ, nhân quyền của chế độ ta, không một ai có thể bác bỏ. 

Thứ ba, chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền. Nhân dân sống và làm việc theo pháp luật. Không có luật làm sao sống và làm theo luật? Trình độ dân trí, nhu cầu phát triển của xã hội, cuộc sống đặt ra yêu cầu khách quan cần có Luật Biểu tình. Không phải vô cớ Thủ tướng Chính phủ đề xuất cần xây dựng Luật Biểu tình trong chương trình xây dựng luật của Quốc hội khoá này. Luật Biểu tình khi được thông qua, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống, sẽ tạo hành lang và chuẩn mực pháp lý, xác lập quyền hạn và trách nhiệm của các bên tham gia, trang bị những biện pháp và chế tài cần thiết cho cơ quan quản lý nhà nước thực thi pháp luật. Một Nhà nước của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng phấn đấu vì mục đích dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh không sợ bất kỳ thế lực thù địch nào lợi dụng biểu tình để gây biến loạn.


Đại biểu quốc hội phải có trình độ, năng lực, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe, thấu hiểu ý kiến của nhân dân, không thể chỉ phản ánh mà còn tham gia giải quyết những yêu cầu chính đáng về quyền và lợi ích của dân, không thể là người giữ mãi những nhận thức ấu trĩ và lệch lạc.

Nguyễn Thuý Hoàn

BÀI ĐÃ ĐƯỢC GỠ, THEO YÊU CẦU CỦA NHÀ CHỨC TRÁCH


Theo yêu cầu của nhà chức trách, bài trên đã được gỡ vào chiều ngày 26.11.2011.
Kính mong chư vị thông cảm!

QUYỀN BIỂU TÌNH CỦA CÔNG DÂN


Quyền biểu tình của công dân
Hoàng Xuân Phú
Kẻ đúng thì rụt rè, do dự, vì e là phạm luật.
Người sai lại năng nổ, thẳng tay, bởi tin rằng có lý.
Biểu tình là một hoạt động hợp hiến và hết sức thông thường ở xã hội văn minh. Nhưng đến nay, biểu tình (ngoài sắp đặt của cơ quan Nhà nước) vẫn còn là một chuyện tương đối xa lạ ở Việt Nam, thậm chí như một điều „phạm húy“. Biểu tình bị ngăn cản, dù có diễn ra thì người ta vẫn quanh co, không dám gọi đúng tên. Đa số người dân nhìn nhận quyền biểu tình như một thứ xa xỉ phẩm, không liên quan đến cuộc sống của mình, thậm chí còn nhìn nó như một miếng mồi nhử nguy hiểm: Ừ thì Hiến pháp cho phép đấy, nhưng cứ thử động vào mà xem... Vốn dĩ thuộc phạm trù đối nội, quyền biểu tình được nêu trong Hiến pháp trên thực tế chỉ còn để đối ngoại.
Cản trở đối với quyền biểu tình của công dân không chỉ xuất phát từ ý muốn được „yên ổn“ của những người cầm quyền, mà còn bị ảnh hưởng nhiều bởi sự nhầm lẫn về mặt lô-gíc: Cả hai phía đều coi việc chưa có Luật biểu tình chính là nguyên nhân khiến quyền biểu tình chưa được hay chưa thể thực thi.
Phía người dân tưởng là khi chưa có Luật biểu tình thì không được biểu tình, nên đa số những người muốn bày tỏ chính kiến... vẫn im lặng. Ngay cả những người đã can đảm xuống đường vẫn cảm thấy chưa yên tâm, lo là hành động của mình có gì đó không ổn về mặt pháp luật, nên mới đề nghị Quốc hội sớm ban hành Luật biểu tình.
Phía chính quyền thì coi các cuộc biểu tình không do họ hoặc các cơ quan Nhà nước tổ chức là bất hợp pháp, là cố tình gây rối, thậm chí là do các thế lực thù địch tổ chức hoặc kích động, nên nếu có biểu tình thì chính quyền có quyền giải tán, có quyền bắt bớ... Có lẽ cũng do tin rằng chưa có Luật biểu tình thì không được biểu tình, nên một số người muốn trì hoãn việc ban hành Luật biểu tình, vì nếu có luật thì dù quy định ngặt nghèo đến đâu đi nữa, vẫn còn lại những quyền tự do tối thiểu, và không phải ai cũng muốn chấp nhận những quyền tối thiểu ấy của người dân.
Câu hỏi đặt ra là: Nên hiểu quyền biểu tình và mối quan hệ của nó với Luật biểu tình như thế nào cho đúng?
Quyền biểu tình trong Hiến pháp hiện hành
Cơ sở pháp lý để đánh giá về tính hợp pháp của hoạt động biểu tình Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.  Điều 69 của Hiến pháp hiện hành quy định:
Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.
Mệnh đề „theo quy định của pháp luật“ khiến người dân lúng túng, do dự khi thực hiện quyền biểu tình, và bộ máy chính quyền dựa vào đó để phủ nhận quyền biểu tình của công dân trên thực tế. Thật ra, từ „pháp luật“ xuất hiện 60 lần trong Hiến pháp 1992, nhiều khi chỉ là một phạm trù chung chung, không ám chỉ một luật cụ thể nào. Phải hiểu theo quy định của pháp luật“ hay trong khuôn khổ pháp luật“ là tuân theo những quy định thuộc về pháp luật – nếu đã có. Chưa có luật tương ứng thì có nghĩa là chưa có hạn chế, bởi không thể dùng cái chưa có để hạn chế thực tại. Sau khi Hiến pháp có hiệu lực, thì còn thiếu rất nhiều luật, và đến bây giờ vẫn còn thiếu, nhưng mọi tư duy lành mạnh đều hiểu rằng: Không thể bắt cuộc sống dừng lại, để đợi đến khi cơ quan lập pháp ban hành đủ luật.
Hiến pháp 1992 viết công dân có quyền biểu tình „theo quy định của pháp luật“, chứ không đòi hỏi cụ thể là „theo quy định của Luật biểu tình. Giả sử, nếu Hiến pháp quy định là công dân chỉ có quyền biểu tình theo quy định của Luật biểu tình, thì công dân có quyền chất vấn và phê phán Quốc hội: Tại sao mấy chục năm rồi mà vẫn chưa ban hành Luật biểu tình? Lúc đó nhân dân nhắc nhở và đòi hỏi Quốc hội phải ban hành Luật biểu tình, chứ không phải chỉ đề nghị, kêu gọi, hay xin xỏ, vì:
Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân, là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
(Điều 6, Hiến pháp 1992)
Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, ...
(Điều 53, Hiến pháp 1992)
Như vậy, khi không (hoặc chưa) có luật nào quy định cụ thể hơn về việc biểu tình, thì có nghĩa là pháp luật không (hoặc chưa) có hạn chế nào cả, và công dân hoàn toàn có quyền biểu tình, như Hiến pháp cho phép. 

Quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước đối với quyền biểu tình
Nếu Quốc hội muốn định hướng hay hạn chế hoạt động biểu tình của công dân trong một khuôn khổ nào đó, thì phải ban hành luật tương ứng. Nếu thấy cần kíp phải có luật để điều tiết hoạt động biểu tình, thì chính Quốc hội và các cơ quan giúp việc phải khẩn trương, chứ dân không phải sốt ruột xin Quốc hội ban hành. Cơ quan quản lý Nhà nước mới phải vội, chứ dân không cần vội. Việc một số công dân đề nghị Quốc hội sớm ban hành Luật biểu tình là một yêu cầu hoàn toàn chính đáng, nhưng điều đó lại góp phần làm cho người dân tiếp tục hiểu sai về quyền cơ bản của công dân, và làm cho những người thuộc cơ quan hành chính Nhà nước thêm ngộ nhận về quyền hạn của họ.
Nếu Chính phủ muốn quản lý hoạt động biểu tình của công dân theo một hướng nào đó thì Chính phủ phải soạn thảo và trình dự án luật (Điều 87, Hiến pháp 1992), để Quốc hội xem xét và ban hành luật, chứ Chính phủ không thể tự tiện đưa ra những quy định hay triển khai những hành động can thiệp trái với Hiến pháp. Hiến pháp 1992 đã quy định rõ:
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp
(Điều 83, Hiến pháp 1992)
và Chính phủ là „cơ quan chấp hành của Quốc hội“ (Điều 109, Hiến pháp 1992).  Điều 115 của Hiến pháp 1992 cho phép
Chính phủ ra nghị quyết, nghị định, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định, chỉ thị
nhưng phải
Căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
Trong tất cả 11 khoản của Điều 112, quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Chính chủ, và cả 6 khoản của Điều 114, quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng Chính chủ, Hiến pháp 1992 không có bất cứ khoản nào cho phép Chính phủ hay Thủ tướng Chính phủ ban hành văn bản pháp quy để hạn chế hay can thiệp vào quyền tự do của công dân được Hiến pháp đảm bảo.
Trong Luật Tổ chức Chính phủ do Quốc hội khóa X thông qua ngày 25 tháng 12 năm 2001, Điều 8, quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ, được viết lại gần như nguyên văn Điều 112 của Hiến pháp 1992. Điều 20, quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ, là cụ thể hóa Điều 114 của Hiến pháp 1992. Quyền tự do của công dân được nhắc 3 lần trong Luật Tổ chức Chính phủ, trong đó chỉ khẳng định trách nhiệm của Chính phủ trong việc bảo vệ quyền của công dân tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền của mình, cụ thể là:
Thi hành những biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình...
(Điều 8, Khoản 5)
Quyết định những biện pháp bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình...
(Điều 18, Khoản 3)
Thực hiện chính sách tôn giáo, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào của công dân...
(Điều 13, Khoản 4)
Nghĩa là: Luật Tổ chức Chính phủ cũng không cho phép Chính phủ ban hành văn bản pháp quy để hạn chế quyền tự do của công dân được Hiến pháp đảm bảo. Tất nhiên là phải như vậy, vì Luật Tổ chức Chính phủ không thể có những quy định trái với Hiến pháp.
Nghị định của Chính phủ số 38/2005/NĐ-CP, do nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải ký ngày 18/3/2005, quy định một số biện pháp đảm bảo trật tự công cộng, không đề cập đến khái niệm „biểu tình“ được nêu trong Hiến pháp 1992. Ngược lại, khái niệm „tập trung đông người“ được đề cập (21 lần) trong Nghị định số 38/2005/NĐ-CP không xuất hiện trong Hiến pháp 1992. Nghị định số 38/2005/NĐ-CP cũng không đưa ra định nghĩa hay giải thích về thuật ngữ „tập trung đông người“, không hề quy ước là „biểu tình“ thuộc phạm trù „tập trung đông người“. Tất nhiên, không thể tùy ý dùng thuật ngữ „tập trung đông người“ để chỉ hoạt động „biểu tình“ (cũng giống như không thể dùng thuật ngữ „tập trung 500 người“ để chỉ phiên họp Quốc hội), vì nếu như thế thì vừa thiếu tôn trọng công dân (hay thiếu tôn trọng Quốc hội), vừa thiếu tôn trọng Hiến pháp, bởi không được tùy tiện thay đổi thuật ngữ pháp lý cơ bản được sử dụng trong Hiến pháp và được dùng phổ biến trong thông lệ pháp lý trên toàn thế giới. Vì vậy, nếu hợp hiến, thì Nghị định số 38/2005/NĐ-CP cũng không chi phối quyền biểu tình của công dân được Hiến pháp đảm bảo.
Điều 50 của Hiến pháp 1992 khẳng định:
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật.
Khi thực hiện các quyền con người (trong đó có quyền biểu tình), công dân chỉ phải tuân theo các quy định của Hiến pháp và pháp luật hiện hành. Khi chưa có luật tương ứng thì công dân không phải chấp hành văn bản pháp quy nào khác ngoài Hiến pháp, bởi công dân chỉ phải „sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật“ (Điều 31, Hiến pháp 1992). Quyền biểu tình của công dân không phải chịu chi phối bởi các quy định nào đó, cho dù chúng có thể được đưa vào luật trong tương lai, lại càng không thể bị cản trở bởi các quy định tùy tiện của các cấp chính quyền, của bộ máy công an, của tổ dân phố, hay của một cấp trên chung chung nào đó. Cho dù là ai, to nhỏ ra sao, nhân danh tổ chức nào, thì họ cũng đều là công dân Việt Nam và cũng không nằm ngoài phạm vi chi phối của nguyên tắc:
Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.
(Điều 52, Hiến pháp 1992)
Không phải bất cứ một quy định phi lý nào được đưa vào luật cũng là thiêng liêng, bất di – bất dịch. Nếu có Luật biểu tình thì nó không thể chứa đựng những quy định trái với Hiến pháp. Nhân dân có quyền kiến nghị và Quốc hội có trách nhiệm hủy bỏ bất cứ quy định pháp luật nào trái với Hiến pháp, vì
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất.
Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp.
(Điều 146, Hiến pháp 1992)
Biểu tình – Quyền hiến định có hiệu lực cùng Hiến pháp hiện hành
Đã đến lúc dân ta (cả dân thường và cả những người đang thuộc bộ máy quản lý Nhà nước) phải chia tay với lối tư duy sai lầm là „trên“ cho làm gì thì „dưới“ mới được làm cái ấy, vì đấy là kiểu quan hệ giữa chủ nô và nô lệ, hoàn toàn trái với bản năng sống chủ động của mọi loài động vật tự do, trong đó có con người. Dù có muốn, dù có cố, thì cũng không bao giờ quy định được hết mọi chuyện trên đời. Hơn nữa, càng có nhiều quy định thì càng có nhiều điều bất hợp lý và càng nảy sinh nhiều mâu thuẫn giữa các quy định. Chính vì vậy, người dân có quyền làm bất cứ điều gì mà pháp luật không cấm và không vi phạm những chuẩn mực đạo đức thông thường đã được xã hội thừa nhận. Nhà nước có thể thông qua việc ban hành luật để hạn chế những mặt tiêu cực, nhưng sẽ không bao giờ khống chế được hoàn toàn. Không thể tiếp tục luận tội theo kiểu „lợi dụng sơ hở của pháp luật...“ Lập luận ấy không chỉ sai với thông lệ quốc tế, mà còn hài hước ở chỗ: Sao không trách phạt những người ăn lương của dân rồi làm ra luật... sơ hở, mà lại chỉ kết tội người dân áp dụng đúng luật sơ hở?
Căn cứ vào Hiến pháp và các văn bản pháp lý liên quan, với tư duy lô-gíc, chỉ có thể rút ra kết luận rằng: Quyền biểu tình của công dân được Hiến pháp hiện hành đảm bảo và có hiệu lực cùng lúc với Hiến pháp. Cho đến nay, chưa có luật  hay văn bản pháp lý hợp hiến nào hạn chế quyền biểu tình của công dân. Vì vậy, công dân hoàn toàn có quyền tự do biểu tình, theo đúng tinh thần của Hiến pháp, không phải đợi đến lúc có Luật biểu tình hay một văn bản tương tự.
Biểu tình là biện pháp hữu hiệu để nhân dân bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình và giải tỏa ức chế. Biểu tình cũng là một hình thức hợp lý để công dân bày tỏ chính kiến, góp phần xây dựng Nhà nước và thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội.
Trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước là phải tôn trọng và bảo vệ công dân thực hiện quyền biểu tình, phải triệt để tuân theo Điều 12 của Hiến pháp 1992:
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật.
Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật.
Cách ứng xử với quyền biểu tình của công dân phản ánh mức độ tôn trọng nhân dân, tôn trọng Hiến pháp và trình độ hiểu biết pháp luật. Nó cũng thể hiện bản lĩnh lãnh đạo, mức tự tin vào sự trong sạch và chính nghĩa của bản thân. Một chính quyền vì dân, chỉ làm chuyện đúng, chắc chắn sẽ được đa số nhân dân tin yêu và bảo vệ, không việc gì phải sợ biểu tình. Nếu đi ngược lại lợi ích của nhân dân và dân tộc, làm những chuyện sai trái, thì không bạo lực nào có thể che chở vĩnh viễn.
Nếu thực sự cầu thị và muốn làm tròn bổn phận, lãnh đạo phải biết tận dụng hoạt động biểu tình như một chiếc cầu nối với nhân dân, làm nguồn cung cấp thông tin thực tế từ cơ sở, vốn dĩ hay bị bưng bít bởi bộ máy quản lý cấp dưới. Biểu tình là một phương tiện đắc lực để khắc phục tệ quan liêu – căn bệnh cố hữu của bộ máy chính quyền.
Chẳng có lý do chính đáng nào có thể biện hộ cho việc xâm phạm quyền biểu tình của công dân. Không thể cấm dân lên tiếng nhằm che dấu sự yếu kém. Không thể mượn cớ ổn định mà cản trở sự phát triển. Không được nhân danh bảo vệ chế độ để bảo vệ tham nhũng.
Xương máu của hàng triệu người Việt đã đổ xuống vì độc lập và tự do. Độc lập dân tộc chỉ có ý nghĩa khi gắn liền với tự do của nhân dân. Nếu dân không có tự do thì chính quyền mang quốc tịch nào cũng vậy. Do đó, muốn bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ chế độ, thì phải tôn trọng các quyền tự do của nhân dân, trong đó có quyền biểu tình. Không thể khác!
Phụ lục (Dành riêng cho những người kiên định...)
Nếu quý vị nào vẫn cảm thấy chưa đủ thuyết phục và vẫn kiên định lập trường cho rằng công dân phải đợi đến khi có Luật biểu tình mới được biểu tình, thì xin dành riêng đoạn tiếp theo để quý vị suy ngẫm.
Hiến pháp 1992 có năm lần nhắc đến từ „Đảng“, trong đó có ba lần ở „Lời nói đầu“, hai lần đề cập đến lịch sử và công lao của Đảng CSVN, lần thứ ba trong câu:
Hiến pháp này... thể chế hoá mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý.
Hai lần còn lại là ở Điều 4, nguyên văn như sau:
Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Như vậy, mặc dù Hiến pháp 1992 khẳng định „Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật“, nhưng trong toàn bộ văn bản Hiến pháp không có quy định cụ thể nào về khuôn khổ mà Đảng CSVN được phép hoạt động, và cho đến nay vẫn chưa có „Luật về Đảng“ (hay tương tự) để quy định về quyền hạn, trách nhiệm, phạm vi và hình thức hoạt động của Đảng, cũng như hình thức xử lý khi tổ chức Đảng vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Rõ ràng, xét về lô-gíc, tính hợp pháp của việc Công dân... biểu tình theo quy định của pháp luật“ khi chưa có Luật biểu tình không hề yếu hơn so với tính hợp pháp của việc „Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật“ khi chưa có Luật về Đảng“. Vậy thì quý vị có cho là Đảng CSVN phải... đợi đến khi cóLuật về Đảng“ hay không?
Nếu ý vừa rồi vẫn chưa đủ, thì xin quý vị lưu ý thêm: Hiến pháp 1992 không đề cập đến chuyện ăn, chuyện ngủ... Việt Nam cũng không có luật về ăn, ngủ... Vậy mà hàng ngày 90 triệu người Việt vẫn ăn, vẫn ngủ..., dù biết là phải sống... theo Hiến pháp và pháp luật“ (Điều 31, Hiến pháp 1992).  Phải chăng, quý vị cũng coi đấy là hành vi cố tình vi phạm kỷ cương, coi thường phép nước? Vấn đề này có vẻ còn nghiêm trọng hơn cả chuyện biểu tình, vì quyền biểu tình của công dân còn được Hiến pháp ghi nhận đích danh. Vậy thì quý vị có định đòi hỏi mọi người cũng phải nhịn ăn, nhịn ngủ... cho đến khi có luật và được luật cho phép, giống như phải nhịn biểu tình hay không?
9/8/2011
*Bài viết do GS. TSKH Viện sĩ Hoàng Xuân Phú gửi trực tiếp cho NXD-Blog. 
Xin chân thành cảm ơn tác giả!


Giáo sư Tiến sỹ khoa học HOÀNG XUÂN PHÚ (ảnh: Nguyễn Xuân Diện)
Viện Toán học, thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 
Viện sỹ thông tấn Viện Hàn lâm Khoa học Heidelberg 
Viện sỹ thông  tấn Viện Hàn lâm Khoa học Bavaria 


Ông cũng đã từng vài lần tham gia biểu tình phản đối Trung Quốc tại Hà Nội, và có một bộ ảnh rất đẹp gửi tặng Nguyễn Xuân Diện - Blog, tại đây:


Lắng nghe đồng bào tôi nói: Chùm 1- Chùm 2  -  Chùm 3


**Ông là tác giả của loạt bài về Điện Hạt nhân (trong mục Bài quan trọng của Blog này). Loạt bài này đã được gửi tới 63 đoàn Đại biểu Quốc hội Khóa XIII:

Bài 1: Mạn đàm về an toàn điện hạt nhân
Bài 2: Về huyền thoại điện hạt nhân giá rẻ

Bài 3: Phiêu lưu điện hạt nhân


BIỂU TÌNH LÀ Ý THỨC TỰ NHIÊN TRƯỚC ĐỒNG LOẠI

Cư dân mạng vừa đăng tải lời kêu gọi biểu tình Ủng hộ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Quốc hội ra Luật Biểu tình.

Thời gian: 09h00 ngày Chủ nhật 27.11.2011
Địa điểm: Dưới chân tượng đài Lý Thái Tổ, Hồ Hoàn Kiếm, HN
______________________
Biểu tình là ý thức tự nhiên trước đồng loại

LTS: Ngày 17.11, khi thảo luận về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khoá XIII, dù nằm trong danh mục “chương trình chuẩn bị” (chứ không phải chính thức), nhưng một số đại biểu đã tranh luận khá gay gắt về luật biểu tình, về nguồn gốc, bản chất của hoạt động này, nhu cầu xã hội hiện nay cần – không cần một luật điều chỉnh về nó. Sài Gòn Tiếp Thị xin giới thiệu bài viết của TS Nguyễn Sỹ Phương, cung cấp những thông tin nền tảng về vấn đề này.

Biểu tình khác bạo động

Biểu tình "chiếm Los Angeles" của người dân Mỹ, chống lại chủ nghĩa tư bản và giới tài phiệt tài chính - ngân hàng. Ảnh: bangstyle.com
Trước hết cần phân biệt khái niệm biểu tình với thực tế biểu tình muôn hình vạn trạng, nếu không, sẽ như thầy bói xem voi, sờ thực tế cái tai định nghĩa ngay voi là cái quạt. Ngoại diên của khái niệm biểu tình là nhiều người tập trung lại theo nghĩa tập họp, tụ tập. Nhưng khác với tụ tập để lao động trong nhà máy vì mưu sinh, hay hội hè để vui chơi, đám ma đám cưới chia sẻ tình cảm gia đình, bán buôn trong chợ búa kiếm lời, hoặc bị tống tù do phạm tội, tụ tập biểu tình có nội hàm: xuất phát từ tâm, cùng nhau biểu thị tình cảm (biểu tình), thái độ, quan điểm của mình. 

Như vậy, có ba dấu hiệu để phân biệt biểu tình với các khái niệm khác có cùng ngoại diên tụ tập: 1- Biểu thị, 2- Tự nguyện, 3- Xuất phát từ tâm. 

Căn cứ ba dấu hiệu trên, có thể xác định khi nào thì được gọi là biểu tình. 

Nếu tụ tập nhưng có sử dụng bạo lực, hoặc có hành vi xâm phạm lợi ích người khác, thì đó là bạo động, chứ không phải biểu tình. Giải thích tại sao nhiều cuộc biểu tình ở các nước hiện đại, đoạn chót bị đàn áp, cưỡng chế giải tán, do bị biến thành bạo động; đàn áp lúc đó là đàn áp bạo động chứ không phải đàn áp biểu tình. 

Nếu tụ tập là do được trả tiền, được thuê mướn, hoặc cưỡng bức người khác, nghĩa là không tự nguyện, không phải từ tâm, thì đó là bè đảng, hoặc hình sự, không phải biểu tình. 

Biểu tình chỉ có thể biểu thị bằng hiện diện, hình ảnh, tiếng nói, vì vậy nếu nhằm mục đích “chống lại“, thì phải hiểu chống lại bằng cách biểu thị, tức phản đối, hoàn toàn khác với chống đối mang tính loại bỏ như bạo động.

Là quyền cơ bản, không phụ thuộc dân trí

Biểu tình xuất phát từ “ý thức tự nhiên trước đồng loại“. “Tự nhiên“ nghĩa là bản năng, không phụ thuộc bất cứ yếu tố bên ngoài nào. Còn “ ý thức“ chỉ có ở con người. Biểu tình, vì vậy, là một dấu hiệu thuộc tính riêng có của con người, phân biệt với thế giới sinh vật còn lại, hoàn toàn không phụ thuộc trình độ nhận thức. Do đó, biểu tình không như có ý kiến ngộ nhân tuỳ thuộc dân trí, để khẳng định nước nào biểu tình được, nước nào không thể. Ngay cả nếu thừa nhận điều đó, thì cũng mâu thuẫn với sử liệu thế giới, biểu tình được ghi lại từ thời La Mã cổ đại. Không quốc gia nào ngày nay thấp hơn dân trí Lã Mã thời đó cả.

Biểu tình ở các nước hiện đại gắn với cuộc sống thường nhật như ăn, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh, làm việc, diễn ra có khi chỉ bởi hiện tượng một đưá con bị cha mẹ lạm dụng khủng khiếp hay một người đi tàu bị kẻ xấu giết dã man gây bất bình dân chúng, hoặc bởi các chính sách nhà nước ảnh hưởng lợi ích của bộ phận, giai tầng nào đó, buộc họ phải phản đối, hay chính phủ, các cơ quan công quyền tỏ ra bất lực, họ phải thể hiện bất tín nhiệm, hoặc bởi nhân quyền ở các nước khác vi phạm làm họ xót xa phải chia sẻ. Vì vậy, không thể gán cho biểu tình chỉ mỗi “chống Chính phủ nước mình hay một chủ trương của Chính phủ nước mình“, và càng không thể hiểu chống theo nghĩa chống đối. Ngộ nhận đó tất yếu dẫn tới hành vi ứng xử với biểu tình cực đoan. Chính để khắc phục nguy hại đó, Luật tụ tập biểu tình Đức VersammlG cấm biểu tình đòi hủy bỏ quyền biểu tình!

Câu hỏi đặt ra cho Quốc hội không còn là có cần ban hành luật biểu tình hay việc ban hành luật này có gây tổn hại gì. Câu hỏi bây giờ là luật biểu tình phải đặt ra những chuẩn mực, thước đo, quy tắc xử sự như thế nào cho cả chính quyền lẫn người biểu tình, để quyền hiến định này được thực thi và trong trường hợp bạo động xảy ra, sẽ chế tài kịp thời.
Biểu tình cũng như ăn ở, đi lại, làm việc… là bản năng, thuộc tính con người, nên trở thành quyền cơ bản “tạo hoá ban cho họ“, chứ không phải nhà nước, hay tôn giáo, hay bất cứ thế lực nào. Một khi đã là quyền cơ bản, thì một mặt các quyền đó bình đẳng ngang nhau ở chỗ đều mang tính chất bản năng thuộc tính người, mặt khác chúng tự động trở thành đối tượng chi phối của luật pháp, nghĩa là thuộc chức năng trách nhiệm của chính quyền phải bảo đảm.

Vì vậy không thể đặt câu hỏi “Liệu cái gọi là quyền biểu tình ấy có lớn hơn quyền được kiếm sống của người dân…“, như đại biểu Quốc hội Hoàng Hữu Phước phát biểu, trong khi cả hai đều là bản năng như nhau. Còn trong thực tế, đúng là có những cuộc biểu tình “xâm hại quyền tự do đi lại của người dân, xâm hại quyền tự do mưu cầu hạnh phúc của người dân, buôn gánh bán bưng“, cũng giống như quyền làm việc có khi gây ô nhiễm môi trường, quyền tự do ăn uống nhưng khi bị bệnh lại lây nhiễm sang người khác, quyền đi lại bằng xe cộ, lại dẫn tới tai nạn chết người, nhưng không vì thế mà cấm hết những quyền đó. Ngược lại, vì thế mà loài người bắt buộc phải sinh ra nhà nước, cũng để bảo đảm quyền nọ không triệt tiêu quyền kia. Các luật liên quan tới quyền cơ bản, như luật biểu tình, lưu trú, giao thông, vệ sinh thực phẩm, trở thành tất yếu khách quan là vậy.

Ứng xử với quyền biểu tình

Là đối tượng điều chỉnh của luật pháp, biểu tình được các nước chọn lựa cách giải quyết xưa nay như sau:
Thứ nhất, không đả động đến. Trong trường hợp đó, người dân biểu tình hay không, nhà nước cho phép hay đàn áp, đều hoàn toàn tự phát và tùy tiện xử lý, hậu quả là cả nhà nước và công dân đều thiệt hại. Cuối cùng vẫn buộc phải đề cập đến nó theo những cách thức dưới đây. 

Thứ hai, không thừa nhận quyền biểu tình và cấm tuyệt đối nó, thường xảy ra ở những chế độ quân chủ độc tài. Lịch sử thế giới đã chứng minh sự sụp đổ tất yếu của nó, bởi không thể tước bỏ thuộc tính người vốn dĩ chỉ có ở con người. 

Thứ ba, hiến định quyền biểu tình nhưng thiếu luật điều chỉnh. Nước Đức từng xảy ra như vậy trong bốn năm sau khi ban hành Hiến pháp năm 1949. Kết qủa, biểu tình vẫn được tổ chức như vốn có, không hề thay đổi, bởi đã được hiến định, nhà nước không thể cấm. Tuy nhiên, chính quyền không chủ động ngăn ngừa trước được thiệt hại hay biến thái thành bạo động có thể xảy ra, và khi xảy ra thì xử lý lúng túng, phải áp dụng luật dân sự hoặc luật hình sự phức tạp. 

Thứ tư, hiến định quyền biểu tình, bảo đảm quyền này bằng toà Bảo hiến và ban hành văn bản lập pháp bảo đảm chắc chắn nó. Đó là lựa chọn duy nhất hiện nay ở các nước hiện đại. Hiến pháp và toà Bảo hiến buộc nhà nước phải bảo đảm thực thi quyền cơ bản của công dân trong đó có quyền biểu tình. Bởi nói nhà nước dân chủ, của dân, do dân, vì dân, rốt cuộc cũng chỉ nhằm bảo đảm quyền cơ bản cho họ, chứ không phải thay họ lo cho cuộc sống của họ, vốn chưa và không nhà nước nào làm nổi. Ngược lại, quyền cơ bản một khi được bảo đảm sẽ kích thích người dân không ỷ lại mà làm chủ nhà nước, sử dụng quyền đó để vừa tham gia vừa đòi hỏi các công bộc nhà nước hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách sao cho phù hợp với nhu cầu của mình. Nhà nước không phải thánh, cái gì cũng đúng, vì vậy mọi chính sách của nó cần được thực tế kiểm nghiệm, không đâu chính xác hơn ngoài chính người dân chịu sự chi phối trực tiếp của chính sách, mà biểu tình là sự phản ảnh tập trung nhất. Điều này giải thích tại sao các nước hiện đại khuyến khích biểu tình, phản biện, trưng cầu dân ý, và bất cứ quyết định nào của cơ quan hành chính từ phạt xe chạy phạm luật đến mức thuế phải đóng, giải quyết các đơn từ, đều bắt buộc phải có phần hướng dẫn, ông bà có quyền chống lại quyết định này tại cơ quan nào, ở đâu, nếu vẫn không thoả mãn thì tại toà án nào. Nhờ có Luật biểu tình, những biến thái chuyển sang bạo động sẽ được tham chiếu với các quy phạm trong luật biểu tình để ngăn ngừa. Toà Bảo hiến sẽ bảo đảm cho luật hoặc văn bản dưới luật ban hành không thể vi hiến, nếu Chính phủ muốn “nhẹ gánh“ bằng cách ban hành luật hạn chế quyền biểu tình. 

Thứ năm, hiến định quyền biểu tình, nhưng chưa có toà án hiến pháp bảo đảm và thiếu văn bản lập pháp điều chỉnh. Đó là trường hợp ở nước ta (xem điều 69 Hiến pháp 1992). Các cuộc biểu tình ở Thái Bình trước đây đã gây hậu quả thiệt hại cho cả người biểu tình lẫn nhà nước, xử lý rất phức tạp hay biểu tình ở Hà Nội vừa qua dẫn tới phiền lụy cho chính những người biểu tình “thể hiện lòng yêu nước“, lẫn chính quyền vì mất công sức xử lý nhưng thiếu văn bản lập pháp làm cơ sở, thấy hệ lụy tất yếu phải đến của cách chọn lựa trên. Nếu cứ để thế mãi chưa biết tình hình sẽ tiến triển tới đâu? Đề xuất cần có luật biểu tình của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tiếp đó, là phản ứng cần thiết, kịp thời, thể hiện bản lĩnh chính trị cần có của người đứng đầu Chính phủ ở các quốc gia hiện đại trước bức xúc của dân chúng. 

Câu hỏi đặt ra cho Quốc hội-có chức năng lập pháp- không còn là có cần ban hành luật biểu tình hay việc ban hành luật này có gây tổn hại gì. Câu hỏi bây giờ là luật biểu tình phải đặt ra những chuẩn mực, thước đo, quy tắc xử sự như thế nào cho cả chính quyền lẫn người biểu tình, để quyền hiến định này được thực thi và trong trường hợp bạo động xảy ra, sẽ chế tài kịp thời. Trả lời câu hỏi trên không qúa khó khăn, nếu nghiên cứu luật biểu tình các nước, cùng khảo sát thực tế biểu tình ở họ vốn diễn ra thường nhật. Đó chính là căn cứ thực tiễn thế giới để tham khảo xây dựng luật biểu tình
.
TS Nguyễn Sỹ Phương, CHLB Đức