Thứ Hai, 21 tháng 11, 2011

KHOE KHOANG MÁNH KHÓE ĂN GIAN PHIẾU BÌNH CHỌN HẠ LONG

Hé lộ "bí mật" trong chiến thắng bình chọn Vịnh Hạ Long


Để được lọt vào “bảng vàng” 7 kỳ quan thiên nhiên của thế giới chúng ta đã áp dụng thành công một cách làm hiệu quả trước thời điểm kết thúc việc bình chọn 30 tiếng đồng hồ. VnMedia xin "bật mí" bí mật này... 

Vịnh Hạ Long trở thành Kỳ quan Thiên nhiên mới  

Rạng sáng ngày 12/11, Vịnh Hạ Long của Việt Nam đã được tổ chức New Open World công bố là 1 trong 7 Kỳ quan Thiên nhiên mới của Thế giới thông qua bầu chọn trên Internet và qua tin nhắn điện thoại di động. trong đó có vịnh Hạ Long của Việt Nam.

Mặc dù đây chỉ là kết quả tạm thời do tổ chức New Open World công bố dựa trên kết quả thống kê sơ bộ. Danh sách 7 kỳ quan thiên nhiên mới hiện nay có thể có sự thay đổi sau khi tổ chức này kiểm tra và khẳng định lại về số lượng phiếu bầu chính xác. Việc công bố chính thức và lễ đón nhận danh hiệu Kỳ quan thiên nhiên mới sẽ được thực hiện vào đầu năm 2012.

Tuy nhiên, với số lượng bầu chọn kỷ lục của người dân Việt Nam, bạn bè trên thế giới vịnh Hạ Long của Việt Nam chắc chắn sẽ giữ vững được danh hiệu là kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới.

Có điều, ít ai biết được rằng, để được lọt vào “bảng vàng” 7 kỳ quan thiên nhiên của thế giới chúng ta đã áp dụng thành công một cách làm hiệu quả trước thời điểm kết thúc việc bình chọn 30 tiếng đồng hồ.

Theo Th.s Phan Hoài Nam - UV TW Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Bí thư Đoàn TN Tập đoàn VNPT là một công dân Việt Nam, một đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, thạc sỹ Nam đã hiến kế một cách làm hiệu quả trong tình thế cấp bách.

“Với cách làm theo sáng kiến này, ngay trong ngày 9/11, Đoàn Thanh niên Tập đoàn VNPT sẽ cùng với Đoàn Khối Doanh nghiệp Trung ương đã kêu gọi các đơn vị, doanh nghiệp trong Khối đóng góp kinh phí để triển khai chương trình nhắn tin tập trung, dự kiến thu được khoảng 100.000 tin nhắn đầu tiên từ việc triển khai hệ thống nhắn tin tập trung này. Chương trình nhắn tin tập thể, tập trung sẽ được tổ chức tại trụ sở Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương vào chiều ngày 10/11/2011”, anh Nam nói.

 Ảnh minh họa
 Vịnh Hạ Long đã trở thành kỳ quan thiên nhiên thế giới mới theo kết quả sơ bộ của tổ chức New Open World.


Và một kết quả bất ngờ, ngoài sức tưởng tượng của Th.s Nam và những người tham gia cuộc bình chọn bằng tin nhắn đã diễn ra: đã có 130.000 tin nhắn thành công. Làm thế nào để chúng ta có được số tin nhắn ấn tượng như vậy? VnMedia xin giới thiệu về cách làm của Th.s Nam:


Theo Th.s Nam điều khiến anh băn khoăn nhất và quyết tâm phải nghĩ bằng được một cách nhắn tin hiệu quả cho vịnh Hạ Long xuất phát từ câu hỏi của một người bạn: Trong thời điểm nước rút, cần phải làm thế nào để việc bầu chọn này đạt hiểu quả tối ưu? Một người bạn tôi đã so sánh kết quả bầu chọn được tổ chức rộn ràng tại Hội trường một trường Đại học có sức chứa 1.000 người nhưng thu được khoảng 750 tin nhắn bầu chọn (kết quả khá cao), cũng chỉ tương đương giá trị bằng một thẻ cào mệnh giá 500.000đ mà anh ta có thể sẵn sàng tài trợ.

Sự so sánh đó có điều gì đấy chưa hay nhưng rõ ràng, trong giai đoạn nước rút, chúng ta cần huy động tối đa mọi sự ủng hộ và nguồn lực. Lúc cấp bách, cần có cả những cách làm đột phá….

Điều gì sẽ xẩy ra nếu chúng ta bị bật ra khỏi danh sách 7 kì quan thế giới mới? Điều gì sẽ xảy ra sau bao nhiêu nỗ lực, cố gắng và hy vọng mãnh liệt của đồng bào, chiến sĩ cả nước và cả cộng đồng xã hội?

Trong thời điểm gấp rút đó, bên cạnh các giải pháp đồng bộ, cấp bách đang được đồng bào, chiến sĩ cả nước triển khai như tổ chức các chương trình Ngày hội nhắn tin, ca nhạc, vận động cộng đồng mạng xã hội, truyền hình trực tiếp…Th.s Nam đã hiến kế một cách làm trực tiếp và hiệu quả: tổ chức nhắn tin tập thể, tập trung có sự hỗ trợ của công nghệ. 

Theo đó, để vượt lên và bứt phá, các đơn vị, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, mạnh thường quân triển khai quyên góp bình chọn Vịnh Hạ Long. Sau khi có số tiền quyên góp cụ thể, mỗi đơn vị có một sim điện thoại được nạp tài khoản bằng đúng số tiền do các tổ chức, tập thể, cá nhân ủng hộ đóng góp.

Với sự hỗ trợ của kỹ thuật, công nghệ, Đoàn TN VNPT sẽ thực hiện quy trình chuyển toàn bộ số tiền này sang tin nhắn về đầu số 147 để bình chọn cho Vịnh Hạ Long. Số liệu tin nhắn sẽ được báo cáo, thống kê, kiểm soát có xác nhận bởi các đơn vị chức năng của Bộ Thông tin và truyền thông.

Để đánh giá hiệu quả của cách làm này, xin hãy so sánh qua 02 ví dụ sau:

Ví dụ 1:

Tình huống 1: Tại một công ty về du lịch có 200 nhân viên. Sáng thứ 2, Ban Lãnh đạo công ty quyết định triệu tập toàn bộ cán bộ công nhân viên, tổ chức nhắn tin Bình chọn Vịnh Hạ Long. Sau khi Ban Lãnh đạo công ty lên sân khấu nhắn tin trước, 200 cán bộ công nhân viên phía dưới đồng loạt giơ điện thoại lên và nhắn tín Bình chọn. Có người nhắn 1 tin, có người nhắn 2 tin, có người trách nhiệm thì nhắn đến tin thứ 3, thứ 5. Trong khi đó, cũng có 1 số ít người giơ điện thoại lên nhưng không nhắn hoặc nhắn tin nhưng không gửi đi. Sau hơn 1 tiếng đồng tổ chức, chương trình cũng kết thúc với kết quả thu được như sau:

- Chi phí tổ chức sự kiện ( hoa, nước, băng rôn, khẩu hiệu, bồi dưỡng văn nghệ, chế độ đại biểu và báo chí (nếu có): khoảng 10 triệu.

- Số lượng tin nhắn ủng hộ chương trình: Trung bình 3tin/ người x 200 người = 600 tin nhắn

- Giá trị ủng hộ toàn bộ chương trình: 600 tin nhắn x 630 đồng = 378.000 đồng.

- BTC không kiểm soát được chính xác số lượng tin nhắn của buổi lễ và của từng cá nhân.

Tình huống 2: Tranh thủ cuộc họp chuyên môn, Ban Lãnh đạo công ty giới thiệu về ý nghĩa của Chương trình Bình chọn Vịnh Hạ Long và tác động trực tiếp đến hoạt động công ty và thu nhập người lao động (làm về du lịch). Ban Lãnh đạo công ty tổ chức quyên góp tiền để ủng hộ chương trình nhắn tin Bình chọn VHL. Người ít người nhiều, có người ủng hộ 20.000đ, 30.000đ, có người ủng hộ 50.000đ, 100.000đ. Cá biệt có có người ủng hộ trên 200.000 đ. Trên cơ sở số tiền quyên góp, công ty sẽ triển khai theo hình thức nhắn tin tập thể, tập trung. Kết quả thu được như sau:

- Chi phí tổ chức: không mất chi phí, tiết kiệm được khoảng 10.000.000 đồng

- Số tiền quyên góp ủng hộ: Bình quân 50.000đ/ người x 200 người = 10.000.000 đồng.

- Số tin nhắn ủng hộ chương trình: (10.000.000 + 10.000.000)/ 630 đồng/tin nhắn = 31.746 tin nhắn ủng hộ.

-> Con số 600 so với 31.746 tin nhắn cũng đáng suy ngẫm...

Ví dụ 2:

Tình huống 1: Doanh nhân ABC (Ca sĩ, diễn viên, Mạnh Thường quân…) tham gia chương trình nhắn tin ủng hộ Bầu chọn VHL. Với khả năng tài chính và nguyện vọng đóng góp rất lớn nhưng phải thao tác qua tin nhắn. Kết quả, mặc dù rất kiên nhẫn, ông ta chỉ nhắn được 20 tin nhắn ( ít thời gian). Kết quả:

- 20 tin nhắn x 630 đồng = 12.600 đồng.

- Tâm lí rất không thoải mái không thực hiện được ước nguyện trong khi khả năng đóng góp, hỗ trợ có thể gấp 100 - 1.000 lần.

Tình huống 2: Doanh nhân ABC ủng hộ cho chương trình 30.000.000 đồng. thông qua giải pháp nhắn tin tập trung có sự hỗ trợ của công nghệ (ủy quyền cho đại diện hoặc tổ chức xã hội thực hiện giám sát). Số liệu tin nhắn sẽ được báo cáo, thống kê, kiểm soát có xác nhận bởi các đơn vị chức năng của Bộ Thông tin và truyền thông. Kết quả:

- Số lượng tin nhắn: 30.000.000 đồng/630 đồng/tin = 47.619 tin nhắn.

- Thoải mái tâm lí. Thậm chí có người còn có khả năng đóng góp cao hơn.

-> Con số 20 tin so với 47.619 tin cũng đáng suy ngẫm…

Qua 2 ví dụ trên có thể thấy:

1. Sự khác biệt giữa 2 cách làm: một cách thiên về hình ảnh, phong trào, một cách thiên về hiệu quả, kết quả. Đáng suy ngẫm là cách làm thiên về hình ảnh, phong trào đang là cách thức phổ biến hiện nay. Chúng ta trân trọng cách làm truyền thống đã mang lại kết quả tích cực, giúp Vịnh Hạ Long lọt vào top 10 kì quan thế giới mới nhưng trong giải pháp tình thế, cấp bách hiện nay, cần phải ưu tiên lựa chọn giải pháp thứ 2 nhiều hơn.

2. Giải pháp kỹ thuật và ý tưởng do Đoàn VNPT đưa ra mang tính chất hỗ trợ thao tác nhắn tin thủ công của người dân và góp phần minh bạch hóa sự ủng hộ, tham gia chương trình. (Trên cơ sở trao đổi với Bộ Văn hóa thể thao và du lịch, Việc này không vi phạm quy chế vì một cá nhân (hoặc một số điện thoại) có thể nhắn tin nhiều lần, không hạn chế số lượng, vì kết quả nhắn tin có phát sinh cước.

3. Về cơ chế, quy trình và cách thức thực hiện của chúng ta chưa huy động được hết tiềm năng, sự ủng hộ, đóng góp của cộng đồng xã hội cho việc bầu chọn Vịnh Hạ Long. Trong khi quy định không giới hạn số lần đối với 1 người, một đầu số thì cách thức vận động triển khai chưa có các hình thức linh hoạt, hỗ trợ người dân. Đặc biệt những người muốn đóng góp, ủng hộ nhiều.  

Những khẩu hiệu xuất phát từ trái tim. 

Trong thời điểm thực hiện cuộc nhắn tin tập thể đó, Đoàn thanh niên Tập đoàn VNPT đã vận động Đoàn Khối Doanh nghiệp Trung ương và tất cả những người Việt Nam yêu nước khác hãy vận động cho vịnh Hạ Long bằng khẩu hiệu:

Thời hạn bình chọn chỉ còn được tính bằng giờ, bằng phút…

Xin hãy nhịn một lon bia để có thể ủng hộ được 10 tin nhắn
Xin hãy bỏ qua một chương trình xem phim, ca nhạc, đá bóng…để có thể ủng hộ được 100 tin nhắn
Xin hãy cắt giảm một món quà sinh nhật cho bạn bè, người thân để có thể ủng hộ được 1.000 tin nhắn
Xin hãy tiết kiệm một buổi tiếp khách để có thể ủng hộ được 10.000 tin nhắn
Xin hãy tiết giảm một khoản nhỏ đầu tư công nào đó không hiệu quả để có thể ủng hộ hàng triệu tin nhắn…
Xin hãy làm một điều gì đó cho đất nước trước khi không còn cơ hội…

Bằng những khẩu hiệu này, bằng sự quyết tâm và táo bạo khi áp dụng ngay vào đêm 10/11, đoàn thanh niên VNPT và Đoàn Khối Doanh nghiệp trung ương đã góp công sức vào việc bình chọn cho Vịnh Hạ Long, để Vịnh Hạ Long trở thành kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới...
Thanh Hường
Nguồn:  VNMedia

Một độc giả bình: 

Lương tri, sĩ diện hỏng hết khi đọc một bài báo như "Vịnh Hạ Long trở thành Kỳ quan Thiên nhiên mới" trên đây. 

Người ta khoe khoang một cách hả hê, tự hào các mánh khoé ăn gian phiếu, cách kéo bè kéo cánh để ăn gian phiếu bầu cho HL. Mà lẽ ra những chuyện thế này con người có liêm sỉ phải giấu đi, đậy lại. Ôi thật xấu hổ cho nhân tình thế thái hôm nay! 
________________

Bài đọc thêm: 
Lạ lùng nơi tổ chức bầu chọn Vịnh Hạ Long!
20/11/2011 11:13:45
 
-Theo thông tin trên website của New7Wonders, thì đây vừa là một tổ chức phi lợi nhuận, vừa là một tổ chức thương mại. 

New7Wonders Foundation là tổ chức phi lợi nhuận, với chức năng chính là tổ chức chiến dịch bầu chọn trên toàn thế giới. Trong khi đó, NewOpenWorld Corporation là công ty được ủy quyền để thực hiện các hoạt động thương mại có liên quan.

Sau hai cuộc bình chọn 7 Kỳ quan thế giới mới (công bố kết quả năm 2007) và 7 Kỳ quan thiên nhiên mới (vừa công bố kết quả sơ bộ ngày 11/11 vừa qua), New7Wonders Foundation sẽ tiếp tục những dự án vận động bầu chọn tương tự. Dự án mới nhất là 7 Thành phố kỳ quan, sẽ công bố các địa danh tham gia vào tháng 1/2012.

Theo website nói trên, New7Wonders Foundation có trụ sở tại Bảo tàng Heidi-Weber (Zurich, Thụy Sĩ). Nhưng báo The Jakarta Post (Indonesia) dẫn lời Sapta Nirwandar, Giám đốc tiếp thị của Bộ Văn hóa và Du lịch Indonesia phát biểu trong một cuộc họp báo cho biết “Chúng tôi đã gửi 1 bức thư tới địa chỉ tổ chức này ở Zurich nhưng thư bị gửi trả lại vì địa chỉ không rõ ràng”.

Quan chức này cũng cho rằng, thật lạ lùng nếu một tổ chức quốc tế, tham gia vào những giao dịch lên đến hàng triệu USD mà lại không có một văn phòng thật sự.

Cũng trên website của mình, New7Wonders Foundation khẳng định họ không phải là đối tác của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc UNESCO. Họ cũng không tìm kiếm hay yêu cầu sự ủng hộ, tán thành của UNESCO.

Còn trên website của UNESCO, tổ chức này tuyên bố họ không có liên quan đến chương trình vận động bầu chọn “7 kỳ quan thế giới mới” và “Mặc dù UNESCO đã vài lần được mời hỗ trợ dự án này, nhưng chúng tôi quyết định không hợp tác với ông Weber” (Bernard Weber, người sáng lập New7Wonders Foundation).

UNESCO cũng khẳng định, việc công nhận giá trị tinh thần và biểu tượng của các địa danh và đưa chúng vào một danh sách mới là không đủ. Theo UNESCO, phải đề ra các tiêu chí khoa học, đánh giá chất lượng các ứng viên, thiết lập các khuôn khổ pháp lý và quản lý.

Ông Bernard Weber, Chủ tịch New7wonders of Nature (áo trắng) trong chuyến thăm Việt Nam
Ông Bernard Weber, Chủ tịch New7wonders of Nature (áo trắng) trong chuyến thăm Việt Nam


Những sự cố trong cuộc bầu chọn 7 Kỳ quan thiên nhiên mới


Tháng 5/2011, Bộ trưởng Du lịch Maldives, ông Thoyyib Mohamed tuyên bố nước này rút khỏi cuộc bầu chọn. Theo tờ The Minivans News của Maldives, lý do được đưa ra là “New7Wonders bất ngờ yêu cầu đóng những khoản tiền lớn”. Để đáp lại, phát ngôn viên của New7Wonders cho biết Maldives vẫn có tên trong danh sách các địa điểm được bầu chọn, và tổ chức này sẽ tìm kiếm một ủy ban hỗ trợ chính thức khác thay cho Bộ Du lịch Maldives.

Theo thông tin từ The Minivans News được báo Anh The Guardian dẫn lại, ngoài khoản lệ phí tham dự 199 USD ban đầu, khi lọt vào danh sách chung kết, Maldives được yêu cầu đóng phí tài trợ (1 suất tài trợ bạch kim: 350.000 USD hoặc 2 suất tài trợ vàng 210.000 USD/suất) và kinh phí hỗ trợ hoạt động quảng bá vòng quanh thế giới, bao gồm phí đi lại, ăn ở và truyền thông cho đại diện New7Wonders đến thăm Maldives và một số chương trình khác. Theo các quan chức ngành du lịch, tổng các khoản chi này có thể lên tới 500.000 USD.

Tại Indonesia, tờ The Jakarta Post đưa tin, ngày 29/12/2010, Bộ trưởng Bộ Văn hóa và Du lịch Indonesia Jero Wacik đã nhận được thư từ New7Wonders đe dọa rút Công viên quốc gia Komodo khỏi danh sách các địa danh vào chung kết cuộc bầu chọn nếu nước này không trả khoản phí bản quyền 10 triệu USD.

Đây là khoản tiền mà Indonesia được New7Wonders đề nghị chi trả để tổ chức buổi lễ công bố kỳ quan thiên nhiên mới. Indonesia cũng được yêu cầu đóng thêm 35 triệu USD kinh phí tổ chức sự kiện này.

Đại diện Bộ Văn hóa và Du lịch Indonesia cho rằng mức phí trên là quá đắt và từ chối tổ chức lễ công bố. Họ mời luật sư và dọa kiện New7Wonders nếu loại Công viên quốc gia Komodo. Về phần mình, New7Wonders tuyên bố thắng cảnh của Indonesia vẫn nằm trong danh sách vào chung kết, nhưng rút tư cách ủy ban hỗ trợ chính thức của Bộ Văn hóa và Du lịch Indonesia. 

Trong một thông cáo báo chí đăng trên trang detik.com, ông Weber cho biết, tháng 12/2010, một đơn vị tư nhân có tiếng đã được Bộ Văn hóa và Du lịch Indonesia chỉ định để kí hợp đồng đăng cai tổ chức lễ trao giải, song ông từ chối nêu tên đơn vị này. Tuy nhiên, Bộ trưởng Bộ Văn hóa và Du lịch Indonesia khẳng định Indonesia không vi phạm hợp đồng: “Chúng tôi chưa hề kí bất cứ hợp đồng nào liên quan tới đề nghị làm chủ nhà cho lễ công bố. Do vậy, không có hợp đồng nào bị vi phạm”.

Công viên quốc gia Komodo cuối cùng cũng có tên trong danh sách sơ bộ 7 Kỳ quan thiên nhiên mới được công bố ngày 11/11/2011.

Dư luận thế giới về kết quả bầu chọn

Sau khi danh sách 7 Kỳ quan thiên nhiên mới được công bố, các hãng thông tấn, báo chí lớn trên thế giới như CNN, AFP, Los Angeles Times, The Sydney Morning Herald…đều đưa kết quả bầu chọn và hình ảnh các địa danh, nhưng phần lớn không bình luận.

Trong khi đó, tạp chí National Geographic của Hội Địa lý Quốc gia Mỹ cũng đưa tin về kết quả, nhưng kèm theo lời giới thiệu đây là sự kiện “gây tranh cãi, cho phép mọi người bầu chọn theo kiểu Thần tượng Âm nhạc Mỹ” và “dù nổi tiếng, nhưng cuộc bình chọn bị chỉ trích vì không khoa học và thiếu minh bạch trong các tiêu chí được áp dụng để lựa chọn các địa danh vào chung kết”.

Tạp chí cũng dẫn lời Costas Christ, biên tập viên tạp chí National Geographic Traveler băn khoăn rằng “Liệu chiến dịch này có giúp thế giới gìn giữ những khu vực thiên nhiên hoang dã cuối cùng còn lại và môi trường đại dương cho các thế hệ mai sau? Hay nó là một nỗ lực để giúp các nước đang phát triển giảm nhẹ đói nghèo thông qua phát triển du lịch bền vững?”.

Nhà báo này cho rằng, nếu không đạt được các mục tiêu trên thì cuộc bầu chọn chỉ là một màn tiếp thị. Theo Costas Christ, việc quảng bá các địa danh này như trong cuộc bầu chọn của New7Wonders là lợi bất cập hại nếu đứng trên quan điểm bảo tồn. Vì một số địa danh trong số 7 Kỳ quan thiên nhiên mới hiện đang bị đe dọa vì ô nhiễm và phát triển quá mức và chưa được chuẩn bị để đón nhận một lượng du khách lớn có thể đổ về nhờ hiệu ứng của cuộc bầu chọn.

Thu Thủy (lược dịch)
Nguồn: Bee.net.vn

Chủ Nhật, 20 tháng 11, 2011

NGUYỄN QUANG A: QUỐC HỘI THẬT HỒNG PHƯỚC!

Quốc Hội thật hồng phước! 

Tôi đã bị sốc về đề xuất luật nhà văn và sự ưu tiên luật nhà văn so với luật biểu tình của đại biểu Quốc Hội Nguyễn Minh Hồng. Nay lại càng sốc hơn với bài phát biểu phản đối luật biểu tình của đại biểu Quốc Hội Hoàng Hữu Phước. Tôi đã có lời bình về đề xuất của ông Hồng mà báo chính thống đã đưa. Tôi cũng có một số ý nghĩ về bài phát biểu của ông Phước mà báo chính thống chỉ lấy ra vài ý.

Đây là bài viết của tôi về ông Phước: 
Sốc về ông Hoàng Hữu Phước 
Nguyễn Quang A 

Tôi thực sự bị sốc khi đọc bài phát biểu của ông Phước. Nếu ông Phước, với tư cách một cá nhân, đọc bài phát biểu ấy ở đâu đó, nếu có người nghe, thì bất cứ ai có chút hiểu biết và dựa trên nội dung bài phát biểu của ông đều có thể thấy rằng ông là một người hiểu biết nông cạn, sử dụng thông tin sai lệch và thích phán một cách hết sức bừa bãi, song người ta cũng chẳng hơi đâu trách ông làm gì. Nhưng ông lại đường đường là một đại biểu Quốc Hội, phát biểu công khai, chính thức trên diễn đàn Quốc Hội.

Tôi trằn trọc đặt cho mình câu hỏi “làm sao những người như ông lại có thể “lẻn” vào Quốc Hội?” và thấy quá lo: với các “dân biểu” như ông thì Việt Nam lụn bại là chắc chắn.

Ông Phước “kính đề nghị Quốc hội loại bỏ Luật lập hội và Luật biểu tình khỏi danh sách dự án luật suốt nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII này”. Một “đại diện của dân” lại ngang nhiên đề nghị các “đại diện của dân” tước hai quyền con người cơ bản được hiến định của dân! Dân nào bầu ông làm đại diện của mình nếu họ biết rõ chân tướng của ông.

Theo ông, nếu lập hội:  để “tạo nên các đối thủ bên ngoài hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, vô hiệu hóa, tiến đến xóa sổ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”; “tạo nên các hội mới nằm bên trong hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam như 44 thành viên hiện hữu để làm phong phú hơn tổ chức hùng mạnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” đều là không cần. Sự hiểu của ông mới nông cạn làm sao về hội, về vai trò của xã hội dân sự và thậm chí về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam!

Lý do để ông loại luật biểu tình:

Theo ông, cuộc biểu tình đầu tiên xảy ra năm 1913 và mãi đến các năm 1960 mới xuất hiện từ ngữ “biểu tình” ở Mỹ rồi lan ra khắp thế giới. Ông lấy đâu ra những thông tin tào lao và hoàn toàn sai ấy?

Ông khẳng định, “ngay từ khởi thủy và cho tới tận ngày nay biểu tình là để chống lại Chính phủ nước mình hoặc chống lại một chủ trương của Chính phủ”.

Sự hiểu của ông về biểu tình sai bét. Bất cứ ai biết đọc, biết dùng Google và không biết gì về biểu tình cũng có sự hiểu đúng hơn ông về biểu tình chỉ sau 15 phút!

Khi ông “đi ngang qua vài cuộc tập hợp đông người gần đây Thành phố Hồ Chí Minh chống đường lưỡi bò” và ông “đã nghe những người bị kẹt xe lớn tiếng nguyền rủa, thóa mạ, văng tục đầy đe dọa những người đang tập hợp mà ta gọi là biểu tình ấy” và ông sợ “sự giận dữ này có thể sẽ biến thành gây hấn, bạo loạn, đánh nhau giữa vài nhóm người biểu tình và chống biểu tình”.

Ông sợ các cuộc tập hợp đông người như vậy xâm hại đến đến quyền tự do của những người khác. Ông đòi cân đong xem “cái gọi là quyền biểu tình ấy có lớn hơn” một số quyền mà ông nêu ra để đối sánh. Đấy chính là một trong những lý do cần có luật biểu tình, chứ đâu như ông nghĩ.

Rồi ông kết luận “Việt Nam chưa phải là siêu cường kinh tế để có thể đài thọ cho một sự ô danh” như sự ô danh mà các cuộc biểu tình “chiếm phố Wall” gây ra cho nước Mỹ. Tôi thấy thật ô danh cho những kẻ thích phán bừa như vậy mà chẳng tìm hiểu kỹ thực hư thế nào.

Đảng Cộng Sản Việt Nam, Chính Phủ Việt Nam phản đối đường lưỡi bò, thế mà ông ngang nhiên dùng những lời được ông cho là của người khác để bôi nhọ, thóa mạ những người “chống đường lưỡi bò” bằng cách thực hiện quyền biểu tình được hiến định của mình. Hay ông ủng hộ đường lưỡi bò? Hay ông muốn bắt người khác phải làm theo cách nghĩ của ông?

Ông bảo “đa số công dân sẽ không ủng hộ Luật biểu tình vì bản chất dễ bị tổn thương và dễ bị lợi dụng gây ra biến loạn”. Không có thăm dò dư luận sao ông biết “đa số nhân dân sẽ”…? Ông muốn hay có thể điều khiển nhân dân ư? Dân biểu như ông chỉ góp phần vào sự bóp nghẹt tự do, biến dân thành tù nhân và nô lệ và gây ra “biến loạn” mà thôi.

Dân biểu như ông chắc khó có thể đóng góp gì cho sự phát triển hướng tới “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ công bằng và văn minh” nếu không nói là ngược lại.

Càng thích phán theo kiểu này tại diễn đàn Quốc Hội và các diễn đàn chính thức khác với tư cách ông nghị, ông càng tự hủy hoại mình và hủy hoại uy tín của Quốc Hội.

Nếu còn chút liêm sỉ ông nên từ chức đại biểu Quốc Hội và về nhà tu học thêm. 
__________________________

Bực, buồn phải suy nghĩ mông lung rồi cũng tìm được sự lý giải: các ông này (mà không có các ông ấy thì có các ông tương tự) mà không thế mới lạ! Và thế là stress được xả.

Xem lại thì thấy 2 ông Hồng Phước này có mấy điểm giống nhau. 

Cả 2 ông đều không muốn luật biểu tình. Cả 2 ông đều là các đại biểu tự ứng cử và đã trúng. Khóa trước trong số những người tự ứng cử duy nhất chỉ có ông Hồng trúng cử. Khóa này trong số nhiều người tự ứng cử có 4 người trúng cử, tức là các ông Hồng Phước chiếm 50%! Không rõ chứng kiến của 2 vị kia (ông Phan Văn Quý, bà Châu Thị Thu Nga) ra sao. Chất lượng của các vị tự ứng cử đã trúng cử thật là cao! Họ tự ứng cử hay được nhắc “cứ tự ra ứng cử đi”? Cái dân chủ xã hội chủ nghĩa triệu lần tốt đẹp hơn dân chủ tư sản nó vậy đó! Thật là hồng phước cho Quốc Hội! 

N.Q.A
*Bài viết do TS Nguyễn Quang A gửi trực tiếp cho NXD-Blog.
Xin chân thành cảm ơn tác giả!

Thứ Bảy, 19 tháng 11, 2011

NGUYỄN KHOA ĐIỀM: HẠ LONG KHÔNG NÓI VỀ MÌNH

BẦU CHỌN HẠ LONG: NGƯỜI VIỆT BỊ MÓC TÚI ?

Cuộc bầu chọn kì quan thế giới mới do Tổ chức New Open World  phát động đã khép lại sau 4 năm rình rang. Cuối cùng thì những người Việt trọng danh đã đạt được mong muốn của mình: Vịnh Hạ Long lọt vào tốp 7 kì quan thế giới mới.

Trước sự kiện đó, nếu bảo không vui thì không phải và không là người yêu nước bởi chính người viết bài này cũng đã không tiếc mấy trăm đồng để gửi một cái tin nhắn góp gió cho Hạ Long bay cao, bay xa. Nhưng nỗi buồn thì không nhỏ. Đọc những thông tin gần đây xung quanh chuyện bầu chọn này mới thấy cái trớ trêu của sự đời. Sau khi có kết quả bình chọn, UNESCO vẫn khẳng định rằng đây là kết quả của một dự án cá nhân, và rằng “Dự án này, về cả tầm quan trọng và ý nghĩa bền vững, không thể đóng góp vào việc bảo tồn các địa danh sau khi được bình chọn”.

Một tổ chức cá nhân của nước người mà khuấy động được cả hệ thống chính trị của ta tham gia cổ vũ thì thật là một chuyện ngoài sức tưởng tượng. Quả thực bái phục tài mê hoặc, giỏi “ma-két-ting” của cái ông “New Open World” ! Chỉ sau một thời gian rất ngắn, một hai tháng gì đó, công cuộc bầu chọn theo tinh thần thể dục của cụ Nguyễn Công Hoan xưa đã mang lại kết quả không ngờ: 24.090.156 tin nhắn của người Việt gửi qua tổng đài 147 bình chọn cho Hạ Long. Không biết New Open World có dám công khai số phiếu bình chọn trên khắp thế giới cho các kì quan không, bởi nếu bầu chọn qua trang mạng của New Open World thì thử hỏi được bao nhiêu phiếu ? Tôi dám chắc là không nhiều bởi thủ tục bầu qua trang web của New Open World nhiêu khê, chẳng mấy ai dư hơi sức để làm nếu không vì một sự ép buộc kiểu như ông chúa đảo Tuần Châu đã áp dụng với nhân viên của mình. Còn bầu chọn qua tin nhắn di động thì duy nhất chỉ một cú pháp cho địa danh nước mình với số lần không giới hạn thì thử hỏi làm sao mà khách quan, vô tư ?

24.090.156 tin nhắn nhân với cái giá 630 VND thành ra số tiền 15.176.798.280. Một nửa trong số đó nghĩa là hơn 7,5 tỉ trút vào hầu bao của New Open World chỉ trong vòng một tháng. Đấy là chưa kể các khoản thu của họ qua bầu chọn trên mạng, khoản phí liên kết đường link đến trang new7wonders với giá 25.000 USD/ tháng. Người Việt yêu nước đã vô tư móc túi mình làm giàu cho kẻ khác mà không hay biết mình bị lừa. Nghĩ như thế càng thấy cái giá phải trả cho cái danh to không chỉ đắt về tiền bạc mà còn vô nghĩa lí vì bị trục lợi và không được một tổ chức hợp pháp đại diện cho thế giới như UNESCO thừa nhận.

Không lâu đâu, sự ồn ã rồi sẽ chìm lắng theo thời gian. Chỉ còn lại Hạ Long-kì quan đích thực của tạo hóa sừng sững giữa trời nước bao la:

Trầm ngâm trên biển xanh
Hạ Long không nói về mình…
Vượt ra ngoài dục vọng
Khổng lồ mà thong dong…
                   (Nguyễn Khoa Điềm)

Buôn Ma Thuột, 16-11-2011
Nguyễn Duy Xuân

LỜI TẠ LỖI VỚI ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TRƯƠNG TRỌNG NGHĨA


LỜI TẠ LỖI VỚI ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TRƯƠNG TRỌNG NGHĨA
Kính thưa đại biểu Quốc hội Trương Trọng Nghĩa,
Kính thưa đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc,
Kính thưa chú Nguyễn Xuân Diện,
Kính thưa toàn thể bạn đọc theo dõi blog Nguyễn Xuân Diện,

Trong bức Thư Ngỏ gửi đại biểu Dương Trung Quốc và toàn thể đại biểu Quốc hội khóa XIII vừa qua mà cháu đã gửi nhờ chú Nguyễn Xuân Diện trao tận tay đại biểu Dương Trung Quốc đã có 1 sự nhầm lẫn.

Đó là căn cứ theo thông tin ban đầu từ báo Vneconnomy http://vneconomy.vn/20111117025218325P0C9920/tranh-luan-gay-gat-du-an-luat-bieu-tinh.htm cháu đã nhầm tên vị đại biểu quốc hội đồng tình với ý kiến của đại biểu Hoàng Hữu Phước. Theo tin từ báo này thì đại biểu đó là đại biểu Trương Trọng Nghĩa. Nhưng thông tin sau đó từ báo Tuổi Trẻ http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/465571/Chua-can-Luat-bieu-tinh-vi-dan-tri-thap.html, báo SGGP http://www.sggp.org.vn/phapluat/2011/11/273672/ và từ bạn bè thì đó là không chính xác. Sau khi kiểm chứng, cháu xin chính thức thừa nhận sai sót, xin đính chính và vô cùng xin lỗi đại biểu Trương Trọng Nghĩa, chú Nguyễn Xuân Diện, đại biểu Dương Trung Quốc và toàn thể bạn đọc đã đọc bản lưu trữ của bức thư ngỏ trên tại blog Nguyễn Xuân Diện.

Thông tin đính chính như sau: Người đã đồng tình và ủng hộ ý kiến của đại biểu Hoàng Hữu Phước là đại biểu Đặng Ngọc Nghĩa chứ không phải là đại biểu Trương Trọng Nghĩa.

Đối với riêng đại biểu Trương Trọng Nghĩa, cháu xin dập đầu tạ lỗi vì đã nhầm lẫn dẫn đến việc vô tình xúc phạm danh dự của bác. Cháu mong nhận được sự tha thứ và không chấp của bác. Cháu thành thật xin lỗi và xin chân thành cảm ơn.

Cháu xin nhờ chú Nguyễn Xuân Diện, nếu chưa trao thư ngỏ cho đại biểu Dương Trung Quốc, thì xin đính chính lại giúp cháu, cụ thể là sửa cụm từ Trương Trọng Nghĩa lại thành Đặng Ngọc Nghĩa, đồng thời gửi kèm cháu bản thư tạ lỗi này đến trực tiếp tận tay đại biểu Trương Trong Nghĩa (hoặc có thể nhờ bác Dương Trung Quốc chuyển giúp nếu bác ấy đồng ý) và đăng lên blog Nguyễn Xuân Diện để tất cả bạn đọc được tường.

Một lần nữa cháu chân thành xin lỗi đại biểu Trương Trọng Nghĩa vì đã làm bạn đọc hiểu lầm dẫn đến xúc phạm bác. Cháu xin lỗi chú Nguyễn Xuân Diện vì đã sai sót khiến chú bị liên đới trách nhiệm. Và cháu xin lỗi toàn thể bạn đọc blog Nguyễn Xuân Diện vì đã chuyển đến mọi người 1 thông tin sai lệch.

Cháu xin chân thành cảm ơn.
Cháu
Một Người Việt Nam

TỪ LIÊN HOAN CA TRÙ TOÀN QUỐC, NGHĨ VỀ HIỆN TRẠNG VÀ KỲ VỌNG

Từ liên hoan Ca trù toàn quốc nghĩ về hiện trạng và kỳ vọng
Phạm Quỳnh Hương
Vừa rồi nghe thông tin về Liên hoan ca trù được tổ chức tại Viện Âm nhạc, tôi đã đến để được nghe và tìm hiểu thêm về ca trù. Xin có đôi dòng cảm nhận về ca trù của thời buổi hiện đại. 
. 
Hát Ca trù. Tranh sơn dầu Phạm Công Thành (2005)
Di sản, sức sống bất diệt
Sự phát triển, xâm nhập mọi mặt đời sống
Ca trù đã từng được ca ngợi trong quá khứ như là “một lối chơi tao nhã, lịch lãm, trong đó văn chương, âm nhạc hoà quyện làm một, tạo nên một vẻ đẹp hoang sơ mộc mạc mà khúc triết tinh tế, dân gian mà bác học, thực mà ảo huyền vi diệu. Ca trù sinh ra trong cái nôi của văn hoá dân gian, lớn lên trong nguồn mạch bất tận ấy và mang trong mình diện mạo của bản sắc văn hóa Việt Nam. Ca trù trở thành một bộ môn nghệ thuật bác học vào bậc nhất của nền âm nhạc cổ truyền Việt Nam”. Theo các nhà nghiên cứu, ca trù được diễn xướng tại rất nhiều không gian. Từ đình miếu, đền đài thâm nghiêm đến các ca quán, và nơi gia đình. Ngay cả nơi giáo đường thênh thang uy nghiêm, các con chiên cũng hát ca trù để ca ngợi Chúa. Trong dân gian, diễn xướng ca trù thể hiện trong rất nhiều sinh hoạt đời sống như ca trù trình diễn tại gia mỗi khi có khao vọng, “cho dù là khao thọ, khao thi đỗ, khao được thăng chức, hay khai trương cửa hiệu, hoặc mừng đón nhau về hoặc mừng tiễn nhau đi.  Rồi những khi thư thả việc công, những lúc buồn vui, người ta lại đến các ca quán để thưởng thức ca trù. 

Một thời hoa dập, liễu vùi
Trước đây, có lẽ từ sau năm 1945, trong một thời gian khá dài sinh hoạt ca trù vốn tao nhã trước đây đã bị hiểu lầm và đánh đồng với các sinh hoạt thiếu lành mạnh ở một số ca quán đô thị, và ca trù đã bị loại ra khỏi đời sống văn hóa. Suốt trong thời gian dài, ca trù đã không được phát triển một cách tự nhiên, phải chịu phê  phán, và điều tiếng. Nhiều nghệ nhân, nghệ sĩ đã phải cố quên đi nghiệp đàn hát và giấu đi lai lịch của mình. Ca trù đã gần như đi vào khúc lụi tàn. Khoảng chục năm trở lại đây, ca trù đang tìm lại cho mình một chỗ đứng trong đời sống văn hóa phong phú đa dạng hôm nay. Và như vậy, sau sáu bảy mươi năm vắng bóng, ca trù lại bắt đầu hồi sinh.

Ca quán Khâm Thiên. Tranh sơn dầu Chu Mạnh Chấn
Trải qua nhiều sóng gió, dập vùi, mà ca trù vẫn tồn tại. Điều đó càng thể hiện giá trị, và vai trò của ca trù đối với đời sống xã hội. Những chính giá trị văn hóa tạo ra sức sống của ca trù. Bà Quách Thị Hồ kể rằng: Hồi trước có mấy ông lãnh đạo văn hóa nói thẳng vào mặt tôi rằng: "Cái nghề ca trù của bà chỉ phục vụ bọn thực dân phong kiến, cái cây đã chết, cho nó chết, lấy đâu hoa mà nở". Lúc đó tôi cười: "Rồi xem, hoa có nở không?". Bà Quách Thị Hồ kể lại: Người ta đã vục mặt chúng tôi xuống bùn. Tại sao vậy, thưa bà? Có lẽ người ta hiểu lầm hát ca trù - cô đầu - ả đào ở Khâm Thiên, ở Vạn Thái, ở Bạch Mai là loại “hát ôm”, đĩ điếm và họ thấy quan lại thường đến ăn chơi ở đó nên cho là văn hóa… đồ trụy.  Sự hồi sinh của ca trù chính là bằng chứng cho thấy giá trị được thẩm định qua thời gian, với sức sống bền bỉ vượt qua bao thăng trầm. Giá trị văn hóa đó sẽ khẳng định được vị trí của ca trù trong xã hội hiện đại. 

Hiện trạng
Sự quan tâm trở lại của nhà nước, các CLB hay là sự kinh doanh méo mó
Những đầu tư, quan tâm của nhà nước quản lý nhà nước với sự đầu tư, bao cấp, tạo nên sự bùng phát của ca trù trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, cũng tạo ra một kiểu ca trù “mậu dịch” cùng các liên hoan toàn quốc đi cùng với bệnh thành tích. Những người trong nghề. Và những nhà nghiên cứu văn hóa đã nói về một hiện thức rằng nhiều đào nương, kép đàn chỉ biết một hai thể cách, đi hát được huy chương tại liên hoan, nhưng thực tế hát chưa đúng giai điệu, phách còn sai lạc. Có người được ca ngợi, đánh giá cao, nhưng vẫn chưa thể hiện được cái chất  ca trù. Nhìn chung, phong trào rầm rộ, phát triển, nhưng chất lượng vẫn bị các nhà chuyên môn, và những người trong nghề cho rằng vẫn còn quá non. Câu hỏi của GS. Nguyễn Văn Huy khi nói về văn hóa cồng chiêng, ta cũng có thể đặt câu hỏi tương tự cho ca trù: đầu tư của nhà nước như vậy đã đúng hướng chưa? Nhiều liên hoan các cấp rất hoành tráng, nhưng cộng đồng người hoạt động ca trù được lợi gì?

Song song với việc đầu tư của nhà nước là việc chạy theo kinh doanh, lợi nhuận của các các ca nương, và các CLB. Nó tạo ra sự bùng phát, nhưng cũng tạo nên sự méo mó. Theo các nhà chuyên môn, nhiều ca nương, hoặc thậm chí ca sĩ, nghệ sỹ chèo, cải lương coi Ca trù là một “món ăn” lạ, là một “mốt” để theo họ theo học với thời gian “siêu tốc”. Kết quả là công chúng phải thưởng thức một ca trù chưa thật là ca trù, hoặc lai căng hoặc thậm chí là biến dạng và méo mó. Do tác động của thị trường, nhiều ca nương chỉ nhằm vào việc nhanh thuộc lời và giai điệu, chứ chẳng mấy quan tâm đến ý nghĩa nội dung bài hát, và nguồn gốc xuất xứ. Còn nói đến không gian hát ca trù, hoặc cách lấy hơi nhả chữ thì lại càng không phải là điều đáng quan tâm. Tâm lý ăn sổi thể hiện rất rõ: “Bây giờ thời đại @, chúng tôi bỏ ra vài năm học ca trù để... chết già à?”. Ngay chính nghệ nhân Quách Thị Hồ cũng đã nói về sự học nghề của ca nương thời nay: Này, cậu hỏi tôi sao không truyền nghề ca trù à? Ai mà học? - Thưa bà, có một số ca sĩ nói rằng họ là học trò của bà. - Tôi muốn họ quên tôi đi. Xấu hổ lắm! Bởi mấy anh chị ấy đến tôi chỉ xin học vẹt, học lỏm từng bài, để mà đi khoe, đi diễn, rằng ta hát ca trù, chứ có ai muốn học nghề, học đến nơi đến chốn đâu? Mà học làm gì?

Người trong nghề cũng nhận thấy rằng không chỉ ca nương chạy theo những hợp đồng ở nhà hàng, tiệc cưới hay chương trình nghệ thuật tạp kỹ mà các câu lạc bộ cũng chạy theo thị trường để làm sao vừa có danh vừa có lợi. Họ chạy theo các sô béo bở, nếu nhận được hợp đồng biểu diễn sẽ gọi người đến đàn hát. Điều này cũng làm cho tính nghệ thuật, chất lượng ca trù giảm đi, hoặc biến dạng.

Các chuyên gia cho rằng trong giai đoạn này chưa thể yêu cầu các nghệ nhân, các đào nương tự kiếm sống để truyền nghề, mà cần sự hỗ trợ để họ tổ chức hoạt động và cũng cần có thời gian để tạo ra những khán giả cho loại nghệ thuật này. Để giải bài toán kinh phí cho hoạt động ca trù, đồng thời làm giảm tác động của kinh tế thị trường, GS Nguyễn Văn Huy đã đưa ra một gợi ý. Các quỹ hỗ trợ văn hóa, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp và những nhà hảo tâm có thể đóng vai trò hỗ trợ mà GS Huy gọi là “bà đỡ” cho nghệ thuật ca trù. Nhà nước có thể có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp tài trợ cho văn hóa, chẳng hạn họ sẽ được miễn giảm thuế một chút. Ở các nước Âu - Mỹ đã có nhiều kinh nghiệm, cũng như có nhiều nghiên cứu về những hoạt động tài trợ văn hóa như thế này. Như vậy, tăng cường vai trò của các doanh nghiệp, các nhà hảo tâm đối với hoạt động văn hóa là điều cần khuyến khích hiện nay, đặc biệt đối với ca trù.

Chắc chắn, đến một lúc nào đó, điều kiện kinh tế-xã hội phát triển hơn, ca trù sẽ lại tự sống được bằng chính giá trị nghệ thuật của mình. Còn hiện trạng hiện nay sẽ khiến cho ta nhớ đến một câu của đào nương xưa: “Nào những ông nghè ông cống ở đâu /để cho ông lão móm ngồi câu con trạch vàng”. 

Tác động của ngắt quãng về nghề
Sau khi ca trù được UNESCO ghi danh, đã được quốc tế biết đến và nhiều người quan tâm. Các câu lạc bộ, nhóm ca trù đua nhau thành lập. Nhiều người trẻ muốn tham gia học đàn hát. Đó cũng là một tín hiệu đáng mừng. Tuy nhiên, do có sự đứt quãng trong truyền nghề nên hiện nay có tình trạng các nghệ nhân thế hệ trước phần lớn tuổi đã quá cao, sức khỏe yếu nên thời gian dạy trực tiếp cho ca nương trẻ cũng rất ít, trong khi đó các ca nương trẻ thì lại còn rất non yếu trong nghề. Thêm vào đó số lượng thầy dạy còn khá ít, nên việc truyền nghề bị hạn chế. Kết quả là thay vì học trực tiếp từ ca nương, nhiều người đã phải học qua băng đĩa.

Ngoài chuyện thiếu thày, thiếu trò, một thực tế ở hầu hết các địa phương là sự hiểu biết, nhận thức của cán bộ văn hóa còn hạn chế. Dẫn đến gắn, ghép, ca trù với các loại hình dân ca khác. Hoặc thay vì dùng đàn đáy trong ca trù, những nhạc cụ khác như đàn nguyệt, đàn bầu cũng được đem ra sử dụng.

Một khó khăn nữa vẫn được những người trong nghề ca trù nhắc đến, đó là không gian biểu diễn của ca trù đang mất dần đi. Có ý kiến cho rằng chúng ta đang biến ca trù thành một thứ ca múa nhạc khác hẳn với không gian văn hoá sinh ra những bài hát ấy. Ông Nguyễn Quảng Tuân nói: “Ca trù là thú vui tao nhã, trong không gian thính phòng. Không gian thính phòng mà đem ra ngoài sân khấu, đem ra ngoài Văn Miếu thì không phải rồi. Nếu đem ra đại chúng, ra sân khấu ồn ào mà diễn thì không có được”.  Tuy nhiên, mọi loại hình văn hóa nghệ thuật đều nhằm mục đích phục vụ nhu cầu thưởng thức văn hóa của con người. Mà xã hội con người luôn biến đổi. Vì vậy, bên cạnh việc khôi phục lại một số những không gian diễn xướng cổ, ca trù cũng cần có không gian mới của nó cho những con người hiện đại.

Không chỉ không có thày, không có sàn diễn mà người học nghề hiện nay còn phải học nghề trong tình trạng môi trường xã hội của nghề lại không có. Điều này giống như ăn phở ở nước ngoài. Chính môi trường xã hội của ca trù là cái tạo cho người nghệ sỹ có cảm nhận về cái hồn của ca trù. Và cái môi trường đó mới giúp cho hồn ca trù thấm vào trong máu của người nghệ sỹ, và người nghe. Nếu không sẽ chỉ là ăn phở ở Cali, Hongkong hay đâu đó, chứ không thể có cái chất phở như Nguyễn Tuân đã tả. 

Kỳ vọng
Trong khi nhiều ý kiến đánh giá của các chuyên gia cho thấy liên hoan ca trù đã thể hiện những bước tiến rõ ràng trong thời gian vừa qua, nhiều người trong nghề vẫn chưa ai thấy hài lòng. Quả thực đó là sự kỳ vọng. Kỳ vọng so với quá khứ huy hoàng. Trước thực tế ca trù bị chèn ép, bị ngắt quãng về thế hệ trong một thời gian dài, nay thực trạng không còn gì nhiều, thì kỳ vọng của những người trong cuộc, dường như là một dạng sức ép đối với thế hệ trẻ.

Đã có đào nương có cách nhìn thực tế hơn khi phần nào giảm bớt yêu cầu của mình, bớt khắt khe đi...

Kinh doanh trong thời buổi thị trường: Từ mọi phía, cả nhà quản lý, cả CLB, cả người biểu diễn đều nhìn ca trù như là một nghề kiếm tiền, chứ chưa nhìn đó như là một loại hình nghệ thuật độc lập, có sức hút, có sức sống riêng. Mặc dù có nơi ca trù được coi là “đặc sản” nhằm thu hút du lịch cho địa phương, ca trù hiện nay vẫn đang ở mức được đầu tư kinh phí, CLB bỏ tiền ra để vận động thanh niên theo học, chứ chưa thể nói là có lượng người đam mê theo đuổi nghệ thuật. Mọi người vẫn nghĩ phục hồi nó dựa vào sự nuôi dưỡng từ bên ngoài, mà chưa nhận thấy cần tìm cách để tiếp sức, để nó tự sống bằng sức sống của chính nó. 

Đời sống riêng cho ca trù
Nuôi dưỡng sức sống ca trù
Để có thể tồn tại, và phát triển, hay nói cách khác để có sức sống vươn lên trong môi trường xã hội hiện đại vốn tồn tại rất nhiều loại hình ca nhạc, và giải trí, ca trù cần có những điều kiện nhất định.

Trước hết, ca trù phải đáp ứng nhu cầu của một những nhóm xã hội nhất định. Nếu không ai có nhu cầu thì ca trù sẽ chết. Cái mà ca trù có thể đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại đó là xả xì trét, thư giãn tinh thần. Ca trù vốn được coi là tao nhã, và bác học, vì vậy nó gắn với một tầng lớp xã hội có học vấn, có văn hóa nhất định chứ ko thể là đại chúng. Đây là đặc điểm khiến ca trù tồn tại, nhưng đó cũng chính là cái khó nếu muốn phát triển mở rộng ca trù. Mỗi loại hình văn hóa, nghệ thuật tồn tại được là bởi chính nó có sức hút, chính nó đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của các tầng lớp dân cư. Khi nó còn đáp ứng nhu cầu, khi người dân còn cần đến nó thì nó còn có sức sống.

Thứ hai, khi nhìn thấy xã hội có nhu cầu rồi, thì cũng giống như những loại sản phẩm khác muốn biết đến và sử dụng “sản phẩm” ca trù cần có bước giới thiệu sản phẩm. Ngày xưa, người dân tiếp xúc với ca trù từ khi còn bé. Các cụ ngày xưa khi lớn lên trong môi trường xã hội của ca trù thì con người đương nhiên có được những hiểu biết, khả năng cảm nhận, và thưởng thức ca trù. Còn ngày nay, do đã bị đứt đoạn, chắc chắn phải có giai đoạn “giới thiệu lại sản phẩm”. Thêm vào đó, nghệ thuật ca trù vốn được coi thuộc "đẳng cấp" chuyên nghiệp, không phải ai cũng thấu hiểu. Đặc tính của ca trù có một lượng công chúng có chọn lọc theo niềm đam mê chứ không phải quá đông đảo. Vì vậy, ông Nguyễn Văn Huy cho rằng cái khó của ca trù là phải giới thiệu để nhiều người biết, đến nghe  và giúp họ hiểu hơn về nghệ thuật ca trù. Hay nói cách khác, những chương trình truyền thông nâng cao nhận thức, nâng cao khả năng cảm nhận, thưởng thức ca trù sẽ giúp cho mọi người trong xã hội đến gần hơn với ca trù. Ông Nguyễn Quảng Tuân nói: “Cái khó của thưởng thức ca trù là lời của nó thì nhiều người không hiểu. Nghe ca trù là đi thưởng văn. Bây giờ người ta chỉ đang làm cho mọi người thấy ca trù là thế nào. Thế thôi. Chứ không phải là thưởng thức ca trù.” Nhằm quảng bá ca trù, ông Tô Ngọc Thanh gợi ý: các nhà nghiên cứu có thể nói về nhịp phách, về cách “đổ hột” của đào nương”. Tuy nhiên, để ca trù có thể đi vào đời sống của nhiều tầng lớp xã hội khác nhau thì cần nhiều loại hình hoạt động quảng bá khác nhau, chứ chắc không chỉ cần có truyền hình. Cách kết hợp trình diễn, với bình và giảng sẽ giúp người nghe hiểu, và cảm thụ ca trù tốt hơn. Các nhà nghiên cứu, các nhà văn hóa, có thể tham gia trực tiếp vào việc bình giảng, phân tích nét hay, đẹp, tao nhã của ca trù giúp cho người nghe hiểu và cảm thụ được giá trị của cả lời thơ, và giai điệu, cùng với cách biểu diễn của ca nương và kép đàn.

Thứ ba, để nuôi dưỡng ca trù, cần có sự quan tâm và các chính sách của nhà nước, tuy nhiên đó là điều cần thiết quan trọng, chứ nuôi dưỡng ca trù bằng sự quản lý nhà nước thì chắc chắn không đem lại hiệu quả, mà ngược lại sẽ làm ức chế sức sống nội tại của nó. 

Sự đa dạng trong  thể thức và trong sáng tạo
Ca trù, trên thực tế có rất nhiều thể loại trình diễn, theo cách nói trong nghề là “thể cách”. Theo TS. Nguyễn Xuân Diện có nhiều thể thức hát ca trù, chẳng hạn như: Giáo cổ (giáo trống), Thư cách, Hát nam, Thư phòng, Hát giai, Tiến chức, Thăng quan, Nhạc hương, Thét nhạc, Hà nam, Độc phú, Ngâm vọng, Bắc phản, Hát mưỡu, Hát nói, Cung bắc, Dồn đại thạch, Hãm, Dựng, Huỳnh, Bỏ bộ, Dồn dựng…. Sự đa dang về thể cách này thể hiện sự đa dạng của trình diễn, và sự đa dạng của người nghe. Điều này có nghĩa là ca trù sẽ không chỉ có khán giả ở một tầng lớp xã hội mà sẽ từ nhiều tầng lớp khác nhau. Sẽ có các thể thức ca trù khác nhau cho các đối tượng khác nhau về giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp, văn hóa, lối sống…

Những hoạt động chạy sô, hay kinh doanh của các ca sỹ, CLB là một thực tế mà ta phải thừa nhận. Xét trên một góc độ nào đó, những hoạt động này cũng có tác dụng quảng bá cho ca trù. Cho dù đó là sự quảng bá đem lại sự hiểu sai lệch về ca trù. Tuy nhiên, trong xã hội luôn tồn tại những người biết thưởng thức, hiểu được giá trị nghệ thuật. Bắt đầu từ những tiếp xúc với ca trù đại trà đó, những người biết thưởng thức chắc chắn sẽ tìm đến với ca trù nghệ thuật cao, nếu loại này có tồn tại. Vấn đề là giống như trong một vườn hoa, rừng hoa đua nở, khoe sắc, thế nào người chơi, người thưởng thức cũng sẽ tôn vinh được vẻ đẹp đích thực mà không sợ rằng những xô bồ sẽ che lấp vẻ đẹp đích thực. Đây chính là ý nghĩa của “ngọc càng mài càng sáng”. 

Đình, quán - không gian thính phòng, và…
Sự đa dang về thể thức ca trù có nghĩa là đa dạng về không gian biểu diễn. Những thể thức khác nhau có những không gian diễn xướng khác nhau. Có lẽ đây chính là một lợi thế để ca trù có thể “sống” trong đời sống đa dạng của xã hội hiện đại.

Giống như các loại hình truyền thống khác, bối cảnh môi trường diễn xướng truyền thống của ca trù đã không còn. Để tồn tại trong thời @, ca trù cần có những không gian diễn xướng theo kiểu @. Ca trù cần tự làm mới mình trong thời hiện đại. Để ca trù có đời sống riêng của nó, hơn thế nữa nó phát triển và tỏa hương thì nó cần mang hơi thở của thời đại. Bởi vì nó đáp ứng nhu cầu của con người hiện đại, với những cảm xúc, cảm nhận hiện đại. Nói như học giả Nguyễn Quảng Tuân “những lời hát phải là nửa cổ và nửa kim. Chứ cứ hát những bài cổ quá thì nó không thích hợp nữa. phải làm sao cho nó có tính thời cuộc”. Nguyễn Quảng Tuân đề xuất hướng cho ca trù: “Phải khuyến khích những người hát, những người đàn, những người cầm chầu. Và khuyến khích những người viết ra những lời hát sao cho nó đúng với nhu cầu của thời cuộc. Với lời mới, điệu cũ, người nghe người ta hiểu được. Chứ em bé 8 tuổi hát Hồng Hồng, Tuyết Tuyết thì nó có hiểu gì đâu. Nó không hợp.”

Người xưa đã sáng tạo ra ca trù. Ca trù đã cống hiến cho đời trải mấy trăm năm. Di sản đó là sức sống cho ca trù hiện tại. Ngày nay để ca trù có đời sống riêng của nó thì nó cần được nuôi dưỡng bằng chính những con người hiện tại, đáp ứng nhu cầu của con người hiện tại. Chính những con người hiện đại sẽ khai thác những thể thức truyền thống và không gian diễn xướng truyền thống để sáng tạo ra ca trù thời hiện đại. Người xưa đã cho ca trù một đời sống, có thăng, có trầm. Chính con người hiện đại sẽ lại tiếp tục nuôi dưỡng, tái hiện ca trù. Ca trù cống hiến cho con người, và con người sẽ sáng tạo ra ca trù theo cách hiện đại. đấy mới chính là ca trù hiện đại. đó mới chính là ca trù đang sống, chứ không phải là ăn mày dĩ vãng.

Ông Nguyễn Quảng Tuân nói: “bây giờ bảo là biểu diễn thu vé là không được. Phải làm sao cho các gia đình khá giả, những người thích văn chương, mời người diễn đến biểu diễn ở tư gia, rồi khách nghe cầm chầu để thưởng thức.”
* * * 

Tự cổ sầu chung kiếp xướng ca
Mênh mông trời đất vẫn không nhà
Người ơi mưa đấy ? Hay sênh phách
Tay yếu gieo lòng xuống chiếu hoa.
Thôi khóc chi ai kiếp đọa đầy
Tỳ bà tâm sự rót nhau say
Thơ ta gửi tặng người ngâm nhé
Cho vút giọng sầu tan bóng mây. 

Bài này thi sĩ Trần Huyền Trân tặng bà Quách Thị Hồ khi bà tròn 30 tuổi. Đó có lẽ là thời hoàng kim của ca trù. Nhưng cũng chính là thời mà ca trù bị chen lẫn với loại “ca ôm”.

Và đó cũng là một nguyên nhân khiến ca trù bị vùi dập. Hy vọng ca trù sẽ trở lại được với sự cao sang, trong trẻo khi mà ca nương tài hoa và khách văn tao nhã cùng cống hiến cho đời những giai điệu nhân văn.
Hà Nội tháng 11/2011
*Bài viết do nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh Hương, Viện xã hội học (Viện khoa học xã hội Việt Nam) gửi trực tiếp cho NXD-Blog. Xin chân thành cảm ơn tác giả!

TRẦN MẠNH HẢO: NGUYỄN KHUYẾN "NẰM CHUNG VỚI KHÓI MÂY"

Nguyễn Khuyến "nằm chung với khói mây"
Trần Mạnh Hảo

Sách giáo khoa Văn trung học từng dạy học sinh cả nước: “Mấy chùm trước dậu hoa năm ngoái” – Hoa đã nở từ năm ngoái khô đi và còn lại đến bây giờ. Như thế khác nào bảo nhà thơ ngồi ngắm hoa khô. Không, Nguyễn Khuyến ngồi lẫn giữa trăng suông rượu lạt, lẫn trong hoa tươi, tre trúc, rơm rạ, ao chuôm, lẫn trong ếch nhái, đom đóm cùng thuyền thúng, lá thu rơi để trào lộng chua cay thời thế đảo điên, đoạn rút vào thui thủi, lẳng lặng cô đơn, cô độc, đêm đêm tự mài hồn mình thành máu mực đề thơ mà nhớ nước.

Như thể nước lụt Hà Nam đã hóa giặc Lang Sa cuốn đi tất cả, chỉ mình ông sót lại cùng vài người bạn bơ vơ :" Nước non man mác về đâu tá / Bè bạn lơ thơ sót mấy người / Đời loạn đi về như hạc độc / Tuổi già hình dáng tựa mây côi "(Cảm hứng). Có thể nói, Nguyễn Khuyến là bậc đại nho cuối cùng trăn trở tìm mùa thu ở ẩn, là con hạc thi ca cuối cùng của thời đại phong kiến Việt Nam còn giữ được cốt cách và tinh thần hạc vàng Thôi Hiệu, đã một mình lặng lẽ bay qua thế kỷ thứ XIX buồn đau, u uất, đặng tìm chỗ đậu trong 9 năm đầu của thế kỷ thứ XX, rồi đột ngột bay vào hư vô dịp tết âm lịch đầu năm 1909 khi vừa tròn 74 tuổi hạc. Thân phận "hạc độc" của Nguyễn Khuyến quả là cô đơn đến tột cùng, u uất, lủi thủi tới tận cùng thi tứ.

Vòm trời xưa của hoàng hạc thanh cao, tinh khiết là thế, nay diều quạ đen trời si sô đến cướp mất, nên :"Nước non man mác về đâu tá" và hồn thơ chừng cũng mất nẻo đi về. Con hạc này bị thời đại bỏ rơi, tưởng không còn một chỗ đậu trên chính quê hương mình. "Hạc độc" đành hóa đám "mây côi" mà lơ lửng như chính hồn thơ Nguyễn Khuyến còn lửng lơ bao nỗi niềm khôn khuây trên vòm trời văn học Việt Nam thuở nước nhà bị mất vào tay giặc Tây dương.

Chao ôi, hơn một trăm năm trước, cả đám mây trong mắt thi hào cũng phải mồ côi vòm trời, như nhà nho mồ côi vua, dân mồ côi nước. Tinh thần " hạc độc" với " mây côi" bàng bạc, xuyên suốt thời đại và cuộc đời Nguyễn Khuyến, thành một phần tư tưởng, tình cảm thẩm mỹ của hồn thơ ông.

Những bài thơ tả cảnh quê hương Việt Nam hay nhất, đẹp nhất của ông cũng là cốt tả cái hay, cái đẹp của lẻ loi, cô quạnh, se sẽ đẹp, trong veo và xa vắng đẹp đến vô cùng khuất nẻo bơ vơ :"Tiếng sáo vo ve chiều nước vọng / Chiếc thuyền len lỏi bóng trăng trôi". Hồn thơ Nguyễn Khuyến chính là "Tiếng sáo vo ve" bên trời "nước vọng", là "bóng trăng trôi"dưới dòng lũ vô tình cuộn xiết, hóa chiếc thuyền thơ cô độc len lỏi trên thi đàn Việt Nam thuở cơn lụt lội nhân tình thế thái ngập tràn xứ sở.

Ngay trong hai câu thơ hay đến sững sờ tả cảnh đẹp hun hút, đẹp rờn rợn nổi gai ốc của nước lụt Hà Nam này, Nguyễn Khuyến cũng chỉ cốt mượn nước lụt mà gọi hồn nước về trong từ "nước vọng" để : "Sửa sang việc nước cho yên ổn"... Tâm thức "nước", "nước non", "đất nước"... có thể nói là tâm thức chủ đạo của Nguyễn Khuyến trong cả thơ nôm và thơ chữ Hán; tuy ở đây chúng tôi chỉ mới khảo sát qua thơ nôm của ông mà thôi.

Trong bài thơ "Tự trào", Nguyễn Khuyến nói thẳng ra điều cốt lõi nhất, đau đớn nhất của ông là nỗi nhục, nỗi đau vong quốc, thông qua nghĩa đen của cuộc chơi cờ :"Cờ đương giở cuộc không còn nước".Vì "Không còn nước " nên vua cũng không còn thực nữa, chỉ là vua hề, chỉ là quan phường chèo thôi :" Vua chèo còn chẳng ra gì / Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề "( Lời vợ anh phường chèo).

Một vị túc nho lấy trung quân ái quốc làm đầu, phải tự tìm nhọ nồi, muội đèn, tro trấu mà bôi trát lên mặt vua quan thành trò hề như thế, với Nguyễn Khuyến hẳn là nỗi đau lớn nhất trong đời? Vì "Không còn nước" nên sau hơn 12 năm làm quan tới chức Tổng đốc Sơn Tây, lúc vua Tự Đức mất và vua Hàm Nghi ra chiếu cần vương chống Pháp, nhà thơ mượn cớ mắt lòa cáo quan về ẩn dật cùng cà thâm dưa khú.

Ông buồn lặng hóa "mây côi", hóa "hạc độc", hóa thành " hoa năm ngoái", thành "ngỗng nước nào", thành con cuốc gọi hồn nước năm canh, thậm chí hoá thân vào mẹ Mốc, vào gái góa, vào anh giả mù, giả câm giả điếc, thậm chí giả điên kiểu Sở cuồng, làm thơ đả kích giặc và tay sai, như một cách yêu nước kháng Pháp của riêng mình...

Nguyễn Khuyến đau đớn nhận ra hoa nở ngoài giậu thu cũng không còn là hoa hôm nay của mình nữa, ngỗng kêu trên bầu trời quê hương dĩ nhiên là ngỗng nước mình, chứ sao lại là ngỗng nước nào:" Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái / Một tiếng trên không ngỗng nước nào" ?( Thu vịnh). Khi "Không còn nước" nữa thì con ngỗng kia cũng thành vong quốc, vong thân, thành "ngỗng nước nào"thôi. Phải chăng ngỗng ấy cũng là ngỗng từ năm ngoái, ngỗng của mình xưa mà không dám nhận, mà phải đau đớn than là "ngỗng nước nào"? Rằng người không còn giữ được nước thì bay về làm gì ngỗng ơi?

Nhà thơ tủi hổ với cả ngỗng trên trời và hoa dưới đất, muốn làm con cá lặn khuất dưới ao bèo, ngại cả nỗi cắn câu. Đất đã mất thì trời phỏng còn ư, mùa thu phỏng còn ư?

Hoa ấy, ngỗng ấy cũng là Nguyễn Khuyến; như "mây côi" và "hạc độc" kia còn bị vong thân, vong quốc huống nữa là trời đất, con người! 


 Chúng tôi cho rằng, dù viết về phong cảnh mùa thu nông thôn , dù nới rộng đề tài ra từ bản thân mình đến xã hội, từ chim hoa, xóm mạc đến nước non... hồn thơ Nguyễn Khuyến bao giờ cũng toát lên một tinh thần yêu nước sâu xa, yêu nước trong đau đớn, tủi buồn, yêu một cách trầm lắng mà sôi sục, quặn thắt mà quan hoài, trào lộng mà trữ tình, kín đáo mà động vang, cô đơn mà hòa nhập, lạnh lùng mà bỏng cháy, dữ dội mà dịu êm.

Bút pháp nghệ thuật bậc thầy dùng thuỷ nói hỏa, dùng tĩnh tả động, dùng dương tả âm, dùng vật tả tâm, dùng cảnh ngụ tình và ngược lại của Nguyễn Khuyến đã khiến không ít người khi tiếp cận thi ca ông, mới đụng vỏ ngoài đã tưởng thấu vào gan ruột; ví như cách dạy văn rất phi văn học của nền giáo dục phổ thông và đại họcViệt Nam hôm nay hoàn toàn không hiểu nổi hồn thơ Nguyễn Khuyến . Ví như trường hợp ba bài thơ thu của thi hào là bài "Thu vịnh", "Thu điếu", "Thu ẩm" được coi là dấu hiệu thiên tài của nhà thơ nông thôn đệ nhất Việt Nam mà có người, ngay cả khi viết sách giáo khoa cũng chưa thẩm hết hồn thu Nguyễn Khuyến.

Họ nhìn bằng mắt thường nên ngỡ mặt ao thu bình lặng kia là đáy nước, nên bảo nhà thơ viết về mùa thu với tâm trạng thư thái, an nhàn(!) Rằng nhà thơ uống rượu say nhè như anh Chí Phèo say rượu lè nhè vậy...

Không, Nguyễn Khuyến chỉ hớp một tí rượu trong chén hạt mít lấy hứng, chứ không say lè nhè như ai hiểu. Dưới cảnh thu, ngồi nhấp chút rượu thu, câu cá thu, làm thơ thu, nhà thơ chỉ mượn bề mặt tĩnh lặng ao thu mà tả sự động vang sôi sục, quặn thắt, u uẩn, buồn thương nơi thẳm đáy lòng mình , đặng gọi hồn nước đã mất về thương hồn thu hiển hiện.

 Nói theo kiểu Apollinaire, Nguyễn Khuyến chừng cũng cảm thấy hồn thu đã chết, đã bỏ đi đâu như hoa kia ngỗng nọ, chỉ còn thân xác thu trong veo, cô quạnh, vắng ngắt, bàng bạc như con ve mùa hè nằm chết trong mùa thu sau khi đã hát rỗng cả ruột gan.

Tả lửa song Nguyễn Khuyến vẽ khói, tả nước mà nói thu, tả nỗi thẹn mình, tủi lây sang thu mà phải mượn tới ông Đào Tiềm đời Tấn. Cũng có thể gọi ba bài thơ thu của ông là tiếng chiêu hồn thu, chiêu hồn nước. Ngồi thưởng thu không chút thư nhàn, đau xót quá, cảm thương nước mất mà sao thu vẫn rưng rưng tìm về, nên nhà thơ không đừng lòng được, đành rơm rớm khóc :" Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe"? Đừng đổ oan cho Nguyễn Khuyến "mắt đỏ hoe" vì say rượu. Mùa thu trong ba bài thơ đẹp đến lạnh ngắt, đẹp đến tột cùng cô đơn, u tịch, phải chăng vì mùa thu chưa chiêu được hồn "hoa năm ngoái", chưa gọi được vía " ngỗng nước nào"...?

Cám cảnh thay nỗi " Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được" của nhà thơ; như thể ông là tù binh của cần câu, là tù binh của chính hồn mình đang ở đâu đâu trong trời đất mang mang thiên cổ lụy? Nguyễn Khuyến yêu nước lắm, thương nòi lắm, đau đớn nỗi đời quay quắt lắm, đành giấu kín tình yêu nước vào cảnh thu, ao thu, rượu thu như cá giấu dưới ao bèo. Thi thoảng, ta nghe một tiếng "Cá đâu đớp động dưới chân bèo", như nhà thơ ngầm an ủi mình rằng còn cá tức nhiên còn nước...

Vì vậy, Nguyễn Khuyến rút ruột hóa thân vào hồn Thục Đế xưa, thành con cuốc gọi hồn nước nay đến chảy máu cả đêm hè :" Năm canh máu chảy đêm hè vắng / Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ / Có phải tiếc xuân mà đứng gọi / Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ " ( Cuốc kêu cảm hứng ). Thương thay cho "Ngỗng nước nào" vẫn không chịu bay đi, còn kêu xé trời cao trong thảng thốt nỗi niềm dù mùa thu đã chết. Con ngỗng vong thân, gãy cánh, đáp xuống trang thơ mà hóa thành con cuốc Việt Nam chiêu hồn nước tới bây giờ. Bài thơ "Cuốc kêu cảm hứng" thật hay, thật đoạn trường, đọc xong muốn khóc.

Chúng ta thương và kính trọng Nguyễn Khuyến vô cùng. Ông đã nén cả một nhân cánh lớn, một hồn thơ lớn, một tri thức lớn, một nỗi đau lớn vào tiếng cuốc nhớ nước thảm thiết làm chảy máu cả tâm can người đọc hôm nay.Tinh thần hoài cổ, tinh thần "Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ " len lỏi vào mọi tâm sự, mọi vui buồn, thương giận, nhớ nhung của nhà thơ. Ngay cả khi vịnh ông phỗng đá với ngụ ý diễu mình, nhà thơ vẫn xót xa hỏi :" Non nước đầy vơi có biết không ?"Chính vì nỗi "non nước" khôn nguôi này làm ông tủi hổ, làm như lỗi tại mình mà nước mất nhà tan, nên mượn thơ mà cả thẹn :" Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già / Xuân về ngày loạn càng lơ láo ".

Một người tài cao, học rộng, thương xót, nương nhẹ từng cọng cỏ nhành hoa, một nhân cách lớn, khiêm cung tự tại, lại phải đưa mình ra mà diễu, mà tự cười cợt, bông phèng mình thì hẳn là phải đau đớn lắm, khổ tâm lắm :"Mở miệng nói ra gàn bát sách / Mềm môi chén mãi tít cung thang / Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ " hoặc :" Lúc hứng uống thêm dăm chén rượu / Khi buồn ngâm láo một câu thơ ". Một người thính nhạy như Nguyễn Khuyến từng biết nghe bằng hồn, bằng vía, chán nỗi đời đục mà giữ mình trong, đành ngụ mình, nương mình làm "Anh giả điếc ":" Trong thiên hạ có anh giả điếc / Khéo ngơ ngơ ngác ngác ngỡ là ngây" ...." Sáng một chốc lâu lâu rồi lại điếc".

Phải giả mù, giả câm, giả điếc để sống, mà vẫn sống được trong xã hội nhố nhăng nửa thực dân phong kiến thối nát, đảo điên kia, mới thương cho Nguyễn Khuyến phải ra tuồng trong chính thân phận mình:"Mua vui lắm lúc cười cười gượng / Giả dại nhiều khi nói nói bông". Ngẫm xưa mà ngán cho hôm nay, thiên hạ đang phấn khởi nhập bao nhiêu  vai tuồng, vai hề mua vui cho kẻ quyền quý kiếm chút cơm thừa canh cặn, vẫn không biết liêm sỉ ngượng ngùng, lại cứ dương dương tự đắc với vai hề văn nghệ múa may ?

Mượn sự điên dại của " Mẹ Mốc" tỏ bày tâm sự, Nguyễn Khuyến như tự xé quần áo tinh thần mình để phơi bày "hình hài gấm vóc" ra mà che mắt thế gian, những mong yên ổn :"Tấm hồng nhan đem bôi lấm xóa nhòa / Làm thế để cho qua mắt tục ". Mẹ Mốc ấy là tâm hồn vằng vặc muôn sau của Nguyễn Khuyến, sống trong thế giới của những "Đĩ cầu Nôm", "Tiến sĩ giấy", "Hội Tây"...vẫn không chút bợn nhơ :" Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết / Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ "...

Nhà thơ vô cùng căm ghét bọn cướp nước và bán nước. Ông dùng tài thơ trào phúng vừa hóm, sâu, vừa cay độc đến tận cùng mà váy hóa lá cờ tam tài của giặc trong tiếng cười thâm thuý :" Ba vuông phất phới cờ bay dọc / Một bức tung hoành váy xắn ngang". Hóa ra cái váy con đĩ của thời :" Vợ bợm, chồng quan, danh phận đó" đã được kéo lên thành cờ "ba vuông" phất phới, ngang dọc, làm bình phong che mặt tham quan ô lại đục nước béo cò.

Nguyễn Khuyến mang vũ khí trào lộng vạch mặt chúng bằng tiếng cười cay độc :" Có tiền việc ấy mà xong nhỉ / Đời trước làm quan cũng thế a ?" Phải sống trong thời " Đĩ mà có tàn, có tán, có hương án, có bàn độc " làm sao Nguyễn Khuyến không thẹn thùng, tủi hổ, xót xa cả hồn thơ, đành than trời :" Thử xem trời mãi thế này ư ?". Tìm mùa thu ẩn mình không yên ổn, núp vào mình cũng không xong, nhà thơ đôi khi phải trốn vào giấc mơ mà chơi trò đánh bùn sang ao bản thể, mà lẫn lộn bóng mình với bóng người, lấy hư làm thực bằng một câu thơ tuyệt hay, rất hiện đại :" Bóng người ta nghĩ bóng ta / Bóng ta, ta nghĩ hóa ra bóng người"( Bóng đè cô đầu).

Thơ nôm Nguyễn Khuyến hay cả ở thần lẫn ở thái, ở hình lẫn ở thể, ở hồn chữ dân gian, gợi cảm, mới lạ, hiếm thấy ví như :" Quyên đã gọi hè quang quác quác / Gà từng gáy sáng tẻ tè te ...Đôi gót phong trần vẫn khỏe khoe ", " Bán buôn gió chị với trăng dì"...Nguyễn Khuyến quả là thánh chữ khi dùng động từ "thập thò " trong câu thơ thần tình sau :"Một khóm thuỷ tiên dăm bảy cụm / Xanh xanh như sắp thập thò hoa".

 Câu thơ "sắp thập thò hoa" này mang đặc trưng nhất của phong cách Nguyễn Khuyến.

Từ đây, ta có thể thấy thi pháp " thập thò hoa" là thi pháp độc đáo kỳ khu của thơ ông: thập thò giữa tình và cảnh, giữa vật và tâm, âm và điệu, cảm và thức, thập thò giữa thực và hư... kiểu "hoa năm ngoái" và "ngỗng nước nào"... Nguyễn Khuyến mượn cảnh đẹp nông thôn mà yêu nước Việt, một tình yêu buồn thương u uất được thể hiện bằng nghệ thuật trữ tình trào phúng của thơ bậc thầy. Ông chính là ngọn Đọi sơn của thi ca Việt Nam, nơi nhà thơ từng viết: " Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá / Sư cụ nằm chung với khói mây".

Không, chính là hồn thơ Nguyễn Khuyến vẫn "nằm chung với khói mây" trên đỉnh trời thi ca dân tộc. Thắp nén hương ngày tết tưởng nhớ lần giỗ thứ hơn trăm của Nguyễn Khuyến, cũng là dịp cho ta đọc lại câu thơ hay nhất của thi hào mà giật mình trước tấm lòng trắc ẩn và tư tưởng sâu sắc của tiền nhân, đã có nhã ý mượn tóc gió mà dối lại cho đời sau câu hỏi nhức nhói khôn cùng của triết học nhân sinh :"Ngọn gió không nhường tóc bạc a ?".

 Vâng, ngọn gió thời gian, ngọn gió của quy luật muôn đời không nhường tóc bạc thời đại Nguyễn Khuyến đã đành; mà kể cả thời đại chúng ta, nó cũng không biết nhường ai cả. Dù là tóc bạc của thi ca, của thiên tài đi chăng nữa gió cũng chẳng nhường đâu; huống gì những nhí nhố thời cuộc đang băm bổ hô hét muôn năm rồi cũng bị cuốn theo chiều gió, sẽ tan biến đi như chưa hề tồn tại .,.

T.M.H
*Bài do nhà thơ Trần Mạnh Hảo gửi trực tiếp cho NXD-Blog. 
Chúng tôi có biên tập bỏ đi vài chữ, mong tác giả lượng thứ. Xin chân thành cảm ơn!