Thứ Tư, 31 tháng 8, 2011

CHỨNG TÍCH NGOẠI GIAO VIỆT - TRUNG THẾ KỶ XV

Chùm bài về Ngoại giao Việt - Trung:
Bài 1: Chứng tích ngoại giao Việt - Trung thế kỷ XV
Nguyễn Văn Nguyên

   
CUỘC ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO VỚI TRIỀU ĐÌNH NHÀ MINH ĐẦU THẾ KỶ XV
VÀ NHỮNG CHỨNG TÍCH CÒN LẠI

Nguyễn Văn Nguyên

Với ý đồ thống trị nước ta, triều đình phong kiến nhà Minh đã đem đội quân 80 vạn tên tiến sang đánh chiếm Giao Chỉ, gây ra cuộc chiến tranh xâm lược kéo dài suốt ba thập kỉ đầu của thế kỉ XV. Dã tâm chiếm đóng lâu dài của nhà Minh càng lộ rõ khi họ thiết lập ra hệ thống cai trị và tiến hành đàn áp dã man các cuộc kháng chiến của vua tôi nhà Hậu Trần và hàng loạt phong trào khởi nghĩa khác diễn ra sau đó, đặc biệt là đối với phong trào Lam Sơn. Ngay cả sau khi nghĩa quân Lam Sơn tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, tiêu diệt, làm tan rã toàn bộ hệ thống thành trì của giặc, rồi lại đánh tan hai đạo viện binh hùng mạnh của chúng, khiến Tổng binh Vương Thông phải chấp nhận điều kiện của ta, lập hội thề chấm dứt chiến tranh và mang quân rút về nước ngày 22 tháng 11 năm Đinh Mùi (1427), và thậm chí cả sau khi chiến tranh đã kết thúc, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, lập ra triều đại mới ngày 15 tháng 4 năm 1428, nhà Minh dường như vẫn chưa cam chịu thừa nhận thất bại. Bằng cách bám lấy quan điểm "hưng diệt kế tuyệt" - danh nghĩa đã được dùng để che đậy cho hành động xâm lược trước đây của họ, triều Minh vẫn tiếp tục âm mưu trì hoãn, phủ nhận sự tồn tại của triều Lê và nhà nước Đại Việt.

Nghĩa quân Lam Sơn không phải không sớm biết rõ sự ngoan cố và ý đồ này của địch. Chính vì thế ngay từ những ngày cuộc chiến đấu còn đang xảy ra quyết liệt trên chiến trường, các lãnh tụ khởi nghĩa Lam Sơn đã bắt đầu triển khai một mặt trận ngoại giao trực tiếp với triều đình nhà Minh nhằm tới mục đích là giành lại quyền độc lập tự chủ toàn vẹn cho đất nước. Cuộc đấu tranh trên mặt trận chính trị ngoại giao này được lãnh tụ Lê Lợi và người trực tiếp thực hiện là Nguyễn Trãi tiến hành từ năm 1426, kéo dài cho mãi đến năm 1437 mới giành được thắng lợi cuối cùng.

Khởi đầu của việc giao thiệp giữa nghĩa quân Lam Sơn với người Minh có thể là từ những biện pháp "tình thế" như việc sai bọn Lê Trăn đến chỗ quân Minh xin hòa vào tháng 12 năm Nhâm Dần (1422). Đó đang là thời kỳ khó khăn của những năm đầu khởi nghĩa. Cùng với sự lớn mạnh dần của nghĩa quân và sự tiến triển nhanh chóng của phong trào khởi nghĩa, việc giao thiệp với quân Minh được nâng lên thành một mặt trận đấu tranh chính trị phối hợp nhịp nhàng với các chiến dịch quân sự trong thế trận tổng hợp của cuộc chiến tranh nhân dân. Thông qua những bức thư địch vận do Nguyễn Trãi soạn thảo gửi cho các tướng lĩnh giặc Minh đang trực tiếp đánh nhau với ta trên chiến trường Giao Chỉ hiện còn lưu giữ lại trong tập Quân trung từ mệnh, chúng ta có thể thấy được các vị lãnh tụ Lam Sơn đã sử dụng thứ vũ khí đánh vào lòng địch này một cách tài tình dưới hai hình thức đấu tranh hòa đàm và dụ hàng, qua đó đã góp phần không nhỏ vào thành công của cuộc khởi nghĩa. Tư liệu trong sử sách cũng từng ghi nhận: "Các thành Nghệ An, Thuận Hóa, Tây Đô, Đông Đô đều sai văn thần Nguyễn Trãi viết thư, dụ bảo bọn giặc điều họa phúc, nên không cần đánh mà chúng phải đầu hàng"(1).

Nhưng đến giai đoạn cục diện chiến trường bắt đầu phát triển dần có lợi cho ta và khi đã có thể nhìn thấy khả năng chiến thắng đội quân xâm lược thì các lãnh tụ nghĩa quân cũng nhận ra rằng, để đạt tới thắng lợi toàn vẹn cuối cùng, chỉ bằng sức mạnh quân đội kết hợp với đấu tranh địch vận dường như là chưa đủ. Những bức thư của Nguyễn Trãi có thể dụ hàng được những viên tướng giặc như Trương Lân ở thành Điêu Diêu, Lưu Thanh ở thành Tam Giang, hay giải giáp được cả đại bản doanh địch ở thành Đông Quan do Vương Thông chỉ huy, thậm chí làm tan rã cả một cánh viện binh Vân Nam gồm 5 vạn tên của Mộc Thạnh... Nhưng vấn đề chấm dứt hẳn cuộc chiến tranh xâm lược của ngoại bang, giành lại và duy trì nền độc lập tự chủ lâu dài cho đất nước sẽ phải được quyết định từ triều đình phương Bắc. Vì thế, cuộc đấu tranh ngoại giao bắt đầu được triển khai với đối tượng là triều đình nhà Minh mà trực tiếp là các vua Minh Nhân Tông, Tuyên Tông và Anh Tông. Về phía triều đình nhà Minh, họ không phải dễ dàng chấp nhận ngay sự giao thiệp này, bởi cho đến trước khi thất bại hoàn toàn trên chiến trường (tháng 11 năm 1427), họ vẫn coi Lê Lợi và phong trào Lam Sơn là "làm loạn", là "giặc". Nhưng trong tình thế thất bại về mặt quân sự và trước sự đấu tranh chính trị kiên quyết nhưng khôn khéo của nghĩa quân đã khiến họ phải dần dần thay đổi thái độ. Tuy tạm thời chưa chịu công nhận phía ta như đại diện của một quốc gia độc lập, nhưng đã phải chấp nhận sự giao thiệp trực tiếp, và trong Minh sử kể từ năm 1428 trở đi đã phải coi người do phía ta cử sang giao thiệp là "sứ giả", đồng thời về phía họ, triều Minh cũng bắt đầu cử những viên quan có chức vụ trong triều như Tả thị lang, Hữu thị lang, Thượng thư, Hành nhân v.v. sang ta tiến hành trao đổi.

Mục đích của cuộc đấu tranh ngoại giao giữa nghĩa quân Lam Sơn với triều đình nhà Minh chính là nhằm xác định lại mối quan hệ giữa hai nước từng bị thay đổi sau cuộc chinh phạt của Minh Thành Tổ vào năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406).

Lịch sử nước ta đã từng trải qua một giai đoạn đen tối kéo dài hơn một nghìn một trăm năm dưới sự thống trị của phong kiến phương Bắc, đó là thời kỳ Bắc thuộc. Trong thời kỳ này, các triều đại phong kiến Trung Quốc từ đời Tần, Hán đến thời Ngũ đại chia nước ta thành hệ thống quận huyện và cắt đặt quan lại trực tiếp cai trị. Cho đến năm 939, sau ngày chiến thắng đội quân Nam Hán của Hoằng Thao trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền bắt đầu xưng Vương, đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục(2), kể từ thời gian đó trở đi nước ta mới chấm dứt thời kỳ lệ thuộc phương Bắc. Mặc dù trong thời kì lịch sử này, ta đã giành quyền tự chủ hoàn toàn trong việc điều hành đất nước; nhưng như một số nước khác cùng nằm trong khu vực lân cận với Trung Quốc mà thời cổ gọi chung là "Nam Hải 南 海"(3), các vương triều nước ta đều phải chịu ảnh hưởng nặng nề của khái niệm thống trị "Tông - Phiên 宗 籓", trong quan hệ giữa họ với đế quốc Trung Hoa.

Đây là một khái niệm có quan hệ chặt chẽ với quan niệm của Trung Quốc cổ đại về một Thiên triều ở trung tâm thống trị "tứ di". Khái niệm thống trị này đã xuất hiện ở Trung Quốc rất sớm. Sau các cuộc chiến tranh thôn tính lẫn nhau giữa các bộ lạc, nhà Hạ xuất hiện và đã trở thành bá chủ chung của các bộ lạc lân cận khác. Từ đó về sau hình thành bức tranh về một vương triều ở trung tâm và bốn bộ tộc Di, Man, Nhung, Địch ở xung quanh hướng về thần phục. Cùng với sự phát triển và biến đổi của các giai đoạn lịch sử, sơ đồ này được bổ sung cụ thể và hoàn thiện dần. Các nhà nghiên cứu đã căn cứ vào tư liệu về mối quan hệ xa gần và sự thần phục, cống nạp của các bộ tộc, chư hầu đối với vương triều để lập ra các sơ đồ "Ngũ phục 五 服" của các vương triều vua Nghiêu và vua Vũ, trong đó tính từ Vương kì (kinh đô của Vương triều) ở trung tâm và một vùng rộng 5000 dặm bao quanh (gọi là Điện 甸) thuộc quyền quản lý của Vương triều trở ra, cứ cách 500 dặm là thuộc về một khu vực, được xếp theo thứ tự của mối quan hệ với Vương triều từ chặt chẽ đến nới lỏng dần, lần lượt gọi là Hầu 侯, Tuy 綏, Yếu 要, Hoang 荒, Trưởng 長. Đến thời nhà Chu, sơ đồ được phát triển thành "Cửu phục 九 服", gồm một Vương kì 王 圻 ở trung tâm và 9 khu vực phụ thuộc ở xung quanh chia thành thứ hạng tùy theo quan hệ của họ với vương triều, lần lượt là Hầu 侯, Điện 甸, Nam 男, Thái 釆, Vệ 衛, Man 蠻, Di 夷, Trấn 鎮, Phiên 籓.

Các đời Tần, Hán cho đến Minh, Thanh về sau vẫn kiên trì với khái niệm thống trị của một Thiên triều trung tâm này, nhưng với sự thống nhất của đế quốc Trung Hoa và những cuộc mở mang lãnh thổ xuống phía nam, mô hình đó có những thay đổi tùy theo mối quan hệ thân hay sơ giữa Thiên triều với khu vực xung quanh (xem Sơ đồ).Và trải suốt các thời kỳ tiếp sau đó, không có Vương triều Trung quốc nào không coi các bộ tộc hoặc các nước ở khu vực lân cận là những bộ lạc phụ thuộc hay phiên quốc có nghĩa vụ thần phục và nộp cống của mình. Cộng thêm sự ảnh hưởng tư tưởng chính thống của học thuyết Nho gia, quan hệ giữa Trung Quốc với các nước "Nam Hải" (trong đó bao gồm cả nước ta) luôn được coi là mối quan hệ thứ bậc giữa Vương triều (đế quốc Trung Hoa) với nước phiên thuộc.

Khái niệm thống trị của Phong kiến Trung Quốc

Địa vị của nước phiên thuộc, từ Cửu phục và sơ đồ trên ta thấy, đó là khu vực được xếp ở vòng xa trung tâm nhất so với các khu vực khác. Thực tế, mối quan hệ (sự ràng buộc) giữa nước này với Thiên triều là lỏng lẻo nhất. Mối quan hệ này được các học giả phân tích là “Có sự qui thuộc về danh nghĩa, nhưng thực tế Vương triều không có khả năng điều khiển, khống chế; đôi khi có sự giao thiệp qua lại”(4). Tức là Thiên triều không cắt cử quan lại để quản lý nước đó về mặt hành chính cũng như không trực tiếp điều hành về các mặt chính trị, kinh tế... Trên thực tế điều đó có nghĩa là một nhà nước độc lập có chủ quyền. Sự ràng buộc thường chỉ thể hiện chủ yếu ở hai điểm: thứ nhất là phải nộp cống (định kỳ hoặc không định kì) cho Thiên triều; thứ hai là phải chịu sự sách phong của Thiên triều, tức là người đứng đầu nước đó phải được Thiên triều ban sắc công nhận.

Kể từ khi Ngô Quyền giành lại độc lập cho đến hết thế kỉ XIV, trải các triều vua kế tiếp, nước ta vẫn được liệt vào hàng phiên quốc với ý nghĩa như trên, một mặt tự chủ điều hành đất nước, mặt khác thực hiện nghĩa vụ triều cống và tiếp nhận sách phong của Thiên triều. Tước hiệu sách phong có thể khác nhau tùy từng thời kỳ, khi là Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ 靖 海 軍 節 度 使 (tước phong của Ngô Nam Tấn Vương Xương Văn), Giao Chỉ Quận vương 交 趾 郡 王 (tước phong của Đinh Tiên Hoàng) hoặc An Nam quốc vương 安 南 國 王 (tước phong của Lý Anh Tông) v.v... nhưng thực tế các vị đó chính là vua của nước Nam.

Tình hình thay đổi kể từ sau khi Hồ Quí Ly lật đổ nhà Trần, lên ngôi Hoàng đế, tự lập ra nhà Hồ. Nắm lấy cơ hội này, mượn danh nghĩa khôi phục lại họ Trần, nhà Minh đại cử 80 vạn quân Minh dưới quyền chỉ huy của Trương Phụ và Mộc Thạnh tiến đánh nước ta. Sau khi bắt được cha con Hồ Quý Ly, tháng 6 năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), nhà Minh lập tức đổi An Nam thành Giao Chỉ, thiết lập hệ thống cai trị gồm 3 cơ cấu Đô chỉ huy sứ ti, Bố chính sứ ti và án sát sứ ti, cắt cử bọn quan lại người Minh như Lã Nghị, Hoàng Trung, Trương Hiển Tông, Vương Bình, Nguyễn Hữu Chương, Bùi Bá Kì, Hoàng Phúc v.v. nắm giữ các cơ quan đó, đồng thời chia nước ta thành 15 phủ và 5 châu trực lệ ti Bố chính(5). Bằng hành động này, rõ ràng nhà Minh đã chuyển An Nam từ địa vị một phiên quốc thành hệ thống quận huyện dưới sự cai trị trực tiếp của Thiên triều.

Để bảo vệ nền độc lập và chủ quyền dân tộc, nhiệm vụ đặt ra cho các lãnh tụ Lam Sơn là phải đấu tranh giành lại địa vị phiên quốc cho nước Việt. Đoạn văn sau đây trong một tờ Biểu cho thấy Lê Lợi và Nguyễn Trãi ý thức được rất rõ ràng mục tiêu của mình trong lập luận đấu tranh ngoại giao với triều đình nhà Minh:

臣 竊 惟. 交 南 之 地 實 為 海 外 之 邦. 漢 唐 雖 置 郡 縣 而 實 則 羈 麋; 宋 元 亦 已 往 伐 而 尋 加 爵 命. 迨 我 太 祖 高 皇 帝 之 啟 運; 而 臣 祖 父 先 諸 國 以 來 朝. 遞 年 入 貢 於 帝 庭; 累 世 襲 封 於 王 爵.(6)

(Thần trộm nghĩ đất Giao Chỉ phương Nam, thực quả là nước thuộc về hải ngoại(7), nhà Hán, nhà Đường dẫu đặt làm quận huyện, mà thực coi là hạng ki mi(8); đời Tống, đời Nguyên tuy đánh dẹp ra uy, nhưng sau lại ban phong tước mệnh. Thái Tổ Cao Hoàng đế(9) lúc ban đầu mở vận, ông cha thần trước các nước vào chầu. Hàng năm tiến cống sân triều, nối đời tập phong Vương tước).

Cho nên, cuộc đấu tranh ngoại giao của nghĩa quân Lam Sơn với triều đình nhà Minh, rốt cuộc chủ yếu là xoay quanh vấn đề cầu phong và tiến cống. Tất nhiên đối với triều Minh, chuyển đổi mối quan hệ với An Nam từ quận huyện sang phiên quốc không phải là điều dễ dàng chấp nhận. Việc Trần Quý Khoáng mấy lần cầu phong vào thời Vĩnh Lạc đều bị nhà Minh hoặc khước từ một cách tàn khốc, hoặc tìm cách biến "cầu phong" thành "xin hàng nhận chức quan" là một dẫn chứng lịch sử cho thấy nếu không có sự phối hợp của các hoạt động quân sự và chính trị khác nhau để tạo thành một cục thế nhất định thì khó có thể xoay chuyển được ý chí cai trị của Thiên triều. Đây chính là điều mà Lê Lợi, Nguyễn Trãi và các lãnh tụ nghĩa quân đã nhận thức được rõ ràng và thực hiện một cách tài tình trong cuộc kháng chiến để giành được mục tiêu cuối cùng, điều mà các cuộc khởi nghĩa trước đó chưa có ai đạt tới.

Vì đối tượng của cuộc đấu tranh ngoại giao do nghĩa quân Lam Sơn tiến hành là triều đình nhà Minh, và cụ thể là vua Minh, do đó không thể áp dụng hình thức gửi thư từ như đối với các quân tướng người Minh, mà phải dùng những hình thức công văn qui định mang tính chất ngoại giao quan phương hơn, đó là văn kiện thể loại Tấu 奏 và Biểu 表. Đây là hai thể loại văn bản thuộc loại hình công văn được qui định ở thời phong kiến chuyên dùng để kẻ dưới đệ trình lên người trên, chủ yếu là dùng trong trường hợp bề tôi thần thứ trình lên nhà vua như sách Hậu Hán thư chú dẫn Hán tạp sự đã chép rằng: “Phàm giấy tờ của quần thần dâng lên thiên tử gồm có 4 loại: Chương, Tấu, Biểu và Bác nghị”. Tùy theo mục đích và nội dung của lần giao thiệp mà phía ta chọn dùng thể loại Tấu hay Biểu thích hợp. Do nắm vững được công năng của từng thể loại công văn này mà Lê Lợi và trực tiếp là Nguyễn Trãi đã sử dụng Tấu, Biểu như là thứ công cụ đấu tranh chính trị sắc bén với triều đình nhà Minh nhằm giành lại nền độc lập tự chủ cho đất nước.

Nhưng trước mưu đồ ngoan cố xâm chiếm đất nước ta của đối phương, để đạt được mục tiêu đó, phía ta còn phải trải qua một quá trình gian nan, lâu dài và phức tạp, đòi hỏi các lãnh tụ Lam Sơn phải kiên trì và khôn khéo, từng bước thuyết phục, tiến công trên mặt trận đấu tranh chính trị. Thực tế lịch sử cho thấy thời gian của quá trình này cũng kéo dài không kém thời kỳ kháng chiến đánh đuổi đội quân xâm lược. Khởi đầu từ biện pháp sách lược lập ra ông vua Trần Cảo, để thay lời kẻ hậu duệ vua Trần này tiến hành cầu phong, mở đường cho sự giao thiệp với triều đình nhà Minh, từ tháng 12 năm 1426 phía ta liên tiếp gửi đi hàng loạt văn kiện, trong đó nêu ra những chứng lý về mặt địa lý và lịch sử để chứng minh tính chất độc lập và khẳng định địa vị một phiên quốc có quyền tự chủ của nước An Nam. Đứng trên lập trường của một quốc gia độc lập đó, ta lên án mạnh mẽ cuộc chiến tranh xâm lược và tố cáo những tội ác của nhà Minh, khẳng định tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Đồng thời với việc cầu phong, ngày 29 tháng 11 năm 1427 phía ta chủ động nối lại nghĩa vụ chức cống của một phiên quốc lần đầu tiên sau hơn hai chục năm gián đoạn. Đặc biệt lần này, bên cạnh đồ cống vật, sứ giả của ta còn mang theo cả một số "chiến lợi phẩm" bao gồm hổ phù, ấn bạc của viên tướng Liễu Thăng cùng hàng nghìn quân nhân, sĩ quan, người ngựa mà ta thu được trên chiến trường lập thành danh sách đệ trình trao trả lại nhà Minh. Bề ngoài dường như chỉ nhằm bày tỏ sự ăn năn, hối lỗi, muốn bằng cách trả lại những vật chứng cụ thể xác thực thêm cho những lời lẽ thành khẩn trong bản Tấu, thanh minh về những sự việc "đáng tiếc" xảy ra trên chiến trường, nhưng đằng sau những di vật sót lại của viên bại tướng tử trận đó hiển nhiên còn gửi nhắn một thông điệp răn dè cảnh cáo đối với âm mưu tiếp tục hành động xâm lược của địch. Ngày 3 tháng 8 năm 1428, vua Minh phải sai sứ giả mang chiếu sang Giao Chỉ truyền lệnh rút quân và phong cho Trần Cảo làm An Nam quốc vương, chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược và kết thúc thời kỳ cai trị quận huyện của họ ở Giao Chỉ, đồng thời phải thừa nhận nước ta là một quốc gia có chủ quyền. Nhưng vào lúc này Trần Cảo đã chết. Lãnh tụ nghĩa quân Lê Lợi một mặt lên ngôi Hoàng đế, củng cố chính quyền và bộ máy nhà nước, mặt khác cử người sang Minh báo tang Trần Cảo và tiếp tục cầu phong. Đến đây, nhà Minh lại trở mặt, bằng cách bám lấy quan điểm khôi phục triều vua cũ, họ không chịu công nhận chính quyền mới thành lập của triều Lê mà dai dẳng liên tiếp đòi ta tìm kiếm con cháu họ Trần, đồng thời hạch sách về vấn đề người Minh bị bắt ở Giao Chỉ trong chiến tranh. Phía ta lại phải qua nhiều lần giao thiệp qua lại giải thích, thuyết phục, thậm chí cả biện pháp vận động các đầu mục, kì lão trong nước liên danh cầu phong cho Lê Lợi. Mãi đến ngày 1 tháng 11 năm 1431, vua Minh mới chấp nhận trao cho vua ta Quyền thự An Nam quốc sự. Tuy nhiên, trong khi buộc phải "trả lại nước An Nam cho người An Nam", triều Minh vẫn thể hiện sự ngoan cố, vớt vát thể diện của họ bằng cách chỉ ban "sắc mệnh" chứ không chịu "sách phong", đồng thời ngay trong chức danh trao cho Lê Lợi họ đã sử dụng hai chữ "權 Quyền" và "署Thự" là những từ chuyên môn dùng trong việc phân bổ quan chức trong nước và đều mang ý nghĩa "tạm thời ủy nhiệm"(10). Vì vậy để giành được sự công nhận chính thức địa vị một quốc gia độc lập hoàn toàn, chính quyền đầu thời Lê sơ còn phải tiếp tục kiên trì đấu tranh ngoại giao với triều Minh kéo dài trong mấy năm sau. Đời vua Thái Tổ chưa hoàn thành, vua Thái Tông lại kế tiếp. Trải qua bao gian khổ, hoặc phải sang giải đáp những đòi hỏi về số người Minh còn bị lưu giữ, hoặc phải đấu tranh về lệ tuế cống, thậm chí có đoàn sứ ta nhận sứ mệnh sang Minh, có đến 7 người phải nằm lại trên đất khách mà không trở về nhà(11). Cuối cùng cho đến ngày 13 tháng Giêng năm 1437 nhà Minh mới phải chính thức sách phong cho vua Thái Tông tước hiệu An Nam Quốc vương.

Ta thấy rằng, để đạt tới mục đích là một quốc gia độc lập và tự chủ, cuộc đấu tranh ngoại giao của nhân dân ta phải trải qua một thời kỳ suốt 11 năm. Trong cuộc đấu tranh này, giữa ta với triều đình nhà Minh đã tiến hành trên ba chục cuộc giao thiệp qua lại, trong đó riêng về phía ta đã có 20 lần tiến hành trao đổi với ít nhất là 28 văn kiện ngoại giao, chủ yếu đều là thể loại tấu và biểu. Rất may là sau hơn 5 thế kỷ, nội dung của một phần trong số văn kiện này vẫn còn được lưu giữ trong di sản Hán Nôm, cụ thể theo điều tra của chúng tôi là còn 18 văn kiện thể loại này còn được lưu chép rải rác trong một số thư tịch như Ức Trai di tập, Cổ kim bang giao bị lãm, Bang giao lục, Hoàng các di văn v.v. Đây là những tài liệu rất quí, có ý nghĩa như là những chứng tích còn lại của một cuộc đấu tranh ngoại giao đầu thời Lê sơ nêu trên.

Đối với những văn kiện của Nguyễn Trãi thuộc thể loại tấu và biểu này, trong một chuyên khảo trước đây(12), thông qua khảo sát nghiên cứu văn bản, chúng tôi tuy chưa có điều kiện nghiên cứu để xếp thành một tập hợp văn kiện riêng rẽ, nhưng cũng đã xác định là chúng không thuộc vào tập hợp văn kiện Quân trung từ mệnh. Cơ sở chủ yếu của quan điểm này, trước hết là dựa vào sự khác biệt khá rõ rệt về ý nghĩa chính trị, và từ đó đòi hỏi có sự khác biệt về đối tượng và phương diện thể loại của những văn kiện tấu, biểu này so với văn kiện thư từ, lệnh dụ trong Quân trung từ mệnh.

Tuy cùng là những hình thức hoạt động đấu tranh chính trị phục vụ cho cuộc kháng chiến, và trong thực tế thực hiện của nghĩa quân Lam Sơn, các hình thức này luôn có sự phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau, nhưng nếu xét về mặt ý nghĩa thì văn kiện thể loại thư từ lệnh dụ của Quân trung từ mệnh chủ yếu là những biện pháp địch vận và đấu tranh hòa đàm nhằm làm tan rã ý chí chiến đấu của đội quân xâm lược và ngụy quân, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho quân ta giải quyết các vấn đề trên chiến trường, tức trực tiếp nhằm vào mục đích giải phóng dân tộc thoát khỏi sự đô hộ của ngoại bang. Còn văn kiện thể loại tấu biểu là những công văn mang tính chất ngoại giao được sử dụng để đấu tranh với triều đình nhà Minh nhằm khẳng định và giành lại độc lập, chủ quyền cho đất nước. Với những mục đích khác nhau như vậy, đối tượng của văn kiện thư từ lệnh dụ được Nguyễn Trãi thảo ra là nhằm gửi cho các tướng sĩ giặc trên chiến trường Giao Chỉ dưới hình thức những bức thư, tờ dụ; trong khi tấu biểu là thể loại công văn theo truyền thống để kẻ dưới trình lên người trên thì được sử dụng để giao thiệp với triều đình nhà Minh, cụ thể là vua Minh. Cũng vì đối tượng đấu tranh ở cấp cao hơn nên ở những văn kiện này càng nổi bật tính chất ngoại giao quan phương, và vì thế ý nghĩa chính trị của chúng cũng được nâng lên tầm cao hơn. Bằng chứng là từng tờ tấu, biểu của ta giao thiệp với triều Minh đều được chính sử của cả hai nước ghi chép lại đầy đủ như là một sự kiện lịch sử, với những chi tiết cụ thể về thời gian, phương thức chuyển đạt, nội dung đề cập của văn kiện, thậm chí đôi khi còn tóm lược hoặc trích dẫn nguyên văn của chúng. Đó là một đặc điểm rất thuận lợi cho chúng ta trong công tác nghiên cứu, thậm chí có thể dựa vào những ghi chép đáng tin cậy của chính sử để xác định "lai lịch" cụ thể của từng văn kiện đấu tranh ngoại giao, điều hầu như khó có thể làm được đối với trường hợp các văn kiện thư từ địch vận.

Một sự khác nhau nữa là về thời gian. Rõ ràng việc trao đổi văn kiện loại thư từ được dừng lại kể từ sau ngày quân Minh thua trận, Vương Thông buộc phải hội thề với ta rồi mang quân rút về nước, khi mà công tác dụ hàng, địch vận đã trở nên không còn cần thiết nữa; trong khi đó việc giao thiệp với triều đình nhà Minh vẫn còn phải tiếp tục ngay cả sau khi chiến tranh kết thúc một vài năm để giành lại nền độc lập tự chủ hoàn toàn. Do vậy, nếu nhập văn kiện thể loại tấu biểu vào Quân trung từ mệnh thì vô hình trung, tập hợp văn kiện này sẽ bị chia thành 2 "mảng" riêng rẽ: một thuộc thời kỳ chiến tranh và một thuộc thời kỳ sau hòa bình. Trong khi thực tế lịch sử cho thấy, cả khối văn kiện này là chứng tích của một cuộc đấu tranh ngoại giao được Lê Lợi và Nguyễn Trãi tiến hành liên tục với những diễn biến gay go phức tạp kéo dài suốt nhiều năm để giành nền độc lập tự chủ hoàn toàn cho đất nước.

Chính vì những lý do trên, chúng tôi chủ trương đưa số văn kiện thể loại tấu, biểu này độc lập với văn kiện thư từ lệnh dụ, một mặt bảo toàn sự thống nhất và tập trung của các văn kiện trong tác phẩm Quân trung từ mệnh, phù hợp với ý đồ của Trần Khắc Kiệm khi ông đặt tên cho sưu tập của mình, mặt khác giữ được tính liên tục lịch sử của các văn kiện tấu, biểu, một tập hợp các giấy tờ đấu tranh ngoại giao mà ý nghĩa của chúng cũng không kém phần quan trọng đối với sự ra đời và tồn tại của nhà nước Đại Việt.

Tuy nhiên, cũng phải nhấn mạnh rằng, đây là một quan điểm mang tính chất thuần túy văn bản học được nêu ra không ngoài mục đích tiếp cận tới diện mạo hợp lý ban đầu của văn bản Quân trung từ mệnh và góp phần trợ giúp cho công tác nghiên cứu tư liệu lịch sử được khoa học và thuận tiện hơn. Do vậy, nó không hề mang đôi chút sắc thái cảm tính mà những từ ngữ đại loại "đưa ra...", "loại ra..." hoặc "gạt ra khỏi Quân trung từ mệnh" v.v... có thể mang lại. Nằm trong khối di sản Hán Nôm quí giá do ông cha để lại, những văn kiện thể loại tấu, biểu này không những là một bộ phận trong số di văn hiếm hoi còn lại của danh nhân Nguyễn Trãi, mà cũng như những công văn giấy tờ khác soạn thảo cùng thời, đó còn là những tư liệu lịch sử vô cùng quan trọng để hậu thế nghiên cứu, tìm hiểu về cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và bảo vệ nền độc lập tự chủ của dân tộc ta ở thế kỷ XV. Vì thế, chúng dù nằm trong tập hợp văn bản nào cũng vẫn giữ nguyên giá trị và cần phải được khảo sát nghiên cứu thấu đáo.

Chú thích:
(1) Toàn thư, Bản kỷ, Q.10, tờ 2a.
(2) Toàn thư, Bản kỷ , Q.5, tờ 21a.
(3) Nam Hải ở đây không phải là tên một trong 9 quận lập ra thời Hán mà được dùng để chỉ một khu vực địa lý. Quan niệm về phạm vi của khu vực này có sự thay đổi khác nhau tùy từng thời kỳ lịch sử, thường chỉ các nước cổ đại nằm thuộc về vùng biển phía nam Trung Quốc như An Nam, Chiêm Thành, Xiêm La, Chân Lạp, Miến, Trảo Oa, Lưu Cầu, Lữ Tống v.v..., tức là các nước ở vùng tương đương với khu vực Đông Nam á ngày nay.
(4) Vi Khánh Viễn: Trung Quốc chính trị chế độ sử, Trung quốc Nhân dân Đại học xuất bản xã xuất bản, 5-1991, tr.44. Trích theo Khưu Huyễn Dực: Minh Đế quốc dữ Nam Hải chư phiên quốc quan hệ đích diễn biến, Nxb. Lan Đài, Đài Bắc, 1995, tr.12.
(5) Theo Minh sử, Q.321 - An Nam truyện, tr.8316. Sự kiện này Toàn thư (Bản kỷ, Q.9, tờ 2b) chép vào tháng 4 cùng năm.
(6) Trích tờ Biểu mang danh nghĩa Trần Cảo là dòng dõi vua Trần gửi vua Minh.
(7) Hải ngoại: chỉ bên ngoài Trung Quốc.
(8) Ky mi: chỉ quan hệ ràng buộc chứ không trực tiếp cai trị, (tham khảo sơ đồ bên trên).
(9) Thái Tổ Cao Hoàng đế: chỉ vua Minh Thái Tổ.
(10) Tham khảo: Trung Quốc quan chế đại từ điển.
(11) Theo Toàn thư, Bản kỷ thực lục, Q.11, tờ 28b.
(12) Xem Nguyễn Văn Nguyên: Những vấn đề văn bản học Quân trung từ mệnh của Nguyễn Trãi, Nxb. Văn học, H. 1998.

Nguồn: Tạp chí Hán Nôm số 4/2002.
*Tác giả Nguyễn Văn Nguyên là cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm, đã nghỉ hưu.

BÙI CÔNG TỰ: VỚI NHỮNG NGƯỜI ANH EM TRÍ THỨC Ở XA

 VỚI NHỮNG NGƯỜI ANH EM TRÍ THỨC Ở XA
Bùi Công Tự

Tôi vừa được đọc “Thư ngỏ gửi các nhà lãnh đạo Việt Nam về hiểm họa ngoại bang và sức mạnh dân tộc” của một số trí thức người Việt đang sống tại nước ngoài.

Bức thư được gửi đến Chủ tịch nước, Quốc hội và chủ tịch Quốc hội, chánh án tòa án nhân dân tối cao, Thủ tướng và chính phủ, Tổng bí thư và Bộ chính trị ĐCSVN.

Nội dung bức thư, mở đầu các tác giả bày tỏ sự ủng hộ với bảng “tuyên cáo” và bản “kiến nghị” của giới nhân sĩ trí thức trong nước. Đồng thời nêu ra những nhận định về “hiểm họa ngoại bang”, về “sức mạnh dân tộc”, về “vị thế chính quyền” của đất nước hiện nay. Các tác giả bức thư đã đề xuất “những việc cần làm” với những nội dụng khá cụ thể:

1-Đối với Trung Quốc

2-Đối với ASEAN và các nước khác

3-Đối với nhân dân trong nước

4-Đối với cộng đồng người Việt ở nước ngoài.

Phía dưới bức thư là danh sách 36 vị trí thức ký tên gồm các GS, nhà khoa học của nhiều lĩnh vực, luật sư, nhà văn, chuyên gia kinh tế… Với những chức danh đầy uy tín khoa học ở các nước  Mỹ, Pháp, Anh, Úc, Canada, Thụy Sĩ.

Theo cảm nhận của tôi, các vị đều là những người yêu nước. Các ghi chú kèm theo cho thấy đây là những người đã cao tuổi, từng trải. Do đó lòng yêu nước của họ là rất sâu sắc. Chi có những người yêu nước thì mới nói về sự sống còn của đất nước một cách chân thành đến thế. Là các nhà khoa học nên bức thư của các vị diễn đạt một cách thẳng thắn, không cần rào đón, văn hoa.

Các vị đã bày tỏ sự ủng hộ với giới nhân sĩ trí thức trong nước – những người đã ký tên vào bản tuyên cáo ngày 25/06/2011 tố cáo, lên án nhà cầm quyền Trung Quốc liên tục gây hấn xâm phạm chủ quyền nước ta, đồng thời kiến nghị với Đảng và nhà nước về quốc sách. Đây là mối tình cảm cao quý của những người trí thức Việt Nam ở trong và ngoài nước với nhau. Nó cho thấy chúng ta vẫn là con một nhà, người yêu nước không bao giờ cô độc.

Nhiều bạn đọc đã bày tỏ sự cảm kích trước bức thư ngỏ trên đây của các vị trí thức đang sống ở nước ngoài. Bạn Minh Nguyễn đã nói: “Thật là một tài sản vô giá của dân tộc Việt Nam, tiếng nói của nhân sĩ trí thức trong và ngoài nước là tiếng lòng của cả dân tộc Việt Nam hôm nay. Kính mong các bác lãnh đạo nhà nước lắng nghe họ nói”. Tuy nhiên cũng có những ý kiến tỏ ra nghi ngại, cho rằng Đảng và nhà nước sẽ không tiếp thu như ý kiến của bạn Nguyen Hung sau đây: “Những tấc lòng son của những người con đất Việt, tuy sống xa quê hương nhưng vẫn luôn thao thức cho vận mệnh của dân tộc, rất cảm phục tấm lòng của các vị. Đọc thư của các vị thấy đất nước may thay còn có nhiều tấm lòng vì dân vì nước thật sự. Nhưng các vị lãnh đạo Đảng, nhà nước có đủ tâm lẫn tầm để bước qua sự sợ hãi, rào cản ý thức hệ và muôn vàn mối lợi cho bản thân để lắng nghe nguyện vọng của các vị nhân sĩ trí thức trong và ngoài nước?

Dưới đây tôi xin bộc bạch vài ý kiến cá nhân. Theo tôi những nhận thức về “hiểm họa ngoại bang”, về “sức mạnh dân tộc”, và cả về “vị thế chính quyền”, các nhà lãnh đạo Đảng, Quốc hội, chính phủ về cơ bản có thể đồng ý với quan điểm của các trí thức hải ngoại nêu trong bức thư, cho dù cách diễn đạt có thể khác, với mức độ khác, nhẹ nhàng hơn.

Tôi cho rằng Đảng và nhà nước cũng đang muốn xúc tiến những cải cách theo hướng hiệu quả hơn trong việc điều hành quốc gia. Tuy nhiên “một lộ trình cải cách cụ thể để được nhân dân tin tưởng và ủng hộ “ thì chưa thể sớm đạt được trong ngày một ngày hai. Có rất nhiều cản trở, mọi người đều biết cả đấy, nhưng không dễ bước qua, một khi chưa có sự quyết tâm cao đột biến trong Đảng.

Tôi mong trước mắt Đảng và nhà nước ủng hộ những đề nghị có tính chất nhân đạo của các trí thức Việt Nam đang sống ở nước ngoài đề đạt trong bức thư, như việc tu bổ nghĩa trang binh lính VNCH ở Biên Hòa và việc cho tìm kiếm hài cốt của những người bị chết trong thời gian cải tạo. Những gì thuộc về lịch sử chúng ta nên chấp nhận.

Trái đất quay nhưng không thể tự nó quay được. Chắc chắn có những lực tác dụng vào nó. Bức thư gửi lãnh đạo nhà nước của các trí thức người Việt đang sống ở nước ngoài có lẽ cũng có tác dụng như một lực góp phần làm cho trái đất quay.
TPHCM, 30 – 08 – 2011. 

GS NGÔ ĐỨC THỌ: KHÔNG NÊN TÙY TIỆN QUY KẾT ĐỊCH -TA

KHÔNG NÊN TÙY TIỆN QUY KẾT ĐỊCH -TA

GSTS NGÔ ĐỨC THỌ

Qua thông tin tóm tắt của TS Nguyễn Xuân Diện, những người quan tâm đại thể có thể hiểu được nội dung chính cuộc gặp của lãnh đạo TP Hà Nội với một số nhân sĩ trí thức tham gia biểu tình chống Trung Quốc xâm lược Việt Nam. Cuộc gặp này có được nói sơ sài đâu đó (An ninh Thủ Đô), còn các hãng nước ngoài hầu như đều có đưa tin. BBC coi cuộc gặp thể hiện thiện chí của chính quyền muốn đối thoại để lắng nghe ý kiến của người biểu tình. Việc này, phải nói đó là một điểm hơi sang sáng, đáng hoan nghênh. Giải quyết những vấn đề có ý kiến bất đồng trong nhân dân rất cần có một cách tiếp cận thực sự cầu thị đại khái như thế, nhưng…có lẽ là cần chân chất, thật tâm nhiều hơn nữa!

Ở chỗ này, không ra ngoài đề, nhưng tôi muốn mở rộng ra một chút: Giá như sớm hơn, từ cuộc thứ 3-4, hoặc 5-6 chẳng hạn, không ai khác, đích thân Chủ tịch UBNDTP dẫn theo vài người hỗ tòng, mở toang cổng chính, tươi cười đi bộ ra đứng xúm lại trò chuyện với mọi người. Có thể chính ông Chủ tịch cũng có quen biết vài người nào đó, ngay cả khi ông không quen ai, những người biểu tình thấy ông ra, từ xa họ đã vỗ tay hoan hô vang lừng. Ông đầy phấn chấn tiến đến thật chân tình bắt tay chào hỏi. Rồi, nếu mọi người đứng dưới sân thì ông đứng cao lên vài bậc thềm, cất tiếng trò chuyện chung với mọi người.

Một vị Chủ tịch Thành phố có dư lịch lãm để nói rất ngắn gọn, thể hiện sự đánh giá sáng suốt về những bức xúc đã khiến cho nhiều nhân sĩ trí thức thanh niên yêu nước phải cầm băng cờ, khẩu hiệu xuống đường. Người đi biểu tình không có mục đích nào khác ngoài việc muốn thể hiện một tiếng nói yêu nước để lãnh đạo các cấp quan tâm đến vấn đề chủ quyền biển đảo của Tổ Quốc trước các hành động gây hấn của nhà cầm quyền Trung Quốc. Hiểu biết lòng dân như thế, nếu ông có đề xuất  chỉnh sửa hợp lý nào đó thì những người biểu tình cũng sẵn sàng lắng nghe. Làm được như vậy, không những ông Chủ tịch sẽ để lại tiếng thơm mà những người thể hiện tinh thần yêu nước cũng không cảm thấy bị xúc phạm. Không cố tình so sánh để làm phật ý hai ông, nhưng rõ ràng Trung tướng Nguyễn Đức Nhanh tỏ ra thấu tỏ lòng dân hơn khi ông ấy tuyên bố “không có chủ trương đàn áp các cuộc biểu tình yêu nước!


Khi tướng Nhanh nói như vậy đang có vấn đề nổi cộm về  hành động thô bạo của tay đại uý đạp mặt người biểu tình, nhưng phần đông người biểu tình thấy ông hiểu họ. Ai cũng hiểu câu nói của ông không có hàm ý cho người dân được tự do đi biểu tình, nhưng sáng tỏ trước công luận được một câu như vậy, nếu tôi là quan chức trong đảng thì tôi phải đánh giá tuyên bố của tướng Nhanh không những là có “tính đảng” cao vì không làm suy giảm sự tin cậy của nhân dân với Đảng, mà cũng rất được lòng dân. Chính vì lẽ đó, một vài hãng tin nước ngoài và trang mạng trong nước rất đề cao ứng xử của tướng Nguyễn Đức Nhanh.
 
Ở trên tôi có nói “Giá như”. Vâng, tướng Nhanh có đủ thông tin của ngành công an tình báo, không chỉ là mật vụ đặc tình, mà là cả “những  người theo dõi công khai” đặt ngay tại chân cầu thang nhà tập thể của người đi biểu tình, như Phạm Xuân Nguyên. Có trong tay nguồn tin “sâu sát” đồ sộ như vậy, nếu có ai có âm mưu liên hệ gì với phản động nước ngoài, tất tướng Nhanh biết rõ đến chân tơ kẽ tóc. Nhưng không có, không hề có bất cứ  yếu tố nào là “phản động” trong nước hoặc tố chức “thế lực thù địch” nước ngoài nào cả, cho nên tướng Nhanh mới mới tuyên bố như trên. Hẳn là tướng Nguyễn Đức Nhanh phải tin chắc nhận định của mình thì ông mới nói như vậy. Tướng Nguyễn Đức Nhanh phụ trách ngành CA của TP Thủ đô chứ không phải một ông cảnh sát khu vực cấp phường, cấp xã nào. Kết luận một hoạt động xã hội nói chung cũng như riêng về các cuộc biểu tình có hay không có yếu tố chống Đảng, chống chính quyền là một vấn đề rất hệ trong thuộc sứ mệnh cao cả của ông. Nếu ông nói sai sự thực, có địch mà không báo, thì Đảng sẽ nghiêm trị ông. Nhưng ông đã vượt qua, bỏ ngoài tai những suy diễn của kẻ này người nọ gán ghép vu vơ, kiểu suy diễn địch, ta mà chúng ta quá quen từ những vết thuơng cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức (1), để có câu tuyên bố đúng lương tâm, đúng sự thật như chúng ta đã biết (và cũng đã dẫn ra rất rõ ở bức ảnh in kèm bài này).

Cũng xin nói thêm một chút: giá như ông Nhanh nghĩ ngợi sao đó, đi đến chỗ không có địch mà bảo là có địch, thậm chí thêu dệt ra những “âm mưu”, “mạng lưới” nọ kia, thì không chỉ là gán ghép lâm thời cho các cuộc biểu tình, mà sẽ còn xoay chuyển hết trọng tâm của các ngành nội chính vào việc thanh trừng nội bộ, thanh trừng nhân dân, đấu tố quy chụp, đối phó trấn áp quân địch  v.v… thì đất nước ta đang thanh bình là thế, bỗng dưng sẽ chao đảo tán loạn, không giống hẳn thì cũng na ná như bên Tàu hồi “Đại cách mạng văn hóa vô sản” với bè lũ bốn tên!

Không phải “giá như”, mà thực sự đã có người nói cái ý hiểm độc ấy trong một cuộc họp có người lãnh đạo cao nhất của Đảng, có ông dự họp khái quát tình hình tư tưởng hiện nay có tình trạng “da báo” (2). Đáng tiếc rằng người “phát biểu” (tâu) như vậy lại không phải là đại diện của ngành  công an hay quân đội, mà là một ông “văn…gừng”!

Nếu tướng Nhanh cũng theo cách suy diễn ấy thì vai trò của ông sẽ trở nên đặc biệt quan trọng, rồi sau này dẹp tan đựoc “phản loạn” công lao của ông cao vút, đặc quyền, đặc lợi không biết để đâu cho hết! Không phải là tôi suy diễn hư cấu ra, thực tiễn của ta đã vấp không ít vụ như thế (Cải cách ruộng đất, Chỉnh đốn tổ chức, Nhân văn giai phẩm, vụ xét lại chống Đảng 1968 v.v…hầu như bắt ép phải tìm cho ra yếu tố “địch”. Tôi không quen biết hoặc có “tình trước, ý sau” gì với tướng Nhanh cả, nhưng có thể nghĩ rằng, nếu vụ này ngành của tướng Nhanh “bơm” lên chút cho vừa “đô” của những kẻ hiếu sự (như tay mách qué Nguyễn Việt nào đó), rồi báo lên cấp trên nữa, rồi huy động cả bộ máy chính trị vào việc thanh trừng không chỉ ở Hà Nội mà trên toàn quốc thì…hỡi ôi, không biết non  sông đất Việt này còn chịu đựng được đến mức nào?

Nhưng tướng Nguyễn Đức Nhanh không làm như vậy! (Chỉ những kẻ gian xảo máu Hồng vệ binh mới mong như vậy). Ông tuân thủ nghiệp vụ, nói đúng thực, không suy diễn để mưu lợi riêng!

Bên CA đã nhận định như thế, đối với ai khác thì có thể không được biết, nhưng với ông Bí thư Thành ủy Phạm Quang Nghị và ông Chủ tịch thành phố Nguyễn Thế Thảo thì có thể tin chắc là tướng Nhanh đã báo cáo hàng tuần.

Vậy thì, cái điều tôi giả định mở toang cửa nói trên, đáng lẽ ông Nguyễn Thế Thảo phải làm lâu rồi, nhất là sau khi tướng Nguyễn Đức Nhanh, người phụ trách cơ quan chức năng  nghiệp vụ đã đánh giá thế rồi, tức là ông Chủ tịch Thành phố có cơ sở để cởi mở hơn với dân (vì không có địch). Nhưng như đã thấy, ông đã chọn một cách phản ứng khác có tính toán hơn. Thay vì đi bộ ra trò chuyện với người biểu tình, ông đã cho gọi thư ký thảo ngay văn bản yêu cầu chấm dứt biểu tình. Không nói “cấm” mà nói yêu cầu “chấm dứt” (một biên pháp tu từ) để kịp thời ngăn chặn cuộc biểu tình ngày 21-8.

Nội dung bản dự thảo gợn lên điều gì đó khiến ông cảm thấy có phần băn khoăn, e ngại, cho nên ông không muốn ký tên. Ông chỉ thị, hoặc đồng ý cho Văn phòng Ủy ban đóng dấu treo, đăng ở trang thông tin mạng của Ủy ban Thành phố. Ai tham mưu cho ông cách làm này sẽ bàn sau, nhưng nói ngay với cách đóng dấu treo không có chữ ký ấy: Treo thăm dò thế đã, nếu nội dung có gì quá đáng, bị cấp trên hỏi đến, thì ông lập tức đỗ lỗi cho Văn phòng chưa được lệnh của ông, như cách ông Đào Duy Quát đổ lỗi cho “cậu đánh máy” dạo nào. Còn đối với những nơi cần thi hành cấm biểu tình thì tất nhiên ông đã có những công văn chỉ thị hợp thức.
.

Hơi lạ. Ngôn từ của bản Thông báo phải thuộc loại ngôn từ chức năng “mệnh lệnh”, nhưng người hoặc bộ phận tham mưu giúp việc đã chuẩn bị cho ông một mở đầu có màu sắc như một “chuyên luận sử học” (!), có “phân kỳ” “phân đoạn “ hẳn hoi! Thông báo chia các cuộc BT làm hai giai đoạn là : “những ngày đầu” và “những ngày gần đây”, (Chứ không phải ba giai đoạn “ Phòng ngự, Cầm cự, Tổng phản công!). Đầu là đầu tháng 6-2011 rõ rồi, còn “những ngày gần đây” là bắt đầu từ ngày nào đến này nào, không rõ, sử mà không có ngày?

Cái này là cả “đọi máu” chứ không phải viết khơi khơi như thế được! Bởi vì “những ngày đầu” được coi là tự phát, “xuất phát từ tinh thần yêu nước và tâm lý bức xúc của quần chúng nhân dân”. Còn “những ngày gần đây” là một giai đoạn khác, bị coi là có “các thế lực chống đối nhà nước Việt Nam trong và ngoài nước: đã và đang kêu gọi, kích động, hướng dẫn quần chúng biểu tình, tuần hành gây mất an ninh trật tự ở Thủ đô”.

Đây là chuyện rất hệ trọng liên quan đến đối sách của Nhà nước đối với an ninh quốc gia, chứ không phải chuyện lời nói gió bay của ông Chủ tịch Nguyễn Thế Thảo. Dù ông có từ chối câu nói đó thì văn bản còn kia (nếu ông cần thì cho khắc bia, cũng rẻ thôi!), và trong cuộc gặp một số nhân sĩ, trí thức ngày 27-8 vừa qua, ông cũng không phủ nhận.

Để suy xét việc này cần phải đặt ra 2 khả năng:

- Thứ nhất là: Phải chăng ngay tại Thủ đô Hà Nội dưới quyền cai quản của ông Chủ tịch Nguyễn Thế Thảo đã có “các thế lực chống đối nhà nước Việt Nam” (nhiều chứ không phài một vì có dùng chữ “các”)? Vấn đề như thế không thể không coi là hệ trọng, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, vì sao không hoặc chưa thấy thông báo chính thức nào của Bộ Chính trị hoặc Ủy ban Quốc phòng-An ninh của Quốc hội? Thay vào đó lại được đưa ra một cách tuỳ tiện trong một văn bản không ai chịu trtách nhiệm chính trị? Rồi sau một cuộc gặp thoải mái nhẹ nhàng, đã thấy kẻ địch biến đâu mất rất nhanh.

- Thứ hai là: Không có cái nguy cơ “ảo”,  “các thế lực chống đối” như đã nêu trong Thông báo, mà chỉ có sự thật như Trung tướng Nguyễn Đức Nhanh đã đánh giá và thông báo cho công luận trong và ngoài nước đều biết.

Mà cũng lạ, nếu quả thật có nhiều thế lực thù địch chống đối nhà nước như thế thì tại sao chỉ mới có một cuộc gặp rất lịch sự của lãnh đạo thành phố với vài vị nhân sĩ trí thức sáng 27 tháng 8 vừa qua mà ngay Chủ Nhật 28 tháng 8 khu vực quanh Hồ Gươm đã yên ắng ngay, không còn một cuộc biểu tình yêu nước chống Trung Quốc gây hấn xâm lược nào? Vậy thì các “thế lực chống đối” chạy rạt đâu cả, hay bị bắt, bị diệt hết rồi? Đó là chỉ nói đến ý kiến của hai vị có chức trách cao nhất về mặt chính quyền của TP Hà Nội – còn như những tiếng “đế” kiểu vu vạ đấu tố thêm ở báo Hà Nội Mới, An ninh Thủ Đô và Đài Phát thanh Truyền hình Hà Nội về vụ việc này thì không đáng phải nói đến.

Tôi là một người dân, không dám nói trí thức, trí ngủ gì cả, thực sự có suy nghĩ như trên, rất mong các lãnh đạo Đảng và Nhà nước thật tâm coi trọng vấn đề, không nên để những người có trách nhiệm quá tuỳ tiện trong những vấn đề quy kết địch, ta. Sai lầm của Stalin và Đảng Cộng sản Liên Xô những năm sau chiến tranh Thế giới Thứ hai cho rằng, Chủ nghĩa Xã hội càng thắng lợi thì các thế lực thù địch càng chống đối quyết liệt; những đấu tố trong cái gọi là Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản ở Trung Quốc cho ta những bài học sát sườn. Mà ngay cả ở nước ta nữa cũng đã có những kinh nghiêm xương máu: sai lầm quy chụp lung tung, đâu cũng có địch trong cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức và một số vụ khác nữa.

Nếu không cẩn thận, kiểu sai lầm ấy dễ có nguy cơ lặp lại với những mức độ khốc hại hơn nữa cho nhân dân và ngay cả với chính sự nghiệp cách mạng của Đảng. Người giữ trọng trách lớn rất nên thận trọng, chân thực, không cường điệu, bóp méo và có tinh thần trách nhiệm rất cao khi đánh giá quan hệ địch – ta.

Chú thích:
(1) Chỉnh đốn tổ chức: gần đây ít người nhắc đến, nó đi liền với cải cách ruộng đất.
(2) Da báo: là tình hình địch, ta xen kẽ như da con báo. Từ này trước đây báo chí thường dùng để chỉ thực trạng Miền Nam VN sau khi ký Hiệp định Paris 1972, đan xen loang lỗ các vùng kiểm soát của  CQ MNVN và CQ MTDTGP. Có người quên hoặc không biết từ này, nên viết nhầm là “ra báo” túc xuất bản báo chí! Không phải thế!

Nguồn: Ba Sàm.

Thứ Ba, 30 tháng 8, 2011

CHIỀU NAY, NHÂN SĨ TRÍ THỨC ĐẾN GẶP TGĐ ĐÀI PTTH HÀ NỘI


Tin nóng – 15h45′:  Như đã hẹn trong bức thư Yêu cầu Đài Phát thanh Truyền hình Hà Nội xin lỗi và cải chính vì đã phát nội dung xuyên tạc, vu khống, xúc phạm đến công dân, một số người có tên trong bức thư đã có mặt tại trụ sở Đài, số 5 Huỳnh Thúc Kháng, vào 15h30′ chiều nay.

Các vị có mặt gồm: Ông Nguyễn Đăng Quang (Đại tá công an, đã nghỉ hưu), TS Nguyễn Văn Khải “Ô-zôn”, TS Nguyễn Quang A, TS Nguyễn Xuân Diện, “Binh nhì” Nguyễn Tiến Nam và một số người nữa....

Lực lượng an ninh, trật tự đã có mặt từ trước, chĩa máy quay phim vào phái đoàn ghi hình liên tục, và chỉ cho 05 người vào là ông Nguyễn Đăng Quang, TS Nguyễn Văn Khải “Ô-zôn”, TS Nguyễn Quang A, TS Nguyễn Xuân Diện, Nguyễn Tiến Nam. 

Ông Phó chánh văn phòng Đài PTTH Hà Nội tiếp đoàn tại phòng chờ cổng thường trực của Đài. Ông nói: TGĐ Trần Gia Thái hôm nay đi công tác Hải Phòng nên không tiếp được và ông nói rằng TGĐ đã nhận được Thư yêu cầu Đài xin lỗi và cải chính.Ông cũng cho biết hiện nay TGĐ đang chỉ đạo các bộ phận liên quan xem xét lại các chương trình đã phát để có cơ sở trả lời.

Những người ký tên có mặt tại Đài PTTH Hà Nội cho biết những người ký tạo cơ hội cuộc họp này cho ông TGĐ Đài để ông có thể tìm hiểu rõ thêm những ý kiến trong thư để tránh sự hiểu lầm có thể xảy ra.  Cơ hội gặp gỡ này là tỏ rõ thiện chí đối thoại của những người ký văn thư yêu cầu. Việc tận dụng cơ hội đối thoại này là tùy thuộc vào ông TGĐ Đài PTTH Hà Nội. Những người ký tên vào văn thư yêu cầu nói rõ là Đài PTTH Hà Nội không phải trả lời cho họ mà phải trả lời cho khán giả truyền hình bằng cách xin lỗi, cải chính và đọc toàn bộ Thư yêu cầu đó trên sóng truyền hình ở tại chương trình Thời sự, đúng thời điểm và không quá thời lượng (06 phút) đã phát chương trình ngày 22 tháng 8 năm 2011, theo quy định tại Luật Báo chí. Việc cải chính và xin lỗi này phải được diễn ra trong vòng 05 ngày tới, kể từ khi Đài PTTH Hà Nội nhận được văn thư nói trên.
BS - NXD

 Một số hình ảnh trước, trong và sau cuộc gặp chiều nay











__________________________________

BIỂU TƯỢNG NỮ TRONG NHO GIÁO VÀ GIÁ TRỊ PHỒN THỰC

Chùm bài về Mỹ thuật cổ:
Bài 4: BIỂU TƯỢNG NỮ TRONG NHO GIÁO VÀ GIÁ TRỊ PHỒN THỰC
Trang Thanh Hiền


BIỂU TƯỢNG NỮ TRONG NHO GIÁO VÀ GIÁ TRỊ PHỒN THỰC
Ở CHẠM KHẮC ĐÌNH LÀNG


Trang Thanh Hiền

Đình làng xưa kia vốn được xem là đại diện của chính quyền phong kiến, một dạng thức tiểu triều đình với những định chế Nho giáo khắt khe ở làng xã Việt Nam. Hình thức kiến trúc này phát triển và thịnh hành vào thời Lê (thế kỷ XVI – XIX), khi đạo Nho ở giai đoạn hưng vượng nhất. Có một nghịch lý là nơi này thường cấm phụ nữ bén mảng đến, nhưng hình tượng của những người phụ nữ lại được khắc tạc một cách thừa thãi và táo bạo trên hầu khắp các thành phần kiến trúc.

Người ta có thể nhìn thấy ở đấy muôn mặt cuộc sống đời thường và cuộc sống tâm linh với những hình tượng người phụ nữ. Họ kiến tạo nên các giá trị khác nhau của cuộc sống, niềm vui, nỗi buồn, niềm hạnh phúc, và các giá trị sinh tồn trong tín ngưỡng phồn thực. Người ta đồng thời cũng nhìn thấy được tính chất hai mặt trong các giáo lý và phong tục xã hội của Việt Nam. Một mặt người phụ nữ được đặt trong những chế định của lễ giáo phong kiến như: “công, dung, ngôn, hạnh”, “tam tòng tứ đức”, hay đặt chữ trinh tiết lên hàng đầu... trong khi đặc quyền của đàn ông là “năm thê, bảy thiếp”. Nhưng mặt khác lại có những luật định cho sự phá rào, và điều này đã mở đường cho các giá trị phồn thực ở các chạm khắc đình làng được tồn tại và phát triển một cách rực rỡ.

Nho giáo vốn coi thường phụ nữ: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, nhưng trong cái mạch nguồn của cuộc sống làng xã, thì người ta cũng lại có câu “Tam nam bất phú, tứ nữ bất bần” cho thấy vai trò của không thể thiếu của người phụ nữ trong xã hội phong kiến Việt Nam. Người Việt vốn thực dụng, bởi cuộc sống của họ quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời, chỉ mong đủ ăn, đủ mặc đã là điều may mắn. Do vậy các giáo lý Nho giáo kia nếu quá cao siêu, mà không thích ứng được với các giá trị thực dụng của làng xã và của người dân, thì cũng không có giá trị gì. Nó sẽ bị chặn lại ngoài lũy tre làng.

Cái lý thuyết “trọng nam khinh nữ” của Nho giáo sở dĩ ăn sâu bắt rễ được vào nông thôn Việt Nam là do nó đã bắt nhập được với tín ngưỡng thờ tổ tiên của người Việt – tín ngưỡng bản địa có giá trị dung hòa mọi tôn giáo du nhập và phát triển. Trọng Nam cũng là trọng người duy trì nòi giống tổ tiên. Nhưng đồng thời cũng không quá khinh nữ theo quan điểm Nho học chính thống. Do vậy mới có câu “Ba đồng một mớ đàn ông, ta thả vào lồng ta xách đi chơi, ba trăm một mụ đàn bà, mua về mà trải chiếu hoa mời ngồi”. Điều này đã thêm chứng tỏ giá trị của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Tất cả các hiện tượng kể trên đã phần nào giải thích cho các chạm khắc nơi đình làng, tuy là nơi cấm phụ nữ không được bén mảng tới nhưng các hình tượng nữ như cưỡi rồng, phượng, thậm chí cả những cô gái khoả thân được mô tả tràn ngập.

Đình làng vốn là bộ mặt của làng xã, là nơi tâm linh và ảnh hưởng đến vận mệnh của cả một làng. Do vậy, không có chuyện là họ được tạc một cách ngẫu nhiên, hoặc do sở thích của các hiệp thợ tùy tiện mà muốn chạm khắc thế nào cũng được. Đình làng là nơi tôn nghiêm, do vậy các chạm khắc ở đây phải thể hiện được lý tưởng, khát vọng của cả cộng đồng. Nên hình ảnh của các cô gái, nàng tiên ở đây hoàn toàn mang một giá trị khác, họ được xem là biểu tượng của tín ngưỡng phồn thực - một tín ngưỡng tối cổ của người Việt hơn là quan niệm giáo điều khắt khe của Nho giáo. Tuy nhiên điều phức tạp là tín ngưỡng này ở giai đoạn thịnh hành của Nho giáo đã tìm được một giá trị hoà nhập với lý tưởng đông con nhiều cháu và quan niệm về phúc, thọ. Các lý thuyết của Nho gia về gia đình dòng tộc, về sự nối dõi tông đường đã trở thành ước vọng của xã hội phong kiến xưa, và thậm chí còn tiếp tục được phát triển duy trì trong xã hội hiện nay. Do vậy để diễn đạt ước vọng này, người ta đã hình tượng hóa những người đàn bà để đưa lên các chạm khắc. Và thậm chí nếu có đưa vào đó cả những hình ảnh khoả thân - hình ảnh trái ngược hoàn toàn với chữ “công dung ngôn hạnh” của phụ nữ trong Nho giáo, nhưng có thể biểu hiện được những lý tưởng kể trên của dân gian thì vẫn hoàn toàn được chấp nhận. Và đương nhiên để khởi sự cho các hình tượng táo bạo đó, dân gian lại bắt đầu từ các truyền thuyết về “Con rồng cháu tiên” để thể hiện những hoạt cảnh: “Tiên cưỡi rồng”, rồi theo đó những hình tượng người phụ nữ tràn vào đình làng như một biểu tượng không thể thay thế cho sự sinh sôi phát triển. Người ta tìm thấy rất ít các biểu tượng khoả thân nữ trong đình làng thế kỷ XVI, kể cả trên hình tượng của các cô tiên. Chỉ sang thế kỷ XVII, khi nghệ thuật điêu khắc đình làng phát triển đạt đến đỉnh cao, các hình tượng khoả thân đó mới xuất hiện một cách phong phú.

Về biểu tượng tiên cưỡi rồng - phượng, có lẽ không phải đợi đến có lý thuyết về Nho giáo, mới tràn ngập đình làng. Ban đầu nó đã hiện hữu khá đa dạng trong các kiến trúc chùa Việt, như các chạm khắc ở chùa Thái Lạc là một điển hình. Các cô tiên nữ dâng hoa, thổi sáo, đánh đàn để ca ngợi các giáo lý của Phật giáo đã trở thành một hình ảnh quen thuộc. Đến sự phát triển nở rộ của đình làng sau thế kỷ XVI, bằng tất cả những lý do kể trên cộng thêm ý nghĩa về sự ca ngợi công đức của vị thánh tổ của làng xã Thành Hoàng làng, mà các cô tiên nữ này cưỡi rồng, phượng thổi tiêu, sáo đã khiến cho khung cảnh ở đây trở nên linh thiêng. Sau này chỉ cần có sự hiện diện của các cô tiên nữ múa hát trong bối cảnh xum vầy tiên rồng cũng đã đủ để nói lên ước vọng phồn thịnh của cư dân nông nghiệp. Như vậy cũng có thể nói các chạm khắc đình làng là địa hạt để các giáo lý tôn giáo tìm được những giá trị hòa hợp nhất định.

Từ các cô tiên nữ cưỡi rồng, đến sự xuất hiện của các cô thôn nữ chỉ là một bước ngắn để hợp thức hóa giá trị phồn thực trong tín ngưỡng cổ truyền với các giá trị Nho giáo. Ta có thể thấy tính chất đa dạng và mật độ xuất hiện cũng dày hơn. Có những cô táo tợn đến mức nắm râu rồng, hay cưỡi lên đầu rồng, mà biểu tượng rồng trong nghệ thuật tạo hình phong kiến thường đại diện cho vua chúa. Tuy nhiên trên một trường ý nghĩa khác, con rồng ở đây lại được xem là biểu tượng của yếu tố dương. Do vậy cô nắm râu rồng, hay vui đùa trên mình rồng được giải thích theo một ý nghĩa khác, là sự hoà hợp âm dương, là một minh họa đặc trưng cho tính chất sinh sôi nảy nở. Tính chất ẩn dụ và tính chất biểu tượng vốn là một đặc trưng trong mỹ thuật cổ của người Việt. Nên, thậm chí không phải là rồng nữa, một số những bức chạm ở đình Hưng Lộc - Nam Định (thế kỷ XVII) hình ảnh những cô thôn nữ khoẻ mạnh ngồi xen lẫn giữa những cụm măng tre đang mọc lên tua tủa, cũng cho thấy tính chất hòa điệu của yếu tố âm và yếu tố dương.

Điều này cũng khiến chúng ta nhớ đến những trò diễn mang tính chất nghi lễ như “nõ nường” ở Phú Thọ. Trò diễn này thường được diễn ra vào lúc nửa đêm sau khi cụ chủ tế khấn và lui ra, từng đôi nam nữ bước vào chiếu, Nam cầm dùi gỗ tượng trưng cho sinh thực khí nam, Nữ cầm vật biểu tượng sinh thực khí nữ vừa múa vừa biểu hiện hành động tính giao, sau mỗi tiếng trống, hai vật này lại được lồng vào nhau một lần. Ngoài ra, người ta còn để thóc lúa giống dưới gầm giường của các đôi vợ chồng mới cưới, để mong rằng những hạt lúa gạo học theo, bắt chước hành động của con người mà sinh sôi nảy nở. Từ những màn diễn, tập tục trên cũng như những chạm khắc hiện diện ở chốn linh thiêng đình làng, người ta tin rằng các thần linh sẽ chứng giám mà phù hộ cho mùa màng tươi tốt và bội thu.

Những bức chạm khắc ở đình Phù Lão (Bắc Giang) thế kỷ XVII còn cho thấy tính chất tự do hơn nữa. Trên đầu bẩy hiên của gian giữa đình, có bức chạm một cô gái khoả thân ngồi trên râu rồng tết tóc, mặt cô ngoảnh lại để xem một đôi trai gái đang múa quạt, và xa hơn một chút là cảnh của một đôi nam nữ đang giao cấu. Hành động tính giao này còn được bắt gặp trên không ít các mảng chạm tại các cốn của chính đình này. Như mảng chạm trên cốn xà nách vì giữa, theo từng tuyến ghép của gỗ, phía trên là cảnh các cô tiên đang múa, cưỡi lên đầu rồng phía dưới là 3 đôi vợ chồng hoặc nam nữ đang tình tự. Ở đình Ngọc Canh (Vĩnh Phúc), trong khung cảnh lễ hội nhộn nhịp, nép vào một góc của cốn xà nách là một đôi trái gái đang đạt đến cực điểm khoái lạc.

Có lẽ bức các chạm khắc này đã mô tả sinh động nhất hiện tượng tháo khoán ở các lễ hội. Như hiện tượng “tắt đèn” trong lễ hội làng La Cả (Hà Tây), hay trò chơi “bắt trạch trong chum” (Vĩnh Phúc). Bình thường, trong sự hạn định của giáo lý Nho giáo với phụ nữ phải đặt chữ tiết nghĩa lên hàng đầu trong xã hội phong kiến. Nên con gái chửa hoang thường phải chịu phạt vạ ở giữa đình làng, gọt đầu bôi vôi, thậm chí thả trôi sông (các cảnh phạt vạ như vậy cũng tồn tại trên không ít các chạm khắc đình làng), thì những cô gái sau những lần tháo khoán như vậy mà có chửa, lại là điềm may mắn của cả làng. Các đứa trẻ này theo quan niệm của người dân lại là những đứa con do thần linh ban tặng. Điều này cho thấy giá trị nhân bản của các phong tục Việt Nam. Sự tiếp nhận Nho giáo trong dân gian là sự tiếp nhận có chọn lọc các giá trị ứng xử xã hội. Nó một mặt giữ cho đời sống của người dân được tuân theo các phép tắc nhằm có được một xã hội ổn định, nhưng đồng thời nó cũng không xóa nhoà đi các giá trị truyền thống mở ra những luật định để cho con người có được những lối thoát.

Song song và cùng mạch với các đề tài đã được thiêng hoá kể trên, thì đề tài tình yêu cũng được phát triển mạnh mẽ đáng kể. Mặc cho xã hội Nho giáo là “nam nữ thụ thụ bất thân”, các mảng chạm khắc như: “trai gái vui đùa”, “tình tự” “tắm sen” cũng không khác bao xa với các cảnh có tính chất tháo khoán ở trên. Nó cho thấy một mảng khác của đời sống tinh thần. Tính chất vui tươi dí dỏm được thể hiện ra trong các trò chơi và sinh hoạt dân gian. Lúc này những cảnh khoả thân có lẽ đã trở nên thường thấy trong các chạm khắc đình làng cuối thế kỷ XVII, nên việc có mặt của các hoạt cảnh này dường như không cần đến sự hợp thức hóa của các giá trị phồn thực mới có thể xuất hiện. Hơn nữa trong cái sự dày đặc của các mảng chạm khắc ở đa phần các chi tiết kiến trúc, thì việc có mặt của những hình tượng kể trên có thể khiến người ta không quá để ý đến chúng hoặc sẽ trở thành tâm điểm khi người ta phải dõi mắt nhìn sâu vào các bức chạm, để rồi thú vị khi phát hiện.

Như vậy ta thấy rằng trong nghệ thuật ở đình làng, biểu tượng nữ chiếm một vị trí đáng kể. Nó tạo nên những giá trị cân bằng giữa đời sống tinh thần và đời sống vật chất, giữa mong ước và hiện thực. Sự tôn vinh người phụ nữ trong các chạm khắc đình làng đề cao những giá trị không thể thay thế của họ trong xã hội và bù đắp phần nào cho sự cực nhọc của thân phận người phụ nữ những giáo điều phong kiến khắt khe. Nó đồng thời cho thấy giữa cái thiết chế Nho giáo về tổ chức xã hội để đạt được sự ổn định hài hòa, thì các giá trị của văn hóa cổ truyền, tín ngưỡng phồn thực vẫn được duy trì và phát triển như một nhân tố thiết yếu của cư dân trồng lúa nước.

Trang Thanh Hiền

ẢNH MINH HỌA VÀ CHÚ THÍCH ẢNH:

1. Tiên cưỡi rồng, chạm khắc ở đình Hạ Hiệp, Hà Tây

2. Các cô thôn nữ trên cốn đình Hưng Lộc, Nam Định

3. Cảnh giao hoan trong lễ hội, chạm khắc trên cốn đình Ngọc Canh (Vinh Phúc)

4. Trích đoạn Cảnh giao hoan trong lễ hội, chạm khắc trên cốn đình Ngọc Canh 
(Vinh Phúc)

5. Trai gái vui đùa đình Hưng Lộc, Nam Định

Tài liệu tham khảo:

1. Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự, Đình Việt Nam Nxb TP Hồ Chí Minh 1998

2. Chu Quang Trứ, Văn hoá Việt Nam nhìn từ mỹ thuật, Viện Mỹ thuật -Nxb Mỹ thuật 2002.

3. Trịnh Cao Tưởng, Một chặng đường tìm về quá khứ, Nxb KHXH 2007

DẤU ẤN NHO GIÁO TRONG CHẠM KHẮC DÂN GIAN VIỆT NAM

Chùm bài về Mỹ thuật cổ:
Bài 3: Dấu ấn Nho giáo trong chạm khắc dân gian Việt Nam
Trang Thanh Hiền


DẤU ẤN NHO GIÁO TRONG CHẠM KHẮC DÂN GIAN VIỆT NAM
Trang Thanh Hiền

Trong văn hoá dân gian Việt Nam, dường như chưa bao giờ có sự tách bạch giữa các hệ tư tưởng giữa Nho - Phật - Đạo. Người ta thường nói đến tư tưởng tam giáo đồng nguyên được thể hiện trên hầu khắp các lĩnh vực văn hoá nghệ thuật. Mỹ thuật không phải là một trường hợp ngoại lệ, những tư tưởng này dường như đã được hoà quyện lẫn nhau để tạo nên một hình thái rất đặc trưng của người Việt. Đặc biệt trên các chạm khắc dân gian, đan xen giữa các biểu tượng của Phật giáo, có biểu tượng của Nho giáo, thậm chí cả Đạo giáo. Người ta có thể tìm thấy cả những yếu tố Phật giáo trong điêu khắc đình làng, vốn được xem là một biểu tượng của Nho giáo dân gian, nhưng đồng thời người ta cũng lại tìm thấy những biểu tượng Nho giáo trên các điêu khắc Phật giáo trong các ngôi chùa Việt. Điều này đã gia tăng tính phong phú đa dạng của văn hoá mỹ thuật của người Việt.

Tìm hiểu về dấu ấn Nho giáo trên các chạm khắc dân gian ở đình làng, trong các chùa, trên các pho tượng, sẽ cho ta thấy sự phát triển của giáo lý này trên một phương diện hoàn toàn khác. Chúng không còn là lý thuyết sách vở nữa mà đã trở thành các biểu tượng nghệ thuật sống động phản ánh các quan niệm dân gian. Chúng thấm đẫm trong các sinh hoạt dân gian truyền thống để trở thành một nét văn hoá riêng biệt của làng xã Việt Nam.

1. Ý thức Nho giáo trong nghệ thuật chạm khắc:

Nho giáo vốn là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội, và đề cao vai trò của người quân tử. Do vậy trong nghệ thuật chạm khắc, các hình ảnh biểu tượng của Nho giáo là những hình ảnh liên quan đến việc biểu dương sự học; hay là các quan niệm về đạo đức của người quân tử; các cách thức cư xử của con người đối với cộng đồng; hoặc nó là biểu tượng của các vương triều và các vị quân vương. Đặc trưng của nghệ thuật là sự diễn tả bằng hình ảnh, do vậy không phải lý thuyết nào của đạo Nho cũng được chuyển tải, mà nó chỉ khắc hoạ các lý thuyết của Nho giáo trên khía cạnh đã được hình tượng hoá, hoặc có tính cách ẩn dụ, ví von để tìm sự tương đồng giữa hình tượng được thể hiện và ngữ nghĩa biểu hiện. 

1.1. Các biểu tượng Nho giáo trong nghệ thuật chạm khắc: 

So với Phật giáo, sự xuất hiện của các biểu tượng Nho giáo trên các chạm khắc có lẽ muộn màng hơn dù rằng Nho giáo và Phật giáo vào Việt Nam khá sớm. Văn Miếu Quốc Tử Giám được xem là một công trình biểu dương của đạo Nho, xây dựng từ thời Lý (1070), nhưng những biểu tượng về Nho giáo trong các hạng mục kiến trúc lại khá hiếm. Ngày nay, người ta tìm thấy vài chi tiết về rồng trúc, rồng mây trên một số các chạm khắc đá. Khi đã hoá trúc hoá mây, cũng có nghĩa hình tượng con rồng đã trải qua nhiều những sự biến chuyển khác nhau. Con rồng mây, trúc đó không chỉ tượng trưng cho vua mà còn được gắn liền với hình tượng của người quân tử. Nó là một đặc trưng của nghệ thuật thế kỷ XVIII, XIX. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với niên đại trùng tu của Văn Miếu Quốc Tử Giám ngày nay. Mặc dầu kiến trúc Văn Miếu theo sự ghi nhận của lịch sử được hoàn thiện vào thời Lê Sơ. Các di tích của giai đoạn này ở Văn Miếu có lẽ để lại phần nhiều trên các văn bia.

Con rồng trong các chạm khắc cổ Việt Nam, đẹp nhất, thần thoại và thuần nhất chính là các mô típ rồng thời Lý. Chúng không chỉ mang tinh thần của Nho giáo, mà còn mang tinh thần của Phật giáo. Dáng vẻ thắt túi hình sin đều đặn của chúng thường hiền hoà, bình ổn trong cái thế vươn lên thịnh vượng. Người ta có thể tìm thấy chúng trong hầu khắp các di tích thời Lý từ cung điện cho đến các đền miếu, chùa chiền, trên các bệ tượng Phật. Ví dụ tiêu biểu cho sự hoà hợp của hai tinh thần này là đôi rồng chầu trong lá đề. Lá đề vốn là một biểu tượng của Phật giáo, con rồng từ trước tới giờ vẫn được xem là biểu tượng của vương triều, của vua. Hai con rồng ở đây cuộn mình vào hai nửa hình lá đề và chầu vào quả cầu lửa ở giữa, mà không hề cảm thấy có một sự gò bó hay khuôn thức nào. Trái lại điểm kết thúc của hai cái đuôi rồng lại hoà điệu với hình chóp của lá đề và quả cầu lửa ở trung tâm khiến cho biểu tượng này có một nét duyên dáng nhất định. Đây cũng là một hình thức biến thể đầu tiên của biểu tượng lưỡng long triều nhật và đồng thời phản ánh tính chất thịnh trị của một vương triều Nho + Phật. Các biểu tượng này được hiện diện trên các trang trí nóc mái của di tích Hoàng thành Thăng Long hay các tháp đá thời Lý mà những mảnh gốm kiến trúc đã chỉ ra.

Sang đến thời Lê Sơ, các biểu tượng rồng chầu lá đề vẫn tiếp tục được sử dụng, mặc dầu cái tâm thức về Phật giáo ở đây đã suy giảm mạnh. Trên diềm bia Vĩnh Lăng của Lê Thái Tổ người ta vẫn nhìn thấy hình tượng này. Điều này cho thấy tính cách mã hoá của các biểu tượng đã đủ mạnh để các nghệ nhân không thể loại bỏ đi những giá trị gắn kết chặt chẽ của chúng với nhau trong cùng một biểu tượng. Sau bia Vĩnh Lăng, trên bia của các triều đại vua kế tiếp, người ta nhìn thấy một sự thoát thai của các biểu tượng rồng. Rồng không còn mô thức hoá trong dáng vẻ hình Sin thuần nhất nữa, cũng như đã hiếm hơn những con rồng chầu trong lá đề. Diềm bia là các mô típ rồng trải dài, theo tính cách biểu tượng thuần tuý Nho giáo.

Ảnh hưởng của con rồng Trung Hoa trên các đồ án nghệ thuật Việt hiển hiện rõ nét hơn. Sự xuất hiện của con rồng hình yên ngựa chứng tỏ sự ảnh hưởng của nghệ thuật nhà Minh là khá rõ ràng. Không chỉ vậy, lúc này con rồng đích thực dùng để biểu tượng cho vua và vương quyền. Trong dân gian không được tuỳ tiện sử dụng hay trang trí rồng, phượng. Con rồng có bộ dạng uy nghi hơn với dạng sừng thú, mắt lồi, mình lớn có vẩy... chân có năm móng (trong khi rồng Lý đa phần là 3 hoặc 4 móng). Vẻ mặt của các con rồng này cũng dữ tợn hơn, uy dũng hơn, không hiền hòa dễ thân cận như các con rồng Lý -Trần. Đôi rồng ở thềm bậc của điện Kính Thiên và điện Lam Kinh là những biểu tượng điển hình cho triều đại phong kiến Lê Sơ, đồng thời cũng cho thấy tính cách thịnh trị Nho giáo của giai đoạn này. 

Nho giáo tạo nên những khuôn thức, đặt ra các giáo điều, trong khi Phật giáo lại hướng con người tìm về với bản chất tự nhiên. Do vậy khi ảnh hưởng của Nho giáo trở nên mạnh mẽ, thì nghệ thuật cũng bớt đi tính chất bay bổng. Biểu tượng rồng của các triều đại Lê Sơ là những ví dụ tiêu biểu. Mặc dầu người ta cũng tìm thấy một số biểu tượng rồng chầu chữ Phật trên trán một số bia của các ông vua đầu triều Lê này, nhưng cái tinh thần Phật giáo đậm nét như thời Lý - Trần đã không còn xuất hiện. Vẻ đẹp mềm mại được thay thế bằng tính chất hơi lên gân với các dạng thân hình xoắn vặn. Râu và bờm bay theo nhiều chiều hướng khác nhau. Đặc biệt cách người ta chạm những con rồng này theo kiểu xòe móng khoe vuốt mà ít nhất quán với sự biểu hiện của khuôn mặt. Thêm vào đó những hình ảnh vây lửa và mây đao, khiến biểu tượng này trở nên khó gần.

Thời Lê Sơ là giai đoạn Nho giáo được đề cao, thậm chí có vị trí khá độc tôn trong xã hội. Việc thi cử để ra làm quan không còn là đặc quyền của các con cái của tầng lớp quan lại quí tộc, mà trở thành chí hướng phấn đấu của đa phần các nho sinh trong nước. Một biểu tượng khác bắt đầu xuất hiện vào giai đoạn này là “cá vượt vũ môn hoá rồng”.

Người ta tìm thấy một mảng chạm ở chân thềm đá đàn Nam Giao - Hà Nội (nay thuộc hiện vật của Bảo tàng Lịch sử), có chi tiết cá hóa rồng. Theo phong cách chạm khắc thì mảng chạm này có niên đại sớm nhất là thời Lê Sơ.

Điểm thú vị nhất ở các mảng chạm cá hoá long của giai đoạn này chính là hình thức nhìn thấy chỉ là đầu rồng nhưng đuôi cá. Và người ta cũng nhận ra cái khéo của người nghệ nhân chạm khắc ở chỗ từ việc đưa ra khái niệm đến hình ảnh là không đơn giản. Cái phần mình cá sẽ phải sử lý thế nào cho hợp lý dưới sự hoán đổi thân phận(?). Các nghệ nhân đã rất khôn ngoan thế vào đó hình tượng của sóng nước khiến cho họ không phải mô tả chiều dài của con rồng, cũng như không cần thiết tả thực cách hóa hình của con cá. Kinh nghiệm này tiếp tục phát triển trên các điêu khắc đình làng thế kỷ XVI tiếp sau.

Trở lại với lịch sử Việt nam trong suốt thế kỷ XVI, XVII, XVIII để làm sáng tỏ hơn những giá trị Nho giáo được thâm nhập vào đời sống dân gian bằng các biểu tượng trong các chạm khắc Đình làng. Giai đoạn này cũng là giai đoạn của những cuộc nội chiến liên tiếp xảy ra, mà cái cốt lõi chính là sự mâu thuẫn trong tư tưởng và lý thuyết chính trị Nho giáo. Xã hội với thiết chế “đã có vua lại còn có chúa” của chính quyền Lê Trịnh đã thực sự báng bổ đối với chuẩn mực chính trị Nho gia(1). Nó cũng là nguyên nhân cho sự suy vi của đạo đức xã hội. Do vậy giai đoạn này mới có khái niệm “phép vua thua lệ làng”. Các chuẩn mực Nho giáo đã được phát triển sâu rộng trong sinh hoạt xã hội ở Việt Nam, nhưng dĩ nhiên cũng dễ chuyển hoá thành tín điều hay sai lệch về nội dung vì không xác lập được mối quan hệ vững chắc với lý luận (ngay từ tầng lớp trên). Sự phát triển co cụm vào làng xã đã sản sinh ra những biến điệu của lý thuyết Nho giáo.

Hơn nữa, hệ thống giáo dục khoa cử đã bình thường hoá sự hiện diện của Nho giáo trong đời sống xã hội, tầng lớp nho sĩ đông đảo hơn trước và trở thành lực lượng phổ biến Nho giáo trong sinh hoạt làng xã. Do vậy khác với giai đoạn trước, được tiếp nhận chủ yếu bởi chính quyền và trí thức, thì từ thế kỷ XVI trở đi, Nho giáo đã thấm sâu hơn vào nhiều cơ tầng của văn hoá dân gian (1). Nó cộng hưởng để tạo ra những ngôn ngữ mới trong nghệ thuật.

Nếu hình tượng “cá hoá rồng” thời Lê chỉ xuất hiện lác đác trên một vài di tích, thì nay trở nên phổ biến hơn và cũng ít nhiều khôn ngoan hơn. Các hình ảnh “cá - rồng’ được vận dụng linh hoạt trong các chạm khắc đình làng. Đặc biệt là các chạm khắc ở các đầu dư của kiến trúc giữa một bộ vì kèo. Đình Tây Đằng (Hà Tây) là ví dụ tiêu biểu nhất, hình ảnh cá hoá long ở đây được nhận thấy như “sự chui cột” của con cá mà biến thành rồng. Phía bên này rõ ràng là con đuôi con cá, sang đầu cột bên kia đã biến thành rồng. Các chạm khắc này còn độc đáo hơn cả việc cá lẩn trong mây, trong sóng nước để hoá rồng. Thông thường tất cả các đầu rồng này đều được chầu vào gian giữa. Do vậy biểu tượng cá hoá rồng ở đây về mặt ý nghĩa cũng không khác bao xa với các bức chạm “Vinh qui bái tổ” rất phổ biến trong các chạm khắc đình làng giữa thế kỷ XVII. “Cá hoá rồng”, hay “vinh qui bái tổ” đều là những biểu tượng ca ngợi lý tưởng của học vấn, đồng thời cũng là lý tưởng của Nho giáo. Bằng học vấn con người có thể thay đổi được thân phận của mình, không những vậy mà còn làm vinh danh cho cả làng, làm “mát mặt” cho Thành Hoàng làng.

Các mảng chạm khắc “Vinh qui bái tổ” có niên đại thế kỷ XVII – XVIII nở rộ ở các đình làng đã cho thấy những giá trị thiết yếu của hệ thống thi cử Nho giáo. Trong một mảng chạm ở các cốn xà nách, trung tâm vẫn là hình tượng rồng, các tuyến nhân vật được chia theo lớp mà râu và bờm của con rồng đã định vị. Vị tiến sĩ đội mũ cánh chuồn, có võng, lọng, biển hiệu, cờ quạt theo hầu, tiếp đến là người khênh trâu, lợn, chuẩn bị khao làng. Cái lối chạm lộng nhiều lớp đã tạo ra không gian sinh động cho bức chạm này. Đây cũng được xem như sự hóa rồng của anh khoá ở làng và được xem là lý tưởng mà người ta mong muốn đạt được đối với các thế hệ con cháu cả ngàn đời sau.

Sang đến nửa sau của thế kỷ XVIII, trong nghệ thuật chạm khắc ở đình làng, sự suy thoái bắt đầu hiện ra rõ nét hơn. Tính chất mô thức và tính chất tượng trưng xuất hiện. Các biểu tượng như tứ linh, tứ quí tìm thấy từ thời Lê Sơ, nay được dịp phát triển nở rộ. Nó cũng thích hợp với cách thức chạm nông mà chau chuốt của thế kỷ này hơn là cách thức chạm lộng, bong kênh cho những hoạt cảnh sinh hoạt dân gian sống động của thế kỷ XVII.

Tứ linh: Long, Lân, Qui, Phụng có lẽ được bắt gặp nhiều hơn là các biểu tượng Tứ quí. Nhưng các hình tượng Tứ linh giai đoạn này có nét đặc biệt hơn, chúng không được mô tả một cách đơn thuần mà thường là rồng, lân hay rùa, phượng đội (cõng) chữ Phúc hoặc chữ Thọ. Nó như khẳng định thêm tính chất tượng trưng biểu tượng của mình về sự vĩnh cửu hay tính trường tồn.

Tứ Quí: Tùng, cúc, trúc, mai vốn là biểu tượng cho bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, nhưng đồng thời nó cũng là biểu tượng của người quân tử như “trúc tước”. Ở chạm khắc các giai đoạn trước, người ta thường thấy các biểu tượng này được chạm xen lẫn với các hoạt cảnh sinh hoạt làng xã, hay các hoạt cảnh ca ngợi nền học vấn thâm sâu, mà chúng ta đã nói đến. Sang thế kỷ XVIII, trong các chạm khắc đình làng các biểu tượng này lại được nhìn thấy độc lập trên các cốn hoặc bình phong trang trí.

Ngoài sự phát triển độc lập của các hình tượng cây cỏ và các linh vật này, người ta còn bắt gặp các dạng thức rồng hoá trúc, rồng hoá mây xuất hiện một cách đa dạng. Kiểu thức rồng hoá mây ta đã ít nhiều biết đến ở thềm điện Kính Thiên và Lam Kinh, nhưng đến giai đoạn này phát triển phong phú hơn. Trên các đầu dư, đầu bẩy của kiến trúc đình làng người ta thấy không ít các con rồng mây hoá hay trúc hoá. Điều chúng ta đã nhắc đến ở phần trên trong các chạm khắc đá tìm thấy ở Văn Miếu. Hình tượng này đã được cách điệu quá nhiều so với những gì trước đó nghệ thuật chạm khắc đã biểu hiện ra. Trên các đầu bẩy hiên của đình làng, người ta có thể phân biệt được đó là hình tượng rồng có lẽ thông qua hình dáng của những chiếc vẩy còn sót lại, hay chi tiết đầu rồng, mắt, miệng, nhưng chân và thân đã được biến thành các đốt trúc. Cách thức rồng hoá này cho thấy sự tinh tế của tính chất biểu tượng lồng trong biểu tượng. Nhưng sự mô thức hoá đó cũng làm kém đi tính sinh động của một chạm khắc đình làng và bớt đi sự gần gũi với dân gian. Người ta có cảm giác, đây không còn là sáng tác dân gian nữa mà các nghệ nhân học được nó ở đâu đó trong sự ảnh hưởng của nghệ thuật Trung Hoa. 

1.2 Nho giáo và ảnh hưởng của nó trong việc thiết lập kết cấu kiến trúc: 

Thiết chế Nho giáo sau thế kỷ XVI ở triều đình đã ít nhiều lung lay do sự tiếm quyền lẫn nhau trong xã hội. Tính chất tự trị của làng xã được thiết lập từ triều Lê, khi nhà Lê đặt lại bộ máy chính quyền từ Trung Ương đến địa phương. Sự xuất hiện Đình làng phát triển lên từ Đình Trạm thời Lý Trần đã đánh dấu bước ngoặt này trong lịch sử tổ chức xã hội. Đình làng phát triển mạnh từ sau thế kỷ XV và thực sự nở rộ từ cuối thế kỷ XVI đến XVII- XVIII đã cho thấy Nho giáo bắt đầu xâm nhập vào đời sống dân gian. Tuy nhiên, Đình cũng lại chỉ phát triển thực mạnh khi Nho giáo Lê Sơ đi vào con đường bế tắc. Lúc này cái hệ thức văn hoá truyền thống của thiết chế làng xã cổ truyền Việt Nam với những tàn dư dân chủ nguyên thuỷ đã chặn nhiều yếu tố Nho giáo chính thống lại ngoài luỹ tre làng (1). Nó trở thành một cái phin lọc chỉ để cho những gì thích hợp với tâm thức dân gian được du nhập.

Và do vậy trên hình thức, thì Đình làng là một biểu hiện chính thức của Nho giáo trong dân gian, nên trong cách thức bố cục trang trí đã thể hiện ra tính chất thu nhỏ của một tiểu triều đình ở đó. Có thể lộn lại lịch sử xa hơn một chút để nói về dạng kiến trúc thuần Việt. Người Việt xưa kia vốn ưa thích một thiết kế kiến trúc hợp với tự nhiên, thuận theo tự nhiên mà làm như Cổ Loa thành là một ví dụ tiêu biểu. Hệ thức kiến trúc theo dạng đường thần đạo chỉ thực sự phát triển khi ý thức hệ Nho giáo ảnh hưởng mạnh mẽ vào Việt Nam. Ban đầu là cung điện, sau này mới đến các hình thức mộ táng. Mộ các vua nhà Lý, chúng ta không hề có dấu tích, nhưng mộ của Trần Thủ Độ, một viên quan lại đầu thời Trần vẫn được kiến thiết theo lối qui tụ vào trung tâm, Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ chấn bốn bề xung quanh. Chỉ đến cuối triều nhà Trần ở các lăng vua Trần Hiến Tông, Trần Anh Tông người ta mới bắt đầu nhìn thấy thức kiến trúc lấy trục đường thần đạo làm trung tâm.

Trở lại với kiến trúc Đình làng, ta thấy rằng có hai tuyến tổ chức trong đình. Đó là tuyến ngang và tuyến dọc. Tuyến dọc thuộc gian trung tâm và chạy suốt đến tận hậu cung, mà sau thế kỷ XVII nó càng ngày càng phát triển mở rộng để trở nên độc lập. Còn tuyến ngang là tuyến chạy sang hai bên cánh của ngôi đình, cũng là nơi các quan viên chức sắc tu họp bàn chuyện làng xã. Và chạm khắc kiến trúc cũng tuân thủ theo chức năng sử dụng này. Gian giữa luôn là gian thờ, nên cũng được xem như là đường thần đạo của ngôi đình. Các mảng chạm khắc cũng theo đó mà lựa chọn các chủ đề làm sao cho thích hợp với tâm thức chầu hầu vào gian giữa theo trục thần đạo, nơi có Thành Hoàng làng ngự trị. Thành Hoàng làng cũng chính là vị thần linh tối cao ảnh hưởng đến vận mệnh của cả làng xã.

Do vậy từ các đầu dư là các đầu rồng, khuôn mặt uy vũ dữ tợn, luôn chầu vào phía trong. Thậm chí đình làng Tây Đằng - một ngôi đình có niên đại khá sớm ở thế kỷ XVI, người ta còn chạm cho con rồng ở hai cột cái phía trong gần với hương án thờ Thành Hoàng quay mặt vào điện thờ. Như vậy tính chất hầu chầu đã được chú trọng. Các mảng chạm khắc khác cũng vậy, các sinh hoạt dân gian thường được chạm khắc ở các gian hai bên cánh của ngôi đình, còn gian giữa luôn là các mảng chạm rồng mây, rồng ổ, hay vinh qui bái tổ, cá hoá long, hay lão long huấn tử...

Những mảng chạm khắc này còn được phụ trợ thêm bởi yếu tố bài trí sắp đặt ở các đình làng. Các bộ bát bửu, lỗ bộ thường đặc đặt hai bên của các nhang án thờ thần cùng với ngựa, lọng, hoặc kiệu, những đồ dùng trong các lễ rước hoặc các ngày lễ hội của làng. Rùa đội hạc, hay phỗng chầu hai bên cũng góp phần vào tạo thêm tính chất thiêng liêng cho gian thờ. Ngoài ra những đơn nguyên kiến trúc khác được hoàn thiện dần từ thế kỷ XVI, khi đình chỉ có dạng chữ nhất đến dạng thức nội công ngoại quốc của đình thế kỷ XVIII đã ít nhiều củng cố cho quan niệm về trục đường thần đạo này. Từ cột biểu tường bao, qua một khoảng sân rộng, đến gian Tiền bái và toà Đại đình, đã tạo ra cho đình làng càng những thế kỷ sau dáng vẻ một tiểu triều đình cho ngôi nhà chung của cộng đồng làng xã.

Như vậy trên một phương diện nào đó, đây không phải là lý thuyết của Nho gia, nhưng cái ảnh hưởng của nó là hoàn toàn có thể. Nho giáo đã ngấm sâu vào quan niệm dân gian để sản sinh ra các qui định và cách thức riêng cho kiến trúc mỹ thuật. 

2. Biểu tượng Nho giáo xuất hiện trên các điêu khắc Phật giáo 

Các biểu tượng Nho giáo xuất hiện trên các điêu khắc Phật giáo thường ít ỏi và thiếu đậm nét hơn trên các chạm khắc trong Đình làng. Bởi nghệ thuật điêu khắc Phật giáo có những nguyên tắc riêng, qui chuẩn riêng. Tuy nhiên, văn hoá, nghệ thuật Việt nam vốn không có mấy sự tách bạch quá rõ ràng trong các hệ tư tưởng Nho - Phật - Đạo, nên các yếu tố Nho giáo được tìm thấy trong các điêu khắc Phật giáo cũng không có gì quá ngạc nhiên.

Như chúng ta biết rằng, đối với Phật giáo Việt Nam thế kỷ XV là sự ngưng trệ, nhưng khi chính quyền chuyển sang tay nhà Mạc, các chính sách tôn giáo được nới lỏng, Phật giáo đã phục hưng trở lại. Lúc này, thương nghiệp phát triển mạnh. Quan Âm vốn là vị Phật cứu khổ cứu nạn ngay lập tức ứng hiện khi nghe thấy lời nguyện cầu và đặc biệt hay ra tay cứu giúp cho các thương thuyền bị nạn. Do vậy, đạo Phật giai đoạn này, tục thờ và hình tượng Quan Âm được xem như là một hiện tượng đặc biệt phát triển nở rộ ở khắp nơi. Hệ thống các chùa thờ Quan Âm ở các chiền sông xuất hiện. Theo đó các dạng thức điêu khắc tượng Quan Âm cũng phát triển mạnh, và ở đó đồng thời cũng thể hiện ra những nguyện cầu khác nhau của dân gian không chỉ là cứu khổ cứu nạn hay phù hộ độ trì cho các thương thuyền. Một trong những nguyện cầu đó cũng như những chạm khắc ở Đình làng là sự hiển đạt của các thế hệ sau.

Do vậy trong vô số các bảo vật mà Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn cầm với ý nghĩa hoá độ chúng sinh, có sự xuất hiện nghiêm, bút, hay cuốn thư biểu tượng của sự học vấn. Ví dụ như ở tượng Quan Âm chùa Mễ Sở (Hưng Yên). Đây cũng là một trong số ít những tượng Quan Âm cổ thuộc loại lớn ở Miền Bắc Việt Nam. Cho dù không thật phổ biến, nhưng hiện tượng này cho thấy tính chất giao thoa mạnh mẽ của các hệ tư tưởng trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam.

Ngoài ra một biểu tượng khác liên quan đến hệ tư tưởng Nho giáo đó là các hình tượng bát bửu được xuất hiện cũng khá phổ biến trên các bệ tượng Phật từ sau thế kỷ XVII. Các hình tượng bát bửu gồm cả của Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo. Bát bửu của Nho giáo bao gồm: cuốn thư, quạt vả, bút nghiêm, kiếm, sáo, đàn, bầu rượu, túi thơ. Những vật phẩm này cũng không mang tính nhất quán, mà có thể thay đổi hoặc ảnh hưởng của cả các hệ tư tưởng khác. Hình ảnh của Bát bửu Nho giáo được tìm thấy xuất hiện sớm nhất trên bệ tượng Phật chùa Bút Tháp với hình ảnh của cuốn thư. Đây chỉ là một hoạ tiết trang trí có tính chất phụ trợ trên bệ tượng, nên nó không mang nhiều ý nghĩa đối với pho tượng, mà có thể chúng được đưa vào như một thói quen của các nghệ nhân tạc tượng.

Sự hiện diện của Nho giáo trên các điêu khắc Phật giáo cho dù ít ỏi nhưng chúng cho thấy tính chất khúc xạ mạnh mẽ của hệ tương tưởng này, đồng thời là những minh chứng phong phú cho tính hỗn dung của văn hoá truyền thống Việt Nam.

Như vậy từ những biểu tượng chạm khắc hay kiến trúc mang dấu ấn Nho giáo kể trên cho thấy Nho giáo đã đóng một vai trong không nhỏ trong việc phát triển nghệ thuật Việt Nam trong quá khứ. Từ các biểu tượng nghệ thuật gắn liền với ý thức hệ Nho giáo, chúng ta thấy rằng đã có một ngôn ngữ khác để diễn đạt hệ tư tưởng này. Đặc biệt là giai đoạn từ thế kỷ XVI đến XIX, Nho giáo được dân gian tiếp thu một cách có chọn lọc những lý tưởng phù hợp với nó để sản sinh ra các biểu tượng nghệ thuật dân gian phong phú đa dạng. Việc tìm hiểu Nho giáo trong nghệ thuật tạo hình nói chung cũng như trên các chạm khắc, điêu khắc dân gian là một cách thức hữu hiệu để soi tỏ các vấn đề của lịch sử tư tưởng Việt Nam.


MỘT SỐ HÌNH ẢNH KÈM THEO BÀI VIẾT


1. Rồng chầu chữ Phật trên trán bia chùa Kim Liên (Quảng An Tây Hồ) 1445. (Nguồn: Tài liệu 2)

2. Rồng hình yên ngựa mặt cạnh bia Lê Thái Tổ (Lam Kinh, Thanh hoá) 1498. (Nguồn: Tài liệu 2)

Tài liệu tham khảo:

1. Cao Tự Thanh, “Nho giáo với lịch sử Việt Nam”, Nho giáo ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội 2006 (tr312).
2. Viện Mỹ thuật, Bản dập hoạ tiết mỹ thuật cổ Việt Nam, Nxb Mỹ thuật 2000.
3. Trang Thanh Hiền, Hình tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn ở Việt nam, Nxb Văn hoá Thông tin 2005.
4. Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự, Đình Việt Nam, Nxb TP Hồ Chí Minh, 1998.