Chủ Nhật, 24 tháng 7, 2011

NHẬT KÝ BIỂU TÌNH: ĐI GIỮA ĐỒNG BÀO

Ảnh: Hoàng Xuân Phú
ĐI GIỮA ĐỒNG BÀO
(Nhật ký biểu tình ngày 3 tháng 7 năm 2011)
Đào Tiến Thi

Bốn cuộc biểu tình đầu, lần thì bận, lần thì cũng như nhiều người, chưa vượt qua nỗi sợ mà không đi, nhưng càng không đi thì càng bị thôi thúc và mặc cảm tội lỗi. Tổ quốc lâm nguy mà mình tránh mặt, không dám có một hành động đơn giản nhất để phản ứng lại kẻ xâm lược thì không sao bào chữa cho cái hèn và cái lười (và muôn vàn cái khác) của mình. Lại xem ra số người xuống đường mỗi cuộc mỗi ít. Cơ đồ nguy quá rồi, chẳng lẽ ngồi chờ cái chết từ từ của đất nước? Thôi thì cứ đi. Bị bắt đi nữa thì cũng chịu được. Mà nói dại, cũng cần tập dần, lỡ sau này đất nước mất về Trung Quốc thì cái sự bắt bớ hôm nay có là gì. Lúc đi mua áo cờ, con trai bảo: “Bố mua cho con một cái nữa”. Bảo: “Con hiện giờ chưa nên đi”. “Vâng, nhưng thế nào rồi con cũng phải đi bố ạ”. Thấy mừng vì con trai trưởng thành nhanh không ngờ.

Bỗng nó lại hỏi: “Nhưng bố vẫn đang viêm họng, lại ù tai thì làm sao hô khẩu hiệu được?”. Tôi bảo: “Đợt viêm này là viêm mãn, chỉ rát cổ chứ không đau, nói được là hô được, hô to là khác”.

8h15 đến trước vườn hoa Lenin. Cảnh sát đã cấm đường và cấm cả vào công viên. Có vài chục người tập hợp khoảng 3, 4 nhóm, nói chuyện bâng quơ, cốt chờ đợi giờ G. Chẳng gặp ai quen. Mãi trước giờ G mới thấy TS. Nguyễn Quang A, liền đến bắt tay và tự giới thiệu mình từng là học viên ở một lớp học nọ, được nghe bác ấy giảng bài và từ bấy vẫn đọc các bài bác ấy viết.

8g40 bỗng một cậu thanh niên cầm biểu ngữ bước ra hô khẩu hiệu và mọi người hô theo. Một bác đưa cho tôi một khẩu hiệu in trên giấy A3, có cả tiếng Trung. Tôi rất thích nhưng mình bảo tôi cũng có rồi, để dành người khác. Các khẩu hiệu chủ yếu vẫn như các lần trước, nhưng có một khẩu hiệu hay hay trích câu của Gandhi: “Chúng ta hoảng sợ không phải vì sự hung ác của kẻ mạnh mà sợ vì sự nín nhịn của người thiện”.

Cuộc tấn công miệng trước Đại sứ quán Trung Quốc rất ngắn ngủi. Chỉ khoảng 5, 7 phút, cảnh sát đã dồn đoàn người về phía đường Trần Phú. Không có ai tranh cãi với cảnh sát nhưng đoàn người cũng nấn ná không chịu đi ngay. Lần đầu tiên tôi áp sát CSCĐ. Trước kia nhìn trên màn hình, thấy các chú áo đen, mũ nồi, lá chắn trông khủng khiếp như thần Chết, cũng kinh, nhưng giáp mặt cũng thấy họ hiền thôi. Toàn thanh niên trẻ, cao lớn, đẹp trai. Họ cứ ấn lá chắn vào lưng chúng tôi đẩy đi. Tôi nói nhỏ với một cậu: “Các cháu không thấy thương dân, không thấy cảm phục dân mình à? Hãy để nhân dân hô ít câu cho bọn Trung Quốc nghe thấy rồi hãy đuổi”. Cậu này tha cho tôi được nửa phút rồi lại đẩy tiếp, bảo “Biết rồi, thôi bác đi cho”. Hôm nay xuống đường chẳng được đông, may thì được 100. Tuy nhiên tinh thần rất hăng hái. Cứ dịch dịch một tí lại dừng lại hô vang khẩu hiệu, cho đến khi tiếng loa chói gắt bắt giải tán và các lá chắn ấn mạnh quá mới chịu đi tiếp.

Bắt đầu khởi hành. Có một anh tuổi trung niên, từ nãy tôi cứ nghi nghi là mật vụ, vì không thấy hô khẩu hiệu, nhưng khi lên đường mới thấy anh tung biểu ngữ và quán xuyến đội hình, nhắc bà con chú ý bảo vệ nhau, vì có thể Trung Quốc cho mật vụ trà trộn vào và bắt cóc người của ta. “Nếu để cho nó bắt người mình ngay giữa thủ đô của mình thì rất nhục”, anh nhắc lại mấy lần. Nếu quả có thế thì kinh khủng thật. Chẳng lẽ nòi giống Đại Việt anh hùng lại suy đồi đến thế a?

Đoàn người đông dần, lúc đông nhất có lẽ đến hai trăm. Trên đoạn Hai Bà Trưng được gặp anh Gốc Sậy (Về sau tôi mới biết là tiến sỹ Nguyễn Hồng Kiên). Tôi nhận ra vì đã nhìn thấy anh trên mạng ở mấy cuộc trước. Đúng là “gốc sậy”. Người nhỏ nhắn, nhưng dáng nhanh nhẹn thông minh. Tôi đọc lại câu của Pascal “Người là cây sậy…” và nhắc lại cái bài tường thuật rất hay của anh ở lần biểu tình thứ hai hay thứ ba gì đấy.

Trời nắng gắt. Đoạn đường Hai Bà Trưng khá dài. Đoàn người đi hơi rời rạc. Nhưng tới Nhà Hát Lớn mọi người hăng hái trở lại. Cảnh sát áo xanh đứng chặn thành hàng không cho lên bậc thềm Nhà Hát nhưng một số người đã nhanh chân lên được. Tôi  lựa một chỗ trống lỏn lên, cũng thoát. Những người còn ở dưới đấu tranh mạnh, bảo đây không có biển cấm và chả có gì phải cấm, cuối cùng cũng được lên cả.

Cậu thanh niên áo đỏ hăng hái đi đầu lúc khởi hành lấy ra bản tuyên cáo và nhờ một nhân sỹ nào đó đứng ra đọc. Nhưng không kiếm được bác nào “lớn lớn” (hình như nắng gắt, hành trình  dài, bác Ngô Đức Thọ, bác Nguyễn Quang A đã về). Tôi vớ được anh Phạm Xuân Nguyên, là một bác trí thức cũng “trọng trọng” cả danh vọng lẫn tuổi tác,  liền đẩy anh ra. Nhưng không hiểu sao anh Nguyên không nhận lời. Thế là cậu áo cờ Tổ quốc lại “thân chinh” đọc. Kết thúc, đoàn người hô vang các loại khẩu hiệu. Nhưng CS không cho đứng lâu. Một sỹ quan CS mặt rắn đanh cầm loa thét mọi người giải tán.

Đoàn người đi vào Tràng Tiền để ra Bờ Hồ. Vừa qua ngã tư thì có tiếng la “Quay lại, quay lại”. Tôi với anh Nguyên dắt nhau quay lại. Lại có tiếng kêu “Có người bị bắt”. Các bạn thanh niên chạy vượt qua chúng tôi, có hai cậu quấn cả biểu ngữ làm tôi và anh Nguyên ngã dúi dụi. Sau một cậu kêu cậu kia buông tay ra để cậu rút rồi cuốn lại chứ cả hai cùng nắm thì gỡ sao được. Chỉ có thế mà cả bốn người không nghĩ ra!

Thấy đoàn người hừng hực trước cửa đồn côn anh Tràng Tiền đang hô to “Đả đảo bắt người”, chúng tôi hô theo. Tiếng loa yêu cầu trật tự, nhưng mọi người phớt lờ, những lời hô và cánh tay cứ giơ lên thành nhịp: “Đoàn kết”, “Đả đảo bắt người trái phép”, “Trả người”, “Trả người”. Tôi bảo một bác đứng tuổi: “Cần có người đại diện vào thương thuyết bác ạ”, bác bảo “Có rồi đấy”. Khoảng 5 – 7 phút sau thấy những người đứng phía trong reo “Hoan hô công an”. À, thế là thả rồi. Đám đông vây kín người được thả khiến tôi cũng không rõ người bị bắt là ai. Tôi kêu to “Phải kiểm tra, lỡ vẫn còn người bị giữ thì sao”. Nhưng nhiều người bảo hết rồi. Tất cả kéo nhau ra Bờ Hồ.

Vừa được hưởng cái mát mẻ của Hồ Gươm được mấy bước thì một rừng CSCĐ áo đen, mặt lạnh, nhiều cậu to như hộ pháp, hùng hổ xông đến bắt đoàn người phải giải tán. Mọi người lừng chừng, tản ra xung quanh một chút rồi nhập lại đi tiếp, CSCĐ cũng thôi. Qua cổng trụ sở Quận đoàn Hoàn Kiếm, đoàn người dừng lại khá lâu....

Dọc đường, rất nhiều các tiếp viên nhà hàng và các du khách nam thanh nữ tú đang dạo chơi ngó xem chăm chăm nhưng không ai nhập cuộc hay hưởng ứng một vài lời hô. Một cô bé chừng 20 tuổi, trắng trẻo, xinh xắn, chạy đến tôi, cất giọng hỏi rất bài bản: “Chú ơi, chú có thể cho cháu hỏi một số câu hỏi được không?” Ái chà chà, nghe cứ như những câu trong bài học tiếng Anh (Excuse me, may I have the pleasure…) dạy về cách hỏi “cực” lịch sự. Đại thể những câu như thế này:
– Đoàn biểu tình đi từ đâu đến ạ?
– Thưa chú, cuộc biểu tình là do tổ dân phố đứng ra tổ chức hay là ai tổ chức ạ?
V.v…
Tôi khó chịu nhưng vẫn kiên nhẫn trả lời. Nhưng đến câu sau đây:
– Chú ơi, chú có thể cho biết lý do của cuộc biểu tình này không ạ?
thì tôi nóng tiết quá, tôi gắt:
– Cháu nhìn mọi người, cháu nghe các khẩu hiệu, thế mà còn hỏi lý do? Cháu không biết tí gì tình hình đất nước à? Chú không thể tưởng tượng thanh niên như cháu mà lại hoàn toàn mù như thế.
Anh Phạm Xuân Nguyên đứng bên cạnh (hình như đã theo dõi từ đầu) cứ cười mà chẳng hỗ trợ tôi tí nào. Tôi mắm môi định mắng to hơn nữa. Cô bé có vẻ hoảng, vội cảm ơn rồi chuồn nhanh.

Đến tượng đài Cảm tử quân thì đã trưa, khoảng 11giờ, nắng gay gắt. Mệt và mỏi. Cũng chỉ còn độ dăm chục người nhưng vẫn hô khẩu hiệu rất đanh, rồi mọi người nhanh chóng chia tay. Tôi vừa quay đi được mấy bước thì một anh trung trung tuổi vừa rời đoàn biểu tình đến bắt tay tạm biệt. Có lẽ anh ấy kém tôi độ dăm bảy tuổi, nhưng lúc đầu nghĩ tôi ít tuổi hơn nên bảo “Em về khoẻ nhé”. Rồi nói nhỏ, đổi lại xưng hô: “Anh cẩn thận, “nó” theo dõi anh đó. “Nó” biết anh đấy”. Mình hơi hoang mang, hỏi: “Thế thì đi bằng cách nào?”. Anh bảo: “Rủ vài người, gọi taxi, tìm cách đánh lạc hướng. Thôi em về đây”.  Tôi nhìn đi nhìn lại cũng chỉ còn thấy một bác lớn tuổi vừa rời đoàn là đi cùng hướng với mình. Nhưng hỏi ra thì bác ấy lại đi khác hẳn tuyến đường. Tôi bảo: “Em bị “bám” rồi, nên thế nào anh?”. Anh bảo: “Kệ mẹ nó. Mình có làm gì sai đâu”. Ừ, thôi kệ, việc của họ. Trí tò mò bỗng muốn xem cái “đuôi” nó thế nào nên quyết định đi bộ một đoạn để quan sát. Lúc rẽ vào đường Tràng Thi, gần 12 giờ trưa, chủ nhật, đường vắng tanh. Bỗng thấy cô đơn, yếu đuối vô cùng. Nghĩ bây giờ “nó” vù xe đến, quặp mình lên xe, thì có kêu cứu cũng không kịp. Mà dẫu có ai trông thấy, cũng không ai nghĩ là bắt người đi biểu tình, vì đã cách chỗ biểu tình khá xa và người đi biểu tình cũng đã về hết từ lâu. Nhưng mà những việc khuất tất như thế trước sau cũng lộ tẩy. Hậu quả nặng nề sẽ thuộc về những kẻ xấu xa, còn mình thì cố chịu trận, cuối cùng cũng sẽ vượt qua, miễn là can đảm thôi. Thấy một bác xe ôm, tôi liền gọi đi ngay.

Hôm sau đi làm, tôi chủ động gặp giám đốc, kể việc hôm qua đi biểu tình, để nếu công an có hỏi đến thì lãnh đạo của mình cũng biết mà trả lời. Giám đốc của tôi vốn là một thầy giáo nho nhã, một người hiểu biết và rất nhân từ bác ái, lại là một cựu chiến binh chống Mỹ, nên không có gì ngạc nhiên về hành động của tôi, dù trước đó trong cơ quan chưa có ai làm như tôi. Anh bảo: “Em yên tâm, chắc công an cũng chẳng hỏi gì đâu. Và chẳng có gì phải lo lắng cả, khi mình hành động theo lương tâm”. Tôi bảo: “Vâng, em cũng sẵn sàng làm việc nếu công an triệu tập. Cũng như việc em đi biểu tình, đấy chỉ là những việc tối thiểu có thể làm được vì Tổ quốc.

TÂM TRẠNG HẬU BIỂU TÌNH
Trong cuộc biểu tình này tôi rất phục một phụ nữ khoảng ngoài bốn mươi, luôn đi đầu hô khẩu hiệu rất đanh thép. Sau này biết chị ấy tên Hằng, người gốc Hà Nội nhưng nay hộ khẩu ở Bà Rịa - Vũng Tàu. Tôi sẽ nói thêm về chị khi kể về cuộc biểu tình 17-7. Cũng rất phục đoàn người hôm nay dù ít nhưng đã cố kết với nhau, đã đấu tranh quyết liệt về vụ bắt người trái phép.

Và rất vui vì có những phút giây mình được sống là mình, chân thành, cởi mở, không sợ hãi, nói như Nam Cao là “đầy hăng hái và tin tưởng”. Chưa bao giờ cảm nhận được hai chữ “đồng bào” vừa thiêng liêng vừa gần gũi đến như thế. Bỗng nhớ đến thi sỹ Tản Đà cũng có những phút giây hạnh phúc như vậy, khi ông đem chia số tiền lẻ còn lại cho lũ trẻ nghèo gặp tình cờ ở núi Sót, Hà Tĩnh. Cụ gọi đó là “cơn vui đồng chủng đồng bào, tưởng như ngư phủ gặp đào nguyên chưa hẳn có thú vui như thế vậy”.

Còn buồn và lo lắng thì khôn kể xiết. Một Hà Nội lớn như thế mà chỉ có một nhúm xuống đường. Có người bảo như thế Trung Quốc nó cười cho. Tôi thì không nghĩ Trung Quốc nó cười. Một người xuống đường nó cũng sợ, nhưng giá có mười người xuống đường nó phải sợ gấp mười, trăm người nó sợ gấp trăm,… Tôi nghĩ Trung Quốc rất sợ nhân dân Việt Nam, cho nên tất cả các hành động gần đây đều nằm trong chuỗi hành động thăm dò để lấn dần từng bước nếu ta không phản ứng mạnh. Đáng buồn là nhiều người bây giờ, trong đó có cả những trí thức chữ nghĩa hàng bồ, lại đi sợ sức mạnh của Trung Quốc. Trung Quốc so với ta (về vật chất) lúc nào chả mạnh hơn, nhưng đem quân sang đánh ta thì hầu hết đều thua (nói “hầu hết” vì cũng có những lúc ta thua do mất đoàn kết và mất tinh thần, bỏ mất cái sức mạnh tuyệt đối của ta). Người ta lớn bởi vì ta quỳ xuống, câu thơ của Tố Hữu vừa mới hôm nào ai cũng thuộc mà sao bây giờ nhiều người vội quên thế?

Kỳ sau: Sống trong đồng chí
(Về cuộc bị bắt ngày 17 tháng 7 năm 2011)

PHẠM XUÂN NGUYÊN: ĐAU XÓT NHỤC NHÃ BIẾT BAO!

Phạm Xuân Nguyên

Lời dẫn của Nguyễn Quang Lập: Cách đây vài tháng mình đã có bài “Ai đục bỏ lòng yêu nước” kể chuyện Tấm bia kỷ niệm chiến thắng tại đầu cầu Khánh Khê (Lạng Sơn)  đã bị đục bỏ mấy chữ “Trung Quốc xâm lược“. Chuyện này do Mr. Do kể lại và đã gây sốc rất nhiêu người. Cứ tưởng đây là chuyện hi hữu, có một không hai. Không ngờ tại đền thơ vua Quang Trung trên núi Dũng Quyết ở thành phố Vinh (Nghệ An), tấm bia khắc thơ Hồ Chủ tịch đã bị đục bỏ chỉ vì lời yêu nước chống Tàu của Bác. Tệ hại hơn, tấm bia khắc công trạng của vua Quang Trung cũng bị đục bỏ, vì đó là công trạng chống Tàu. Thật kinh khủng khiếp.

Kể từ 30/6 blog mình không đăng bài người ngoài. Bài viết của Phạm Xuân Nguyên là một ngoại lệ, một ngoại lệ vô cùng cần thiết.

Nguyễn Huệ là kẻ phi thường
Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm, giặc Tàu
Ông đà chí cả mưu cao

Dân ta lại biết cùng nhau một lòng
Cho nên Tàu dẫu làm hung
Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà


Cả đoạn thơ viết về Nguyễn Huệ trên đây của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã được khắc vào tấm bia đá đặt ở đền thờ “người anh hùng áo vải” trên núi Dũng Quyết ở thành phố Vinh (Nghệ An). Đền này được khánh thành năm 2008. Đi vào cổng đền, qua bình phong tứ trụ, là hai nhà bia nhìn vào nhau. Nhà bia bên trái khắc “Công trạng vua Quang Trung”. Nhà bia bên phải khắc “Chủ tịch Hồ Chí Minh viết về Quang Trung”, chính là đoạn thơ này. Đứng trên đỉnh núi lộng gió, đưa mắt nhìn toàn cảnh một vùng sơn thủy hữu tình địa linh nhân kiệt xứ Nghệ, đọc tấm bia khắc những lời người anh hùng dân tộc thế kỷ XX ca ngợi người anh hùng dân tộc thế kỷ XVIII tôi thấy lòng mình cảm khái vô cùng. Hồ Chí Minh không chỉ ca ngợi Nguyễn Huệ. Ông ca ngợi khối đoàn kết toàn dân, khi “vua hiền tôi sáng” biết ở giữa nhân dân, dựa vào sức dân, nhân mạnh lên sức của dân, để giữ nước và xây nước. Ông vua nào, nhà cầm quyền nào, thể chế nào có được, và giữ được, và phát huy được sức mạnh đó, thì sẽ bền vững và xứng đáng với dân tộc, giống nòi. “Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà” – đó là một chân lý truyền đời.


Những người làm văn hóa ở Nghệ An đã có công khi chọn được đoạn thơ của Hồ Chí Minh viết về Nguyễn Huệ và thuyết phục được các cấp lãnh đạo, quản lý chấp nhận khắc ghi nó lên tấm bia ở đền thờ. Tôi nói “thuyết phục” vì trong một lần về thăm đền tôi nghe phong thanh chừng như là đang có ý kiến cho rằng mấy câu thơ ấy “nhạy cảm”, dẫu là của cụ Hồ nhưng trong hoàn cảnh “tế nhị” hiện nay của quan hệ Việt-Trung thì khắc nó lên bia, bày nó ra giữa thanh thiên bạch nhật là không lợi. Ôi, chỉ mới nghe phong thanh thế thôi tôi đã bực mình, tức giận. Sao lại có thể hèn nhát đến vậy! Tôi nghĩ, đó chỉ là một vài ý kiến của ai đó, sẽ không được chấp nhận. Tôi tin, tấm bia khắc những câu thơ viết về Nguyễn Huệ của Hồ Chí Minh sẽ đứng mãi ở đền thờ Quang Trung, trên núi Dũng Quyết, giữa đất trời Nghệ An, đất trời Việt Nam, để tỏa sáng một chân lý của người Việt Nam, nước Việt Nam.

Hỡi ôi, lời phong thanh đã thành sự thực, niềm tin của tôi đã bị dập tắt phũ phàng. Khi viết bài này tôi đã gọi điện về Vinh nhờ một tiến sĩ văn học lên tận đỉnh núi Dũng Quyết, vào tận đền thờ Quang Trung, xem tận mắt tấm bia khắc lời Hồ Chí Minh viết về Quang Trung có còn nguyên đó không. Điện báo ra là đã thay, đã thay rồi chú ơi! Cháu gửi ảnh ra ngay cho chú đây.

 
Tấm bia bên trái khắc “Công trạng vua Quang Trung” đã bị đục bỏ, thay bằng bài “Tưởng niệm Hoàng đế Quang Trung” của Vũ Khiêu.

Thơ yêu nước của Hồ Chí Minh đã bị đục bỏ, thay bằng đoạn trích chiếu của Hoàng đế Quang Trung – Nguyễn Huệ gửi La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp chọn đất đóng đô.

Và nhìn những tấm ảnh chụp mới tức thì, tôi không tin vào mắt mình nữa. Tấm bia bên trái khắc “Công trạng vua Quang Trung” đã thay bằng bài “Tưởng niệm Hoàng đế Quang Trung” của Vũ Khiêu. Còn ở tấm bia bên phải, những lời của Hồ Chí Minh đã bị đục bỏ, thay bằng đoạn trích chiếu của Hoàng đế Quang Trung – Nguyễn Huệ gửi La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp chọn đất đóng đô. Tôi đã điện hỏi kỹ người chụp đây có phải là thay bia mới vào bia cũ, hay là chỉ đục bỏ văn bia, thay bài mới. Anh cho biết đã hỏi người trông coi đền thờ thì họ nói là chỉ đục bỏ chữ, thay văn bia, chứ không thay bia.

Vậy là đã rõ. 

Lý do việc đục bỏ văn bia lời Hồ Chí Minh là sợ Tàu! (Hãy gọi là Tàu như trong đoạn thơ của ông Nguyễn). Đau xót, nhục nhã biết bao! Chẳng lẽ trên khắp nước Nam cái gì nói đến lịch sử oai hùng của Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc từ xưa đến nay đều là phải né tránh, cấm đoán?

Nhưng chính quyền tỉnh Nghệ An phải có trách nhiệm trả lời cho đồng bào cả nước biết rõ ràng, công khai, vì sao có sự đục bỏ văn bia ghi lời Hồ Chí Minh viết về Quang Trung tại đền thờ Quang Trung trên núi Dũng Quyết? Ai đưa ra chủ trương này? Một việc hệ trọng, thiêng liêng như vậy đã được quyết định ở cấp nào, theo nghị quyết nào của tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh, hay của Bộ VH-TT-DL, hay của một cấp cao hơn nữa?
Bởi vì tôi được biết, để chọn được đoạn thơ của Hồ Chí Minh và quyết định khắc vào bia dựng ở đền thờ Quang Trung là phải có cả một quá trình từ người chuyên môn đến nhà chính trị lựa chọn, cân nhắc và quyết định. Khắc bia rồi đục bia, xưa hay nay, đều là chuyện nghiêm trọng.

Nếu hôm nay người ta không dám ca ngợi anh hùng dân tộc của mình trên đất nước mình, thì ngày mai người ta sẽ thóa mạ ai?

Nếu hôm nay người ta đục bỏ lời của Hồ Chí Minh, thì ngày mai người ta giữ lại cái gì?

Đục bỏ những lời Hồ Chí Minh viết về Nguyễn Huệ tại đền thờ Quang Trung vì lý do sợ ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao nước láng giềng là xúc phạm cả Nguyễn Huệ, cả Hồ Chí Minh, cả toàn thể nhân dân Việt Nam. Hơn lúc nào hết, trong những ngày này, những lời ca ngợi sức mạnh đoàn kết toàn dân để giữ vững chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ dân tộc trong những lời thơ Hồ Chí Minh viết về Nguyễn Huệ đang rất cần được vang lên mạnh mẽ và thống thiết!

 Dân ta lại biết cùng nhau một lòng
Cho nên Tàu dẫu làm hung
Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà

Hà Nội 23.7.2011
P.X.N

Nguồn: Quê Choa -Blog.

Thứ Bảy, 23 tháng 7, 2011

NHÀ BIÊN KỊCH NGUYỄN THỊ HỒNG NGÁT LÊN TIẾNG

Đạp vào mặt nhân dân
Nguyễn Thị Hồng Ngát

Mình bận những việc quỉ quái gì ấy nên là người cập nhật chậm clip ông Minh CA mặc thường phục dùng chân đạp mấy nhát vào mặt anh Nguyễn Chí Đức, người đi biểu tình bị 4 người túm 4 chân tay khênh lên ô-tô bus hôm 17-7 . Cú đạp được ghi lại này là vết nhơ không thể xóa của không chỉ riêng mình ông Minh CA mà còn là của cả ngành CA nữa.

Mặc dù ngành CA đã có rất nhiều thành tích, có rất nhiều công lao bảo vệ an ninh cho đất nước, có rất nhiều anh hùng, có rất nhiều người trong ngành này được thưởng huân huy chương cao quí. Nhưng, như các cụ nói " kiếm củi 3 năm thiêu 1 giờ" "một con sâu bỏ dầu nồi canh" hành động của anh ta đã làm mất đi rất lớn uy tín của cả ngành mà người dân mỗi khi nghe nhắc đến 2 từ CA vốn đã có nhiều e ngại. Anh CA Minh này nhìn mặt mũi cũng không phải loại đồ tể sao lại hành xử như một tên đồ tể? Cú đạp đó được nhà thơ Hoàng Hưng, Trần Mạnh Hảo nâng lên thành cú đạp " đạp vào mặt nhân dân" cũng không ngoa. Hỏi ai xem đoạn clip này mà lòng không căm phẫn và đau xót trước sự hành xử không còn là của người với người nữa mà là của thú với người thì đúng hơn. Thú có khi cũng còn e dè hơn.Chó dữ thấy người lạ vào nhà muốn cắn cũng phải sủa thị uy đã rồi vừa sủa vừa lùi giữ miếng, sau đó thấy nguy hiểm nó mới lao lại cắn. Đằng này, chả thấy có cơn cớ gì, nguy hiểm gì sao anh ta  lại  xông  xuống co chân đạp thẳng  mấy nhát vào  mặt người bị khiêng không có khả năng chống đỡ?

Nên nhớ rằng mỗi hành vi của các anh, mỗi câu nói dù chỉ hơi cao giọng của các anh đều được trăm tay ngàn mắt của nhân dân để ý.Nếu anh không rèn cho tâm thế của mình được bình tĩnh, được sáng sủa thì hành vi sẽ phản lại anh- và hình ảnh của anh sẽ dập vào mắt dân, được dân ghi lại ngay .Và, chỉ sau 1phút tải lên mạng là cả thế giới đều biết chứ không chỉ ở VN.Vụ clip vừa rồi là một  ví dụ đau xót và chua chát cho ngành CA. Hành vi đồ tể của anh CA Minh kia đã  làm xấu đi hình ảnh của CAND nói chung rất nhiều.Đây cũng là bài học không nhỏ cho anh em CA trong mọi cách hành xử, tiếp cận giải quyết các công việc khác nhau với người dân sao cho các anh đúng là người của nhân dân vì nhân dân  phục vụ! Bình tĩnh, ôn hòa với dân và quyết liệt với mọi loại  tội phạm. Đừng bao giờ hành xử ngược lại và coi rẻ xứ mạng mà mình được giao phó.

Bao nhiêu trí thức, nhân sĩ đã lên tiếng, đã có đơn gửi thẳng tới các vị lãnh đạo ngành CA- sao lãnh đạo ngành vẫn chưa có biện pháp gì xử lý anh ta? Dù ngành CA chưa xử lý thì những ngày vừa qua dư luân đã xử lý anh ta rồi. Anh ta  không thể ăn ngon ngủ yên được. Lương tâm anh ta không thể không cắn rứt và ân hận . Tiến chức, thăng quan chưa thấy đâu chỉ thấy ngàn vạn người căm ghét. Bao nhiêu nước sông, nước biển, cần bao nhiêu thời gian mới rửa sạch hình ảnh xấu xa này của anh ta?

Một bài học không nhỏ tí nào đối với tất cả những người chiến sĩ CA của NHÂN DÂN!!!Buồn thay!

23-7-2011 

VINH ANH: ĐI BIỂU TÌNH, TÔI LỚN LÊN NHIỀU LẮM!


Đi biểu tình, tôi lớn lên nhiều lắm
Vinh Anh

Ngày chủ nhật 17/7, lần thứ tư tôi tham gia nhưng lại chỉ là lần thứ hai tôi đồng hành với các bạn trẻ và những người yêu nước tham gia biểu tình một cách ôn hòa phản đối những hành vi gây hấn ngang ngược của Trung Quốc trên Biển Đông.

Sau khi bị bắt vào đồn Mỹ Đình (Mễ trì), một bạn trẻ hỏi tôi: “Bác bị bắt lần thứ mấy?” Tôi trả lời: “Lần đầu tiên” và ngay lập tức và cũng rất tự nhiên thấy mình thiếu kinh nghiệm sống hơn anh bạn trẻ.

Từ rào chắn đường sắt ở phố Điện Biên Phủ, tôi bị lùa lên xe buýt trước khi ông bạn Lê Hùng, nguyên là cán bộ biên tập của nhà xuất bản Thanh niên và Trí Đức bị quẳng lên xe và bị đạp hai cú vào mồm, một cú vào ngực, một cú trượt qua cổ (trước đó, Lê Hùng cũng bị đẩy ngã trên bậc xe buýt). Thực sự thì, tôi, dù đã chuẩn bị tư tưởng cho vợ từ lúc ở nhà là hôm nay mình có thể sẽ bị bắt, vẫn cứ bàng hoàng khi bị lùa, bị ủn lên xe, kể cả khi đã ngồi vào một chiếc ghế trống vẫn cứ như mê. Tôi tê liệt, đóng băng nhìn những hành vi của công an trước đồng bào của mình không kịp một phản ứng.

Khi xe chạy là lúc mà thần kinh đã ổn định lại, những người bị bắt trên xe nhìn nhau để nhận mặt, hỏi thăm về nhau. Tôi nhận ra Trí Đức từ chủ nhật 3/7 với vóc dáng khá “hộ pháp”. Trí Đức mồm xưng vêu vẫn còn những vết đỏ xây xát và chiếc sơ-mi lấm lem cả khoảng lưng vì mồ hôi và đất cát trên mặt đường và sàn xe.

Trên xe gặp nhiều người. Chuyến xe đó về Mỹ Đình chở những 21 người đi biểu tình cơ mà. Số còn lại co cụm phía đầu xe và không nói bất kỳ một câu nào trên cả quãng đường chục cây số. Nhưng quan sát, tôi chú ý một cậu thanh niên trẻ, đẹp trai, mặc áo nâu đen, ngồi phía bên kia hàng ghế. Cậu này cũng không nói năng gì. Hình như tôi nghe thấy tiếng của bogger Gốc Sậy: “Có lẽ cậu ta lo lắng”.

Nhưng không phải. Cuối chặng đường, một số người đi biểu tình nghi vấn có gián điệp Tầu trên xe, bởi hắn ta suốt chặng đường không nói năng gì. Chính blogger Gốc Sậy trước khi xuống xe đứng lại trước mặt cậu thanh niên hỏi hắn có biết tiếng Việt không, cậu ta lạnh lùng vẫn không trả lời. Phải mấy giây sau, blogger Gốc Sậy, đứng lại, không xuống. Lúc đó cậu ta mới nói: “Thôi ông xuống đi”. Vậy ra cậu ta là cá chìm ẩn dưới bộ mặt đẹp trai, lạnh tanh và vô cảm.

Ngay hôm sau, trên các trang mạng, tôi đã nhận ra cậu ta trong bức ảnh cùng với người sếp của CA tên Minh, người đã đạp Trí Đức bốn phát. Cậu ta đứng hơi lui phía sau, mặc áo đen, đeo kính. Trên bức ảnh đó chỉ có một người trẻ nhất đeo kính.

Sau khi xuống đồn Mỹ Đình, tôi không nhìn thấy cậu ta nữa. Tiếc quá. Cậu ta đã chọn nhầm đường, nếu như cậu ta không sớm rút ra bài học từ người đội phó tên là Minh của mình.

Trong sân thuộc khuôn viên đồn công an, chỉ có không khí vui vẻ của những người bị bắt chứ không hề có sự lo sợ. Nửa già trong số 46 người mà ba xe buýt chở xuống hôm đó là thanh niên trẻ măng, đầy nhiệt huyết. Tất cả đều hiểu mục đích đi biểu tình của mình là một biểu hiện của lòng yêu nước. Chẳng có dân tộc nào trên thế giới lại đi kết tội, bắt giam lòng yêu nước.

Tôi đã làm quen với Nguyễn Văn Phương hôm đó và cũng  tỏ rõ lòng khâm phục của tôi bởi sự dũng cảm của Phương ngày chủ nhật 13 tháng 7, lần đầu tiên tôi tham gia đến tận cùng. Tôi đã thấy Phương suốt từ quán cà phê Cột Cờ đến Nhà Hát Lớn, nơi Phương đọc bản “Tuyên cáo”, cho tới lúc mọi người chia tay ở tượng đài “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

Nhưng điều tôi học được, điều tôi lớn lên là gì? Đó chính là hiểu thêm sâu sắc về lòng yêu nước, đó là thêm tin và yêu lớp trẻ và đặc biệt, tôi đã bước qua nỗi sợ hãi vô hình ám ảnh. Chân lý ở mình, lẽ phải ở mình mà mình cứ phải sợ ư?!

Tôi cũng nhận ra nhiều bộ mặt thật của cuộc đời. Người ta có thể nói về lòng yêu nước có nhiều cách biểu hiện. Tôi không phản đối. Tùy từng điều kiện mỗi người, có những cách biểu lộ khác nhau. Nhưng xin đừng ngụy biện. Những lúc cuộc đời cần phải có thái độ dứt khoát, tất cả mọi sự giả dối đều rất dẽ bị lộ tẩy. Trong suốt cuộc đời, không nhiều cơ hội để có được những ngày tháng thể hiện được tư cách con người của mình. Phương nói với tôi: “Cháu bị sức ép từ nhiều phía, từ phía chính quyền, từ phía cơ quan, từ cả người chủ nhà trọ”. Có lẽ trong những người đi biểu tình vì sự tồn vong của Tổ quốc, ít ai có tâm trạng “đau” như Phương. Tôi dùng từ “đau” và tôi nghĩ đó là từ mà tôi dùng chính xác cả với Phương và cả với những người tham gia. Tôi chỉ có một điều nhỏ nhoi an ủi Phương: “Nhà bác sẵn sàng mở cửa đón cháu”. Và tôi hài lòng, tôi cũng vượt qua được cửa ải mà nhiều người đã vượt qua. Tôi nghĩ dù chỉ một lời nói vậy thôi, nhưng có thể Phương cũng bớt đi được phần nào cái sự nặng nề, trái ngang cuộc đời mà một người trẻ như Phương phải gánh.

Những ngày sau, đọc các bài viết của các bạn cùng trên xe buýt mà sung sướng, mà ấm lòng. Đây là bài viết của Nguyễn Tường Thụy, đây là bài của blogger Gốc Sậy, rồi các bài của Lê Dũng, bài của Chí Tuyến, bài của Phương Bích, bài nào cũng hay. Tất cả những gì diễn ra trong ngày 17 đều được các bạn ghi lại đầy đủ. Lại nhớ lúc Lê Hùng bị xô ngã trên bậc lên xuống nơi cửa xe, Hùng có hỏi mọi người: “Có ai chụp được cảnh đó không?” Không ai trả lời. Nhưng hình ảnh mà người phóng viên nào đó “chộp” được cảnh ác ôn Minh đạp Trí Đức bốn nhát thì là bằng chứng quá đủ để ta hiểu nỗi đời rồi còn gì.

Và xin được nói lại một câu mà ngày xưa đi học, được các thày dạy: Người ta lớn bởi vì ngươi quỳ xuống. Hỡi nhân dân hãy đứng thẳng lên!

                                                                                      Vinh Anh
                                                                                      22/7/2011

HAI CUỘC ĐIỆN THOẠI TRƯỚC NGÀY 24.07


Phương Bích

Chiều hôm qua đang nấu cơm thì điện thoai di động đổ chuông, một giọng phụ nữ trẻ lạ vang lên rất to:
Xin lỗi cho em hỏi chị có phải là chị Bích không ạ?
-     Phải rồi
Những ngày này nghe cái biệt danh đấy là tôi biết ngay ai gọi tôi. “Người mình”- những người cùng đi biểu tình gọi nhau một cách thân thương thế để nhận biết những người đã cùng với mình dãi nắng suốt gần 2 tháng qua để phản đối chính quyền Trung Quốc… Nhưng giọng nói này lạ lắm, tôi không đoán được ngay đó là ai:
-     Có chuyện gì thế?
-     Bác ơi, em là mẹ 2 cháu hôm vừa rồi cùng bị bắt về đồn với các bác đấy ạ…
-     À phải rồi, tôi có biết, hôm đó nghe nói cả ba bố con cùng đi cơ, thế có chuyện gì vậy?
-     Là thế này bác ạ, mọi khi bố cháu đưa các cháu đi, nhưng hôm chủ nhật tới này, thằng bé nhà em nó phải đi học, còn em và nhà em cùng có việc bận cả nên bố cháu không đi được, chỉ có một mình con bé con là đi được thôi, em nhờ các bác có gì trông nom….
Thoạt đầu tôi cứ tưởng là cô ấy trách móc vì đi biểu tình theo các bác mà các con cô ấy bị bắt nên giờ sẽ không cho đi nữa, nhưng cô ấy mới nói đến đấy là tôi đã hiểu ngay. Khóe mắt tôi hơi cay cay, không để cho cô ấy nói hết, tôi vội cướp lời :
-     Tôi hiểu rồi, cứ yên tâm, tôi sẽ để mắt trông coi cháu, không chỉ tôi mà cả các bác lớn tuổi cũng sẽ để ý bảo vệ các cháu nhỏ. Ừ, cả nhà bạn thật quý hóa quá…
Giọng người phụ nữ trẻ vẫn oang oang:
-     Bác ạ, ở trường họ đều gọi cả hai cháu lên gặp đấy, họ dọa đuổi các cháu, cấm không cho đi biểu tình…
-     Láo toét!
Tôi không kìm được kêu lên.
-     Vâng, em mới bảo các chị muốn đuổi con tôi cũng được, cứ đưa cho tôi văn bản nói rõ đuổi học vì đi biểu tình chống Trung Quốc xâm lược, tôi chấp nhận ngay, cho con tôi hạnh kiểm kém vì đi biểu tình chống Trung Quốc xâm lược, tôi cũng chấp nhận ngay, thằng bé nhà em nó cứ đòi đi nhưng nó phải đi học bác ạ
-     Bạn giỏi quá…không sao đâu, nhiệm vụ chính của cháu là học mà…
Tôi không biết nói thế nào để tỏ lòng mến phục những con người này. Họ thật hạnh phúc vì cả gia đình cùng đồng lòng như thế. Nghe trên mạng nói hình như nhà họ ở tận Yên Bái, sao lại có thể tham gia biểu tình dài hơi thế nhỉ, nghĩ vậy tôi hỏi:
-     Thế nhà bạn ở đâu?
-     Dạ nhà em ở phố Huế bác ạ, ở ngõ Yên Bái ấy.
Ôi chao, ở ngõ Yên Bái phố Huế mà thành ra là ở tỉnh Yên Bái !!!…hic… hic..
Tôi rối rít động viên cô ấy cứ yên tâm và hứa sẽ để ý đến cô con gái nhỏ của cô ấy. Mặc dù cô bé đã 21 tuổi và rất cứng cỏi nhưng thể chất của cháu là rất bé nhỏ, nom còn bé hơn cả cậu em 15 tuổi của nó.
Tắt máy rồi mà tôi cứ nghĩ mãi về cái gia đình 4 người nọ, họ là dân Hà Nội đấy, chỉ thiếu điều cả bà mẹ cùng đi nữa thôi. Trong số những người đi biểu tình suốt thời gian qua, có mấy cặp bố con, vợ chồng cùng tham gia như bố con Lê Dũng, bố con Nguyễn Quang Thạch, bố con cháu Tố Uyên vừa nói ở trên, vợ chồng bác giáo sư Nguyễn Đông Yên, vợ chồng cô giáo trẻ Vân Anh và có thể còn nhiều những gia đình như thế mà tôi chưa biết tên...
Không biết mọi người nghĩ sao chứ tôi thì tôi thấy cảm động lắm. Rồi lại buồn khi thấy có bao nhiêu người đứng ngoài nhìn chúng tôi với con mắt thờ ơ và bàng quan. Cứ như chuyện Trung Quốc cướp bóc đánh đập ngư dân nước láng giềng chứ không phải nước mình, chuyện còn hay mất Hoàng Sa hay Trường Sa cũng chẳng liên quan gì đến họ, chuyện những người còn sống hay những người đã chết của những người sống chết với nghề biển cũng vậy. Thế mà đọc mạng tôi mới biết có một người Việt, nhưng lại không phải dòng máu đỏ da vàng – ông André Menras lại lặn lội đến với những ngư dân miền Trung để tìm hiểu về cuộc sống cực nhọc của họ. Báo chí chính thống thì làm gì có những thông tin này, họ chỉ đăng ngư dân này trúng đậm mẻ này, ngư dân nọ trúng đậm mẻ kia thôi…
Một cô bạn tôi kể khi lên bộ làm việc với một tay vụ phó vụ Kế hoạch đầu tư, một tay cũng còn gọi được là tử tế, có nói chuyện về việc một chị ở cơ quan em (tức là tôi đấy) chủ nhật tuần nào cũng đi biểu tình chống Trung Quốc, anh ta ngạc nhiên lắm hỏi:
-     Thật á? Đi biểu tình á? Thế có bức xúc chuyện cơ quan, chuyện chồng con gì không?
Em bảo hoàn toàn không, chỉ là bức xúc chuyện Trung Quốc thôi. Dường như anh ta không thể tin được lại có chuyện như thế.
Tóm lại cô bạn tôi bảo đấy là loại người còn được cho là sáng láng và tương đối tử tế đấy, cũng thường xuyên lướt mạng chứ đâu phải loại mù thông tin, cũng nước ngoài nước trong đủ cả đấy chứ.
*
Chiều nay thì Minh Hằng lại gọi điện cho tôi, giọng hắn buồn ghê gớm. Hắn hỏi tôi có biết trên mạng họ chửi hắn là “man rợ”, là “vô liêm sỉ” vì chửi tục khi bị bắt lên xe buýt một cách thô bạo không. Tôi ngạc nhiên bảo không vì chỉ đọc mấy trang chính đã không đủ thời gian rồi. Hắn nói tay Kami Ka miếc và tay Đỗ nào đó  chửi hắn như vậy. Lúc này dường như Minh Hằng trở về với con người thật của hắn, rất triết lý chứ không như lúc lên cơn phẫn nộ. Hắn nói cái tuổi của tôi và của hắn đâu còn bồng bột xốc nổi nữa chứ, chẳng qua bị dồn vào cái thế không vùng lên không được, chúng nó sẽ đè đầu cưỡi cổ mình ngay. Mặc dù dân mạng người ta bênh vực hắn và chửi lại 2 gã kia nhiều hơn nhưng hắn vẫn buồn đến mất ngủ. Hắn hẹn hôm nào rảnh sẽ ngồi nói chuyện để tôi hiểu rõ con người hắn không phải dung tục xấu xa như thế.
Chao ôi Minh Hằng ơi, sao tôi lại không hiểu chứ? Có thể tôi không biết rõ cuộc đời gian truân của Minh Hằng như thế nào, nhưng trực giác của tôi cho biết là tôi có thể tin vào Minh Hằng. Hơn nửa cuộc đời tôi sống gần như khép kín, chỉ đến bây giờ mới dũng cảm bước chân ra ngoài xã hội mà còn dám thét lên những lời căm phẫn vào mặt những kẻ đàn áp những người biểu tình huống chi là Minh Hằng? Người đàn bà “dung tục” như Minh Hằng mà còn biết đến “nợ nước” trên vai thì với tôi còn cao sang hơn chán vạn những kẻ khác đấy.  Những lời dung tục ư? Khối kẻ còn dung tục hơn thế nhiều mà có ai hé răng phê phán câu nào đâu? Những kẻ vừa đánh đập người không có khả năng tự vệ vừa chửi rủa họ thô bỉ hơn thế nhiều thì sao nhà Kami hay họ Đỗ nọ không lên tiếng?
May mắn thay những kẻ như Kami hay Đỗ không nhiều. Tôi không cổ súy cho việc chửi bới này nọ nhưng trong nhiều hoàn cảnh tôi ước gì những lời chửi rủa hay nguyền rủa đó có thể biến thành sự thật, và tôi còn có thể chửi rủa thậm tệ hơn thế nữa cơ Minh Hằng ơi.
Trước cuộc xuống đường cùng “người mình” vào ngày 24/7, hai cuộc điện thoại làm cho tôi vui nhiều hơn buồn. Tôi không phải là người lạc quan nhưng tôi vẫn hy vọng vào những nỗ lực của người dân tham gia biểu tình chúng tôi sẽ ít nhiều lay động nhiều con tim hơn nữa. Chẳng có một sự im lặng nào là mãi mãi, chẳng có một cuộc hành trình nào là không có cái đích.
Hà Nội ngày 23/7/2011
P.B

HỒ GƯƠM - ĐỀN NGỌC SƠN: NƠI SĨ PHU BẮC HÀ LO VẬN NƯỚC - Bài 2



HỒ GƯƠM - ĐỀN NGỌC SƠN
Kỳ 2 - Một cơ sở vận động yêu nước của Hà Nội
cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Vũ Thế Khôi

Cuối năm 1945, giáp Tết đầu tiên dân ta được đón sau khi giành lại nền độc lập, dẫu tình thế đất nước còn gian nan, công việc còn bề bộn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm Hội Thiện đền Ngọc Sơn, vấn an cụ Hội trưởng, chăm chú nghe báo cáo về việc giảng thiện của Hội và cuối cùng "xin phép gợi ý": "Tôi nghĩ điều thiện lớn nhất là yêu nước, yêu dân chủ. Điều ác lớn nhất là xâm lược, áp bức. Nay ta có thể giảng công khai như thế. Có phải không, thưa các cụ?" (chúng tôi nhấn). 

Mười lăm năm trước đây, dẫn sự việc trên, chúng tôi nêu vấn đề: "Phải chăng anh thanh niên Nguyễn Tất Thành có được nghe những nhà văn thân cùng chí hướng với Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc nhắc đến hoạt động văn hoá yêu nước của Hội Hướng thiện Ngọc sơn?" Nay đã có đủ băng chứng để khẳng định: Hồ chủ tịch biết rất rõ Đền Ngọc Sơn không phải chỉ là một di tích tôn giáo mà còn là - chủ yếu là - trung tâm hoạt động văn hoá - giáo dục yêu nước của nhiều thế hệ trí thức Nho học, bắt đầu từ cái Hội Hướng Thiện đã sáng lập Đền vào mùa đông năm Tân Sửu 1841, khánh thành xây dựng cải tạo vào mùa thu năm Nhâm Dần 1842. Chẳng những thế, Người còn có mối quan hệ truyền thống về tư tưởng - tình cảm với ngôi "đền văn minh" ("Tụng kinh Độc Lập ở đền văn minh" - thơ văn Đông Kinh nghĩa thục). Xin nêu vài chứng cứ:

- Đêm 30 của cái Tết Độc lập đầu tiên ấy, vào thời khắc Giao thừa thiêng liêng đối với tâm linh Việt, Hồ Chủ tịch đã "vi hành" trở lại Đền Ngọc Sơn, những định thắp nén hương trước ban thờ Đức Thánh Trần, nhưng người hành lễ đông nghịt, không len chân vào được, đành đứng bái vọng từ xa rồi lặng lẽ ra về. 

- Từ trước đó, 25 - 9 - 1945, 23 ngày sau khi đọc Tuyên ngôn Độc lập, đúng ngày Kỵ đức Trần Hưng Đạo 20 tháng Tám âm lịch, theo chỉ thị của Người Bộ Tuyên truyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã làm Lễ giỗ tại Nhà hát lớn Hà Nội và trong cả nước.

- Năm 1952, giữa chiến khu Việt Bắc kháng chiến chống Pháp xâm lăng, khai giảng lớp chỉnh huấn cho cán bộ cao cấp trong Chính phủ, lãnh tụ cộng sản Hồ chí Minh, được coi là (xin nhắc lại: được coi là ) phải lấy đấu tranh giai cấp làm chủ thuyết, lại nói về sự giao tranh giữa cái thiện và cái ác trên toàn thế giới, trong cả nước và trong mỗi con người.

Duyên do sâu xa của những cuộc viếng thăm ấy và những câu chuyện ấy đã được một số nhà nghiên cứu soi sáng. Nhà văn Sơn Tùng, chuyên sưu tầm và viết về Hồ Chủ tịch và gia đình của Người hơn một phần tư thế kỷ nay, từng công bố mươi năm trước đây (trên báo An ninh Thủ đô, số Xuân 1991) rằng hai bạn đồng khoa và đồng chí hướng là Cụ Nghè Ngô Đức Kế và Cụ Bảng Nguyễn Sinh Sắc năm 1903 từng ra Hà Nội gặp gỡ với Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền và Cử nhân Lương Văn Can tại nhà cụ Vũ Hoành (cũng một yếu nhân của Đông Kinh Nghĩa Thục sau này) ở Khuyến Lương. Trong lần đi ấy, Cụ Bảng Sắc mang theo cả hai anh em Sinh Khiêm và Tất Thành, nhưng giữa đường Sinh Khiêm bị ốm, nên chỉ Tất Thành được "chầu hầu" cuộc đồng chí tương ngộ ở Hà thành. 

Vậy không lẽ nào trong cuộc viếng thăm đất cố đô Thăng Long, nhà Nho khoa bảng không đưa con trai đến chiêm bái Văn Miếu và đền Ngọc Sơn, nơi không chỉ thờ Thần văn chương và khoa cử, mà ngay từ khi sáng lập đã trở thành trụ sở của hội Hướng Thiện tụ họp các danh sĩ Hà thành như Thần siêu, Thánh Quát, các ông Nghè danh sư Vũ Tông Phan, Nguyễn Văn Lý, Lê Duy Trung ... tiến hành các hoạt động chấn hưng văn hoá Thăng Long . Một điều cậu Tất thành không thể không lưu ý là cũng đúng vào cái năm 1903 ấy, Cụ Cử Lương và Cụ Hoàng giáp Nguyễn cùng nhiều nhân vật khác liên quan trường Đông Kinh Nghĩa Thục và phong trào Duy tân sau này, đã cùng phả Thiện An Lạc xây dựng "Hoằng thiện kinh đàn" ở ngay bên trái chính điện (nay bị biến thành gian hàng bán đồ lưu niệm!) để giảng bài "Chính kinh" của Đức Thánh Trần (quê hương ở An Lạc!) và các bài kinh giáng bút khác của chư vị thánh thần dân tộc răn dạy giữ lòng trung hiếu, yêu nước thương nòi và bảo tồn thuần phong mỹ tục cổ truyền. Danh tính Lương Văn Can và Nguyễn Thượng Hiền được khắc trên bia "Tu bổ Ngọc Sơn từ bi kí", lập ngay tháng 6 (âm lịch) năm 1903, hiện vẫn gắn trên tường trong Đền, tấm biển lớn "Hoằng Thiện Kinh Đàn", sơn son chữ thếp vàng rực rỡ, niên đại cũng ghi 1903. Bản "Chính kinh" do Đức Thánh Trần "giáng bút" bằng chữ Hán, từng được diễn Nôm giảng tại đàn Ngọc Sơn và các đàn Thiện trong khắp cả nước, mới đây có nhà nghiên cứu phát hiện một bản “Chính kinh” đó từng được "thỉnh" từ Đền Ngọc Sơn về Nghệ An và khắc in lại ở địa phương.

Những cuộc viếng thăm đền Ngọc Sơn của Hồ Chủ tịch, biệt nhãn cuả Người đối với công cuộc hướng thiện và việc tôn thờ Trần Hưng Đạo nơi đây, sự tham gia trực tiếp vào sự nghiệp văn hoá - giáo dục này của những sĩ phu cùng chí hướng với thân phụ của Người, đồng thời là những yếu nhân của phong trào Duy tân - Đông Kinh Nghĩa Thục, đã soi rọi một ánh sáng mới vào đền Ngọc Sơn và hội Hướng Thiện. Rõ ràng trường Đông Kinh Nghĩa Thục của các trí thức Nho học chủ trương duy tân, tuy chỉ hoạt động chính thức được chưa đầy 8 tháng, nhưng phong trào mà nhà trường khởi động sở dĩ đã phát triển mạnh mẽ, rộng khắp chính là vì thực ra cơ sở văn hoá - xã hội của nó, cả tinh thần lẫn vật chất (các ông đồ và những ngôi trường làng) đã được hội Hướng Thiện đền Ngọc Sơn bền bỉ chuẩn bị từ hơn nửa thế kỷ

Năm 2007 là tròn 100 năm mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục (1907 - 2007) và cũng là tròn 80 năm mất của Thục trưởng Lương Văn Can (1927 - 2007). Nhân sự kiện này từ ngày 3 đến ngày 5 - 5 - 2007 tại Đại học Aix-en-Provence và Trung tâm lưu trữ hải ngoại CAOM (Pháp) đã tiến hành một Hội thảo quốc tế về chủ đề "Việt Nam, thời khắc duy tân (1905 - 1908)". Mục tiêu đầu tiên trong 3 mục tiêu của Hội thảo, như nêu trong Đề dẫn gửi tới các đại biểu trước mấy tháng, là: tìm hiểu phong trào canh tân (hiện đại hoá) ở Việt Nam về bề dày xã hội, những cội nguồn văn hoá của nó. Tại cuộc Hội thảo nói trên, trong bản báo cáo khoa học (30 tr. khổ A4) "Hội Hướng Thiện đền Ngọc Sơn - một cội nguồn văn hoá - xã hội sâu xa của phong trào Duy tân và Đông Kinh Nghĩa Thục", bằng nhiều tư liệu văn bia Hà Nội và vùng lân cận, thơ văn và gia phả chữ Hán của một số nhân vật liên quan chủ chốt chúng tôi đã minh chứng những mối liên hệ về nhân sự và tư tưởng của phong trào văn thân yêu nước và Duy tân nói chung, của trường Đông Kinh Nghĩa Thục nói riêng với Hội Hướng Thiện của sĩ phu Hà thành, xuất hiện từ thời Minh Mạng (1836?) và hoạt động hoạt động chủ yếu vào nửa đầu thế kỷ XIX.

Những mối liên hệ về nhân sự, chúng tôi đã thể hiện cụ thể thành 3 phả đồ và một sơ đồ quan hệ sư phụ - môn sinh. Ở đây chúng tôi xin thâu tóm một số tư tưởng tiến bộ (trên câu đối trong đền Ngọc Sơn gọi là "chủ trương") và phương thức hoạt động cùng cơ sở văn hoá - xã hội của nhóm sĩ phu Hà thành nửa đầu thế kỷ XIX mà chúng tôi đã phát hiện thông qua việc kết hợp tìm hiểu các hoạt động của nhóm sĩ phu Hà thành tập họp trong Hội Hướng Thiện và giải mã lại một số câu chữ trên bi ký, thơ văn chữ Hán tại Đền Ngọc Sơn, một số đền miếu khác ở Hà Nội cũng như các vùng lân cận và trong tác phẩm thơ văn chữ Hán của những danh sĩ liên quan. 

- Trước hết, đó là chủ trương "trung với dân" và "nghĩa vụ của người quân tử là lo cho dân" ( "trung ư dân", "quân tử vụ dân chi nghĩa" - Vũ Tông Phan: "Trùng tu Hoả thần miếu bi ký", 1841) và để thực hiện điều đó, họ đã động viên các trí thức Nho học về "làm người quân tử trong làng, làm thầy đồ trong xã" ("vi hương quân tử, vi xã tiên sinh" - Nguyễn Văn Lý: "Thọ Xương tiên hiền từ vũ bi ký", 1838). Từ đó, việc đem ánh sáng văn hoá về làng quê - đất căn bản của nền văn hoá Việt - trở thành một lẽ sống đích thực của kẻ sĩ, được chẳng những các Nho sĩ duy tân trong Đông Kinh Nghĩa Thục hưởng ứng, mà sau đó cả các trí thức "Tây học" nhưng không vong bản trong nhóm "Thanh Nghị" còn biến thành lời kêu gọi: "Anh em thanh niên! Đã đến lúc chúng ta về làm việc làng!". Năm 1969 Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Văn Huyên, tiến sĩ "Tây học" nhưng uyên bác về văn hoá phương Đông, mẹ đẻ lại đã tham gia Đông Kinh Nghĩa Thục, từng nêu nhiệm vụ cần nghiên cứu về vai trò của các ông đồ (cả bà đồ nữa!) ở các ngôi trường làng trong cách mạng Việt Nam. Nhưng phải chăng vì trên tài liệu ghi phát kiến lớn đó có cộp dấu "Mật", nên ngành giáo dục im lặng về vấn đề đó suốt thời gian qua, và đến nay vấn đề vẫn còn bỏ ngỏ! Vậy mà hàng ngàn ngôi trường làng cùng hàng ngàn ông đồ quân tử ấy từng là cơ sở và lực lượng dự bị, có sẵn, tại khắp các địa phương đã giúp cho Đông Kinh Nghĩa Thục triển khai công cuộc vận động canh tân của mình một cách nhanh chóng và rộng rãi. Kể cả sau khi ngôi trường "trung ương" ở số 10 Hàng Đào - Hà Nội bị chính quyền thực dân Pháp đóng cửa, Thục trưởng Lương Văn Can cùng cả loạt giáo viên bị bắt bớ, tù đày, thì tại các làng quê những ông đồ ấy, tại những ngôi tư thục tồn tại có khi hơn nửa thế kỷ rồi, vẫn mở lớp dạy "rập khuôn trường Đông Kinh Nghĩa Thục". Cũng không ít những ông đồ ấy về sau trở thành Chánh/ Phó chủ tịch, Uỷ viên thư ký của các Uỷ ban Nhân dân lâm thời trong Cách mạng tháng Tám 1945.

- Các nhà Nho sáng lập hội Hướng Thiện chủ trương tập họp Nho sĩ và thương nhân trong một tổ chức cùng hoạt động văn hoá - xã hội: trên các bia trong đền Ngọc Sơn, từ bia đầu tiên năm 1843 đến bia cuối cùng năm 1916, đứng chung tên với Nho sĩ còn có các cá nhân thương gia hoặc các hiệu Nguyên Xương, Hưng Ký, Dụ Hưng, Đồng Lợi ... Khỏi phải nói rằng ở đầu thế kỷ XIX, khi Nho giáo chính thống của triều Nguyễn vẫn "trọng nông, khinh thương", thì đây là một tư tưởng đổi mới thực sự. Vị tiến sĩ Nho học Hội trưởng Hướng Thiện đầu tiên còn cho trưởng nam của mình là Tú kép Nho học Vũ Như Trâm kết hôn với thục nữ Bùi Thị Dĩnh, cháu họ của doanh nhânmưu doanh sản nghiệp". Do tư tưởng "trọng nông, khinh thương" cố hữu chăng mà người đời nay đã biến ông thành "giám sinh Quốc Tử Giám"?! Trong khi đó thành công của ông Tổ họ Bùi chính là ở lĩnh vực "mưu doanh", nhờ vậy ông mới để lại cho con cháu một "sản nghiệp" lớn để rồi hậu duệ của ông là Bùi Huy Tùng, đã hằng sản lại hằng tâm, nên đóng góp tới hơn 10 mẫu ruộng cho Văn hội Thọ Xương - nòng cốt của hội Hướng Thiện xây dựng và duy trì hoạt động của Văn chỉ Thọ Xương. Chủ trương liên kết mật thiết trí tuệ của kẻ sĩ và tài lực của doanh nhân trong công cuộc chấn hưng văn hoá Thăng Long ở nửa đầu thế kỷ XIX đã được các nhà Nho trong phong trào Duy tân và Đông Kinh Nghĩa Thục tiếp tục phát huy. Thậm chí, một số nhà Nho còn "sắn tay áo lên", trực tiếp mở hiệu kinh doanh, tuy nhiên, theo Nguyễn Hiến Lê, thua lỗ không ít, vì kinh doanh đâu phải là chỗ mạnh của kẻ sĩ! Bùi Huy Tùng. Chúng tôi nhấn mạnh không ngẫu nhiên: phả chữ Hán của họ Bùi ngõ Phất Lộc, soạn năm 1866 đời vua Tự Đức, ghi rõ vị tiên tổ Bùi Văn Mạo từ làng Phất Lộc huyện Đông Quan phủ Thái Bình lên Thăng Long năm 1717 để "

- Chính sự liên kết trí tuệ và tài sản đã giúp cho hội Hướng Thiện "làm những việc có ích cho người, mà giáo hoá họ" ("hành phương tiện" - Vũ Tông Phan: bia "Ngọc Sơn Đế quân từ ký") như phục dựng hàng loạt di tích lịch sử - văn hoá đã trở nên hoang tàn sau ba chục năm chiến tranh liên miên (1771 - 1802), biến đền Ngọc Sơn thành một cơ sở khắc in sách lớn nhất Hà Nội hồi nửa đầu thế kỷ XIX (đây là một công việc xưa kia vô cùng tốn kém!): cho đến năm 1966, theo báo cáo kiểm kê của nhà Hán Nôm học lão thành Vũ Tuân Sán, sau bao biến thiên ở Hà Nội, trong kho đền Ngọc Sơn vẫn lưu trữ 1156 cái ván khắc. Rất đáng chú ý là hội Hướng Thiện đã tổ chức khắc in các sách tiểu học để phổ cập chữ Hán, sách truyện danh nhân đất Việt như Chu Văn An, Trần Hưng Đạo..., sách phổ biến kiến thức thông thường như vệ sinh thai nghén, sinh đẻ và nuôi con. Phương châm làm sách này cũng được Đông Kinh Nghĩa Thục phát huy, và sau ĐKNT còn được một số người tâm huyết với văn hoá dân tộc và sự học của tầng lớp bình dân như cư sĩ Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha, con trai thứ của sáng lập viên ĐKNT cử nhân Nguyễn Hữu Cầu, tiếp tục.

- Từ hội Hướng Thiện đền Ngọc Sơn đã bắt đầu hình thức thuyết giảng không phải thuần tuý tôn giáo như xưa, mà đã là thuyết giảng công khai, mang tính tuyên truyền xã hội, dẫu mới đầu chỉ là những buổi tụng giảng kinh đạo lý cổ truyền, đã được diễn Nôm để quảng đại người nghe hiểu ngay. Đông Kinh Nghĩa Thục đã phát huy vô cùng hiệu quả hình thức hoạt động này.

Một điều nữa cũng nói lên mối liên quan tư tưởng của Đông Kinh Nghĩa Thục với hội Hướng Thiện, đó là: bắt đầu từ đền Ngọc Sơn, phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục triển khai mạnh mẽ với đền Ngọc Sơn là một trong những diễn đàn chính, thì sau khi ĐKNT bị cấm, các tư tưởng và hình thức tuyên truyền thông qua diễn thuyết lại trở về đền Ngọc Sơn - đương nhiên, do tình thế mới, trở về dưới vỏ bọc khác là tụng giảng tại "Hoằng Thiện kinh đàn" các bài kinh "giáng bút" của chư vị thần thánh đất Việt, trong đó có "Kinh Đạo Nam " với những đề bài và nội dung không mấy khác các bài giảng ở trường Đông Kinh Nghĩa Thục trước đây, như "Hợp đoàn thể", "Khuyến công", "Khuyến thương", "Khuyến nữ học"... kể cả "Ái quốc ca". Vì thế nên đền Ngọc Sơn mới bị quan lớn Thống sứ thực dân lưu ý bọn mật thám phải theo rõi, Kinh Đạo Nam mới bị cấm, người giảng bị bắt bớ tù đày. Thì lại đến lượt kinh tam giáo "Tâm pháp" được Vân Hương thánh mẫu (Liễu Hạnh) "giáng" và đưa ra giao giảng, dẫu kín đáo hơn, "tôn giáo" hơn, nhưng đây đó vẫn ẩn hiện cái hồn của Đông Kinh Nghĩa Thục:

Cùng non nước , cùng hình dáng ấy,
Cùng giống nòi tự bấy nhiêu lâu,
Cùng chung khí huyết một bầu:
Tiên - Long ta vẫn trước sau ghi truyền.
Tình nghĩa lúc sinh tiền khôn xiết,
Cùng màu da, xác thịt trước sau,
Kể chi già, trẻ, nghèo giầu,
Vốn là cùng giống với nhau một loài!

*Bài viết do Nhà giáo Vũ Thế Khôi gửi trực tiếp cho Nguyễn Xuân Diện – blog.
Xin chân thành cảm ơn tác giả.

HỒ GƯƠM - ĐỀN NGỌC SƠN: NƠI SĨ PHU BẮC HÀ LO VẬN NƯỚC - Bài 1

Hồ Gươm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Ảnh: Internet.

HỒ GƯƠM - ĐỀN NGỌC SƠN

Kỳ 1 – Trung tâm văn hoá - giáo dục của Hà Nội thế kỷ XIX

Vũ Thế Khôi

Khách du lịch trong ngoài nước thường mách nhau rằng đến Hà nội mà không ghé thăm, dù chỉ trong chốc lát, ngôi đền trên đảo Ngọc soi bóng hồ Hoàn Kiếm và nghe kể câu truyền thuyết “Trả gươm” thì coi như chưa biết Hà Nội. 

Tuy nhiên “Trả gươm” là câu chuyện liên quan đến hồ Hoàn Kiếm, còn như về đền Ngọc Sơn thì mọi người thường chỉ được giới thiệu cho biết là nơi phụng thờ “Tam thánh”: Quan Đế (Quan Công), Văn Xương (ngôi sao chủ về văn chương và khoa cử, mà có người đồng nhất với Tử Đồng đế quân trong Đạo giáo, bất chấp việc Thần Siêu từng phản bác điều đó!) và Phù Hựu đế quân (Lã Tổ) và “một thời gian sau” – như có nhà Hà Nội học viết – thì thờ cả Trần Hưng Đạo, nhưng không giải thích tỏ tường ai, vì sao và cụ thể từ bao giờ đưa Hưng Đạo đại vương vào thờ ở đây. Vậy mà đền Ngọc Sơn xứng đáng được tôn vinh là di tích lịch sử - văn hoá hàng đầu của Hà Nội không chỉ vì danh thắng mà còn bởi những truyền thống khai sánghoạt động yêu nước.

Căn cứ văn bia vẫn còn gắn trên tường hậu điện thì đền Ngọc Sơn không phải do một cá nhân nào hay một tổ chức tôn giáo nào dựng lên mà do Hội Hướng Thiện với Tiến sĩ Vũ Tông Phan (1800 - 1851) làm Hội trưởng đầu tiên, sáng lập mùa thu năm 1841. Đã có vị GS nọ nhầm Hướng Thiện hội với Thiện hội của người Hoa. Suy diễn này hoàn toàn sai sự thật: trên tấm bia đối xứng với bia Ngọc Sơn đế quân từ ký, dựng ngay sau khi khánh thành việc xây dựng cả tạo Đền vào năm 1842, khắc tên tuyệt đại đa số người Việt, và điều đặc biệt là không chỉ nho sĩ mà còn có các thương nhân, binh sĩ và cả một số quan lại đương chức nữa. Tôn chỉ của Hướng Thiện hội là gì mà tập họp được một thành phần xã hội rộng rãi như vậy? Trên danh nghĩa thì là phụng thờ Văn Xương, vị Thần văn chương - khoa cử, nhưng mục tiêu chính của Hội, như Tiến sĩ Vũ Tông Phan cho khắc trên bia, lại là để “bọn sĩ phu kết bạn với nhau, yêu cảnh này vì mến danh này [tức danh Hướng Thiện, - VTK] mà người trong Hội tàng khí, tu thân, du ngoạn, nghỉ ngơi” và “làm những việc có ích cho mọi người qua đó mà giáo hoá họ”. Tại sao phải “giáo hoá”?

Tại là vì sau hai chục năm nội chiến khốc liệt Tây Sơn – Nguyễn Ánh, lại bị Gia Long và Minh Mạng chủ tâm hạ cấp uy thế cố đô Thăng Long, nhằm độc tôn Thần kinh Huế, tình hình xã hội và văn hoá Hà Nội đã suy đồi đến mức báo động, như ông Nghè Phan, người làng Tự Tháp ven Hồ Gươm, năm 1831 từ Huế ra nhậm chức Giáo thụ phủ Thuận An (Bắc Ninh) tả chân trong bài thơ Đến đầu địa giới Hà Nội:

Quanh thành trộm cướp nổi triền miên,
Một đêm năm lần cháy phố....
Nay đương phát sinh nơi đô thành
Nhiều hạng dân du thực du thủ,
Đi học chỉ cốt giật tiếng Nho,
Đi buôn chửa giầu đã khoe của,
Cư dân thường túm tụm ba hoa,
Bộ hành áo quần cực diêm dúa,
Sòng bạc tràn lan khắp gần xa
Chiếu rượu, sạp ca thâu sớm tối…

Văn miếu - Quốc tử giám, niềm tự hào hơn bẩy trăm năm của sĩ phu Đại Việt, năm 1821 vua Minh Mạng lệnh phải hạ biển Thái học môn, thay bằng cái biển Văn miếu môn (nay ta vẫn thấy), theo quy chế chỉ còn là nơi xuân thu nhị kỳ trấn Bắc thành cúng tế cha mẹ của Khổng Tử, bị triều Nguyễn bỏ mặc cho trở nên hoang phế thành bãi thả rông bò dê:

… Trăm vua hình bóng tàn cây cổ,
Muôn thuở phong văn nát đá bia.
Trở lại thiếu thời nơi trọ học:
Giảng đường cô tịch bóng chiều đi!
(Vũ Tông Phan: Thăm Quốc tử giám cũ)

Trước tình hình đó, tháng 5 năm 1833 ông Nghè Tự Tháp danh tiếng vừa mới được thăng chức Đốc học tỉnh Bắc Ninh đã kiên quyết từ quan, trở về thôn Tự Tháp ven bờ tây hồ Gươm, dựng trên mảnh đất vua ban ngôi nhà lá năm gian cạnh gốc đa trong Tòa báo Nhân Dân ngày nay, mở trường dạy học và ngay kỳ thi Hương năm sau Vũ tiên sinh đã có 2 môn sinh đỗ cử nhân, nên trường Hồ đình của “quan nghè Tự Tháp “đệ tử tứ phương mãn” (lời thơ Nguyễn Văn Siêu). Tuy nhiên Vũ Tông Phan hiểu rằng trong tình trạng học phong đã suy đồi, một ngôi trường đại tập đơn độc, dẫu“chất lượng cao”, cũng không thể làm được gì nhiều. Bởi vậy với danh tiếng của người khai đại khoa cho Hà Nội dưới triều Nguyễn và uy tín của vị nguyên Đốc học một tỉnh đứng hàng đầu cả nước về số lượng tiến sĩ, ông Nghè Tự Tháp đã hội tụ cả một nhóm sĩ phu tài hoa như tiến sĩ Nguyễn Văn Lý, các cử nhân Nguyễn Văn Siêu (năm 1838 mới đỗ phó bảng), Cao Bá Quát, Trần Văn Vi, Lê Duy Trung (TS 1838), Diệp Xuân Huyên (PB 1838). Trường Hồ đình trở thành nơi họ gặp gỡ luận bàn về nỗi niềm trăn trở chung mà người bạn tâm huyết của ông Phan là Tiến sĩ Nguyễn Văn Lý đã thốt thành lời: “Trung hưng vận nước (nhà Nguyễn tuyên bố như vậy!) mà không chấn chỉnh đạo làm người được sao?”

Họ đã làm gì?

Trước hết họ sáng lập Văn hội Thọ Xương (1832) và nhờ sự tài trợ về đất đai, tiền bạc của thương nhân hằng sản hằng tâm Bùi Huy Tùng ngay 4 năm sau đã xây dựng được Văn chỉ ở Bạch Mai để tập hợp đội ngũ “Nho sĩ bình dân” (chữ của nhà văn hoá Nguyễn Khắc Viện), hô hào họ “làm người quân tử trong làng, làm thầy đồ trong xã” (Nguyễn Văn Lý: Văn bia Văn chỉ Thọ Xương, 1838; hiện còn trong ngõ Văn Chỉ - Bạch Mai), “trung với dân” và “lo cho dân” (Vũ Tông Phan: Văn bia trùng tu miếu Thần Hoả, 1841; hiện vẫn trên tường số 30 Hàng Điếu) – những phương châm đã trở thành lẽ sống của kẻ sĩ chẳng những trong Hướng Thiện hội mà cả trong Đông Kinh Nghĩa Thục hơn nửa thế kỷ sau, và một trăm năm sau còn được tiếp nối bởi lớp trí thức “Tây học” có tinh thần dân tộc - dân chủ với lời kêu gọi: “Anh em thanh niên! Đã đến lúc chúng ta về làm việc làng!” (báo Thanh Nghị, số tháng 9 - 1941).

Muốn chấn chỉnh đạo làm người thì phải “chính học”, tức xây dựng lại học phong cho đúng đắn: học để làm người quân tử chứ không phải “chỉ cốt giật tiếng Nho” (như ngày nay chỉ cốt lấy mảnh bằng!). Mùa xuân năm 1834 nhóm nho sĩ Hà thành này nhất loạt khai trường. Nguyễn Văn Siêu, đỗ cử nhân từ 1825 nhưng một mực từ chối ra làm quan, ở nhà đóng cửa đọc sách, nay (1834, chứ không phải sau khi về hưu vào năm 1854 như có “nhà Hà Nội học”viết) cũng dựng Phương đình dạy học bên bờ sông Tô (phố Nguyễn Văn Siêu ngày nay). Nhân sự kiện này họ tụ họp nhau trong một tiệc rượu để xướng hoạ về định hướng “phương chính” của học nghiệp và Thần Siêu dường như đã thay mặt bè bạn cùng chí hướng để nguyện: “Cố tri viên thị trí / Nguyện thủ phương vi hình” (Vẫn biết tròn là khôn ngoan / Xin nguyện giữ vuông làm khuôn mẫu).

Các ngôi trường của họ tập trung vùng ven bờ phía tây, phía bắc và phía nam hồ Hoàn Kiếm, theo địa danh ngày nay là các phố Nguyễn Văn Siêu, Hàng Đào, Hàng Gai, Tố Tịch, Lê Thái Tổ, Hàng Trống, Tràng Thi - đầu Bà Triệu… tạo thành hình vòng cung ôm lấy hồ Hoàn Kiếm. Rõ ràng không phải ngẫu nhiên Vũ Tông Phan trước đó đã khảo sát kỹ các di tích - danh thắng khu vực hồ Gươm từ thời Lý - Trần và sáng tác cả một chùm thơ Kiếm hồ thập vịnh, dường như nhằm minh chứng bề dầy văn hoá của chốn địa linh này. Rõ ràng các Nho sĩ trong Văn hội Thọ Xương và Hướng Thiện hội “chủ trương” (chữ chính họ dùng trên một vế đối trong đền ngọc Sơn) biến khu vực hồ Gươm thành trung tâm văn hoá mới của Hà Nội đầu thế kỷ XIX, thay cho khu Văn miếu không còn là Quốc tử giám nữa, theo quy chế của triều đình buộc phải trở nên hoang vắng!..

Nhà trường không phải là những ốc đảo. Không thể “chính học” trong một môi trường đồi phong bại tục tràn lan. Khi sáng lập Hướng Thiện hội với thành phần rộng rãi hơn nhiều so với các hội Tư văn chính thống, Vũ Tông Phan cùng các đồng chí đã nhắm tới những hoạt động văn hoá - xã hội rộng lớn ở bên ngoài phạm vi các ngôi thục xá. Đây lại là một điểm mới nữa, chưa từng có trong lịch sử sĩ phu đất Việt. Để có trụ sở thực thi “những việc có ích cho mọi người qua đó mà giáo hoá họ”, Hướng Thiện hội đã mua lại ngôi chùa tư gia của các con ông lão Tín Trai, dùng quỹ Hội và tiền thập phương quyên góp (phần rất đáng kể là của các thương nhân và cửa hiệu!) xây dựng cải tạo thành đền Ngọc Sơn. Thường thì đọc câu đối dẫn – câu đối đắp trên hai cột trụ chính giữa ở cổng đền chùa – người ta có thể biết ngay trong đó thờ Phật, hay tiên, hay thần thánh hoặc anh hùng. Câu đối dẫn ở đền Ngọc Sơn không có chữ nào về Phật-tiên-thần-thánh mà lại báo cho khách đồng thanh khí đương thời biết rằng vào đây là để tìm hiểu nguồn sáng vô hạn của văn hoá cổ truyền:

Lâm thuỷ đăng sơn nhất lộ tiệm nhập giai cảnh
Tầm nguyên phỏng cổ thử trung vô hạn phong quang

Nghĩa là: Xuống bến nước (trước 1864, khi Nguyễn Văn Siêu làm cầu Thê Húc, phải vào Đền bằng thuyền), trèo lên non (Ngọc Sơn nghĩa là núi Ngọc), có con đường dẫn dần vào nơi cảnh đẹp – Tìm cội nguồn, hỏi đạo cổ, trong việc ấy vô hạn ánh sáng phong văn.

Liên hệ với câu đối của Vũ Tông Phan ở bái đường Văn chỉ Thọ Xương (vì cả hai nơi này đều do ông Nghè tự Tháp chủ trì!) khách hiểu ra: nguồn cội đó chính là nền văn hiến sáng đẹp của nước Nam xưa (“cựu bang văn nhã”) và cổ đạo nói đây là những chuẩn mực và khuôn mẫu của đạo Nho gốc của Khổng Tử (“cổ đạo nghi hình”), với chữ “Nhân” làm gốc, chứ không phải Tống nho tôn sùng “trung quân”. Và phải kết hợp hai “chủ trương” ấy như hai vế của một câu đối: tìm hiểu văn hiến cổ truyền của dân tộc và học hỏi đạo làm người của chính Khổng Tử - thì mới mong dẫn dắt được mọi người:

Cựu bang văn nhã truyền tiên tiến
Cổ đạo nghi hình địch hậu sinh
(Phong văn nước cũ truyền người trước – mực thước đạo xưa dẫn kẻ sau)

Đền Ngọc Sơn trở thành một giảng đàn truyền bá đạo lý cổ truyền, tiến hành thường xuyên vào mồng 2 và 16 (ÂL) hàng tháng, mới đầu là các bản Thiện kinh truyền thống được diễn Nôm, về sau là kinh “giáng bút” của chư vị thần thánh dân tộc như Trần Hưng Đạo, Chu Văn An, Phùng Khắc Khoan, Liễu Hạnh … răn dạy tu thân theo đạo hiếu, gìn giữ thuần phong mỹ tục, bài trừ mê tín dị đoan. Điều cuối cùng này cần nhấn mạnh bởi vì mê tín dị đoan luôn luôn song hành cùng thời buổi suy đồi. Gần như ngay từ đầu trong Đền đã treo (nay vẫn còn trong hậu điện, nơi trước kia thờ Quan đế, nên người ta hay vào bói toán, cầu cúng đông đảo nhất!): Trời nào nói gì đâu? đạo mà hiển đạt đâu quan hệ điều ta bói! – Thần thánh vốn nhất quán: phúc lành khắc đến chỉ do đường đạo thẳng ngay. Đầu năm 1864, khi đã hoàn tất việc tôn tạo Đền, xây thêm Đài Nghiên, Tháp Bút, cầu Thê Húc và đình Trấn Ba (“trấn ba” là chặn các làn sóng tà nguỵ!), Nguyễn Văn Siêu, Hội trưởng thứ hai của hội Hướng Thiện sau khi Vũ Tông Phan mất (1851), tuyên bố rõ ràng: “Thần dựa vào người. Nếu bỏ người mà chỉ tin vào thần thì đó là việc làm của bọn ngu”. Trừ một số ít câu đối được đưa vào đền trong các lần trùng tu sau khi thực dân Pháp đã chiếm nước ta và Hội Hướng Thiện có lúc đã không còn hoàn toàn làm chủ ngôi đền nữa, mới bộc lộ những tư tưởng bi quan, yếm thế và tuỳ thời, còn tuyệt đại đa số hoành phi câu đối trong đền Ngọc Sơn đều thể hiện với “Thế bút chống vòm trời” (“Kình thiên bút thế”) những tư tưởng thanh cao và chí khí “Xoay vận trời cứu đời” (“Hồi thiên độ thế”) của kẻ sĩ chân chính. Có thể nói rằng không ở một đền miếu nào khác của Hà Nội có bộ hoành phi - câu đối lời hay, ý đẹp và tinh thần khoáng đạt như vậy.

Hội Hướng Thiện còn biến đền Ngọc Sơn thành một cơ sở biên soạn, khắc in và tàng trữ sách lớn nhất Hà Nội thế kỷ XIX. Chiến tranh và sự thiếu ý thức của con người đã huỷ hoại mất nhiều, vậy mà đến năm 1966 trong kho vẫn còn 1156 ván khắc. Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện vẫn lưu giữ một danh mục 241 đầu sách được khắc in tại đền Ngọc Sơn. Ngoài sách kinh điển Nho, Phật, Lão, còn nhiều sách thơ văn của các danh gia, sách dạy cách cư xử trong nhà ngoài phố, sách “khai tâm” Nho học và từ điển dùng cho các trường tiểu học trong phường thôn, cả sách dạy vệ sinh mang thai, sinh nở và nuôi con nữa. Đền Ngọc Sơn đã biên soạn sách truyện danh nhân đất Việt Chu Văn An và Trần Hưng Đạo mà nhiều đền miếu ở các tỉnh về sao chép hoặc “thỉnh” về khắc in lại.

… Bóng dáng hàng ngàn nho sinh áo the khăn xếp ngày ngày cắp sách lui tới các ngôi trường tiểu tập, đại tập ven hồ, tiếng các thầy đồ sang sảng giảng sách bình văn sớm hôm, tiếng sĩ tử các trường thi tấu thơ ca trong sân đền Ngọc Sơn những đêm trăng thanh; rồi sau những kỳ thi Hương, thi Hội các môn sinh đỗ đạt bỏ võng lọng ngoài cổng làng, đi bộ tự tay bưng khay lễ đến tạ ơn tác thành của thầy, và cả những buổi tế lễ thầy học đông đảo mà trang nghiêm – tất cả tạo nên một bản sắc văn hoá riêng – Văn hoá hồ Gươm, chưa từng có nơi này trong các đời trước và cũng độc nhất vô nhị ở Hà thành nửa đầu thế kỷ XIX. Hà Nội ba chục năm đầu thế kỷ hỗn loạn, suy đồi là thế, vậy mà khoảng giữa thế kỷ, tức mới chỉ hai chục năm sau, một ký giả báo Le Courrier de Saigon đã có thể nhận xét: “Mặc dù nó không còn là nơi vua chúa ở nữa, tôi cho rằng đó vẫn là thành phố đứng đầu vương quốc về nghệ thuật, về kỹ nghệ, thương nghiệp, sự giầu có, số dân đông đúc, sự lịch duyệt và học vấn” (dẫn theo Nguyễn Thừa Hỷ).

Trong sự phục hưng ấy “trung tâm văn hoá – giáo dục” Ngọc Sơn với các ngôi trường tư thục ở khắp phường thôn Hà thành của các ông đồ trong hội Hướng Thiện đóng góp phần quan trọng.

V.T.K
* Bài viết dựa trên cơ sở các báo cáo khoa học và các bài báo trong 15 năm qua của tác giả đã công bố tại các hội thảo trong/ngoài nước và các tạp chí chuyên ngành: Tạp chí Hán Nôm, Xưa & Nay, Thông tin Khoa học Xã hội, Khoa học Ngoại ngữ.
(Còn tiếp kỳ 2 – Cơ sở vận động yêu nước)
.
*Bài viết do Nhà giáo Vũ Thế Khôi gửi trực tiếp cho Nguyễn Xuân Diện - blog.
Xin chân thành cảm ơn tác giả.
.
Nhà giáo Vũ Thế Khôi và Nguyễn Xuân Diện, chiều 12.10.2010.
(Sinh nhật Ông Vũ Thế Khôi).