Thứ Năm, 23 tháng 6, 2011

TRÂN TRỌNG GIỚI THIỆU BÀI VIẾT MỚI CỦA ÔNG ĐINH KIM PHÚC

CHÍNH PHỦ PHÁP Ở ĐÔNG DƯƠNG LIÊN TỤC THỰC THI CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TRÊN HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA-TRƯỜNG SA (1909-1933)(*)

Đinh Kim Phúc

 “Hoàng Sa là một quần đảo thuộc về An Nam”
(Les Lettres étudiantes et curieuses-Tập 3 trang 38,
nhà xuất bản văn học Panthéon, năm 1843)
————–
 
Bản đồ khu vực Đông Nam Á do Jean Baptiste Nolin hoàn thành năm 1687.
 (Nguồn: Bản đồ ký hiệu C.C. 1144.A lưu trữ tại Thư viện quốc gia Bồ Đào Nha)

 
Khu vực quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa được ghi chú là: Baixos de Chapar de Pulls Scir (tạm dịch: Bãi cát Champa là bãi đá ngầm) nằm trong Vịnh Cochin Chine (Golfe de la Cochin Chine)

Khi nhắc đến hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, người Pháp đã nhận xét:

“Quần đảo Hoàng sa gồm những đảo nổi tiếng trong biên niên sử hàng hải qua chuyện mắc cạn của tàu “l’Amphirite”, chiếc tàu đầu tiên của Pháp dưới thời vua Louis XIV, đi từ Pháp qua Trung Quốc (1698).
.
Quần đảo nhỏ này có vị trí ở khoảng vĩ độ giữa Huế và Đà nẵng, chia làm hai nhóm: nhóm Croissant (Trăng Khuyết), ở gần bán đảo Đông Dương nhất, và nhóm l’Amphitrite (An Vĩnh), xa về phía Đông. Vị trí địa lý của quần đảo không ra ngoài phạm vi lãnh thổ của vua An Nam, Gia Long, đã đặt chủ quyền từ năm1806.
.
Nhóm Trường Sa, được biết dưới tên nhóm đảo Tempête (Bão Tố) nằm ở vị trí mà phần lớn thuộc Đông Dương, cùng vĩ độ của quần đảo Côn lôn. Một nhóm khoảng 14 đảo, Trường Sa trải rộng ở phía đông nam của Paradang, phía nam của Hoàng Sa, 594 dặm về phía Nam đảo Hải Nam. Các đảo này có nhiều đảo san hô, là nơi trú ẩn của vô số chim biển; là một vị trí tuyệt vời cho thủy phi cơ trong vùng Đông nam Á, nằm giữa khoảng cách giữa bán đảo Đông Dương và Bornéo”.(1)

Cho đến trước năm 1909, thế giới đã chứng kiến một sự kiện chưa từng có tiền lệ: quân đội của một nước da vàng đánh thắng quân đội của một nước da trắng. Đó là cuộc chiến tranh Nga-Nhật (1904-1905).

Đây là một thắng lợi đầu tiên của một nước châu Á trước một cường quốc châu Âu trong thời kỳ hiện đại. Uy thế của Nhật Bản tăng lên nhanh chóng và bắt đầu được coi là một cường quốc đầu thế kỷ XX. Chủ nghĩa Đại Đông Á đang trên đà thẳng tiến.

Trước đó, trong cuộc chiến tranh Trung-Nhật (1894-1895) và chiến thắng cũng đứng về phía Nhật Bản nên đã làm cho giới lãnh đạo Trung Quốc lúc bấy giờ thức tỉnh, họ bắt đầu coi trọng đại dương và chiến lược hướng ra đại dương cũng bắt đầu từ đó. Và phương Nam vẫn là hướng bành trướng truyền thống của các nhà nước phương Bắc.

 
Bản đồ Trung Quốc năm 1910 (thời Nhà Thanh)

[Bản đồ rõ ràng không phải của Trung Quốc mà do người phương Tây vẽ về thời nhà Thanh, Trung đế quốc vào năm 1910 AD, một năm sau chủ quyền của Trung Quốc bị đe dọa và bị bao vây hơn 70 năm.

Trong Bản đồ năm 1910 này, được vẽ một năm trước khi hoàng đế cuối cùng của nhà Thanh, Tuyên Thống (còn có tên Aisin-Gioro Pu Yi) thoái vị và cuối cùng đã kết thúc giai đoạn lịch sử phong kiến Trung Quốc, Trung Quốc được vẽ với ranh giới và sự xác định nhỏ nhất. Đáng chú ý là vùng Đông Bắc (Mãn Châu), và Nội Mông, cả hai vùng lãnh thổ trên danh nghĩa do Trung Quốc kiểm soát và thuộc chủ quyền của Trung Quốc được vẽ như các khu vực riêng biệt].

(Nguồn: http://www.drben.net/files/China/ChinaMaps-ALL/Historic_Maps/Qing_Dynasty-1644-1911/_Ancient_Maps__Asia_-_Chinese_Empire_1910-S_op_800×611.jpg)

Trong bối cảnh ấy, tầm quang trọng của hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa đã được nhận thức lại: “Các đảo nhỏ, đá ngầm mà trước đây chưa bao lâu, gây cản trở và làm người ta né tránh, thì hôm nay lại là chủ đề để người ta nghiên cứu, đặt tham vọng, và thay đổi quan điểm ngoại giao. Hậu quả là, người ta phát hiện ra những điều mà trước đây đã bỏ qua: đó là nơi có thể làm căn cứ không quân, điểm để quan sát và tuần cảnh trên biển”.(2) 

Năm 1909, vì cho rằng quần đảo Hoàng Sa là vùng đất vô chủ, lần đầu tiên chính quyền Quảng Đông (Trung Quốc) đã tiến hành cho khảo sát Hoàng Sa. Quá trình tranh chấp biển Đông của Trung Quốc có thể nói rằng đã bắt đầu từ đây.

“Vào năm 1909, hai tàu chiến nhỏ của Trung Hoa đến từ Quảng Châu, bất ngờ, buộc 2 người Đức giao nộp tài liệu khảo sát về quần đảo trong vòng 24 giờ, nhưng họ loan một mẫu tin trong một tờ báo lớn ở Quảng Châu, ngày 20 tháng 6, một tin quan trọng khôi hài: ‘Teo-tai-Li, như đã nói, là đã vẽ một bản đồ tổng quát về các đảo mà ông đã khám phá và 15 bản đồ riêng của cùng những đảo đó( trong vài giờ !)” (3)

 
Báo La Nature số 2916 ngày 1-11-1933

Xác nhận sự kiện trên, báo Advertiser số ra ngày thứ Ba, 29/6/1909 đã viết:

"Tin từ cảng Darwin hôm 28/6 – một nguồn tin từ Trường Sa (Hồ Nam, Trung Quốc) cho biết Trung Quốc vừa tiến hành một sứ mạng chính thức với sự tham dự của cả các sĩ quan chỉ huy cấp cao, đó là ra thăm quần đảo Hoàng Sa trên 3 pháo hạm Fupao, Chinhao và Kwong Kum để thượng cờ rồng (Long kỳ – cờ Thanh triều Trung Quốc) tại quần đảo này. Đảo Robert bị đổi tên thành đảo Fupao, đảo Cây thành đảo Chinhao sau khi hai con tàu trên tới các đảo này. Điều này cho thấy người Trung Quốc đang nhắm tới việc biến Zulinkan thành căn cứ phía Nam cho hải quân Trung Quốc trong tương lai”
.(4)

Cũng trên báo Advertiser số ra ngày thứ Hai, 5-7-1909, tiếp tục đưa tin:

“Đô đốc Le và Taotai Li, những người vừa ghé thăm quần đảo Hoàng Sa, đã trình tấu cho Phó Vương Quảng Đông là hai đảo Fuk-Po và Mo-Huk có thể được dùng để làm thương cảng, và một cây cầu sẽ nối liền hai đảo. Họ cho biết các cơ sở làm nông nghiệp, sản xuất muối, và nghề cá có thể được duy trì trên những đảo này”.(5)

 
Tin về quần đảo Hoàng Sa trên trang 8 báo The Advertiser, ngày thứ Hai, 5-7-1909

Từ những sự kiện kể trên, cho đến nay các học giả Trung Quốc vẫn căn cứ vào đó coi như hồ sơ pháp lý của mình để hợp thức hóa trong việc lên tiếng chủ quyền của họ trên biển Đông. Nhưng phía Trung Quốc quên rằng trong các năm 1895, 1896 khi các ngư dân ở đảo Hải Nam ra cướp đồng trên các tàu bị đắm tại Hoàng Sa như tàu Bellona của Đức và tàu Imezi Maru của Nhật, chính phủ Anh đã phản kháng và Trung Quốc tuyên bố chính thức là quần đảo nầy không thuộc về mình.(6)

Trong khi ấy, sau khi Hoà ước Giáp Thân (1884), là Hoà ước được Triều đình Huế kí với nước Pháp công nhận cuộc bảo hộ của Pháp và kể từ đây thực dân Pháp đặt nền bảo hộ trên toàn cõi Việt Nam. Thực dân Pháp sẽ thay mặt Việt Nam trong những quan hệ ngoại giao với nước ngoài bên cạnh là đảm bảo chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Cũng theo tinh thần của Hòa ước Giáp Thân, thực dân Pháp tiếp tục thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa.

Trong khoảng thời gian từ 1894-1899, Pháp đã đạt được nhiều lợi ích từ Đông Dương, Trung Quốc và đạt được về nguyên tắc những lợi ích căn bản tại đây, nhưng cũng kể từ thời gian này, chính sách của chính phủ Pháp chú trọng đặc biệt vào châu Phi. Nhưng chúng tôi thấy rằng không vì lợi ích kinh tế ở Châu Phi và những khó khăn ở Đông Dương (lúc đầu người Pháp không mấy quan tâm đến Hoàng Sa) thực dân Pháp vẫn tiếp tục duy trì chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa:

“Cần nhắc lại rằng trong khoảng năm 1899, M. Doumer, khi đó là Thống đốc Toàn quyền Đông Dương, đã ra lịnh xây dựng một hải đăng trên đảo Hoàng Sa. Một dự án đã được thực hiện hoàn tất. Dự án này đã bị ngưng trệ một cách lặng lẽ trong khối nhiệm vụ của một quan toàn quyền”.(7)

Dự án này tuy được Toàn quyền Paul Doumer ủng hộ nhưng bất thành vì thiếu ngân quỹ. Giải thích về vấn đề, Báo La Nature có nhận xét: “Chính phủ Pháp, đã thiết lập sự đô hộ của họ đối với An Nam mà những hòn đảo này thuộc lãnh thổ của An Nam, nên Pháp có quyền sở hữu và trách nhiệm coi sóc đối với lãnh thổ mới này. Phải nhận thấy rằng họ đã hoàn toàn phớt lờ trách nhiệm cho đến hôm nay. Lý do vì lợi tức ít oi hoàn toàn không biện bạch được cho việc thờ ơ này”.(8)

Tuy nhiên, hải quân Pháp vẫn tuần tiễu vùng biển để giữ an ninh và cứu giúp các thuyền bị đắm: “Từ thời kỳ này đến 1920, quần đảo Hoàng Sa chìm vào quên lãng. Trong thời kỳ này, tàu của sở thuế Đông Dương thỉnh thoảng ghé nơi này nơi kia giữa các đảo của quần đảo, khi thì can thiệp giữa các người đánh cá Trung Hoa và An Nam khi họ hành nghề ở đó, bước đầu họ phải vất vả đánh bắt sản vật biển để sau đó đem bán cùng với các sản vật biển khác mà phụ nữ và trẻ em thu lượm được, khi thì ngăn chận bọn buôn lậu vũ khí và á phiện”.(9)

Bên cạnh việc giữgìn an ninh trên biển, năm 1917, 1918 trong các báo cáo của chính quyền Pháp tại Đông Dương, có đề cập đến việc cần thiết lắp đặt đài radio TSF, trạm quan sát thời tiết, hải đăng trên quần đảo Hoàng Sa. Điều này cho thấy Pháp sớm quan tâm quản lý, thực thi chủ quyền Hoàng Sa trong Đông Dương thuộc Pháp. (10)

Vào cuối năm 1918, sự kiểm soát của Pháp trên biển Đông rất gắt gao, chính vì thế Nhật Bản phao tin là Pháp giành quyền khai thác phốt-phát. “Trường hợp hãng Mitsui Bussan Kaisha, đã từ lâu khai thác phốt-phát trên hai đảo Ile Boisee (Phú Lâm), và Ile Roberts (Cam Tuyền). Chính phủ Nhật Bản công nhận quyền hạn pháp lý của Pháp năm 1927. Trong bản tường trình cho Bộ Thuộc Địa tại Paris viết ngày 20 tháng ba năm 1930, chính phủ thực dân Pháp tường thuật rằng vào năm 1927 Lãnh Sự Nhật Bản tại Hà Nội, ông Kurosawa, đã thay mặt chính phủ Nhật Bản hỏi Pháp về tình trạng một số đảo trong vùng biển Đông. Nhưng Lãnh Sự Nhật Bản tuyên bố rằng, theo chỉ thị của chính phủ Nhật Bản, quần đảo Hoàng Sa dứt khoát không được bàn đến, vì Nhật Bản không hề tranh luận chủ quyền của Hoàng Sa với Pháp”.(11)

Trước tình hình đó, trong bài báo La perte du Haiphong của tạp chí L’Eveil économique de l’Indochine số 394 xuất bản tại Hà Nội ngày 28/12/1924 đã kêu gọi về sự cần thiết phải chiếm giữ và xây dựng các công trình trên quần đảo Hoàng Sa, lợi ích của việc xây hải đăng trên đảo Tri Tôn.(12)

Sự kiểm soát biển Đông có hiệu quả của của chính quyền thực dân Pháp đã dẫn đến điều kiện cho phép các cuộc thám hiểm khoa học trên quần đảo Hoàng Sa.

“Một cuộc khảo sát về độ sâu vào năm 1926 được tàu De Lanessan của Sở nghiên cứu hải dương và nghề cá Đông Dương thực hiện, với sự điều hành của D’A. Kempf, giám đốc Sở. Chuyến khảo sát đã ghi nhận thành phần cấu trúc duy nhất của đất đá trên các đảo và đảo nhỏ là đá vôi san hô, trên bề mặt là một lớp san hô sống, cát và sỏi đá vôi.

Người ta cũng thấy có một tầng đá vôi phos-phat dày chừng 1m với hàm lượng axit phos-pho-ric từ 23-25% trong tầng mặt, 42% ở tầng sâu (Phân tích của giám đốc phòng thí nghiệm hóa học Sàì gòn, M.Michel-chú thích của tác giả bài báo).

Sự khám phá ra mỏ khoáng này, thật có lợi như ta đã thấy, nhưng cho đến nay, chỉ có một công ty Nhật, vào năm 1920, được giấy phép của Tư lệnh hải quân Sài Gòn đến khai thác mỏ trên đảo Phú Lâm (Boisée) và Hữu Nhật (Roberts). Một số lượng phos-phat nào đó đã được đưa về qua một đoạn đường sắt nhỏ dẫn đến một cầu tàu dài 300m, nơi cập bến”.(13)

Hơn nữa, dường như khó có thể tiến hành khai thác nghề cá dưới dạng công nghiệp trên vùng đá san hô của quần đảo Hoàng Sa. “Quả vậy, những báo cáo của phái đoàn nghiên cứu của tàu De Lanessan nói rằng, dù tìm thấy có rất nhiều loài cá ở đó, nhưng cấu tạo của đáy biển ven bờ gây khó khăn cho việc dùng lưới, công việc mà người ta không thể thực hiện được trong vài phút ở vùng đáy biển gồ ghề nơi có đầy san hô đang sinh trưởng. Cuộc khảo sát đáy biển này, đoàn nghiên cứu đã thực hiện bằng phương cách chiếu sáng, cho phép Sở Hải dương học và Nghề cá Đông Dương ghi nhận các loài sinh vật biển chưa được biết đến ở đó cũng như có thể trao đổi qua lại giữa các thành viên trong đoàn về số liệu của những khối san hô và độ sâu các vùng trũng phân cách chúng. Nhưng phải nói là rất ấn tượng với khối nước 20m này, nó trong suốt như thủy tinh với những loài cá nhiều màu sắc rực rỡ lượn qua lại giữa các loài san hô đa dạng”.(14)

Mặc dù “Có vẻ như việc khai thác này không đem lại hiệu quả nên các công trình xây dựng từ lâu bị bỏ phế: cầu tàu, xe goòng, xà lan xi măng, máy chưng cất, v.v…Việc khai thác, thực tế có vẻ không hữu dụng: gió mạnh, tiếp tế lương thực tốn kém và sự an toàn khi chuyên chở hàng hóa rất bấp bênh. Hơn nữa, dường như khó có thể tiến hành khai thác nghề cá dưới dạng công nghiệp trên vùng đá san hô của quần đảo Hoàng Sa. Quả vậy, những báo cáo của phái đoàn nghiên cứu của tàu De Lanessan nói rằng, dù tìm thấy có rất nhiều loài cá ở đó, nhưng cấu tạo của đáy biển ven bờ gây khó khăn cho việc dùng lưới, công việc mà người ta không thể thực hiện được trong vài phút ở vùng đáy biển gồ ghề nơi có đầy san hô đang sinh trưởng”.(15)

Nhưng “Tốt hơn là các quy định này được lập ra khi chính phủ đặt trên khối đá ngầm này một hải đăng hiệu quả cho phép tàu đi biển không gặp nguy hiểm khi đi gần đến đó. Sẽ rất tuyệt vời nếu đặt thêm vào nơi đó một trung tâm thông tin khí tượng, ở nơi có nhiều cơn bão chính đi qua trong vùng biển Trung Hoa, để tổ chức và hoạt động của trung tâm này đưa ra những cảnh báo thời tiết.(16)

Chính vì vậy, D’A. Kempf đã đề xuất thiết lập một đài quan sát và một ngọn hải đăng và nếu có thể là một bến cảng tại Hoàng Sa để có chỗ cho ngư dân tránh bão và bảo vệ ngư dân An Nam.(17)

“Quyền hạn pháp lý của Pháp vững chắc, và yên ổn đủ để cho phép các cuộc thám hiểm khoa học trên quần đảo Hoàng Sa. Một danh sách đáng kể gồm các công trình nghiên cứu khoa học trong mọi lãnh vực đã được công bố bởi các viện thuộc địa và học giả. Từ 1925, sau sứ mạng khoa học lần đầu tiên trên thuyền De Lanessan do các khoa học gia thuộc Hải Học Viện Nha Trang nổi tiếng thực hiện, những kiến thức về quần đảo Hoàng Sa được thu thập nhiều”.(18)

Trong một báo cáo năm 1933 về tình hình kinh tế, tài chính của chính quyền thuộc địa Pháp tại Đông Dương có nói những hoạt động chính của tàu De Lanessan trong chuyến khảo sát quần đảo Trường Sa. Các đảo được khảo sát gồm có đảo An Bang (Amboyna Cay), Đá Tây (Récif London Ouest), Đá Chữ Thập (Fiery Cross), đảo Ba Bình (Itu Aba) và cụm Tizard, đảo Loại Ta, Đá Subi, đảo Thị Tứ, đảo Song Tử Đông (Cay de l’Alerte) và cụm Song Tử (North Danger) (19) đã chứng chứng tỏ chính phủ Pháp đã có trách nhiệm trong việc chiếm hữu, khai thác liên tục và có hiệu quả trên vùng biển Đông thuộc chủ quyền của Việt Nam.

“Bằng những hành động kể trên, người Pháp nhận lấy pháp quyền và trách nhiệm giao nhượng cho họ từ người Việt Nam bị bảo hộ, tiếp tục bảo đảm quyền hạn pháp lý thay mặt cho người Việt Nam. Tuy nhiên, khi đối diện với yêu sách không căn cứ và hành động bất hợp pháp của Trung Hoa về quần đảo Hoàng Sa năm 1932, người Pháp cảm thấy cần phải có biện pháp phòng thủ. Từ năm 1909, Trung Quốc thỉnh thoảng đòi chủ quyền trên đảo. Một lần trong năm 1909, chính quyền tỉnh Kuang Tung (Quảng Đông) cho tàu chiến ra thám hiểm đảo. Ngày 20 tháng ba, 1921 tỉnh trưởng Kuang Tung ký một sắc lệnh kỳ lạ sát nhập quần đảo Hoàng Sa vào lãnh thổ đảo Hải Nam. Tuy nhiên, hành động của ông không ai biết đến, vì nó chỉ được ghi chép trong văn bản của địa phương, do đó thế giới không biết đến để bình phẩm hoặc chống lại. Tuy Trung Quốc không đưa người ra chiếm đảo, nhưng Pháp thấy rằng những hành động đó khiến Pháp phải ra tay trước. Thí dụ, năm 1930 thủy thủ đoàn trên tàu La Malicieuse đổ bộ lên nhiều đảo trong quần đảo Hoàng Sa để cắm cờ và mốc chủ quyền”.(20)

Năm 1927, với tựa đề “Chronique des mines” tác giả bài báo đã đề cập đến việc quần đảo Hoàng Sa là một phần của An Nam nhưng chính phủ Pháp đã không có những hành động thiết thực để chứng minh chủ quyền của An Nam khi đó là nước được Pháp bảo hộ và để cho Trung Quốc nghiễm nhiên coi Hoàng Sa là của Trung Quốc (21).

Đứng trước tình hình đó, “Ngày 4-12-1931 và ngày 24-4-1932, Pháp phản kháng Chính phủ Trung Quốc về việc chính quyền Quảng Đông lúc đó có ý định cho đấu thầu khai thác phân chim trên quần đảo Hoàng Sa”.(22)

Năm 1933, chính quyền Pháp quyết định thiết lập chủ quyền trên quần đảo Trường Sa.

Báo Le journal officiel trong số báo ngày 1 tháng 7 năm 1933, đã đăng tải một thông tin liên quan đến việc các đơn vị hải quân Pháp chiếm hữu một số đảo và đảo nhỏ nằm trong vùng biển Đông, giữa các đảo của Philippines, Bornéo và Đông Dương.

“Pháp đã biết đến nhóm đảo này, vào ngày 13 tháng 4 năm 1930, bởi tàu chiến nhẹ “ La Malicieuse”. Ngày 7 và 10 tháng 4 năm 1933, đảo đã được đặt cột mốc xác định chủ quyền bởi các thông báo hạm “ Astrolabe” và “ Alerte”; cuối cùng vào ngày 25 tháng 4 năm 1938, một cột cờ đã được dựng lên bởi tuần dương hạm “ Duguay-Trouin”.(23)

Cáo thị sát nhập đăng trên báo “Journal Officiel” ngày 26 tháng 7 năm 1933.

 “Công bố quyền thủ đắc do chiếm cứ các đảo do các đơn vị Hải Quân Pháp thực hiện.”

Chính phủ Pháp quốc nay long trọng công bố sự kiện chiếm cứ các đảo nêu trên do Hải Quân Pháp thực hiện.

1.    Trường Sa, tọa lạc tại vĩ tuyến 8 độ 39 Bắc và 111 độ kinh Tuyến Đông cùng một số đảo nhỏ khác trong vùng.(Chiếm cứ ngày 13 tháng 4 năm 1930).

2.    Cồn Am Bang (Amboine) tọa lạc tại vĩ tuyến 7 độ 52 Bắc và kinh tuyến 115 độ 55 Đông cùng một số đảo nhỏ trong vùng.(Chiếm cứ ngày 7 tháng 4 năm 1933).

3.    Đảo Ba Bình (Ita Aba) tọa lạc tại vĩ tuyến 10 độ 2 Bắc và kinh tuyến 114 độ 21 Đông cùng một số đảo khác trong vùng.(Chiếm cứ ngày 10 tháng 4 năm 1933).

4.    Nhóm hai đảo tọa lạc tại vĩ tuyến 111 độ 29 Bắc, kinh tuyến 114 độ 21 Đông cùng một số đảo nhỏ khác trong vùng (36).(Chiếm cứ ngày 10 tháng 4 năm 1933).

5.    Loại Tá (Loaita) tọa lạc tại vĩ tuyến 10 độ 42 Bắc kinh tuyến 114 độ 25 Đông cùng một số đảo nhỏ khác.(Chiếm cứ ngày 12 tháng 4 năm 1933).

6.    Đảo Thị Tứ (Thitu) tọa lạc tại vĩ tuyến 11 độ 7 Bắc và kinh tuyến 114 độ 16 Đông cùng một số đảo khác.(Chiếm cứ ngày 12 tháng 4 năm 1933).

Tất cả các đảo nêu trên sẽ thuộc chủ quyền của nước Pháp kể từ ngày hôm nay (công bố nầy có hiệu lực hủy bỏ tất cả các công bố được liệt vào sổ bộ trước đây).

                                                                                               Ngày 25 tháng 7 năm 1933.

Để kết luận cho bài viết này, chúng tôi xin mượn lời kết của báo La Nature:

“Chính phủ Pháp, đã thiết lập sự đô hộ của họ đối với An Nam mà những hòn đảo này thuộc lãnh thổ của An Nam, nên Pháp có quyền sở hữu và trách nhiệm coi sóc đối với lãnh thổ mới này”.(24)

Chú thích:
(*) Tất cả những tư liệu được trình bày trong bài viết này chúng tôi thiết nghĩ cũng chưa đủ để làm rõ vấn đề như tựa bài viết mà chúng tôi đã chọn, mong nhận được sự đóng góp thêm của bạn đọc.
Nhân đây chúng tôi xin chân thành cám ơn các bạn hhhh, Sanleo, Submarine và Trung tâm Dữ liệu Hoàng Sa (HSO) đã  tạo điều kiện cho chúng tôi tiếp cận tài liệu của các bạn.

(1)(2) Madrolle Claudius – Vấn đề Hải Nam và quần đảo Hoàng Sa – trong : Chính sách nước ngoài – số 3 – 1939 – năm thứ tư, trang 302-312 (http://www.persee.fr)
(3) Báo “ La Nature” số 2916 ngày 1 tháng 11 năm 1933, phát hành vào ngày 1 và 15 hằng tháng. Tài liệu lưu trử của Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa.
(4) Báo Advertiser số ra ngày thứ 3, 29/6/1909, trang 7. Tài liệu lưu trử của Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa.
(5) The Advertiser, Monday 5 July 1909, page 8. Tài liệu lưu trử của Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa.
(6) Bài báo “L’histoire moderne des iles Paracels” đăng trên tờ báo “L’ Eveil de l’Indochine” số 738 năm thứ 16, phát hành ngày 22/5/1932 tại Hà Nội. Tài liệu lưu trử của Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa.
(7) Báo “ La Nature” số 2916 ngày 1 tháng 11 năm 1933, tài liệu đã dẫn.
(8) Báo “ La Nature” số 2916 ngày 1 tháng 11 năm 1933, tài liệu đã dẫn.
(9) Báo “ La Nature” số 2916 ngày 1 tháng 11 năm 1933, tài liệu đã dẫn.
- Gouvernment général de l’Indochine – Conseil de Gouvernment: Session ordinaire de 1918. Tài liệu lưu trử của Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa.
(11) Bạch Thư về các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam Cộng Hòa, Bộ Ngoại Giao, Sài-gòn, 1975
(12) L’Eveil économique de l’Indochine N394: La perte du Haiphong 28/12/1924. Tài liệu lưu trử của Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa.
(13) Báo “ La Nature” số 2916 ngày 1 tháng 11 năm 1933, tài liệu đã dẫn.
(14) Báo “ La Nature” số 2916 ngày 1 tháng 11 năm 1933, tài liệu đã dẫn.
(15) Báo “ La Nature” số 2916 ngày 1 tháng 11 năm 1933, tài liệu đã dẫn.
(16) Báo “ La Nature” số 2916 ngày 1 tháng 11 năm 1933, tài liệu đã dẫn.
(17) L’ Eveil de l’Indochine N419. Du Charbon pour le “de Lanessan”.1925/06/21. Tài liệu lưu trử của Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa.
(18) Bạch Thư về các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam Cộng Hòa, Bộ Ngoại Giao, Sài-gòn, 1975
(19) Océanographie physicque et biologique 1932, 1933. Tài liệu lưu trử của Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa.
(20) Bạch Thư về các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam Cộng Hòa, Bộ Ngoại Giao, Sài-gòn, 1975
(21) L’ Eveil de l’Indochine N502 . Chronique des mines . 1927/01/23. Tài liệu lưu trử của Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa.
(22) Quần Ðảo Hoàng Sa và Trường Sa-Lãnh Thổ Việt Nam.
(23) Madrolle Claudius – Vấn đề Hải Nam và quần đảo Hoàng Sa – Tài liệu đã dẫn.
(24) Báo “ La Nature” số 2916 ngày 1 tháng 11 năm 1933, tài liệu đã dẫn.

*Bài viết do Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc gửi trực tiếp cho NXD-Blog.
Xin chân thành cảm ơn tác giả!

GIÁO SƯ NGÔ ĐỨC THỌ GỬI THƯ CHO GIÁO SƯ PHẠM DUY HIỂN

GS. Ngô Đức Thọ. Ảnh: TienPhong
Kính gửi Giáo sư Phạm Duy Hiển,

Tôi nghe biết đại danh của Giáo sư từ lâu. Hôm nay tôi không xem Bee.net, nhưng mở trang blog của TS Nguyễn Xuân Diện, thấy bức thư ngỏ của Giáo sư gửi ngài Thủ tướng Nhật Naoto Kan tôi thấy xúc động vô cùng. Chuyện như thế tại sao tôi lại xúc động?

Xin thưa là vì từ lâu tôi vẫn băn khoăn một nỗi: tại sao đông đảo giới trí thức nước mình lên tiếng phản biện mạnh mẽ vậy về dự án điện hạt nhân, thế mà không hiểu tại sao liên tục có nhiều đoàn cấp cao của Nhật Bản sang Việt Nam bàn thảo ủng hộ cho các dự án điện hạt nhân của Việt Nam? Đành phải tự trả lời rằng: Chính phủ họ thì phải ủng hộ, vì đó là cơ hội để các tập đoàn liên quan của Nhật xuất khẩu kỹ thuật, xuất khẩu máy móc sản suất điện hạt nhân nhiều tỷ đô la...Nhưng trong đầu óc và tình cảm của tôi, tôi vẫn nghĩ rằng nước Nhật rất hiểu Việt Nam, người Nhật nhân hậu, bao giờ cũng muốn làm điều tốt cho Việt Nam. Mà điện hạt nhân là vấn đề rất lớn, Nhật Bản đi đầu và có rất nhiều kinh nghiệm quản lý điều hành điện hạt nhân, trong khi đó thì trình độ kỹ thuật của Việt Nam mình còn rất thấp, trình độ điều hành có lẽ  còn yếu hơn nữa. Vậy lý do nào đã khiến cho các bạn Nhật không tận tình nói thẳng để cho các nhà lãnh đạo Việt Nam biết trước khi đưa ra quyết định?

Có vấn đề lợi nhuận lớn, nhưng như trên đã nói, tôi vẫn nghĩ người Nhật rất có lương tâm. Nay sự việc đã xẩy ra ở nhà máy ĐHN Fukushima gây tổn thất lớn như vậy, lẽ nào Chính phủ và nhân dân Nhật bình tâm nhìn Việt Nam với KHKT lạc hậu đang sải những bước chân loạng choạng vào cái vòng kim cô đầy phóng xạ ấy?. Cả ở Đức nữa, Bà Thủ tướng Mackel cũng đã tuyên bố nước này đang quá trình chấm dứt ĐHN. Nếu rủi ro xẩy ra chuyện gì, tiềm lực lớn như Nhật Bản mà xử lý còn lao đao, thì Việt Nam với quỹ dự trữ đô-la bé tí xíu không biết xoay xở ra sao? (Chuyện kỹ thuật, tiền nong mà nghe ông PTT Nguyễn Sinh Hùng giơ tay kiểu lãnh tụ thì tôi không có tiền lệ nào để tin tưởng cả!). Rồi sẽ để cho dân tộc phải chịu thảm hoạ thôi. Mà lúc đó thì êkip lãnh đạo hiện nay an toàn hay không an toàn cũng hạ cánh (hoặc biến khuất) từ lâu rồi. Con Hồng cháu Lạc đau khổ biết bao ngàn năm, đến lúc ấy biết tìm ai mà hỏi trách nhiệm đây? Không phải là tự tôi không biết địa vị mình như con kiến mà ĐHN là chuyện lớn lao trên trời xanh, ai lo cho kiến mà kiến lo việc trời xanh? Nhưng quả thật với trách nhiệm công dân, đó là băn khoăn suy nghĩ trong lòng của tôi.

Vì vậy, đọc bức thư ngỏ của Giáo sư gửi Ngài Thủ tướng Nhật tôi thật rất xúc đông, thấy Giáo sư với tư cách là một nhà khoa học của chuyên ngành hạt nhân, không những lý lẽ kinh nghiệm đã vững chắc mà ngôn từ Giáo sư viết cho ngài Naoto Kan cũng rất chọn lọc thích đáng. Bức thư đó của Giáo sư thật đã nói hộ, bao gồm hộ cho những suy tư lo lắng của bản thân tôi và của rất nhiều người khác nữa. Tôi tin rằng bức thư chân tình chí lý của Giáo sư sẽ có ảnh hưởng tích cực đối với ngài Thủ tướng Naoto Kan và đông đảo người dân Nhật nhiều khổ đau do đó giàu lòng nhân hậu.

Một lần nữa tôi bày tỏ sự đồng tình và cám ơn Giáo sư đã viết bức thư đầy tâm huyết nói trên.

Ngô Đức Thọ
Cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm, đã hưu trí.

Nguyễn Xuân Diện: Trân trọng đề nghị các bác biết tiếng Anh, tiếng Nhật dịch bức thư của Giáo sư Phạm Duy Hiển gửi Thủ tướng Nhật Bản Naoto Kan, để phổ biến rộng trên mạng internet.

THƯ CỦA ÔNG ĐINH KIM PHÚC GỬI NGUYỄN XUÂN DIỆN

 


Thư Sài Gòn
Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc gửi Nguyễn Xuân Diện:

Nói lại cho rõ 

Trước nhất tôi xin chân thành cám ơn những tình cảm mà nhà văn Vũ Ngọc Tiến đã dành cho tôi trong “Lá thư Sài Gòn 2” và nhân đây tôi xin nói lại cho rõ một số điều về cá nhân tôi. 

-  Tôi tham gia bộ đội từ năm 1977-1980 sau đó về học ngành Sư phạm Lịch sử tại Trường Đại học Cần Thơ (1980-1984).

-  Từ năm 1984-1991 là giáo viên Khoa Sử Địa Trường Đại học Cần Thơ (trong đó 2 năm 1986-1988 học Cao học tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 1).

-  Từ năm 1993 đến nay tôi công tác tại Trường Đại học Mở TP.HCM.

-  Tháng 10/2009, lúc bấy giờ tôi là Thư ký BBT của Tạp chí Khoa học của trường, nhân việc tôi viết lá thư gửi Chủ tịch nước CHND Trung Hoa Hồ Cẩm Đào để lên án hành động của Trung Quốc trên biển Đông lúc bấy thì liền bị PGS.TS Nguyễn Thanh (lúc ấy là Trưởng bộ môn Mác-Lenin của trường Đại học Mở TP.HCM và hiện nay đang công tác tại Đại học Công nghiệp TP.HCM) tố cáo tôi hoạt động “phản động”. Sau sự việc ấy tôi chuyển sang làm nghiên cứu viên của Khoa Đông Nam Á học của trường Đại học Mở cho đến hôm nay.

Kính,
Đinh Kim Phúc

Nguyễn Xuân Diện:

Vậy là đã rõ, bắt đầu từ khi ông Nguyễn Thanh "tố cáo" ông Đinh Kim Phúc hoạt động phản động, nên từ đó (2009) đến nay, an ninh Sài Gòn luôn luôn theo dõi ông Đinh Kim Phúc mà trong khi tác nghiệp đã làm phiền toái đến ông.

Tôi đề nghị:

1- Anh em khắp các nơi cung cấp cho chúng tôi (email: lamkhanghn@yahoo.com.vn) thông tin để mở HỒ SƠ về ông Nguyễn Thanh đưa lên để công luận biết, giống như chúng ta đã biết về ông Tạ Xuân Tề (Hiệu trưởng ĐH Công nghiệp tp Hồ Chí Minh) - đã đe dọa các sinh viên đi biểu tình vừa rồi, bà Mai Hồng Quỳ (Hiệu trưởng ĐH Luật tp Hồ Chí Minh) - đã ngăn cản học giả Hoàng Việt đi hội thảo về Biển Đông ở Mỹ (với lý do anh Việt không phải là đảng viên)...

2- Đề nghị Cục A.83 (tên gọi cũ A.25) công bố Hồ sơ đã theo dõi về ông Đinh Kim Phúc, nếu không phát hiện bất cứ điều gì là phản động thì cần lên tiếng để dư luận biết (vì hiện nay, vẫn còn có một số dư luận đang lan truyền về ông Đinh Kim Phúc). Trường hợp ông Đinh Kim Phúc có tội lỗi gì, xin xử lý đúng theo pháp luật.

3 - Nếu ông Nguyễn Thanh vu cáo ông Đinh Kim Phúc vào năm 2009, và hậu quả là làm phiền toái đến bản thân và gia đình ông Đinh Kim Phúc đến tận hôm nay, đề nghị các cơ quan có trách nhiệm khởi tố ông Nguyễn Thanh, trả lại sự trong sáng cho ông Đinh Kim Phúc - một người mà Nguyễn Xuân Diện và anh em trí thức từ lâu đã rất ngưỡng mộ.

Một số hình ảnh về hoạt động của Ông Đinh Kim Phúc:

 Cuốn sách do Ông Đinh Kim Phúc chủ biên

 Ông Đinh Kim Phúc phát biểu tại Hội nghị về Biển Đông tại Hoa Kỳ

Ông Đinh Kim Phúc và học giả nước ngoài
 Ông Đinh Kim Phúc tham gia đoàn chủ tịch của cuộc Tọa đàm
Biển Đông và Hải đảo Việt Nam. Tp HCM 24-25.7.2009
Ảnh: Internet
NHỮNG BÀI VIẾT CỦA HỌC GIẢ ĐINH KIM PHÚC
CHỈ RIÊNG ĐÃ ĐĂNG TRÊN TRANG ANH BA SÀM

+ Những lập luận mâu thuẫn của Trung Quốc về Hoàng Sa và Trường Sa  (Đại đoàn kết).
+ Hai trang web: ĐCSVN và ĐSQ Hàn Quốc
Mục Lân, An Lân, Phú Lân? (Vanchuongviet.org)
+  TRUNG QUỐC VI PHẠM CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ!
+  TAM GIÁC TRUNG QUỐC-ĐÀI LOAN-PHILIPPINES TRONG VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG
+  QUAN HỆ TRUNG-NHẬT-BÀI HỌC CHO VN.
+  THÀNH NGỮ “CÕNG RẮN CẮN GÀ NHÀ”
+ “THẤT TRẢM SỚ”
+  VẤN ĐỀ TÊN GỌI BIỂN ĐÔNG TRONG KHU VỰC ĐÔNG NAM Á
+  ĐỔI TÊN GỌI BIỂN ĐÔNG CẦN THIẾT HAY KHÔNG?
TỪ BÃI CÁT VÀNG CHO ĐẾN HOÀNG SA-TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM
+  KẾ HOẠCH “TẰM ĂN DÂU”
+  HOÀNG SA-TRƯỜNG SA MÃI MÃI LÀ CỦA VIỆT NAM
+  TƯ DUY BIỂN CẢ CỦA TRUNG QUỐC
+  CỤC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI?
+  KHỞI NGHĨA LÁNG THÉ NĂM 1872-NHỮNG VẤN ĐỀ TỒN NGHI
+  THƯ NGỎ GỬI VỊ TIẾN SĨ ĐẠI HỌC YALE
+   Thư của Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc gửi ông Trương Nhân Tuấn
+ Như thế nào mới là “có cái gì mới”, thưa ông Chủ tịch Quốc hội?

BỨC THƯ NGỎ GỬI NGÀI HỒ CẨM ĐÀO
Thư ngỏ gửi ngài Hồ Cẩm Đào
Ngày 11 tháng 10 năm 2009
Kính gửi: – Ngài Hồ Cẩm Đào, Chủ tịch nước CHND Trung Hoa,
– Cùng Ban lãnh đạo nhà nước Trung Quốc,
Ngày 1 tháng 10 năm 2009, tại buổi lễ mít tinh chào mừng 60 năm Quốc khánh nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Ngài đã phát biểu rằng: “Trung Quốc sẽ kiên định bất di bất dịch kiên trì chính sách ngoại giao hòa bình độc lập, tự chủ, kiên trì con đường phát triển hòa bình, thi hành chiến lược mở cửa cùng có lợi cùng thắng, phát triển hữu nghị và hợp tác với tất cả các nước trên cơ sở 5 nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình, tiếp tục cùng với nhân dân các nước trên thế giới thúc đẩy sự nghiệp cao cả hoà bình và phát triển của nhân loại, thúc đẩy xây dựng thế giới hài hoà có nền hoà bình bền vững và phồn vinh chung”. Tôi tin là như vậy.
Cũng ngày hôm ấy, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước CHND Trung Hoa tại Việt Nam Tôn Quốc Tường trong khi trả lời trực tuyến với bạn đọc VietNamNet cũng đã nhiều lần nhấn mạnh lòng tin và thương lượng hòa bình là cơ sở để giải quyết những vấn đề do lịch sử để lại. Ngài Đại sứ đã nói: Trong ngoại giao Trung Quốc, chúng tôi luôn phản đối nước lớn bắt nạt nước nhỏ. Chủ tịch nước Trung Quốc, Hồ Cẩm Đào trên các diễn đàn quốc tế đã nêu muốn xây dựng thế giới hài hòa. Từ hài hòa có nghĩa là Trung Quốc luôn kiên trì quan điểm “cầu đồng, tồn dị”. Chúng tôi luôn tôn trọng sự phát triển đa nguyên của các nước trên thế giới, không yêu cầu các nước trên thế giới phải phát triển giống Trung Quốc, tôn trọng văn minh, lịch sử của các nước, kiên trì tôn trọng lẫn nhau, có hiểu biết lẫn nhau”…Chủ trương của chúng tôi là Chính phủ làm hết sức mình để thúc đẩy quan hệ Trung Quốc – Việt Nam”… “Vấn đề còn tồn tại do lịch sử để lại như biển Đông sẽ cùng giải quyết bằng bàn bạc, hữu nghị, hòa bình”. Tôi cũng tin là như vậy.

Nhưng vào đúng cái ngày mà Quý Ngài đang nói những lời hay ý đẹp đó thì những ngư dân Việt Nam trên đường tránh bão trên biển Đông đã bị các lực lượng hữu quan của nhà nước Trung Quốc hành xử như một lũ côn đồ, và đó không phải là lần đầu mà ngư dân Việt Nam gánh chịu.
Thưa Quý Ngài,
Chắc Quý Ngài cũng đã biết Việt Nam đã không cư xử với người dân Trung Quốc đánh cá trên Biển Đông như cách mà Chính quyền Trung Quốc vẫn thường làm với ngư dân người Việt. Vậy thì những ngôn từ tốt đẹp xuất phát từ những người lãnh đạo cao nhất của nước CHND Trung Hoa là trực ngôn hay xảo ngôn?
Nhìn lại mối quan hệ hàng ngàn năm qua giữa hai nước Việt Nam-Trung Hoa, dân tộc chúng tôi đã trả giá quá đắt cho mối quan hệ đó. Nhưng dân tộc Việt Nam là một dân tộc yêu chuộng hoà bình, chính vì lẽ đó mà ông cha chúng tôi đã luôn phải nhún nhường đối với các nhà nước phương Bắc để bảo vệ nền hoà bình cho đất nước nhỏ bé của mình. Bao nhiêu đó chưa đủ sao?
Thưa Quý Ngài,
Nhân dân Việt Nam luôn tôn trọng tình hữu nghị với nhân dân Trung Quốc. Đảng, Chính phủ, nhân dân Việt Nam hết sức gìn giữ quan hệ với Trung Quốc. Có thể nói, phía Việt Nam đã làm hết sức mình. Tuy nhiên, phía Trung Quốc thì ngược lại (thí dụ như trên một số website của Trung Quốc có những bài viết làm xấu đi quan hệ hai nước, như việc mạng Sina.com đăng tải kế hoạch tấn công Việt Nam trong 31 ngày, Thời báo Hoàn cầu có nhiều bài nói xấu Việt Nam…).
Thưa Quý Ngài, Trong lịch sử mối quan hệ giữa hai nước, có bao giờ Việt Nam tiến công trước để xâm lược Trung Quốc chưa?
Câu trả trả lời là rất rõ ràng: Chưa bao giờ! Và nếu có! Chỉ duy nhất một lần, Lý Thường Kiệt phải ra tay trước nhưng hành động đó là để bẻ gãy ý đồ xâm lược của ngoại bang!
Là người dân Việt, chúng tôi vẫn nhớ:
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có”.
Đó là Tuyên ngôn độc lập của đất nước chúng tôi và Quý Ngài cũng phải rõ.
Cuối cùng, tôi muốn nhắn đến Quý Ngài một trong những quy luật trong sử Việt:
-  Có vó ngựa Nguyên Mông là xuất hiện ngay Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
-   Có giặc Minh xâm lược là có ngay Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa.
-   Có xâm lược nhà Thanh là có ngay Hoàng đế Quang Trung.
-          …
Xin gửi đến Quý Ngài lời chào trân trọng.
Kính thư
Một công dân nước Việt
ĐINH KIM PHÚC

LẠI MỘT BỨC THƯ NGỎ, NHƯNG LẦN NÀY GỬI RA NƯƠC NGOÀI

Giáo sư Phạm Duy Hiển biểu tình chống Trung Quốc trước ĐSQ TQ
Nhân 100 ngày Fukushima và 100 năm khoa học hạt nhân, GS chuyên ngành hạt nhân Phạm Duy Hiển đã có thư ngỏ gửi Thủ tướng Naoto Kan, dưới đây là toàn văn bức thư:

Thư ngỏ của GS Phạm Duy Hiển gửi Thủ tướng Naoto Kan


Kính thưa Ngài Thủ tướng Naoto Kan,

Tròn 100 năm trước, lần đầu tiên con người đã nhìn thấy những cấu trúc rất bé nằm sâu trong lòng vật chất gọi là hạt nhân nguyên tử. Ba mươi năm sau đó, một cơ cấu lò phản ứng ra đời chứng minh nguồn năng lượng vĩ đại trong cấu trúc ấy có thể khai thác và chế ngự được. Nhưng chưa đầy bốn năm sau, có trong tay thành quả lao động của hàng trăm nhà khoa học quy tụ quanh dự án Manhattan, quân đội Mỹ đã mang hai quả bom nguyên tử dội xuống Hiroshima và Nagasaki, chẳng phải để buộc nước Nhật của Ngài nhanh chóng đầu hàng, mà cốt phô trương sức hủy diệt bằng nguyên tử trong thời hậu chiến. Những nhà khoa học tài ba thai nghén ra hai quả bom ấy đã bất lực không ngăn được nhà cầm quyền gây ra thảm họa trên đất Nhật.

Cũng chính từ đó, người dân khắp nơi mới biết đến hạt nhân nguyên tử và đồng nghĩa nó với bom nguyên tử gây tang thương bất hạnh cho con người. Thật là oan!
.
Đài tưởng niệm Hòa bình Hiroshima được giữ nguyên trạng để nhắc nhở loài người về sức mạnh hủy diệt của bom nguyên tử.
Đài tưởng niệm Hòa bình Hiroshima được giữ nguyên trạng để nhắc nhở loài người về sức mạnh hủy diệt của bom nguyên tử. Ảnh: IE

Điện hạt nhân (ĐHN) xuất hiện vào thập kỷ năm mươi sau chiến tranh đã giải tỏa nổi oan này. Một không khí lạc quan dâng trào khiến rất ít ai trong giới khoa học lúc ấy (trong đó có người viết lá thư này) nghĩ rằng một ngày nào đó ĐHN lại sẽ mang bất hạnh đến cho con người. Song chính thói chủ quan và tự tin quá độ ấy đã dẫn đến tai nạn ở Three Mile Island, và nhất là ở Tchernobyl. Chưa lên đến cao trào, ĐHN đã phải thoái trào. Suốt hơn ba thập kỷ, nước Mỹ không xây thêm một nhà máy nào.

Trong bối cảnh ấy tôi hết sức khâm phục người Nhật. Dù đã chịu tang thương từ hai quả bom nguyên tử, lại bị vành đai địa chấn bám sát bờ biển phía đông, đa số người Nhật vẫn chấp nhận rủi ro để có ĐHN bảo đảm an ninh cho cỗ xe kinh tế nước mình. Một chương trình khoa học công nghệ ĐHN đồ sộ và tốn kém nhất được triển khai trong nhiều thập kỷ. Tôi nghĩ rằng người Nhật chấp nhận ĐHN không phải vì tin mọi thứ đều hoàn hảo như các tập đoàn năng lượng thường huênh hoang. Trên hết, họ tin vào thực lực công nghệ tiên tiến của Nhật Bản có thể giảm thiểu tối đa rủi ro xảy ra sự cố, và nếu xảy ra, sẽ hạn chế tối đa tác hại của chúng.

Đây là niềm tin vào đội ngũ khoa học hạt nhân đầy truyền thống của Nhật, bắt đầu từ H. Yukawa và Y. Nishina, hai nhà bác học đã từng để lại những phát minh lớn về vật lý hạt nhân ngay từ trước thế chiến II. Các thế hệ tiếp theo cũng vậy, Nhật Bản luôn có đội ngũ hạt nhân hùng hậu, những viện nghiên cứu ở tuyến đầu thế giới.
.
Nhà máy điện hạt nhân Fukushima I. Ảnh: IE
Nhà máy điện hạt nhân Fukushima I. Ảnh: IE

Nhưng - kính thưa Thủ  tướng - một lần nữa thảm họa hạt nhân lại tìm  đến người Nhật. Một giờ sau cơn động đất và sóng thần tàn phá tan hoang vùng Đông Bắc, khi biết tin mất điện tại nhà máy Fukushima, Ngài đã thốt lên: “Đây mới thực sự là hiểm họa”. Tờ mờ sáng hôm sau Ngài bay đến tận hiện trường, chui vào boong-ke có tường bê tông cản xạ, tranh cãi với TEPCO và thúc giục họ mở van thoát khí phóng xạ ra ngoài. Những ngày sau đó, xuất hiện trước truyền hình với vẻ mặt thấm mệt bởi sức nặng đè lên vai, Ngài cúi rạp trước quốc kỳ và trước cử tọa để nhận lỗi. Có một lúc nào đó, tôi đã đọc được suy tư trên nét mặt Ngài: vì đâu ra nông nỗi này? 

Nhưng nỗi đau này  đâu phải chỉ riêng Ngài. Giờ đây, khi Fukushima tròn một trăm ngày, mọi chuyện đã sáng tỏ để rút ra bài học cho ĐHN bước tiếp khi khoa học hạt nhân đã tròn một trăm tuổi. Chế ngự năng lượng hạt nhân đã và sẽ không bao giờ là việc dễ dàng. Diễn biến ở Fukushima đã không đến mức tồi tệ nếu cả hệ thống ĐHN Nhật Bản không chìm đắm trong bản giao hưởng “mọi thứ đều hoàn hảo” do các tập đoàn năng lượng dàn dựng. Những tiếng nói chân chính đều bị xem là tiếng đàn lạc điệu. Đội ngũ khoa học tài ba của nước Nhật đã không được phát huy để ngăn chặn tai họa và xử lý các tình huống đã xảy ra. Nhà khoa học Nhật Y. Yamaguchi đã nhận xét chí lý: “động đất và sóng thần chỉ châm ngòi, chính nước Nhật mới tạo điều kiện để thảm họa xảy ra như thế”. Bài học lớn nhất rút ra từ Fukushima là con người, chứ không phải máy móc tối tân, mới chính là nhân tố quyết định bảo đảm an toàn ĐHN.

Giờ đây, khi quá  nhiều vụ việc tiêu cực, mờ ám, của những nhóm lợi ích lũng đoạn các cơ quan nhà nước được phanh phui trong nỗi tuyệt vọng mà hàng triệu con người đang nếm trải thì đại đa số người Nhật phải nói không với ĐHN. Chính vì dân mất lòng tin nên mới đây tại Pháp, Ngài đã tuyên bố đình chỉ chương trình xây hàng chục lò phản ứng mới, thay vào đó là phát triển năng lượng tái tạo. Một khi nước Nhật cam kết thúc đẩy năng lượng tái tạo, thì đây sẽ là bước ngoặt đáng mừng cho cả thế giới. Tôi chờ xem liệu đây phải chăng là chính sách nhất quán chính thức của chính phủ Nhật trong tương lai?

Kính thưa Thủ tướng,

Thảm họa Fukushima xảy ra đúng vào lúc Việt Nam vừa mới khởi động dự  án ĐHN. Dự án này đã từng nằm trong chương trình nghị sự khi Ngài công du sang Việt Nam hồi cuối năm ngoái. Dự án đồ sộ này đã được chính các tập đoàn năng lượng Nhật tham gia tư vấn và cổ vũ nó trong suốt mười năm qua. Họ cũng đã hào phóng tạo điều kiện cho nhiều người Việt Nam sang tham quan ĐHN ở Nhật để từ đó du nhập về nước bản giao hưởng mọi chuyện đều rất hoàn hảo. Nhưng đất nước chúng tôi đâu có mấy người biết công nghệ ĐHN để có thể khởi động một chương trình đồ số xây hàng chục lò phản ứng từ 2020 đến 2030?    

Cho nên tôi thiết nghĩ  nên lùi thời hạn khởi công lại khoảng mười năm để nước Nhật giúp chúng tôi đào tạo đội ngũ chuyên gia thành thạo, thúc đẩy các dự án về năng lượng tái tạo, sớm xóa bỏ tình trạng sử dụng điện năng quá lãng phí và rất kém hiệu quả như hiện nay. Việt Nam đang rất thiếu điện, nhưng những nội dung hợp tác này sẽ giúp giải quyết bài toán thiếu điện hiệu quả hơn nhiều, không nhất thiết phải vội vàng khởi công ĐHN khiến người dân phải lo âu sau khi họ đã chứng kiến những thảm cảnh ở Fukushima trong những ngày qua. 

Rất mong Ngài xem xét. 

Xin chúc sức khỏe Ngài. 

Kính thư.    

Phạm Duy Hiển - GS chuyên ngành hạt nhân
Nguồn: Bee.net.vn
.
Một số hình ảnh Giáo sư Phạm Duy Hiển tham gia biểu tình phản đối Trung Quốc
ngày 12.6.2011 tại ĐSQ Trung Quốc ở Hà Nội.

 

GS. Phạm Duy Hiển và Nguyễn Xuân Diện

Chụp ảnh lưu niệm trước giờ xuất phát

 

 
 
 Ảnh: Nguyễn Xuân Diện-blog

300 NĂM TRƯỚC, CHA ÔNG TA TỪNG XỬ TRÍ VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG TRUNG QUỐC


Cha ông ta xử trí vấn đề lao động Trung Quốc

Gần đây, dư luận xã hội và báo chí rất bức xúc và lo ngại trước tình hình người lao động Trung Quốc tràn vào Việt Nam ngày một nhiều, nhất là tại các công trường khai thác bauxite tại Tây Nguyên.

Xem trong sử sách, thấy rằng đây cũng là một vấn đề mà cha ông chúng ta đã từng vấp phải. 300 năm trước, lo ngại việc lao động Trung Quốc ào ạt tràn sang, đe doạ đến sự an nguy của đất nước, triều đình nhà Lê đã thể hiện trách nhiệm cao trước tổ tiên và trăm họ, đã tìm được cách xử trí khôn khéo và cương quyết, dần đưa vào ổn định.

Toàn văn tài liệu cho biết việc này như sau:
Tháng 12 [năm Đinh Dậu, niên hiệu Vĩnh Thịnh 2 (1706) đời vua Lê Dụ Tông] định thể lệ hạn chế số lao động (nước ngoài) trên các công trường khai mỏ tại các trấn.
Lúc ấy, các mỏ vàng, bạc, đồng, thiếc ở các trấn phần nhiều mộ người nhà Thanh (Trung Quốc) khai quật để lấy, phu mỏ quần tụ mỗi ngày một nhiều. Triều đình e rằng sẽ sinh sự biến động, bèn định thể lệ: Số phu mỏ nhiều nhất 300 người, thứ đến 200 người và ít nhất là 100 người, không mỏ nào được dùng quá số đã định.
Từ đấy, số phu (người Trung Quốc) làm ở các công trường khai mỏ mới có hạn chế”. (Chính biên, XXXV, 21).
Thiết nghĩ, sử liệu này có thể làm một tham khảo để Đảng và Nhà nước ta đưa ra cách xử trí đối với tình hình người lao động Trung Quốc đang ngày một nhiều tại các công trường khai thác khoáng sản ở Việt Nam hiện nay. 
.
Nguyễn Xuân Diện (Viện Nghiên cứu Hán Nôm).
Nguồn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục.
Bản dịch của Viện Sử học. Nxb, Giáo dục, Hà Nội, 1998, Tập II, tr. 410. 
Bài đăng ngày 28.4.2009, tại đây.

SỐNG CHẾT MẶC BAY, TIỀN TÀU BỎ TÚI

Tranh sưu tầm

SOS: Cái giá phải trả sẽ không lường hết được

Nguyễn Duy Xuân

Theo các báo có đến 90% các gói thầu xây lắp thực hiện theo phương thức chìa khóa trao tay (EPC) đã thuộc về các công ty Trung Quốc, trong đó phần lớn là các dự án năng lượng, luyện kim, hóa chất.

Còn theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, gần một nửa trong tổng số 248.000 tỉ đồng giá trị các gói thầu xây lắp bằng vốn nhà nước và vay của nước ngoài trong năm 2010 (chỉ một năm thôi đấy!), do công ty Trung Quốc thực hiện.

Đặc biệt, hai doanh nghiệp nhà nước đang đầu tư lớn vào nhiệt điện là EVN và tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam (TKV) thì các nhà thầu Trung Quốc thắng thế. Riêng với TKV, hầu hết các dự án lớn của tập đoàn này, gồm sáu nhà máy nhiệt điện và các dự án luyện kim như đồng Sin Quyền, bauxite ở Tây Nguyên đều do các công ty của Trung Quốc đảm nhận.

Tại sao lại thế ? Tại sao những nhà thầu uy tín, công nghệ hiện đại của Nhật Bản hay của các nước tiên tiến khác không thể trúng thầu ? Lý giải điều này, người ta bèn đổ lỗi nào là do luật pháp của ta chưa chặt chẽ, nào là do các nhà thầu Trung Quốc chào giá quá thấp. Ôi, thật hết chỗ nói. Tất cả chỉ là ngụy biện.

Qua những hành động gây hấn, xâm phạm chủ quyền Biển Việt Nam của Trung Quốc vừa qua, thấy càng giật mình trước những thông tin nói trên. Không chỉ trên đất liền, trên biển mà cả trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa (như phim ảnh) Trung Quốc đang lộ rõ ý đồ của họ. Điều đó, một người dân bình thường ở cái tầm rất chi là vi vi mô như tôi cũng biết. Thế nhưng các vị có quyền quyết định những cái dự án to đùng ở tầm vĩ vĩ mô nói trên lại không biết ? Đúng ra là không phải không biết. Họ biết rõ đối tác lắm, từ bản chất, công nghệ đến cách hành xử.

Không như người Tây, người Trung Quốc sau khi trúng thầu thì mang sang Việt Nam từ những thiết bị lớn cho đến những con bù lon, ốc vít. Từ công nhân vận hành đến cả người quét dọn vệ sinh. Tôi nghe nói họ còn khuyến khích công nhân Trung quốc lấy vợ Việt và sẽ được thưởng, được cấp nhà (một kiểu đồng hóa cho tương lai đấy). Họ thầu ở đâu thì ở đó thành biệt khu riêng, bất khả xâm phạm. Làng Tàu, phố Trung Quốc đang mọc lên bất hợp pháp như nấm ở Hải Phòng và nhiều nơi khác. Vân và vân. Người ta nói “thâm” như Tàu quả đúng thật. Biết thế mà vẫn phải làm thế. Kể cũng khó cho các vị khi đặt bút kí thật. Viết đến đây, tôi lại nhớ cái tặc lưỡi buông tiếng “kệ” của anh cu Tràng, nhân vật trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân khi quyết định chấp nhận cái cô “vợ nhặt” làm vợ giữa lúc cái đói, cái chết cận kề. Có lẽ các vị cũng đã chậc kệ trước khi đặt bút phê duyệt các dự án chăng ? Kệ con cháu vì vốn ODA (ông đòi ai?) mà. Cứ xài. Miễn là nặng túi. Ai trả ? Kệ! An ninh đất nước? Kệ!

Ngày xưa, cụ Phạm Duy Tốn chẳng đã viết một cái truyện ngắn rất hay với cái tựa đề không thể nào quên đó sao: Sống chết mặc bay!

Dân gian thì đã nói từ đời nào: Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi!

Ngẫm chuyện nay nghe câu ngạn ngữ cũ mà thấy nổi hết gai ốc. Ai mà biết được cái giá con cháu phải trả trong nay mai sẽ ra sao?

18-6-2011
N.D.X


*Bài do tác giả gửi trực tiếp cho NXD-Blog.
Xin chân thành cảm ơn tác giả!

DƯ LUẬN QUỐC TẾ KẾT LUẬN: TRUNG QUỐC VI PHẠM LUẬT QUỐC TẾ

Trung Quốc vi phạm luật quốc tế

Thứ Tư, 22/06/2011 22:36

 

Theo thượng nghị sĩ Mỹ James M. Inhofe, Trung Quốc cần phải nhận được một thông điệp rõ ràng rằng những hành vi quấy rối tiếp diễn của họ ở biển Đông sẽ không còn được dung thứ nữa


Cuộc hội thảo về an ninh biển Đông do Trung tâm Nghiên cứu các vấn đề chiến lược và quốc tế (CSIS) của Mỹ tổ chức tiếp tục diễn ra tại Washington hôm 21-6 với các phiên thảo luận đánh giá tính hiệu quả của các cơ chế an ninh trên biển hiện có tại biển Đông và đề xuất chính sách nhằm tăng cường an ninh khu vực. 

Bắc Kinh từ chối DOC

Đánh giá về các cơ chế hiện có để giải quyết tranh chấp, giáo sư Peter Dutton của Đại học Hải quân Mỹ cho rằng hiện có hai cơ chế là Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) và Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC). Ông Dutton nói: “UNCLOS nói rõ rằng tuyên bố về quyền tài phán của một quốc gia đối với tài nguyên phải dựa trên yếu tố địa lý của đường bờ biển. Việc Trung Quốc tuyên bố quyền tài phán trong đường chữ U, hay đường 9 khúc, mà không đề cập dù là gián tiếp đến các đặc điểm địa lý từ bờ biển hay đường cơ sở là một vi phạm căn bản luật quốc tế”. Theo website Vietnamplus, ông Dutton nhấn mạnh thêm rằng đường chữ U là một trong hai nguồn chính gây căng thẳng trên biển Đông.

Liên quan đến DOC, trong cuộc thảo luận trước đó, Giám đốc Chính trị và An ninh của Ban Thư ký ASEAN, ông Termsak Chalermpalanupap, cho biết ASEAN đã 20 lần đưa ra dự thảo về hướng dẫn thực hiện DOC nhưng đều bị Trung Quốc từ chối và hiện ASEAN đang chuẩn bị dự thảo thứ 21.
Thượng nghị sĩ  James M. Inhofe chỉ trích những hành động quấy rối của Trung Quốc ở biển Đông trong một cuộc điều trần tại Hạ viện Mỹ. Ảnh: Getty Images

Tiến sĩ Dutton cho rằng không bao giờ thiếu những ý tưởng để giải quyết vấn đề, mà chỉ thiếu ý chí chính trị. Ông nói: “Các bên đều phải có nhượng bộ về chính trị, nếu không sẽ dẫn đến việc nước mạnh hơn sẽ làm những gì có thể làm và nước nhỏ làm điều phải làm”. Chung quan điểm này, tiến sĩ Stein Tonnesson thuộc Viện Hòa bình Oslo của Na Uy đề xuất một số điểm, trong đó ông cho rằng các quốc gia có thể nhượng bộ để giải quyết tranh chấp.

Ông Đặng Đình Quý, Giám đốc Học viện Ngoại giao Việt Nam, cho rằng cần thúc đẩy hợp tác về biển và quân sự dưới hình thức tuần tra chung, diễn tập chung với sự tham gia của Trung Quốc, ASEAN và các nước có liên quan; đồng thời các bên cần công khai, minh bạch, giảm mua sắm vũ khí và thực hiện các biện pháp xây dựng lòng tin.

Về cơ chế “khai thác chung,” hầu hết các học giả đều nhận định rằng cơ chế này đã không phát huy tác dụng, bởi các bên không thống nhất với nhau trong việc xác định đâu là khu vực tranh chấp, đâu là khu vực không tranh chấp.

Sự quấy rối “không thể chấp nhận”

Vấn đề biển Đông tiếp tục là vấn đề thu hút sự quan tâm của các chính khách Mỹ. Sau bài diễn văn của thượng nghị sĩ John McCain tại hội thảo nói trên, đến lượt thượng nghị sĩ James  M. Inhofe bày tỏ quan điểm của mình trong một bài viết đăng trên blog The Hill của Quốc hội Mỹ hôm 21-6. Mở đầu bài viết, ông James M. Inhofe khẳng định: “Trong 12 tháng qua, Trung Quốc đã tiến hành những hành vi quấy rối có tính toán ở biển Đông. Đây là động thái mới nhất từ Trung Quốc, nước trong vài năm qua đã tuyên bố phần lớn biển Đông là vùng đặc quyền kinh tế của mình. Điều này đe dọa tất cả những nước và vùng lãnh thổ khác đang có tuyên bố chủ quyền đối với vùng biển này… Trung Quốc cần phải nhận được một thông điệp rõ ràng rằng những hành vi quấy rối tiếp diễn của họ sẽ không còn được dung thứ nữa…”. 

Trong bài viết, ông Inhofe đã liệt kê một loạt “hành động không thể chấp nhận được” của Trung Quốc đối với tàu thuyền Việt Nam và Philippines ở biển Đông trong khoảng thời gian từ tháng 2 đến tháng 6 qua. Theo ông Inhofe, những hành động nói trên là lý do ông và thượng nghị sĩ Jim Webb trình lên thượng viện một nghị quyết (hôm 13-6) kêu gọi chính phủ Trung Quốc chấm dứt quấy rối tàu thuyền đi lại ở biển Đông. Ông Inhofe thúc giục thượng viện nhanh chóng thông qua nghị quyết nói trên để thể hiện “sự hậu thuẫn dành cho những đồng minh của chúng ta”, đồng thời bày tỏ “sự bất bình mạnh mẽ của chúng ta đối với những hành động của Trung Quốc”. Một động thái như thế, theo ông Inhofe, cũng sẽ chứng tỏ thượng viện ủng hộ sự tự do và một giải pháp hòa bình cho vấn đề biển Đông. 

Bắc Kinh đề nghị Mỹ tránh xa vấn đề biển Đông
Trung Quốc hôm 22-6 đã thúc giục Mỹ tránh xa vấn đề tranh chấp lãnh hải ở biển Đông hiện nay. Trả lời phỏng vấn các phóng viên, Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Thôi Thiên Khải nói: “Mỹ không phải là nước có tuyên bố chủ quyền ở biển Đông vì thế tốt hơn là nước này nên để vấn đề biển Đông cho các bên liên quan giải quyết”. Theo ông Thôi, sự can thiệp của Mỹ vào vấn đề này có thể khiến tình hình tồi tệ hơn.
Đài truyền hình Phoenix (Hồng Kông) cho biết những tuyên bố trên của ông Thôi Thiên Khải là nhằm trả lời các câu hỏi về thông điệp mà Trung Quốc sẽ mang tới vòng tham vấn đầu tiên giữa Washington và Bắc Kinh về tình hình khu vực châu Á – Thái Bình Dương và những vấn đề cùng quan tâm. Cuộc tham vấn sẽ bắt đầu vào ngày 25-6 ở Honolulu, bang Hawaii (Mỹ). Ông Thôi Thiên Khải cho biết: “Vấn đề biển Đông không nằm trong chương trình nghị sự của cuộc tham vấn. Tuy nhiên, nếu phía Mỹ nêu vấn đề này, Trung Quốc sẵn sàng tiếp tục bày tỏ lập trường của mình – đó là chúng tôi không phải là phía tạo ra những tranh chấp”.

ASEAN cảm thấy bất an
Báo Philippine Daily Inquirer ngày 22-6 đã đăng bài bình luận về tranh chấp ở biển Đông với tiêu đề “Mối nguy trên biển”. Trong đó, tác giả cho rằng sự khẳng định chủ quyền mang tính gây hấn đáng ngạc nhiên của Trung Quốc (TQ) đối với biển Đông đã khiến các quốc gia trong khu vực bất an. Hành động đó đã đặt cường quốc mới nổi này vào thế xung đột với các nước đối tác của mình cũng như với quyền lợi của Mỹ, một cường quốc khác đã hình thành từ lâu.
Sự khẳng định chủ quyền mang tính gây hấn của Trung Quốc ở biển Đông khiến các nước ASEAN
bất an. Ảnh: REUTERS
TQ đã ngày càng khẳng định chủ quyền đối với khu vực này kể từ năm ngoái. Việc tranh chấp chủ quyền ở biển Đông giờ đây không chỉ gói gọn trong phạm vi các nước và vùng lãnh thổ có liên quan. Chẳng hạn, Singapore – quốc gia không khẳng định chủ quyền ở biển Đông – đã phá vỡ sự im lặng. Nước này đã yêu cầu Bắc Kinh làm rõ những đòi hỏi về tuyên bố chủ quyền của mình ở biển Đông.
Bên cạnh đó, báo The Nation của Thái Lan nhận định: ASEAN đang sống trong nguy hiểm ở biển Đông. Theo đó, môi trường ôn hòa trước đây ở biển Đông đã bị hủy hoại. Tờ báo nhận định: “Nếu như nhiệt độ tiếp tục gia tăng, sẽ có thể đạt đến điểm sôi. Có thể xảy ra xung đột vũ trang trong khu vực mà trước đây chưa bao giờ có”.
Trong khi đó, báo The Australian (Úc) quả quyết: Căng thẳng leo thang giữa TQ và các nước AESAN láng giềng về các quần đảo tranh chấp ở biển Đông là dấu hiệu mới nhất cho thấy đang mở ra một kỷ nguyên mới của tính bất ổn về chiến lược và sự đua tranh về địa chính trị ở châu Á.
Ngô Sinh
 
Hoàng Phương

Thứ Tư, 22 tháng 6, 2011

TQ YÊU CẦU MỸ KHÔNG CAN THIỆP VÀO BIỂN ĐÔNG


Tàu Hải Tuần của Trung Quốc
Trung Quốc đã tăng cường tàu ra Biển Đông trong thời gian gần đây

Trung Quốc đã đưa ra cảnh báo trực tiếp với Washington rằng sự can thiệp của họ ở Biển Đông có thể làm tình hình xấu thêm. 

Trả lời phỏng vấn của Reuters, Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Thôi Thiên Khải thúc giục Hoa Kỳ đứng bên ngoài các tranh cãi hiện nay và nói rằng Trung Quốc 'hết sức lo ngại' về sự 'khiêu khích' thường xuyên của các bên khác tại Nam Hải (Biển Đông).

Căng thẳng trên Biển Đông đã tăng lên trong tháng qua và một số nước trong khu vực lo ngại Trung Quốc đang ngày càng mạnh bạo trong việc tuyên bố chủ quyền với vùng biển mà người ta tin là có nhiều dầu và khí đốt.

Hiện Trung Quốc là nước đòi chủ quyền lãnh hải lớn nhất ở Biển Đông với đường hình chữ U họ vẽ trên bản đồ chiếm phần lớn diện tích 1,7 triệu km2 của vùng biển bao gồm cả hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.

'Hành động quân sự

Chủ đề Biển Đông cũng được đề cập tới trong cuộc họp an ninh giữa bộ trưởng ngoại giao và bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ và Nhật Bản tại Washington trong ngày hôm qua, theo báo Nhật Bấm Mainichi

Tờ này nói các bộ trưởng thúc giục các nước đảm bảo an toàn hàng hải và an ninh dựa trên cơ sở tự do giao thông.


Nhật Bản và Hoa Kỳ quyết định lui lại sau 2014 kế hoạch dời đi căn cứ Mỹ ở Futenma trên đảo Okinawa

Theo báo Nhật, Ngoại trưởng Nhật Bản Takeaki Matsumoto và Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton đồng ý sẽ cùng giải quyết vấn đề tự do thông thương với các quốc gia Đông Nam Á.

Hai bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản và Hoa Kỳ cũng có mặt tại hội đàm về an ninh Mỹ - Nhật tại Washington 21/6 khi hai bên đồng ý về một chiến lược mới cho quốc phòng.

Một quan chức Nhật Bản được trích lời thuật lại rằng bà Clinton nói "hoạt động hải quân của Trung Quốc đang gây căng thẳng trong khu vực", gồm cả biển Hoa Đông và biển Nam Trung Hoa (Biển Đông).

Đặc biệt, các báo Nhật còn đưa tin Washington sẽ đồng ý bán ḥệ thống chống hỏa tiễn (missile interceptor) cho "quốc gia thứ ba" nếu Tokyo coi là việc đó ph̀ù hợp với an ninh của Nhật.

Người ta không nêu ra "các nước thứ ba" có nhu cầu mua hệ thống này của Mỹ là nước nào.

Trong ngày hôm qua các báo chí chính thống của Trung Quốc đã có những lời lẽ cứng rắn về căng thẳng mới đây trên Biển Đông.

Tờ Hoàn cầu Thời báo thậm chí nói Trung Quốc phải tính tới cả phương án có 'hành động quân sự' chống lại Việt Nam.

Báo chí Việt Nam cũng đăng lại tin này, một diễn biến cho thấy quan hệ giữa hai bên xấu đi trông thấy trong những tuần gần đây.

Đọc thêm 
Japan, U.S. agree to drop 2014 deadline to relocate Futenma base

From left to right, Japan's Defense Minister Toshimi Kitazawa, Defense Secretary Robert Gates, Japanese Foreign Minister Takeaki Matsumoto, and Secretary of State Hillary Rodham Clinton arrive for the
From left to right, Japan's Defense Minister Toshimi Kitazawa, Defense Secretary Robert Gates, Japanese Foreign Minister Takeaki Matsumoto, and Secretary of State Hillary Rodham Clinton arrive for the "2 plus 2" talks at the State Department in Washington, Tuesday, June 21, 2011.(AP Photo/J. Scott Applewhite)

WASHINGTON (Kyodo) -- Japan and the United States agreed at security talks between their defense and foreign ministers in Washington on Tuesday to drop their deadline for the relocation of a key U.S. base within Okinawa Prefecture by 2014, a move that will likely further stall the already protracted negotiations over the base.

Japanese Defense Minister Toshimi Kitazawa and Foreign Minister Takeaki Matsumoto also agreed with U.S. Defense Secretary Robert Gates and Secretary of State Hillary Clinton on a new set of "common strategic objectives" in a joint statement, which called for China to play a constructive role in regional stability.

In the statement issued after the "two-plus-two" defense and security meeting, the four ministers reaffirmed a bilateral accord reached in May last year on the relocation of the U.S. Marine Corps' Futenma Air Station, which is a key point in implementing the overall realignment of U.S. forces in Japan, and finalized the configuration of Futenma's replacement facility.

"This is a very important progress toward relocation," Kitazawa said in a joint news conference after the two countries' first face-to-face, two-plus-two meeting in four years, referring to an accord to build the facility with two runways in a V-shaped formation.

The ministers committed to completing the relocation "at the earliest possible date after 2014," but provided no specific timeline or steps to address the concerns in Okinawa and U.S. Congress regarding the feasibility of the plan.

Okinawa, which has long hosted the bulk of U.S. forces in Japan, strongly opposes the relocation of the Futenma base from Ginowan to the less populated coastal area of Nago's Henoko district, seeking it to be moved out of the prefecture.

Air Station Futenma.(Mainichi)
Air Station Futenma.(Mainichi)

Gates said, "It is critical that we move forward with the relocation of Futenma," stressing the importance of making "concrete progress over the course of the next year."

While the Futenma relocation remains a pending issue that needs to be worked out, the Japanese and U.S. defense and foreign chiefs agreed on the key role of U.S. forces' participation in disaster drills held by local authorities to enhance ties between the forces and base-hosting communities.

They also agreed to improve contingency access for U.S. forces and Japan's Self-Defense Forces to facilities in Japan.

Cooperation between the U.S. military and the SDF have been notable on disaster relief operations in the wake of the March 11 earthquake and tsunami in northeastern Japan. U.S. forces had engaged in relief activities under Operation Tomodachi, named after the Japanese word for "friend," with more than 24,000 personnel involved.

For humanitarian assistance and disaster relief missions, the ministers agreed on the importance of setting up a regional logistics hub in Japan.

Based on the "common strategic objectives," which were originally drawn up in February 2005 and updated in May 2007, the two nations said they will boost the bilateral security alliance amid regional security challenges such as the threat posed by North Korea's nuclear and missile programs.

In view of the uncertain security environment in the region, Gates said the United States will maintain a strong presence with forward deployment in East Asia, claiming that the latest accord on Futenma marks "steady progress" in modernizing U.S. forces in the region.

Kadena Air Base.(Mainichi)
Kadena Air Base.(Mainichi)

Japan and the United States agreed to deter provocative actions by North Korea, apparently in light of incidents last year including the North's fatal artillery attack on a South Korean island, and to seek the denuclearization of North Korea, including its uranium enrichment program, in a verifiable manner.

As for China, the two countries urged it to take a "responsible and constructive role in regional stability and prosperity," and called for "its cooperation on global issues, and its adherence to international norms of behavior."

They also asked Beijing to be more open and transparent in its military modernization.
Apparently alluding to the territorial rows in the South China Sea involving China and some Southeast Asian nations, the ministers urged the maintenance of maritime safety and security based on freedom of navigation.

During the talks, Matsumoto and Clinton agreed to deal with the matter together with Southeast Asian nations, with Clinton saying that China's naval activities are creating tension in the region, a Japanese official said.

The ministers also agreed that the United States can export a jointly developed ballistic missile interceptor, known as the new Block 2A type of the sea-based Standard Missile-3 interceptor, to third countries if the transfer would contribute to Japan's national security or global peace and stability.

(Mainichi Japan) June 22, 2011