Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Quang Hà. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Quang Hà. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 1 tháng 1, 2015

Nguyễn Quang Hà: TỰ DO DÂN CHỦ THỜI LÝ - TRẦN

TỰ DO DÂN CHỦ THỜI LÝ- TRẦN 
(XÉT TRONG KHÔNG GIAN VĂN HÓA HOÀNG THÀNH THĂNG LONG)

Nguyễn Quang Hà 
Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long- Hà Nội

Dẫn nhập 

Dưới chế độ phong kiến, quyền sống, quyền tự do, dân chủ của người dân cũng đã bị tước mất hay hạn chế rất nhiều. Tuy nhiên, không phải dưới mọi chế độ phong kiến, dưới mọi triều đại đều như nhau, mà nói khác đi, gam màu chính trị ấy có đậm, có nhạt, có khi là bảo thủ, lúc lại tiến bộ. Thậm chí trong lịch sử Việt Nam thời phong kiến, sự tự do, dân chủ phát triển giường như có đâu đó một xã hội dân chủ thực sự và con người khi đó không phải là “thần dân” của xã hội phong kiến mà nó mang “khuôn mặt” thần sắc như những công dân. Ở đây, chúng tôi muốn đề cập đến triều đại Lý Trần- một triều đại được coi là để lại nhiều bản sắc văn hóa, dấu ấn tốt đẹp cho đời sau trong đó có tư tưởng nhân văn cao đẹp: Tự do- dân chủ.


Trong bài viết nhỏ này, chúng tôi cũng không có tham vọng đề cập hết một khoảng thời gian khá dài với 114 năm triều Lý (1009- 1125) và triều đại nhà Trần tồn tại 175 năm (1225- 1400) mà chúng tôi chỉ có điều kiện điểm qua những giai đoạn tiểu biểu với những sự kiện có chọn lọc để minh chứng những nỗ lực thực thi quyền tự do dân chủ của triều đình Lý- Trần với những vị vua có trách nhiệm. Điều đặc biệt ở đây là cái quyền thiêng liêng ấy lại được diễn ra ở đúng nơi có uy quyền cao nhất trong một không gian văn hóa đặc biệt: Hoàng Thành và Cấm thành Thăng Long với những con người cụ thể như: vua, quan đại thần, tôn thất nhà vua, những người lính thường và những người dân. Ở đó có một môi trường sinh hoạt, diễn ra các mối quan hệ, sự tương tác, hành xử giữa vua với các quan, vua với những người trong thân tộc, tôn thất, giữa vua với dân… Hiện thực cuộc sống không kém phần đa dạng phúc tạp mà những góc khuất như những tảng băng chìm ẩn chứa nhiều bí mật, sử thần không phải việc gì cũng ghi. Nhưng những gì mà chính sử chép lại cho chúng ta hôm nay cho thấy biết bao điều tích cực và có tác dụng tham khảo trong thực tiễn.

Thứ Năm, 11 tháng 10, 2012

Nguyễn Quang Hà: VỀ TẤM BIA THỜI TÙY (601) MỚI PHÁT HIỆN


VỀ TẤM BIA THỜI TÙY (601) MỚI PHÁT HIỆN Ở CHÙA GIÀN – HUỆ TRẠCH TỰ
(XÃ TRÍ QUẢ, HUYỆN THUẬN THÀNH, TỈNH BẮC NINH)

Nguyễn Quang Hà[1]

Chùa xã Trí Quả (Huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) tên chữ là “Huệ Trạch tự”, hay còn có tên Nôm là chùa Giàn - Một trong Tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Điện, Pháp Lôi, Pháp Vũ) trong tín ngưỡng thờ tự ở vùng Dâu. Hiện nay  các vị trong làng kể lại về lai lịch của chùa: Vào thời Trần, con trai của Đức vua Trần Hưng Đạo là Trần Hồng khi đánh giặc Mông Nguyên được Phật độ cho nên đã đánh thắng giặc do đó ban cho tên chùa là “Huệ Trạch tự) (惠澤寺). Chùa trước đây có gác chuông cổ nhưng đã bị phá đi để làm cầu. Trong chùa còn một chiếc chuông đồng niên đại thời Lê, trên 4 núm có khắc “Huệ Trạch tự chung” (惠澤寺鍾). Ngoài sân, trước tòa Tam bảo hiện còn tấm bia 4 mặt, mặt chính trên trán bia ghi: “Huệ Trạch tự”(惠澤寺), mặt thứ tư phần niên đại ghi: Chính Hòa nhị thập niên (1700) nội dung về việc cúng tiền xây gác chuông và cúng ruộng vào chùa. Ở gian phải của tòa Tam bảo còn một cây hương, trên đó có khắc tên người cung tiến. Chùa còn giữ được hai sắc phong. Đạo sắc thứ nhất phần niên đại ghi 25 tháng 7 năm Khải Định 9 (1924). Nội dung ban tặng: (…)“Diệu Cảm Nhiên Phù, Chương Hiển Đôn Ngưng, Dực Bảo Trung Hưng Thành Hoàng Linh Ứng Tôn Thần”(耀感然孚章顯敦凝翊保中興城皇靈應尊神). Sắc thứ 2 cũng có cùng ngày tháng năm với Đạo sắc trên với đối tượng được ban là: (…) “Phụng sự Đại Thánh Pháp Thông Vương Phật tôn thần”.(奉事大聖法通王佛尊神). Như vậy, Đạo sắc thứ nhất là sắc cho Thành hoàng được thờ ở Đình làng, đạo sắc thứ hai chính là đạo sắc thờ ở chùa. Theo truyền thuyết thì tên gọi “Chùa Huệ Trạch” có từ thời Trần. Tư liệu trên các văn bản, bi ký, minh văn hiện nay chúng ta được biết thì tên gọi “Huệ Trạch tự” sớm nhất qua tấm bia đá 4 mặt niên đại Chính Hòa 20 (1700). Nhưng trước đó chùa có tên là gì (?). Chưa có tư liệu nào giải đáp điều đó.
           
Năm 2004, gia đình ông Nguyễn Văn Đức (Nhà bên cạnh chùa Huệ Trạch) khi đào đất làm lò gạch đã phát hiện được một tấm bia đá cổ. Vì không biết giá trị tấm bia như thế nào nên gia đình đã giữ tấm bia này để ở trong nhà cho đến tháng 8/2012 mới được cán bộ Bảo tàng của Sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch tỉnh Bắc Ninh xin phép gia đình, nhà chùa cùng chính quyền địa phương chuyển về Bảo tàng tỉnh nghiên cứu. Thật may mắn, khi về chùa Huệ Trạch, chúng tôi cũng có được bản dập thác bản của tấm bia này do ông Nguyễn Đình Nhân (Kỹ sư Nông nghiệp về hưu) - Người cùng thôn Xuân Quan, xã Trí Quả tiến hành in dập trước đó (1). Bia được để trong hộp có mái che nên rất rõ nét, chữ khắc đậm, sâu, còn nguyên vẹn. Lòng bia có kích thước 40 x 40 cm, 13 dòng, trung bình mỗi dòng khoảng hơn 10 chữ, tổng số chữ trên bia là 133 chữ. Dưới đây là toàn bộ nội dung văn bia chữ Hán và phần phiên âm, dịch nghĩa như sau: