LÀNG VÀ XÃ - HOANG MANG TRƯỚC MỘT CƠN GIÓ BỤI
Bài: Hoàng Anh
Làng – xã Việt Nam, nếu nhìn đúng vào cấu trúc sâu nhất của nó, không bao giờ chỉ là một “đơn vị dân cư”, mà là những tế bào sống của quốc gia, nơi lịch sử, ký ức và quan hệ người – người kết lại thành một cơ thể văn hoá độc đáo, không thể gộp lại bằng bất kỳ quyết định hành chính nào. Khi có người muốn dùng một ý chí quản lý để “sáp nhập làng”, họ giả định rằng những tế bào ấy có thể ghép lại như những mảnh nhựa vô tri, bỏ qua sự thật căn bản rằng mọi tế bào đều mang mã di truyền riêng của mình. Cách tiếp cận đó nhìn xã hội như một khối vật chất cần sắp xếp cho gọn, chứ không coi cộng đồng như những chủ thể có đời sống nội tại, có lòng tự trọng và ký ức riêng.
Ở lớp bề mặt, người ta có thể nói về “tinh giản đầu mối”, “giảm chi phí”, “nâng cao hiệu quả quản lý”, nhưng bên dưới những khẩu hiệu kỹ trị ấy là một sự coi nhẹ triệt để giá trị bản địa, coi nhẹ chính nền tảng đã nuôi dưỡng quốc gia này qua nhiều thế kỷ. Chính vì thế, phản biện ý tưởng sáp nhập làng không phải là chuyện hoài niệm hay cảm tính, mà là đặt lại một câu hỏi tối giản về giới hạn thẩm quyền can thiệp của quyền lực đối với những tế bào nền tảng của đời sống xã hội.
Nếu chịu khó nhìn làng – xã như một đối tượng văn hoá, ta sẽ thấy nó sở hữu đầy đủ bốn yếu tố mà bất kỳ cộng đồng bền vững nào cũng cần có, đó là không gian chung, ký ức chung, biểu tượng chung và trật tự chuẩn mực chung, vốn được kết tinh qua đình, chùa, miếu, nghĩa địa, họ tộc, giọng nói, lễ hội, những câu chuyện truyền miệng kéo dài qua nhiều thế hệ. Những thứ ấy không thể được “sáp nhập” chỉ bằng một dòng trong nghị quyết, cũng như ta không thể ghép hai gia phả, hai hệ thống biểu tượng, hai cách phân vai cộng đồng lại với nhau mà không gây nên sự vỡ vụn bên trong.
Khi người ta dùng thước đo số hộ, số cán bộ không chuyên trách, số đầu mối chi ngân sách để biện minh cho việc gộp lại các làng, đó là lúc cấu trúc văn hoá bị nén lại thành vài chỉ số thống kê, còn đời sống thật thì bị đẩy ra khỏi khung phân tích. Một cơ thể nếu chỉ quan tâm đến trọng lượng mà bỏ qua hệ thần kinh, hệ miễn dịch, chắc chắn sẽ mắc những căn bệnh mà chính nó không hiểu nổi nguồn gốc. Quốc gia cũng vậy – coi làng chỉ là “đơn vị” để giảm bớt, chính là tự làm yếu đi chính hệ miễn dịch văn hoá của mình.
Ở chiều lịch sử, mỗi làng Việt Nam là một mạch kể riêng, nối những biến động lớn của quốc gia với số phận rất cụ thể của những con người bình thường, từ những ngày đầu khai khẩn, những lần lập ấp, chia ruộng, đến chiến tranh, đói kém, di dân, rồi những phong trào cách mạng, đổi mới, đô thị hoá. Trong từng làng, tên những người khai cơ lập nghiệp, những người chết trận, những người bị bão lũ cuốn đi, thường không xuất hiện trong bất kỳ bộ sử chính thức nào, nhưng lại được giữ rất kỹ trong bia đình, trên bàn thờ tổ, trong những câu chuyện của người già kể cho lũ trẻ nghe mỗi dịp giỗ chạp. Khi người ta xóa tên làng, họ không chỉ xóa một dòng trong sổ sách, mà là bẻ gãy một đoạn dây nối giữa quá khứ và hiện tại, khiến cho những ký ức vốn đã ít ỏi của cộng đồng địa phương trở nên rời rạc, mơ hồ. Một quốc gia có thể sống được nếu kinh tế khó khăn, nhưng sẽ khó lòng đứng vững nếu chính mình chấp nhận làm nhạt đi hoặc làm lẫn lộn những mạch ký ức cơ bản nhất của dân chúng.
Người ta có thể nói rằng tên gọi làng vẫn có thể giữ lại ở dạng “truyền thống”, còn trên giấy tờ hành chính chỉ là “thôn mới”, nhưng đó chỉ là một sự an ủi ngôn từ mỏng manh trước những thay đổi rất thô bạo ở tầng cơ chế. Khi hai hay ba làng bị buộc phải gộp lại thành một “đơn vị cơ sở”, những đường ranh giới lịch sử – nơi từng phân định vùng đất canh tác, những xóm trông coi nhau, những khu nghĩa địa của từng dòng họ – lập tức trở thành nơi dễ phát sinh tranh chấp, hiểu lầm, thậm chí xung đột, chỉ vì người ta đã thay đổi khung tham chiếu nhưng lại không chịu trách nhiệm về các hệ quả xã hội. Lịch sử làng – xã Việt Nam từng chứng kiến nhiều lần cải cách ruộng đất, điều chỉnh địa giới, thay đổi đơn vị hành chính, và mỗi lần như thế đều để lại những vết thương âm ỉ rất lâu trong lòng dân. Bởi vậy, nói rằng “sáp nhập làng cho phù hợp thực tiễn mới” mà không tính đến chiều sâu những vết thương lịch sử từng có, thực chất là lặp lại một logic quen thuộc: quyền lực tin rằng mình có thể làm lại bản đồ, và ký ức sẽ tự điều chỉnh theo ý chí đó.
Khía cạnh tâm linh cộng đồng của làng – xã là thứ mà mọi đề án kỹ trị thường lảng tránh, vì nó khó đo đếm, khó đưa vào báo cáo, nhưng lại là phần quyết định cảm giác gắn bó và nghĩa tình của người dân với mảnh đất họ đang sống. Đình làng không chỉ là một công trình kiến trúc, mà là nơi “thần linh chính danh” của cộng đồng được an vị, nơi lễ hội, tế lễ, nơi người dân ký gửi nỗi sợ, niềm hy vọng và lời hứa với nhau, qua những nghi thức tưởng như đã cũ nhưng thực chất là hệ thống ngôn ngữ thiêng liêng để nhắc lại trật tự đạo lý. Khi ép hai làng có hai Thành hoàng, hai hệ lễ lệ, hai mùa hội khác nhau phải trở thành một “đơn vị cơ sở” chung, người ta buộc phải trả lời câu hỏi: thờ ai, bỏ ai, giữ lệ nào, bỏ lệ nào, và dựa vào quyền lực nào để quyết định.
Những câu hỏi như vậy không thể giải quyết bằng biểu quyết đa số giản đơn, bởi tín ngưỡng không phải là một chương trình đầu tư công, càng không thể là hạng mục phụ trong một đề án tinh giản bộ máy.
Trong không gian tâm linh của làng, nghĩa trang không chỉ là nơi chôn cất, mà là vương quốc của ký ức, nơi các thế hệ nhìn lại nhau qua những tấm bia, những cái tên lặp lại trong dòng họ, những ngày giỗ trùng nhau trên tờ lịch âm. Khi làng bị sáp nhập, nhiều nơi buộc phải nghĩ đến việc dịch chuyển, điều chỉnh, hoặc “quy hoạch lại” nghĩa trang, mà mỗi động tác như vậy, dù cố gắng nhã nhặn đến đâu, vẫn chạm trực tiếp vào nỗi sợ sâu nhất của đa số người Việt: nỗi sợ tổ tiên bị đối xử bất kính, bị xáo trộn khỏi chỗ vốn đã được an bài. Một chính sách có thể được trình bày rất đẹp trong báo cáo, nhưng nếu khiến người dân cảm nhận rằng mồ mả tổ tiên mình chỉ là một biến số trong phương án sử dụng đất, thì lòng tin bị xói mòn sẽ không thể bù lại bằng bất cứ chương trình tuyên truyền nào. Động đến làng, nghĩa là động đến cõi sống và cõi chết cùng một lúc – đó không phải là vùng mà quyền lực được phép bước vào một cách nhẹ dạ.
Một điểm nữa thường bị xem nhẹ là trong cấu trúc làng – xã, ý thức tự chủ và mầm mống dân chủ của người Việt đã được nuôi dưỡng qua nhiều thế kỷ, dưới nhiều chế độ chính trị khác nhau, bằng những cơ chế rất mềm nhưng không kém phần nghiêm khắc. Hương ước, khoán ước, lệ làng từng quy định từ việc đóng góp, giữ gìn thuỷ lợi, đến chia nhau đường đi, bờ ruộng, xử lý những hành vi gây hại cho cộng đồng, và nhiều khi hiệu quả hơn bất kỳ nghị định nào bởi nó xuất phát từ sự đồng thuận nội bộ và từ áp lực danh dự.
Chính trong môi trường ấy, người dân tập quen với việc bàn bạc, tranh luận, chất vấn, giám sát những người được giao việc làng, hình thành nên một kiểu “dân chủ cơ sở” rất bản địa, không cần khẩu hiệu nhưng bền bỉ qua năm tháng. Khi anh sáp nhập nhiều làng, anh làu làm loãng đi không gian vốn đủ nhỏ để người dân thấy tiếng nói của mình có trọng lượng, và thay vào đó là một đơn vị rộng hơn, trừu tượng hơn, nơi khoảng cách giữa người dân và người đại diện được kéo giãn ra một cách vô hình.
Ý thức tự chủ ấy không phải tự nhiên mà có, nó được nuôi dưỡng bằng trải nghiệm lịch sử rằng làng là vòng tròn cuối cùng để con người nương tựa khi triều đại thay đổi, khi chính sách trung ương lúc rộng lúc hẹp, khi chiến tranh hay thiên tai ập đến không báo trước. Trong những thời điểm ấy, không có bất kỳ một nghị quyết hay cơ quan cấp trên nào có thể thay thế được khả năng tự tổ chức và đỡ đần lẫn nhau của làng, và chính ký ức đó làm cho người dân tin rằng nơi mình thuộc về đầu tiên không phải là một “đơn vị hành chính”, mà là một cộng đồng có gương mặt cụ thể, có tiếng nói, có trách nhiệm lẫn nhau.
Phản biện ý tưởng sáp nhập làng vì thế không chỉ là bảo vệ một vài tên gọi cổ, hay một vài phong tục tưởng chừng lạc hậu, mà là bảo vệ cấu trúc tế bào của quốc gia – nơi văn hoá, lịch sử, tâm linh và ý thức tự chủ kết lại thành một mạng lưới đỡ lấy toàn bộ thân thể chính trị. Quốc gia có thể cải tổ bộ máy hành chính, có thể thay đổi cách phân cấp, phân quyền, có thể thử nghiệm các mô hình quản trị mới, nhưng tất cả những điều đó nên diễn ra “trên” hoặc “bên cạnh” làng – xã, chứ không cán thẳng qua nó như một chiếc xe lu cán mặt đường. Điều mà một nhà nước hiện đại cần làm là học cách làm việc với các tế bào sống ấy, tôn trọng nhịp điệu riêng của chúng, hỗ trợ khi cần thiết, đặt ra những chuẩn mực chung để bảo vệ quyền con người, chứ không can thiệp tới mức làm biến dạng hoặc hoà tan chúng chỉ vì sự thuận tiện ngắn hạn trên giấy tờ.
Đến đây, câu hỏi không còn là “sáp nhập làng có lợi hay không”, mà là nhà nước có nhận ra giới hạn đạo đức và văn hoá trong việc sử dụng thẩm quyền của mình đối với các cộng đồng gốc rễ hay không. Một chính sách, dù được biện minh bằng bao nhiêu khẩu hiệu đẹp, nếu làm tổn thương những gì sâu nhất, bền nhất trong cấu trúc làng – xã, thì về bản chất đã đi ngược lại nghĩa vụ phương tiện tối thiểu của nhà nước đối với cộng đồng mà nó nhân danh.
Và khi đó, rất khó nói về sự bền vững của bất kỳ mô hình quyền lực nào nữa.
%20Facebook.png)

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét