VĂN MIẾU - QUỐC TỬ GIÁM
Đi qua nghìn năm đến với muôn sau
Nguyễn Xuân Diện
Văn Miếu – Quốc Tử
Giám một ngôi đền văn học có từ ngàn năm nay, luôn là một nơi tụ khí thiêng của
đất nước. Theo các bản
đồ cổ, Văn Miếu - Quốc Tử Giám tọa lạc
trên chính giữa một quả gò nằm về hướng Nam hoàng thành Thăng Long. Cả một
vùng hồ nước bao quanh lấy khu gò hỗ trợ cho mạch văn thêm mạnh.
Các nhà cổ
sinh học đã thống kê được trong khuôn viên Văn Miếu – Quốc Tử giám có 27 loài
thực vật thuộc 18 họ cây khác nhau (8/1990). Giữa những cây cổ thụ và hệ sinh
thái ở đây, các kiến trúc bố trí đối xứng qua một trục thần đạo tạo nên nét
đăng đối và gợi ra tinh thần đường bệ trang nghiêm của cả khu di tích.
Văn Miếu là ngôi miếu
thờ Đức Khổng Tử. Quốc Tử giám là một nhà quốc học, tức là nơi dạy dỗ con cháu
hoàng tộc, con em các quan chức và những thư sinh ưu tú. Chính nơi nhà quốc học
là nơi nhộn nhịp bước chân sĩ tử đến dự các kỳ bình văn trong nhà giám, trở
thành ấn tượng của nền Nho học thịnh thời ngày xưa.
Toàn bộ khu vực Văn
Miếu – Quốc tử giám được bao quanh bằng bức tường gạch vồ thâm nghiêm sau những
tán cây già, mà bên trong được chia thành 5 khu vực phân minh được ngăn bởi
những tòa cổng rêu phong, tĩnh lặng. Xa xa là Văn hồ, giữa hồ là một gò đất có
bia đình nhỏ xinh với tấm bia do TS. Bố chánh Hà Nội Lê Hữu Thanh soạn năm Tự
Đức thứ 18 (1856).
Cổng Văn Miếu môn nằm giữa hai tòa bi đình dựng ngay sát
đường trong dựng bia Hạ mã xác định rằng dù công hầu khanh tướng, võng điều
ngựa tía mỗi khi qua đây đều phải “khuynh cái, hạ mã”(nghiêng lọng, xuống ngựa)
để tỏ lòng thành kính. Những hàng câu đối đề khắp các cột nghi môn dẫn dắt nho
sinh vào cửa Khổng sân Trình.
Theo con đường lát gạch là tới Đại trung môn, và
hai bên là Dực Thánh môn và Đạt tài môn đối xứng hai bên tạo thành một khoảng
vuông đầy cổ thụ soi mình bên hai hồ nước nhỏ tạo nên một cảnh trí tĩnh mịch, u
nhã, sâu lắng.
Khuê Văn Các hiện ra trong những tán cây già. Một tòa lầu 8 mái ứng với bát quái Kinh Dịch được dựng vào năm 1805. Sao Khuê là một trong nhị thập bát tú, tượng trưng cho văn chương, với khung cửa tròn nằm trong một khung vuông, tượng trưng cho trời và đất. Khung cửa tròn của gác Khuê Văn soi bóng xuống giếng vuông Thiên Quang tỉnh càng làm rõ sự âm dương đối đãi trong kiến trúc cổ. Mỗi khi làn nước giếng Thiên Quang xao động thì bóng gác Khuê Văn lại như lay động lung linh tạo nên những chuyển động rất thi vị.
Hai dãy nhà bia với 82 tấm bia Tiến sĩ được khắc trong suốt các triều
Lê – Mạc vẫn uy nghi đứng đó. Việc khắc bia Tiến sĩ, cùng những ân điển mà
triều đình ban tặng như cưỡi ngựa dạo kinh đô, ăn cỗ yến, dạo vườn thượng uyển
là điều mà bất cứ khóa sinh nào cũng mơ tới. Những tấm bia nghè ở đây không chỉ
lưu danh các tiến sĩ mà còn chứa trong đó bao áng văn với những điển nhã sâu
sắc, thể hiện một tư tưởng trọng học, trọng khoa cử, trọng hiền tài của các
triều đại xưa.
Trên văn bia đề danh
Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3 (1442), Hàn lâm viện Thừa
chỉ Đông các Đại học sĩ Thân Nhân Trung viết: “Hiền tài là nguyên khí của quốc
gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh. Nguyên khí suy thì thế
nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không
coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm
công việc cần kíp”.
Bài văn còn viết: “Hãy đem họ tên những người đỗ khoa này mà điểm lại, thì thấy nhiều người đã đem tài năng văn học, chính sự để tô điểm cho nền trị bình, mấy chục năm qua được quốc gia trọng dụng. Cũng không phải là không có kẻ vì tham lam hối lộ mà hư hỏng hoặc rơi xuống hạng gian tà, có lẽ vì lúc sống bọn họ chưa được nhìn thấy tấm bia này. Ví thử đương thời chính mắt họ trông thấy thì lòng thiện được khuyến khích mà ý xấu được ngăn ngừa, mầm nghiệt đâu dám nảy sinh? Thế thì việc dựng tấm đá này có lợi ích rất nhiều: kẻ ác lấy đó làm răn, người thiện lấy đó làm gắng, biết rõ dĩ vãng, rộng nhìn tương lai, vừa là để rèn giũa danh tiết của kẻ sĩ, vừa là để củng cố mệnh mạch nước nhà”(Bản dịch của GS Ngô Đức Thọ và cộng sự).
Cửa Đại thành là cửa
cuối cùng dẫn vào một sân rộng và nhà Bái đường. Góc sân kia là hai cây gốc đại
già cổ kính do Tư nghiệp Quốc Tử giám Nguyễn Nghiễm (cha của đại thi hào Nguyễn
Du) tự tay trồng trong một lần ghé thăm Văn Miếu. Vẫn còn đây những di vật của
Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm. Đó là bút tích bức hoành phi “Cổ kim nhật nguyệt”
do tự tay ông viết, là quả chuông Bích Ung do ông hưng công việc đúc chuông.
Khi xưa Nguyễn Khản thi đỗ Tiến sĩ, ngày ban yến ở nhà khánh tiết của bộ Lễ,
được chính cha mình là quan Tư đồ Nguyễn Nghiễm tự tay gài bông hoa vàng lên mũ
cho con. Người đương thời truyền tụng như một câu chuyện đẹp và hiếm hoi ở đời.
Theo định nghĩa của
Hán học, Văn hiến là một khái niệm bao gồm hiền tài và thư tịch. Hà Nội là một
vùng đất văn hiến. Văn Miếu – Quốc Tử giám là nơi lưu danh thơm của các bậc
hiền tài qua các thời đại. Họ đã sáng tạo nên nhiều thư tịch, ghi lại cảnh sắc,
con người, phong tục, thổ sản của Thăng Long và của cả nước. Những thư tịch ấy
đã có một đời sống riêng trong dòng chảy bất tận của văn hóa Việt Nam, trở
thành thông điệp trao chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác, vừa riêng trong
cốt cách, giọng điệu, vừa chung trong tâm thế của căn cước Việt Nam.
Ngày nay, quy mô của nhà Thái học mới được tôn tạo, hệ thống thờ phụng các danh nhân và hoàng đế anh minh được mở mang. Khu di tích đã trở thành Trung tâm hoạt động văn hóa khoa học Văn Miếu Quốc Tử giám, là nơi diễn ra các hoạt động văn hóa khoa học quan trọng.
.
Với vẻ đẹp rất riêng,
cổ kính thâm trầm và thanh bình, lắng sâu giữa lòng thành phố ngàn năm tuổi,
Văn Miếu – Quốc Tử giám đã là chứng nhân của lịch sử, chứng kiến bao bước đi
thăng trầm của lịch sử. Những triều đại, những con người, và bốn mùa đã đi qua
…
N.X.D

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét