MỘT CUỐN SÁCH MỚI VỀ CHU MẠNH TRINH
– NGƯỜI TÀI HOA BẬC NHẤT NƯỚC NAM TA
Nguyễn Xuân Diện
Đó là cuốn sách chuyên luận rất công phu và hoàn bị về Chu Mạnh Trinh một bậc tài hoa tài tử của nước Nam ta. Cuốn sách “Chu Mạnh Trinh hành trạng và thơ văn” do Phạm Ngô Minh và Lê Minh Khiêm biên khảo, dịch và chú giải, in tại Nxb. Đà Nẵng in xong tháng 9 năm 2025. Đây có lẽ là cuốn sách cuối cùng trước khi Nxb. Đà Nẵng lừng danh một thời chấm dứt hoạt động. Tôi may mắn được Phạm Ngô Minh tiên sinh gửi tặng, và sách vừa đến văn phòng lúc trưa nay.
Chu Mạnh Trinh (1862 – 1905), tự Cán Thần, hiệu Trúc Vân, sinh năm 1862, người làng Phú Thị, xã Mễ Sở, huyện Đông Yên, tỉnh Hưng Yên (nay là xã Mễ Sở, tỉnh Hưng Yên). Cha là Chu Duy Tĩnh, từng làm quan đến chức Ngự sử.
Từ bé đã nổi tiếng thông minh, có tài văn chương. Năm 19 tuổi đỗ Tú tài rồi đến xin học với Phó bảng Phạm Hy Lượng; mấy năm sau được thầy gả con gái cho. Năm 25 tuổi đỗ Giải nguyên trường Hương khoa thi Bính Tuất (1885). Khoa thi Hội năm Nhâm Thìn (1892), ông đậu Tiến sĩ.
Phạm Hy Lượng là một danh sư đất Thăng Long. Năm 1884, ông cáo bệnh hồi hưu khi đang là quyền Tuần phủ Ninh Bình, trở về Hà Nội mở trường dạy học. Học trò của ông có nhiều người tài năng xuất chúng, như Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền, Tam nguyên Vũ Phạm Hàm, Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh.
Lúc bây giờ, có 4 người có tài lạ về văn chương, được thiên hạ tôn là “Tứ Chi Văn”, gồm:
- Kinh bang tế thế chi văn – Nguyễn Thượng Hiền
- Cử tử chi văn – Vũ Phạm Hàm
- Tài tử chi văn – Chu Mạnh Trinh
- Thần tiên chi văn – Dương Khuê.
Ba trong “Tứ chi văn” là học trò được Phó bảng Phạm Hy Lượng trực tiếp dạy dỗ. Một ông thầy dạy được 3 học trò nổi tiếng về văn chương, mà mỗi người một phong cách. Thế mới biết danh sư họ Phạm giỏi như thế nào!
Sau khi đỗ Tam giáp tiến sĩ khoa Nhâm Thìn niên hiệu Thành Thái năm thứ 4 (1892), Chu Mạnh Trinh được bổ làm Tri phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nội, có tiếng là công minh chính trực; có lần ông đã phạt đánh roi một tu sĩ người Pháp cậy thế lộng hành. Làm Tri phủ ít lâu thì cha mất, Chu Mạnh Trinh xin cáo quan về cư tang. Lúc trở lại làm quan được thăng chức Án sát tỉnh Hà Nam, Hưng Yên, Bắc Ninh, Thái Nguyên. Ông mất năm 1905, khi mới 43 tuổi.
Là một danh sĩ, Chu Mạnh Trinh nổi tiếng là người có tài văn chương. Các tác phẩm nổi tiếng của Chu Mạnh Trinh, gồm bài hát nói ca trù ''Hương sơn phong cảnh ca'', bài Hàm Tử quan hoài cổ ca ngợi chiến công của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, đời nhà Trần; bài Đề thơ trên vách miếu Mỵ Châu (Quá Cổ Loa yết Mỵ Châu miếu đề bích).
Chu Mạnh Trinh là người đa tài. Ngoài tài thơ, ông còn là một nhà kiến trúc. Ngôi đền Đa Hòa thuộc tổng Mễ Sở quê ông (nay thuộc xã Bình Minh huyện Khoái châu) thờ Chử Đồng Tử, do chính ông thiết kế, và đứng ra vận động xây dựng. Chu Mạnh Trinh cũng là người thiết kế gác chuông chùa Thiên Trù ở khu danh thắng Hương Sơn huyện Mỹ Đức, Hà Nội.
Trước đây, đã có nhiều học giả nghiên cứu và công bố về Chu Mạnh Trinh. Từ Trúc Khê – Tiên Đàm năm 1942, Nguyễn Quảng Tuân (1953), Nguyễn Xuân Hiếu – Trần Mộng Chu (1959), Xuân Hoàng (1959), Bùi Giáng (1959), Trần Việt Sơn – Trần Ngọc Lập (1958), Nguyễn Sĩ Tế (1959), Thuần Phong (1959), Lê Văn Ba (1996), Thế Anh (2016)… Nhưng đến cuốn chuyên khảo này là đầy đủ nhất.
Nhóm tác giả đã tra cứu khai thác nhiều tài liệu của Phủ Thống sứ Bắc Kỳ và các văn bản Hán Nôm tại nhiều thư viện để dựng lại chân dung con người và sự nghiệp văn học của Chu Mạnh Trinh - người kẻ sĩ, một nhà thơ tài hoa, đầy nhân cách của văn đàn Việt Nam cận đại.
Tập sách lần đầu tiên công bố toàn bộ sáng tác Hán – Nôm của Chu Mạnh Trinh mà trước nay chưa ai làm được đầy đủ đến thế. Đó là “Trúc Vân văn tập” A.1441 (gồm 16 bài văn xuôi, 146 bài thơ chữ Hán, 26 bài thơ Nôm); là 20 bài thơ Nôm vịnh Kiều của Chu Mạnh Trinh, vốn bị xem là thất truyền, phát hiện 17 dị bản khác nhau giữa bản chép tay và bản khắc in để chứng minh rằng, bản in năm 1906 đã có bàn tay biên tập, thêm bớt; làm rõ cuộc thi vịnh Kiều ở Hưng Yên năm 1905; bổ sung tư liệu từ Thư viện Đại học Yale (Hoa Kỳ) về Án sát Chu Mạnh Trinh (Ba bản thảo chữ Nôm và Quốc ngữ)… Từ “Ca trù thể cách”(AB.456); đến “Nam thiên đệ nhất động hành trình ngâm khúc” (AB.358); rồi “Thanh Tâm Tài Nhân thi tập” (AB.412)…
Về con người Chu Mạnh Trinh, hồ sơ (ANV-RST ký hiệu 31087) lưu lại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, làm rõ năm sinh, luân chuyển công tác của ông (các tác giả đi trước sai sót, lầm lẫn rất nhiều): Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh sinh năm 1862, tại làng Phú Thị (Văn Giang, tỉnh Hưng Yên), từng làm Tri huyện, rồi Án sát các tỉnh Hưng Yên, Hà Nam, Bắc Ninh, Thái Nguyên; qua đời năm 1905 khi đang tại chức chứ không phải “cởi áo từ quan” hay bị “bãi chức vì tham ô” như một số tác phẩm từng viết. Các hồ sơ cho thấy Chu Mạnh Trinh luôn bị Pháp theo dõi nhất cử nhất động, thậm chí có đến 2 tài liệu người Pháp ngờ rằng ông tham gia mua vũ khí và ngầm giúp cho phong trào Cần vương tại Bắc Kỳ; công bố nhiều “vụ án” do ông xét xử tại Hà Nam từ năm 1899–1901… Qua đó bác bỏ những “điều tiếng” không hay, những lời buộc tội thô tục về sở thích nghe hát cô đầu - ả đào của ông lúc đương thời.
Mặc dầu còn một vài thiếu sót, sai nhầm như:
1.Bỏ quên không dịch 2 đôi câu đối văn chỉ (trang 113);
2. Bài thơ “Duyệt Tang thương ngẫu lục Trương Hán Siêu, Dục Thúy sơn bi đề” (trang 294) nên dịch là “Xem bài Đề bia Dục Thúy sơn của Trương Hán Siêu trong sách Tang thương ngẫu lục”, vì trong sách Tang thương ngẫu lục có mục “Dục Thúy sơn” có chép bài văn bia ma nhai núi Dục Thúy của Thăng Phủ Trương Hán Siêu;
3. “Chử Tiên giáng bút tự đề” (trang 412) nên dịch là Bài thơ (tự) giáng bút của Chử Đồng tử;
4. “Dạ Trạch tiên gia phú” nên dịch là Bài phú gia đình Chử Tiên (Chử Đồng Tử)…
Chu Mạnh Trinh là bậc tài tử. Ông làm bạn với kỳ hoa dị thảo, giang sơn phong nguyệt, nước Nhược non Bồng, nơi các vị thần tiên trú ngụ thanh nhàn nên ông gần gũi với các bậc Tiên Phật Thánh Thần và thường có thơ đề vịnh.
Đó là Hương Sơn bầu trời cảnh Bụt ở Hà Tây (cũ), là Núi Cánh Diều ở Ninh Bình, Miếu Mỵ Châu ở Cổ Loa (Hà Nội), Đền Đằng Châu (Đền Mây) ở Hưng Yên, Đền Mẫu ở Phố Hiến (Hưng Yên), Đền Đa Hòa và Đền Hóa Dạ Trạch ở Khoái Châu (Hưng Yên). Cuốn sách của Phạm Ngô Minh và Lê Minh Khiêm có chữ Hán, lời dịch Việt văn đầy đủ các bài thơ này cùng các bài thơ khác nữa.
Cuốn sách “Chu Mạnh Trinh hành trạng và thơ văn” do Phạm Ngô Minh và Lê Minh Khiêm là một hồ sơ đầy đủ nhất về cả cuộc đời lẫn sự nghiệp văn chương của Chu Mạnh Trinh. Những tư liệu của hồ sơ này đã minh oan cho Cán Thần Chu Mạnh Trinh đã từng bị các giáo trình cả lịch sử lẫn văn học khiến ông hàm oan bấy lâu nay. Tai hại thay, nó cũng đã đi vào một số bộ Từ điển.
Vì vậy, có thể nói, với cuốn chuyên luận này, hai tác giả đã chiêu tuyết cho Chu Cán Thần, một đấng tài hoa của thế kỷ 19 mà văn chương còn truyền mãi trong chiếu hát Ả đào, còn khiếu thẩm mỹ tài hoa vẫn gửi nơi gác chuông chùa Thiên Trù; hay tòa phương đình đền Đa Hòa xứ Đông.
Nhân dịp được Phạm Ngô Minh tiên sinh tặng cuốn sách quý, xin chia sẻ cùng quý vị về niềm vui sướng hân hoan này!
Hà Nội, đêm 10.11.2025
Lâm Khang Nguyễn Xuân Diện bái đề
* Bài viết có tham khảo Wikipedia/Chu Mạnh Trinh và bài của TS Lưu Anh Rô (Lưu AR).





Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét