Boristo Nguyễn đã bé cái nhầm
Nguyễn Huệ Chi
Diễn Đàn:
Chúng tôi xin đăng bài dưới đây của GS Nguyễn Huệ
Chi để
chấm dứt một cuộc tranh luận đã dài trên chủ đề này; thông tin và luận
cứ của hai bên đã đầy đủ và công khai trên mạng. Mặt khác chúng
tôi hy vọng ông Boristo Nguyễn và báo VN TP HCM đủ tự trọng để
không còn làm những việc như lợi dụng sự kiện thiền sư Thích Nhất Hạnh
vừa trở về chùa cũ tĩnh dưỡng, để tuyên truyền cho những ý đồ phi học
thuật đã cũ của mình.
I.
Bài
“Có
phải GS Nguyễn Huệ Chi tìm ra tên của
Tuệ Trung Thượng sĩ là Trần Tung”
của Boristo Nguyen công bố trên Văn
nghệ TP HCM ngày 1-12-2018 trước sau chỉ
nhằm mục đích tố cáo tôi
lấy cắp công lao của Thiền sư
Thích Nhất Hạnh trong việc phát hiện
ra người mang pháp danh Tuệ Trung Thượng
sĩ đời Trần chính là Trần
Quốc Tung, không phải Trần Quốc Tảng
như ý kiến của Bùi Huy Bích
trong Hoàng Việt văn tuyển. Nhưng
muốn làm được điều đó
thì không thể đi lại con đường
Nguyễn Hòa đã đi, vốn đã
bị Đặng Văn Sinh bác bỏ một
cách thuyết phục (xem
đây). Lần này phải làm sao
“nói có sách mách có chứng”,
chỉ một cú nhấp chuột “xong”
ngay! Vốn học về khoa học tự nhiên
(như ông từng cho biết), Boristo Nguyen bèn
sử dụng tay nghề có sẵn, đưa
ra một bài toán thống kê và
loại trừ, bày trước mắt người
đọc 4 văn bản, hoặc dịch hoặc
phỏng dịch toàn văn hoặc một phần
bài Thượng sĩ hành trạng
mà cả Thiền sư Thích Nhất Hạnh
và tôi đều nhất thiết phải
dùng đến. 4 văn bản đó là:
1. Bản dịch đầy đủ của
Thiền sư Thích Thanh Từ, 1996; 2. Bản
dịch đầy đủ của Đỗ Văn
Hỷ và Nguyễn Huệ Chi trong Thơ văn
Lý-Trần Tập II thượng, 1989; 3.
Những đoạn trích dịch và phỏng
dịch của Thích Nhất Hạnh (Nguyễn
Lang) trong Việt Nam Phật giáo sử luận
I, 1973; 4. Những đoạn trích dịch
và phỏng dịch của Nguyễn Huệ Chi
trong bài Trần Tung một gương mặt
lạ trong làng thơ thiền thời Lý-Trần
in trong Văn học Việt Nam Cổ cận đại
- Từ góc nhìn văn hóa đến
các mã nghệ thuật, 2013. Hai văn
bản trên được xem như “bàng
chứng” soi tỏ hai văn bản dưới,
để từ đó có cơ sở so
sánh và nhận định. Quả hết
sức chỉn chu. Cuối cùng, sau khi đối
chiếu, sàng lọc kỹ lưỡng, ông
chọn được một đoạn theo ông
có ba câu “giống nhau như đúc”
(chúng tôi tô đậm ở dưới)
giữa bản của Thích Nhất Hạnh và
bản của tôi:
.
Thích
Nhất Hạnh
(Nguyễn Lang): “Hồi
em gái Tuệ Trung Hoàng hậu Thiên Cảm
còn sống, một hôm ông được
bà mời vào cung ăn tiệc. Trên
bàn có những món mặn và món
chay, ông đã gắp thức ăn một
cách không phân biệt. Hoàng hậu
hỏi: “Anh tu
thiền mà ăn thịt ăn cá thì
làm sao mà thành Phật được?”.
Ông cười đáp: “Phật
là Phật, anh là anh; anh không cần
thành Phật. Phật không cần thành
anh. Em
chẳng nghe cổ đức nói ‘Văn
Thù là Văn Thù, giải thoát là
giải thoát’ đó sao?”
[tr. 276]
Nguyễn Huệ Chi: “Một lần, Hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm, vợ Trần Thánh Tông, mời ông anh Tuệ Trung vào cung ăn tiệc. Trên bàn tiệc có cả cỗ mặn lẫn cỗ chay. Thấy anh mình trong bữa ăn quên cả kiêng khem mà nhúng đũa cả vào cỗ mặn một cách phóng túng, Hoàng hậu khẽ nhắc ông: “Anh tu thiền mà ăn thịt cá thì làm sao thành Phật được?”. Tuệ Trung Thượng sĩ cả cười đáp: “Phật là Phật, anh là anh; anh không hề muốn làm Phật, Phật cũng không hề muốn làm anh. Em chẳng nghe cổ đức có nói: Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát, đó sao?” [tr. 375]
.
Nguyễn Huệ Chi: “Một lần, Hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm, vợ Trần Thánh Tông, mời ông anh Tuệ Trung vào cung ăn tiệc. Trên bàn tiệc có cả cỗ mặn lẫn cỗ chay. Thấy anh mình trong bữa ăn quên cả kiêng khem mà nhúng đũa cả vào cỗ mặn một cách phóng túng, Hoàng hậu khẽ nhắc ông: “Anh tu thiền mà ăn thịt cá thì làm sao thành Phật được?”. Tuệ Trung Thượng sĩ cả cười đáp: “Phật là Phật, anh là anh; anh không hề muốn làm Phật, Phật cũng không hề muốn làm anh. Em chẳng nghe cổ đức có nói: Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát, đó sao?” [tr. 375]
.
Thế là ông reo lên:
Eureka, bắt tận tay day tận trán đây
rồi. Sau khi đưa ra ba nhận xét: 1.
Trường hợp dùng tên Nguyên Thánh
Thiên Cảm giống nhau ở câu mở đầu
(trong khi nguyên văn là Thái hậu) “có
thể gây nghi vấn là Nguyễn Huệ
Chi chịu ảnh hưởng của Nguyễn
Lang” nhưng “chỉ
là nghi vấn chứ chưa đủ để
chứng minh”; 2.
Câu “Anh tu thiền
mà ăn thịt cá thì làm sao mà
thành Phật được?”
“giống nhau gần như
đến từng chữ, từng từ”
và câu
chữ trong đó lại khác
với 2 bản bàng
chứng; 3.
Hai câu nữa: “Phật
là Phật, anh là anh; anh không hề
muốn làm Phật, Phật cũng không hề
muốn làm anh.
Em chẳng nghe cổ
đức có nói: Văn Thù là
Văn Thù, giải thoát là giải
thoát, đó sao?”
“gần như
giống nhau hoàn toàn”, riêng
câu cuối thì 2 bản bàng chứng
cũng dịch y như vậy. Kết luận:
“Cả
3 loại nhận xét này đều nói
lên việc người đi sau đạo của
người đi trước, tức là Nguyễn
Huệ Chi [1977] đạo của Nguyễn Lang
[1973]. Tình cờ trùng nhau 1 câu, 1 chỗ
xác suất đã nhỏ; “ý tưởng
lớn” gặp nhau nhiều lần thì xác
suất vô cùng nhỏ, hầu như là
không thể!
Mà
việc đạo văn của Nguyễn Huệ
Chi cũng đồng nghĩa với việc ông
ăn cắp kết quả của Nguyễn Lang và
gán cho mình!
Sau
những phân tích ở trên, liệu các
bạn đọc có còn tin là Nguyễn
Huệ Chi đã tự mình phát hiện
Tuệ Trung thượng sĩ là Trần Tung
nữa không? Còn tôi, tôi không
tin!” (tôi
bôi đậm để bạn đọc đọc
cho rõ - NHC).
Thật
là chặt chẽ. Bản án khép lại,
bị cáo chẳng còn tài nào xoay
trở. Cứ để cho ông Boristo Nguyen mừng.
Ta
hãy trở lại từ đầu cho mạch
lạc. Trước hết, ở đầu bài
viết, Boristo Nguyen có một nhận định
cần được cải chính. Ông
viết: “Năm
1977, tức 4 năm sau [Nguyễn Lang], trong Thơ
văn Lý-Trần
(quyển I, trang 113-115, Phần khảo luận) và
trong bài viết Trần
Tung một gương mặt lạ trong làng
thơ Thiền thời Lý-Trần Nguyễn
Huệ Chi công bố mình đã độc
lập tìm ra Trần Tung (bớt một chữ
Quốc) chính là Tuệ Trung Thượng
Sĩ. Nếu đúng Nguyễn Huệ Chi tự
mình tìm ra Trần Tung thì việc này
xảy ra sau 4 năm”. Với người bình
thường, xét trên hình thức, ông
nói thế không sai. Sách Thơ
văn Lý-Trần
Tập I đúng là in xong năm 1977, và
bài viết của tôi trên Tạp
chí Văn học
cũng ra đời cuối tháng Tám năm
đó. Nhưng đừng cố ý đánh
đồng hai chuyện lại. Đối thoại
với nhau trên
tinh thần cốt tìm ra chân lý thì
không ai phớt lờ một sự thực mà
Đặng Văn Sinh đã tìm hiểu
nghiêm túc và chỉ dẫn đến
nơi đến chốn: tuy sách Thơ
văn Lý-Trần
Tập I in xong năm 1977 nhưng thực tế nó
đã hoàn thành nhiều năm trước,
bởi bản thảo phải trải qua nhiều
khâu duyệt, khoảng cuối năm 1973 được
Viện Văn học đưa sang NXB KHXH, NXB này
lại đưa cho Viện Sử học đọc,
đến giữa 1974 mới chuyển tới Nhà
in Thống nhất. Tiếp đó đến
khâu xin chữ Hán và xếp chữ Hán
cực kỳ vất vả của Nhóm soạn
giả cùng với công nhân xếp chữ
tiếng Việt, ròng rã gần 4 năm.
Phần viết 2 trang rưỡi về Trần
Tung và Thượng
sĩ ngữ lục
trong Khảo
luận của
tôi cũng in đầy chữ Hán giản
thể, chứng tỏ nó đã xong cùng
toàn bộ bản thảo một lần. Không
thể giả thiết 2 trang rưỡi này
“chèn thêm vào sau” vì: 1.
Chữ Hán giản thể là xin của báo
Tân Việt
Hoa thuộc
ĐSQ Trung Quốc giữa 1974. Sau 1975, khi Khmer Đỏ
trở về Campuchia và gây rối biên
giới Việt Nam kể từ ngày 2, nhất
là ngày 4-5-1975 đánh chiếm ngay đảo
Phú Quốc, thì quan hệ với ĐSQ
Trung Quốc trở nên căng thẳng, cán
bộ bình thường đến đó
giao thiệp không được nữa nếu
không có lệnh từ cấp cao. Muốn
xin chữ Hán tất nhiên cũng bó
tay. 2.
Sách in hiện đang còn, cứ nhìn
chữ in không xộc xệch, không hàng
nào xô lệch đến mất cân đối
thì biết, khó có một người
nào đủ khả năng phù phép
để nhét thêm 2 trang rưỡi vào
cho 632 khuôn chì đã xếp chữ gần
như trọn vẹn, chuẩn bị đưa lên
máy in, trừ phi tháo dỡ hết cả
ra (phần Khảo
luận của
tôi lại nằm ở ngay đầu). Hãy
thanh thỏa với nhau chuyện ấy cho gọn
đi.
Chớ
nghĩ tôi đánh trống lảng. Tôi
nói thế là nói một sự thực
để cho phân minh: có hai
mốc khác nhau
trong việc tôi chứng minh Tuệ Trung Thượng
sĩ chính là Trần Tung. Mốc trước
khi đưa NXB gồm 2 trang rưỡi trong Khảo
luận Thơ
văn Lý-Trần
Tập I (TVLT I) là bước
một,
tôi khảo sát những nguồn tài
liệu có khác với Nguyễn Lang trong
Việt Nam
Phật giáo sử luận
Tập I (VNPGSL I): hai bản in của sách Thượng
sĩ ngữ lục
vào hai thời điểm 1683
“do Tuệ
Nguyên đề tựa” (ký hiệu
A.1932), và 1903
“do Thanh
Cừ cho khắc” (A. 2048), cùng với 4
sách Hoàng
Việt văn tuyển,
Đại
việt sử ký toàn thư,
An Nam chí
lược,
Nguyên sử.
Trong khi đó Nguyễn Lang khảo sát bản
in Thượng
sĩ ngữ lục
năm 1943
“của
[Tổng] hội Phật giáo Bắc Kỳ, căn
cứ trên một bản in cũ năm 1903 do
sa môn Thanh Cừ chùa
Pháp Vũ thực hiện” (VNPGSL
I, 1973, tr. 280), cùng với nó là Hoàng
Việt văn tuyển
và Đại
Việt sử ký toàn thư.
Từ
3 nguồn tài liệu mà Nguyễn Lang khảo
sát, ông đi đến cái tên
Trần Quốc
Tung, một
dự đoán tài tình, hiếm người
có được, nhưng tên Trần Quốc
Tung thì tìm khắp trong 3 tài liệu
ấy đều không có, chỉ có
độc một chữ Tung
đứng sau tước Hưng Ninh vương
trong Đại
Việt sử ký toàn thư.
Về phía tôi,
thông qua
6 nguồn tài liệu đã dẫn, tôi
tìm ra đích xác tên Trần
Tung gắn
với mấy chữ Hưng Ninh vương in rõ
rệt trong 1 tài liệu. Tuy vậy, ở kết
luận, thái độ của tôi tỏ ra
có chút dè dặt, vì một vài
vướng mắc bấy giờ chưa thể
giải quyết: Trần Tung có phải
thực là con cả Trần Liễu hay không
và Trần Tung tham gia việc nước đến
thời gian nào thì chuyển hẳn sang tu
Thiền?
“Tóm
lại, mặc dầu còn phải tìm hiểu
thêm điểm này điểm kia, ta vẫn
có thể chính thức gạt bỏ một
nhầm lẫn đã tồn tại từ lâu
đến nay là đem Thượng
sĩ ngữ lục
gán cho Trần Quốc Tảng. Mặt khác,
ta cũng có nhiệm vụ phải khôi
phục dần tên tuổi, sự nghiệp cho
chính tác giả thực của tác
phẩm đó. Đó là Trần Tung
陈嵩 (1230-1291)
bác ruột Trần Quốc Tảng”
(TVLT I, tr. 115).
Nguyễn
Lang không như tôi, khẳng định rất
chắc chắn, có lẽ dựa trên sự
linh cảm khác thường: “Sách
Hoàng
Việt Văn Tuyển
nói Tuệ Trung Thượng Sĩ là Hưng
Ninh Vương Trần Quốc Tảng, con lớn
của Trần Hưng Đạo. Sự thực
thì tuy Tuệ Trung Thượng Sĩ có
tước hiệu là Hưng Ninh Vương
nhưng ông không phải tên là Trần
Quốc Tảng, cũng không phải là con
Trần Hưng Đạo. Ông là anh cả
của Trần Hưng Đạo và tên ông
là Trần Quốc Tung”
(VNPGSLI, 1973, tr.273). Ở dưới chú thích,
ông dẫn câu trong Đại
Việt sử ký toàn thư nói
về Hưng Ninh vương Tung và sự phân
tích chủ yếu của ông hầu như
cô lại trong chừng ấy.
Vậy
là đối tượng khảo sát khác
nhau (bản 1683 đối chiếu với bản
1903 / và bản 1943), cách tiếp cận
vấn đề khác nhau (một bên là
văn bản học / một bên có khảo
chứng sơ sơ nhưng sử Phật giáo
mới là chính yếu), số lượng
nguồn tài liệu soi sáng khác nhau
(một bên 6 / một bên 3), và trình
tự luận giải cũng khác nhau, kết
quả của tôi ngay trong bước
một đã
không đồng nhất với Nguyễn Lang
(NHC: Trần
Tung / NL: Trần
Quốc Tung).
Không thể phủ nhận sự thực đó
theo kiểu viết đánh lừa độc
giả rất khôn của Boristo Nguyen mà tôi
thừa biết.
Chỉ
đến mốc 1977 là bước
hai, tôi
mới tiếp tục khai triển đầy đủ
và đẩy đến tận cùng những
luận điểm đã đạt được
ở Khảo
luận, do
đó không còn giữ thái độ
dè dặt như trước mà có kết
luận rõ ràng; nhưng cơ bản vẫn
thống nhất với phương hướng
tìm tòi của Khảo
luận, vận
dụng ba sự so sánh
chéo
nhằm tìm
đến một kết quả duy nhất và
cũng thống nhất với Khảo
luận là
Trần Tung, không hề có Trần Quốc
Tung.
Từ
hai bước hiển nhiên trong tiến trình
phát hiện Trần Tung của tôi, được
thể hiện ở hai
văn bản khác nhau
như đã thấy, nay muốn so sánh
Nguyễn Lang với tôi để mong tìm
ra những đoạn văn “giống nhau như
đúc”, xin hỏi Boristo Nguyen: ông phải
lựa chọn văn bản nào thì mới
có kết luận đúng? Một kết
luận quan hệ đến đạo đức
khoa học của tôi như lời phán
quyết của ông là chuyện cực kỳ
nghiêm trọng, sao ông lại đập nhập
hai giai đoạn nghiên cứu của tôi
làm một, coi
nhẹ kết quả khác nhau giữa tôi
và Nguyễn Lang
ngay trong chặng
đầu tiên,
và cũng chỉ so sánh với
“một hiện vật”
độc
nhất là
bài viết giai đoạn sau, tự tiện
bỏ qua đoạn văn tôi trình bày
hẳn hoi ở giai đoạn đầu? Ông
có hiểu như thế là sai thủ tục
và cả trình tự bắt buộc trong
thao tác “điều tra”, để dựng
lên một “bản án” có lợi
cho mình? Tôi không vội đánh giá
ông, chỉ đề nghị ông hãy
làm lại, hãy thống kê và đối
chiếu lại văn bản của Nguyễn Lang
với hai văn bản của tôi ở cả
hai bước tôi đã nêu: bước
một
rồi mới đến bước
hai, vội
vàng đốt cháy giai đoạn là
không được.
Ta
cùng mở văn bản của tôi ra để
cả bên nguyên bên bị đều
nhìn tận mắt. Dưới đây là
văn bản bước
một:
xin đưa ảnh chụp 2 trang rưỡi viết
về Trần Tung và Thượng
sĩ ngữ lục
trong Khảo
luận TVLT
I lên bài. Ông cứ việc so sánh
kỹ với Nguyễn Lang đi:
Khảo
luận, tr.
113
Khảo
luận, tr. 114
Khảo
luận, tr. 115
Thế nào? Ông Boristo Nguyen có thấy gì không? Phần tôi chẳng hề tìm ra một chỗ nào tôi giống với Nguyễn Lang như ông vạch vòi cả. Cả đoạn văn phỏng dịch có 3 câu ông chọn ra để bắt bẻ tôi “gần như giống Nguyễn Lang từng chữ từng từ” ở đây hoàn toàn không có. Bỏ qua đoạn ấy thì những đoạn khác cũng chẳng hề có một chữ nào trùng với Nguyễn Lang. Không chỉ về câu chữ, mà như trên đã phân tích, về đối tượng, nguồn tài liệu soi vào luận chứng, lập luận và kết quả, giữa tôi và Nguyễn Lang đều khác nhau. Vậy kết luận tôi ăn cắp Nguyễn Lang trong văn bản bước một này là phạm luật. Ông có đồng ý không?
Tôi
thừa biết nếu chỉ dừng ở đây
thôi thì ông quật lại liền. So
sánh là so sánh VNPGSL I của Nguyễn
Lang với Trần
Tung – một gương mặt lạ trong làng
thơ Thiền thời Lý-Trần viết
năm 1977 chứ đâu có so sánh với
Khảo luận
viết 4 năm về trước. 4 năm trước
tôi chưa đọc được VNPGSL I thì
sao? Đúng là vậy. Tôi chỉ muốn
cho ông thấy tận mắt 2 trang rưỡi
Khảo luận
là một luận văn liền mạch, viết
xong vào năm sách được chuyển
sang NXB, chứ không phải “mới sửa
chữa lại sau” như ông hay ai đó
cố tình gán ghép bừa. Hãy cần
thế đã. Tiếp theo, ta sẽ so sánh
VNPGSL I với văn bản bước
hai. Nhưng
thưa ông, vì văn bản bước hai
hoàn thành vào cuối năm 1977, nên
để cho đích xác, lại phải
so sánh với đúng văn bản ra đời
năm 1977, nghĩa là văn bản đăng
trên Tạp
chí Văn học
số 4-1977. Nếu quả tôi có ý đồ
ăn cắp thì chính ở đấy
“tang vật” mới lòi ra đầy
đủ, chứ đi so sánh với văn
bản in trong cuốn Văn
học Cổ cận đại Việt Nam – từ
góc nhìn văn hóa đến các
mã nghệ thuật
in năm 2013 thì thực vô nghĩa. Chẳng
lẽ một kẻ thạo ngón nghề “đạo
chích” mà lại không tìm cách
xóa dấu vết đi, nhất là sau đến
hơn 40 năm, cứ để lại sờ sờ
trên giấy trắng mực đen cho những
người như ông dễ dàng vào
lục lọi thì có mà ngu ngốc ư?
Trong tuyển tập in 2013 ông chỉ tìm
được một đoạn phỏng dịch
có 3 câu “gần như giống từng
chữ từng từ” với Nguyễn Lang,
chắc tên kẻ cắp sơ ý chưa
xóa hết, thì trong văn bản 1977 tất
ông phải tìm được nhiều hơn
nhiều.
Tôi
lại xin giúp ông chụp lại bài
viết in trên Tạp
chí Văn học
số 4-1977 đem lên. Nhưng bài viết
quá dài, đến 20 trang, đưa hết
e không tiện, tôi tính thế này:
bài có hai phần, Phần
1 gồm 3
tiểu mục, tập trung chứng minh Trần
Tung chính là Tuệ Trung Thượng sĩ,
gồm 11 trang rưỡi, và Phần
2 phân
tích đặc điểm thơ Thiền Trần
Tung, gồm 8 trang rưỡi, tôi sẽ bỏ
phần sau lại vì chẳng còn dính
dáng gì đến việc ta đang bàn,
chỉ chụp và đưa lên 12 trang đầu,
nếu còn nghi ngờ ông cứ chịu khó
tìm đọc vào bản gốc vậy.
Đây, 12 trang đầu của bài viết
năm 1977 của tôi đây, chụp rất
rõ, Boristo Nguyen cứ soi thật kỹ, không
để sót chỗ nào không soi.
Trần
Tung một gương mặt lạ… tr. 116
Trần
Tung một gương mặt lạ… tr. 117
Trần
Tung một gương mặt lạ… tr. 118
Trần
Tung một gương mặt lạ… tr. 119
Trần
Tung một gương mặt lạ… tr. 120
Trần
Tung một gương mặt lạ… tr. 121
Trần
Tung một gương mặt lạ… tr. 122
Trần
Tung một gương mặt lạ… tr. 123
Trần
Tung một gương mặt lạ… tr. 124
Trần
Tung một gương mặt lạ… tr. 125
Trần
Tung một gương mặt lạ… tr. 126
Trần
Tung một gương mặt lạ… tr. 127
Toàn bộ
12 trang đầu bài viết năm 1977 của
tôi đã lên xong, tôi phải xin lỗi
làm phiền bạn đọc, nhưng trước
một bản cáo trạng nghiêm khắc
như của Boristo Nguyen thì chứng cứ
trình ra để cùng “ba mặt một
lời” phải thật đầy đủ,
chẳng phải chuyện có thể đùa.
Xin Boristo Nguyen chỉ rõ những câu tôi
“đạo” của Nguyễn Lang ở đâu
trong bài viết này? Thì ra hoàn
toàn không có. Không có 3 câu
ông dẫn chứng và cũng chẳng có
cả những đoạn khác diễn giải
bài Thượng sĩ
hành trạng mà
trước đây Nguyễn Hòa gán
cho tôi mô phỏng lại Nguyễn Lang. Vì
sao vậy nhỉ? Ô hay! Có phải tôi
đã dùng cây đũa thần bắt
chúng biến đi? Thật là khó
hiểu. Thôi thì bật mí để
ông và bạn đọc khỏi sửng
sốt: những đoạn văn ông và
Nguyễn Hòa chộp được và lấy
làm đắc ý vốn chưa hề xuất
hiện trong bài báo in năm 1977 của
tôi. Nhiều năm về sau, khi bài viết
in lại trong một vài tuyển tập, tôi
mới viết bổ sung để thêm vào.
Lý do vì sao sẽ giải thích ở
cuối, nhưng văn bản then chốt trình
bày toàn bộ luận
cứ tìm tòi của tôi về Trần
Tung thì đã nằm
hết ở đây rồi, mở rộng hơn
và hoàn chỉnh hơn chứ không hề
có gì trái ngược so với văn
bản bước một,
cũng chẳng giống
chút gì với lập luận của Nguyễn
Lang.
Tôi nhắc
lại: 2 đoạn văn phỏng dịch Thượng
sĩ hành trạng của
tôi và Nguyễn Lang mà Boristo Nguyen đưa
ra làm bằng về sự “giống nhau
như đúc” là chỉ để quy
kết cho tôi ăn cắp “phát hiện
Trần Quốc Tung” của Nguyễn Lang, dựa
trên suy luận logic: tôi viết sau Nguyễn
Lang 4 năm ->
giống nhau lời văn ở một đoạn
chứng tỏ tôi “đạo” Nguyễn
Lang vì tôi công bố sau ->
cái này đã “đạo” thì
nghiễm nhiên cái kia, cái quan trọng
nhất cũng phải “đạo” của
Nguyễn Lang. Vậy nay tìm cả bài không
thấy bất kỳ đoạn nào giống
nhau thì Boristo Nguyen còn định làm
gì? Logic của ông tự nhiên đổ
nhào, tôi chẳng cần biện bác gì
nữa. Chưa nói hệ luận logic kiểu
đó ngay từ đầu đã hỏng,
đơn giản đích đến của
Nguyễn Lang là giả định Trần
Quốc Tung thì tôi
đâu có đi đến đấy. Tôi
không vượt ra ngoài sử sách mà
sử sách thì không hề có Trần
Quốc Tung. Ông cứ cố gán cái
“không có” cho tôi mới lạ.
Lại cố tình phân biệt giữa “tìm
ra” và “chứng minh”, làm như
người “chứng minh” thì không
thể “tìm ra”, sao mà kỳ cục
quá! Từ đó, bằng mọi cách
ông hạ thấp và đánh lộn
sòng những chứng minh xác thực của
tôi với giả thuyết của Nguyễn
Lang: “Tìm ra Trần Tung (Trần Quốc
Tung) sau hàng trăm năm nhầm lẫn là
một đóng góp có giá trị
lớn và khó hơn nhiều so với việc
sau khi đã biết thân nhân ông là
ai, chứng minh để khẳng định điều
đó. Việc chứng minh có lẽ không
phải là khó khăn lắm đối
với người nghiên cứu lịch sử
và văn học cổ trung đại Việt
Nam”.
Viết “Tìm ra Trần Tung” rồi mở
ngoặc (Trần Quốc Tung) mà không viết
“Tìm ra Trần Quốc Tung” rồi mở
ngoặc (Trần Tung) là có đầy chủ
ý, để bạn đọc yên chí
người gợi ý cái tên Trần
Quốc Tung cũng đã tìm được
tên Trần Tung từ trước, nghĩa là
hai sự kiện khác hẳn nhau xuất hiện
tại hai vùng đất xa cách nhau bỗng…
biến thành một. Quá ranh mãnh, nhưng
lại rất nực cười.
Cho nên
không phải không có lý do ngay đầu
đề bài viết tôi đã nói
“Boristo Nguyen đã bé cái nhầm”.
Ông cố tạo bằng được một
bản án gà mờ mà không có
tinh thần thực sự cầu thị, không
tìm hiểu rõ sự khu biệt trên đủ
mọi khâu dẫn đến kết quả tìm
tòi khác biệt giữa đôi bên,
chỉ lo kiếm cho ra chứng cứ, bất chấp
cả quy định phải điều tra “vụ
án” với đầy đủ hiện
vật, hiện vật lại phải xuất hiện
đúng vào thời điểm sự kiện
xảy ra. Ông chưa đủ nghiệp vụ
để vu oan giá họa cho
tôi. Hồi ông Nguyễn Hòa lên
tiếng chất vấn tôi, trong khi ông Đặng
Văn Sinh đưa ra những luận chứng rất
khoa học thì tôi chỉ bấm bụng
cười thầm, biết ông Hòa đã
rơi vào bẫy, đem cái không hề
có trong văn bản của tôi ra mà
chất vấn, cũng hệt như ông bây
giờ. Nhưng tôi không trả lời ông
Hòa. Người bạn trung hậu của tôi
đã thừa sức bẻ gãy ông ta
thì tôi còn lên tiếng làm gì
nữa. Huống chi trong cuộc đời nghiên
cứu của mình, tôi chỉ trả lời
những ai mà tôi thấy đáng phải
trả lời. Đó là nguyên tắc
không thay đổi, trừ một vài ngoại
lệ.
II
Nói
thêm cho Boristo Nguyen rõ: trong bài
viết đăng trên Tạp
chí Văn học năm
1977 tôi đã đọc Nguyễn Lang. Tôi
đọc cả bản dịch Thượng
sĩ ngữ lục của
Trúc Thiên do Lá Bối, Sài Gòn,
in năm 1969. Ông hãy đi lục tìm
hồ sơ ở Vụ Tổ chức UBKHXH thì
may ra tìm được: đầu tháng
Tám năm 1977 người bố của tôi
được điều động từ Sài
Gòn ra công tác ở Ban Hán Nôm.
Ông ra, mang cả sách ra cho tôi. Tuy mới
đọc vội, tôi đã chú thích
Nguyễn Lang ngay trên trang đầu bài
viết, cốt thông báo với toàn
giới nghiên cứu Cổ cận đại
tin tức nóng hổi này, nhưng cũng
vì vội nên chú dẫn có sai năm
xuất bản cuốn VNPGSL I (nhầm 1973 ra 1974),
còn Trúc Thiên thì trích vài
bài, những chỗ trích đều có
chú. Tôi viết: “Cũng
xin nói thêm là trong quá trình
biên soạn bộ sách
Thơ văn Lý-Trần chúng
tôi đã phát hiện ra vấn đề
này tương đối sớm, và đã
có dịp trình bày sơ lược
trong phần Khảo luận
đầu sách. Gần
đây, có đồng chí mách cho
biết: trong cuốn Việt
Nam Phật giáo sử luận (Lá
Bối; Sài Gòn; 1974)
Nguyễn Lang cũng có
ý kiến giống chúng tôi về tác
giả đích thực của Thượng
sĩ ngữ lục. Tuy
nhiên, tìm đọc kỹ những điều
ông Nguyễn Lang đã viết, chúng
tôi thấy vẫn cần có một bài
báo nói kỹ hơn về những tìm
tòi của mình
để bạn đọc tham khảo. Vì
không những tài liệu và lập
luận của chúng tôi có khác, mà
cách đánh giá của chúng tôi
đối với thơ văn Trần Tung cũng
không giống Nguyễn Lang. Vả chăng cho
đến nay, mặc dầu đã có ý
kiến sơ bộ của Nguyễn Lang, dư luận
chung vẫn coi Trần Quốc Tảng là tác
giả Thượng sĩ
ngữ lục” (Tạp
chí Văn học
4-1977; tr. 116).
Boristo Nguyên
ngẫm nghĩ thử, tôi có cố ý
giấu giếm Nguyễn Lang để mình trở
thành “độc đắc” đâu.
Không hề. Trái lại, tôi cần công
bố Nguyễn Lang để thấy tìm tòi
của mình không đơn độc. Tôi
cũng cần công bố tiếp kiến giải
của mình vì đọc vào Nguyễn
Lang tôi nhận ra ngay sự khác nhau trong mục
tiêu của hai người. Nguyễn
Lang, do tư cách một
người viết sử và một nhà
tư tưởng Phật giáo thâm hậu,
không hề coi việc tìm kiếm chi ly ai
là tác giả Thượng
sĩ ngữ lục là
chuyện chính yếu. Nhiều chỗ ông
chỉ mặc nhận bằng sự mẫn cảm,
hoặc bằng tín niệm (như cái tên
Trần Quốc Tung). Việc chính của ông
là thông qua Thượng
sĩ hành trạng và
Thượng sĩ ngữ lục để
đưa con người đang “xa lạ”
này vào trang sử Phật, làm hiện
lên một cốt cách trác việt cũng
như một tư tưởng độc sáng
mà chỉ với một người trong giới
có tầm mới thấu hiểu và đúc
kết thành những mệnh đề có
ý nghĩa khái quát chắc và sâu.
Đó là chỗ đáng phục của
ông. Còn tôi,
một người làm văn bản học
thơ văn Lý-Trần, tôi buộc phải
giải đáp tận gốc
ai là tác giả Thượng
sĩ ngữ lục bằng
luận cứ chắc chắn (cũng giống
nhiều tác giả tác phẩm Lý-Trần
khác mà tôi đã tiến hành
tìm tòi và có những phát
hiện trong toàn bộ phần Khảo
luận, không riêng
một tác giả này). Bởi thế, câu
nào tôi trích dịch ở sách nào
đều rất chọn lọc và cố dịch
từ văn bản cổ nhất, lại phải
là câu có chứa đựng “mã
khóa” giúp mình gỡ ra từng mắt
của một cái lưới khó gỡ.
Tôi chỉ nêu một dẫn chứng có
liên quan đến Nguyễn Lang: một đoạn
duy nhất chọn dịch ở Thượng
sĩ hành trạng, có
tham khảo cả Trúc Thiên và Nguyễn
Lang, nhưng tôi buộc phải dịch bám
sát cấu trúc từng cụm từ trong
nguyên văn chữ Hán nên có khác
hai ông: 上士欽明慈善太王之弟一子。元聖天感皇太后之長兄。初太王薨。太宗皇帝義之封興
寧王也
(Thượng sĩ,
Khâm minh từ Thiện Thái vương chi
đệ nhất tử,
Nguyên thánh Thiên cảm Hoàng thái
hậu chi trưởng huynh. Sơ, Thái vương
hoăng, Thái Tông Hoàng đế nghĩa
chi phong Hưng Ninh vương dã). Tôi dịch:
“Tuệ Trung Thượng
sĩ là con thứ
nhất [Trúc
Thiên và Nguyễn Lang đều dịch con
đầu] của
Khâm minh Từ thiện Đại
vương [Trúc
Thiên dịch Thái
vương,
tôi
không tán thành
vì đời Trần không phong anh em tôn
thất là Thái vương, chỉ đến
đời Mạc mới phong; sách Thượng
sĩ ngữ lục in 1683
chắc còn vương dấu vết của
thời Mạc], và là
anh cả của Nguyên thánh Thiên cảm
Hoàng thái hậu [Nguyễn
Lang dịch Hoàng thái
hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm].
Xưa,
lúc [Nguyễn Lang dịch
Khi và
không có chữ lúc]
Đại vương mất, Thái Tông
Hoàng đế [Nguyễn
Lang dịch Hoàng đế
Trần Thái Tông]
vì cảm nghĩa mà
phong cho ông là [Nguyễn
Lang thêm Thượng sĩ
tước]
Hưng Ninh vương”
(Tạp chí Văn học,
4-1977; tr.123 / VNPGSL I, tr. 274).
Bỏ qua những sai biệt khác lúc cần
tôi sẽ nói, chỉ
những người đang phải giải quyết
một vấn đề văn bản học hắc
búa mới biết mấy chữ “đệ
nhất tử” (弟一子)
tôi tìm ra ở đây là chìa
khóa hết sức hệ trọng để
giải đáp một mâu thuẫn về
vị thứ của Tuệ Trung Thượng sĩ
trong gia đình Trần Liễu mà hồi
viết Khảo luận
tôi sơ ý bỏ qua nên vẫn chưa
tìm ra lời giải. Hóa ra người
chép “đệ nhất tử” rất
có ý thức phân biệt với “trưởng
tử” (長子
/ con đầu).
Nếu Tuệ Trung Thượng sĩ là “trưởng
tử” thì mâu thuẫn với Đại
Việt sử ký toàn thư
vì Đại Việt
sử ký toàn thư
đã ghi rõ Võ Thành vương
Doãn là con đẻ của Trần Liễu
và Thuận Thiên [Hoàng hậu], lại
hơn Tuệ Trung nhiều chục tuổi. Thế
là bài toán thành ra vô nghiệm,
đâm rắc rối to. Nhưng chép Tuệ
Trung là “con thứ nhất” thì vấn
đề trở nên thanh thỏa, bởi sau khi
Võ Thành vương Doãn chống lại
Trần Thái Tông năm 1237 do vua cướp
mẹ ruột mình làm vợ (lúc Tuệ
Trung mới 7 tuổi), rồi phải chạy sang
phương Bắc sau ngày Trần Liễu và
Thuận Thiên đều mất, kế đó
bị bắt và bị giết, thì nghiễm
nhiên Tuệ Trung trở thành “con thứ
nhất” không sai. Chỗ khéo léo
đó trong ghi chép của Trần Nhân
Tông đến bấy giờ tôi mới
nhận ra.
Cũng phải
nói, rất may cho tôi
nữa trong vấn đề Trần Tung để
tôi tiến dược đến đúng
đích mà không phải phỏng đoán
là Trần Quốc Tung như Nguyễn Lang, vì
tôi đã dựa được vào
một tài liệu quý của hai tác
giả Hà Văn Tấn và Phạm Thị
Tâm là cuốn Cuộc
kháng chiến chống xâm lược
Nguyện-Mông thế kỷ XIII
do NXB Khoa học xã hội
in năm 1968, trong đó có dẫn hai nguồn
sử liệu là An Nam
chí lược và
Nguyên sử
nói rõ cả họ tên và tước
hiệu Hưng Ninh vương Trần Tung, là
“tòng huynh” tức anh con bác ruột
vua Trần Thánh Tông. Đối chiếu
với ghi chép của Thượng
sĩ hành trạng thì
câu hỏi khó bậc nhất: tên thực
Hưng Ninh vương là gì và quan hệ
với Trần Quốc Tuấn như thế nào
đã gần như nằm sẵn trong sách
của nhóm Hà Văn Tấn. Mặc dù
cả trong Khảo luận
và trong bài viết của mình, đề
cập những dẫn liệu này tôi đều
có ghi rõ xuất xứ, nhưng sau này
in lại vào tuyển tập, tôi đã
viết thêm một dòng tri ân: “Phát
hiện của chúng tôi một phần được
gợi ý từ công trình Cuộc
kháng chiến chống xâm lược
Nguyên-Mông thế kỷ XIII
của Hà Văn Tấn - Phạm Thị Tâm,
NXB Khoa học xã hội, H., 1968. Ở trang 238
và trang 267 hai tác giả đã dựa
vào An Nam chí lược,
Q. IV và Nguyên sử,
“Truyện A-lại-bát-xích”, tờ
2a, đề cập đến Hưng Ninh vương
Trần Tung là anh con bác của Trần
Thánh Tông. Đây là một manh mối
khơi nguồn cho những phán đoán hệ
thống của chúng tôi”. Trừ phi là
bịt mắt lại, ông Boristo Nguyen không
thể nào không nhận ra tôi có
những lợi thế mà Nguyễn Lang không
thể có để tìm ra Trần Tung, và
là lợi thế có ngay từ buổi đầu
công việc khảo sát của mình,
thế thì tôi còn phải cóp của
Nguyễn Lang để làm gì?
Cái tính
muốn đổ riệt cho người bằng
bất cứ giá nào khiến Boristo còn
có những phát biểu kỳ quặc. Ông
dẫn một câu rất thành thực của
tôi “Tuy vậy, cho
đến nay, dư luận bạn đọc vẫn
phân vân nửa tin nửa ngờ. Có
người còn cho là quá táo bạo
và lạ lẫm. Chúng tôi rất hiểu
tình thế khó khăn là phải làm
sao chiến thắng được một tâm
lý quen thuộc vốn đã gắn quá
chặt bộ Thượng
sĩ ngữ lục
cũng như những sợi dây tinh thần
giữa Thiền phái Trúc Lâm với
cái tên Trần Quốc Tảng”,
để
hạ luôn một lời ác ý: “Việc
dư luận dễ có những ngờ vực
cũng là điều dễ hiểu. Một
mặt, chưa biết thực hư thế nào
nhưng Nguyễn Huệ Chi là người dính
líu đến nhiều vụ lình xình
và bị không ít người chất
vấn về đạo đức khoa học”.
Khi viết bài lên tạp chí tôi
không hề muốn khoe danh mà chỉ muốn
giúp học giới thanh toán một ngộ
nhận từ lâu để lại, chắc
chắn chưa rứt đi được và
có thể còn kéo dài, đó
là lời nói thật tình xét từ
tâm lý tiếp nhận, cái động
hình (stéréotype
dynamique)
đã in vào tâm trí thì khó
mà gỡ ra. Kết quả của việc tôi
làm trông thấy nhãn tiền, không
cần chờ đợi. Một nhà văn
chuyên viết về thời đại Lý-Trần
là Hà Ân, sau khi đọc được
bài tôi đã tìm đến Viện
Văn học gặp tôi và Ban văn học
Cổ cận đại than thở, rằng vì
bài tôi công bố quá chậm mà
anh phải vứt bỏ mất cả một tập
II cuốn tiểu thuyết Người
Thăng Long lấy Trần
Quốc Tảng làm nhân vật chính.
Anh còn gặp tôi nhiều lần, một
lần nhân làm cuốn phim tài liệu
về anh, anh cho biết đã phải cặm
cụi viết lại Tập II trong vòng 10 năm
mới tạm ưng ý, nói xong anh rơm
rớm nước mắt. Một nhà phê
bình – cũng là người đạo
diễn bộ phim tài liệu về Hà Ân
– sau này có viết: “phải
nhìn thấy những giọt lệ lăn dài
trên gò má nhăn nheo của nhà
văn già khi ông gặp lại nhà
nghiên cứu văn học Nguyễn Huệ Chi,
người đã công bố bài khảo
cứu "định mệnh" về văn
bản Phóng cuồng ca
trên Tạp chí Văn
học năm nào
– tôi đã cố tình sắp đặt
ra cái "xen" gặp gỡ này, nhưng
không yêu cầu ông phải khóc, tất
nhiên – tôi mới cảm thấu được
sự tâm huyết mà ông đã dồn
trút vào tác phẩm của mình”
(Hoài Nam – Nhà
văn Hà Ân: Người kể chuyện
xưa). Đủ thấy việc
viết bài Trần Tung của tôi không
phải vì tôi mà trước hết
là vì đòi hỏi khách quan của
văn học sử. Cũng như năm 1992 tôi
đã gắng tổ chức một Hội
đồng thẩm định để Nhà
nước cho phép in và phổ biến
Việt Nam Phật giáo
sử luận 3 tập của
Nguyễn Lang trên khắp nước, đánh
bạt đi cái định kiến Thích
Nhất Hạnh là “tên biệt kích
văn hóa thực dân mới” đến
những năm này rồi vẫn cứ còn
lởn vởn trong nhiều đầu óc, không
phải là vì cá nhân Thiền sư
Thích Nhất Hạnh, ông Boristo Nguyen nhớ
chưa?
III
Chắc Boristo Nguyen sẽ không hết ấm ức
mà hỏi thêm: Vậy thì tôi đưa
những phần trích dịch Thượng
sĩ hành trạng bổ
sung vào bài viết Trần Tung về sau
khi bài này in lại trong sách là để
làm gì, khiến cho ông… hụt
hẫng? Xin thưa: tôi đưa vào làm
đoạn mở đầu cho bài viết của
tôi, để chuyển hình thức từ
một bài “khảo luận” sang một
“chân dung văn học”, vì những
tuyển tập in lại phần lớn mang chủ
đề “gương mặt nhà văn”,
chẳng hạn một trong số đó là
Gương mặt văn
học Thăng Long. Đó
chỉ là 3 trang rưỡi mở đầu,
có tính chất nhập đề, phác
họa vài ba nét diện mạo của Tuệ
Trung Thượng sĩ, một con người kỳ
dị, cốt cách ngang tàng, xuất hiện
giữa làng thơ Thiền Lý-Trần mà
nhìn trên hình thức lại có vẻ
như chống Phật, cũng chưa ai biết
ông là ai – đó chỉ là
cách gây hứng thú cho bạn đọc
trước khi bước vào các phần
chính ở sau chứ không có tác
dụng gì khác. Đó cũng là
đoạn được kết thúc bằng
câu chú thích nói về những gì
tôi đã từng lầm lẫn về Trần
Quốc Tảng, tiếp đó đã làm
được trong Khảo
luận TVLT I cũng như
những gì Nguyễn Lang đã đạt
được trong VNPGSL I của ông ở miền
Nam. Mấy câu này từng in trên Tạp
chí Văn học 1977,
nay sửa lại đúng hơn và đặt
ở chính văn cho trang trọng hơn: “Trước
đây khá nhiều năm, bản thân
chúng tôi cũng đinh ninh Trần Quốc
Tảng là tác giả Thượng
sĩ ngữ lục không
có gì phải bàn cãi. Nhưng chỉ
một thời gian sau đó khảo sát kỹ
mới biết mình đã lầm. Những
tìm tòi tư liệu trong hai năm 1973-1974
mà sau này có dịp công bố vắn
tắt trong Thơ văn
Lý-Trần Tập I
(1977), đã đưa chúng tôi đến
một giả thuyết mới: Người thầy
của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử
không phải là Trần Quốc Tảng mà
là Trần Tung 陳嵩.
Sau ngày đất nước thống nhất,
chúng tôi được biết, một nhà
nghiên cứu Thiền học nổi tiếng
hiện ở Pháp là Nguyễn Lang, cũng
từng có những phát hiện thấu
đáo trong bộ Việt
Nam Phật giáo sử luận
(Tập I, 1973)” (Văn
học Cổ cận đại Việt Nam từ
góc nhìn…; tr.
378). Thiết tưởng, như vậy cũng đủ
rõ 3 trang “khúc dạo đầu”
mang chút hơi hướng trữ tình
ngoại đề này chẳng liên quan gì
đến những luận điểm về Trần
Tung của tôi hoặc sự dự phóng
Trần Quốc Tung của Nguyễn Lang. Về thời
gian, nó xuất hiện cách các phần
chính của bài viết rất nhiều
năm. Tất nhiên, khi đã giới thiệu
công trình của Nguyễn Lang ngay chỗ
đó, thì một vài đoạn phỏng
dịch có tham bác Nguyễn Lang về từ
này chữ kia là điều không có
gì đáng lên án, miễn đó
chẳng phải là một luận cứ nào
quan trọng của Nguyễn Lang. Ngay chính
Nguyễn Lang khi phỏng dịch
Thượng sĩ hành
trạng trong VNPGSL I cũng
theo khá sát lời dịch của Trúc
Thiên là bản dịch ra đời 4 năm
trước ông, kể cả câu văn mà
ông đưa ra để nói tôi và
Nguyễn Lang giống nhau.
Đầu
đuôi là vậy. Tôi xin nhắc để
Boristo Nguyen biết là trong giới dịch Hán
văn trước nay, trên cùng một bản
dịch, thế hệ đi sau nhiều khi mượn
của thế hệ đi trước một đôi
chữ đôi câu, chẳng thành vấn
đề gì cả. Như trong phần dịch
Thượng sĩ ngữ
lục của Thiền sư
Thích Thanh Từ năm 1996 mà bài ông
có nhắc đến, ông sao chẳng để
ý rằng nhiều bài thơ Thiền sư
Thích Thanh Từ đã mượn hẳn
lời dịch của chúng tôi hoặc của
dịch giả Trúc Thiên. Vào đầu,
Thiền sư đã dẫn tên chúng
tôi cũng như tên Trúc Thiên, xem
là những người đã có
“những bài dịch hay công bố
trước mình”. Ông mượn nó
rồi sửa thêm ít nhiều, tôi nghĩ
cũng chẳng sao, bởi trong kinh nghiệm dịch,
chúng tôi rất biết, có những
bản dịch của người trước tạm
gọi là đã “thành”, muốn
thay thế dăm bảy chữ thì được
nhưng thay hết là bất khả. Chẳng
hạn dẫn vài bài sau đây để
Boristo Nguyen thấy tận mắt:
Bài Phóng cuồng ngâm bản dịch của chúng tôi (1989):
Bài Phóng cuồng ngâm bản dịch của chúng tôi (1989):
Trời đất liếc
trông chừ sao mênh mang
Chống gậy nhởn nhơ chừ phương ngoài phương
Hoặc cao cao chừ mây đỉnh núi
Hoặc sâu sâu chừ nước trùng dương
Đói thì ăn chừ cơm tùy ý
Mệt thì ngủ chừ làng không làng
Hứng lên chừ thổi sáo không lỗ
Lắng xuống chừ đốt giải thoát hương
Mỏi nghỉ tạm chừ đất hoan hỉ
Khát uống no chừ nước thênh thang
Láng giềng Qui Sơn chừ chăn con trâu nước
Cùng thuyền Tạ Tam chừ hát khúc Thương Lang
Thăm Tào Khê chừ vái chào Lư Thị
Viếng Thạch Đầu chừ sánh lão Bàng
Vui cái ta vui chừ Bố Đại vui
Cuồng cái ta cuồng chừ Phổ Hóa cuồng…
Chống gậy nhởn nhơ chừ phương ngoài phương
Hoặc cao cao chừ mây đỉnh núi
Hoặc sâu sâu chừ nước trùng dương
Đói thì ăn chừ cơm tùy ý
Mệt thì ngủ chừ làng không làng
Hứng lên chừ thổi sáo không lỗ
Lắng xuống chừ đốt giải thoát hương
Mỏi nghỉ tạm chừ đất hoan hỉ
Khát uống no chừ nước thênh thang
Láng giềng Qui Sơn chừ chăn con trâu nước
Cùng thuyền Tạ Tam chừ hát khúc Thương Lang
Thăm Tào Khê chừ vái chào Lư Thị
Viếng Thạch Đầu chừ sánh lão Bàng
Vui cái ta vui chừ Bố Đại vui
Cuồng cái ta cuồng chừ Phổ Hóa cuồng…
(TVLT
II, tr.280)
Bản dịch của Thích
Thanh Từ (1996):
Trời đất liếc
trông chừ sao thênh thang
Chống gậy rong chơi chừ phương ngoại phương
Hoặc cao cao chừ mây đỉnh núi
Hoặc sâu sâu chừ nước trùng dương
Đói thì ăn chừ cơm tùy ý
Mệt thì ngủ chừ nào có quê hương
Hứng lên chừ thổi sáo không lỗ
Chỗ lặng chừ đốt giải thoát hương
Nhọc chút chừ nghỉ đất hoan hỉ
Khát uống no chừ thang tiêu dao
Qui Sơn láng giềng chừ chăn con trâu nước
Tạ Tam đồng thuyền chừ hát khúc Thương Lang
Thăm Tào Khê chừ chào Lư Thị
Viếng Thạch Đầu chừ sánh lão Bàng
Vui ta vui chừ Bố Đại vui
Cuồng ta cuồng chừ Phổ Hóa cuồng…
Chống gậy rong chơi chừ phương ngoại phương
Hoặc cao cao chừ mây đỉnh núi
Hoặc sâu sâu chừ nước trùng dương
Đói thì ăn chừ cơm tùy ý
Mệt thì ngủ chừ nào có quê hương
Hứng lên chừ thổi sáo không lỗ
Chỗ lặng chừ đốt giải thoát hương
Nhọc chút chừ nghỉ đất hoan hỉ
Khát uống no chừ thang tiêu dao
Qui Sơn láng giềng chừ chăn con trâu nước
Tạ Tam đồng thuyền chừ hát khúc Thương Lang
Thăm Tào Khê chừ chào Lư Thị
Viếng Thạch Đầu chừ sánh lão Bàng
Vui ta vui chừ Bố Đại vui
Cuồng ta cuồng chừ Phổ Hóa cuồng…
(xin xem
bài
này và cả các bài sau tại:
https://thuvienhoasen.org/images/file/OlR9p51G0QgQAFN1/tuetrungthuongsi.pdf)
Bài Trữ tình tự
răn bản dịch của chúng tôi
(1989):
Tháng ngày nước
chảy
Giàu sang mây trôi
Gió lửa tan rồi
Trẻ già thành bụi
Hồn phách lìa, sắc thân như mộng
Cuộc mưu sinh, trò rối kéo co
Thường đùa cợt, đưa tay bắt bóng
Hạc cửu cao đầu đỏ có thừa
Cá cửa Vũ đuôi hồng chẳng mấy
Chẳng quay đầu, tia hồi quang soi lạ
Tâm khế hợp, nhận rõ tính thông minh
Cầu giải thoát, chính giác viên thành
Nơi trần tục, tâm thanh diệu dụng…
Giàu sang mây trôi
Gió lửa tan rồi
Trẻ già thành bụi
Hồn phách lìa, sắc thân như mộng
Cuộc mưu sinh, trò rối kéo co
Thường đùa cợt, đưa tay bắt bóng
Hạc cửu cao đầu đỏ có thừa
Cá cửa Vũ đuôi hồng chẳng mấy
Chẳng quay đầu, tia hồi quang soi lạ
Tâm khế hợp, nhận rõ tính thông minh
Cầu giải thoát, chính giác viên thành
Nơi trần tục, tâm thanh diệu dụng…
(TVLT
II, tr.299)
Bản dịch của Thích
Thanh Từ (1996):
Ngày tháng nước
chảy
Giàu sang mây trôi
Gió lửa tan rồi
Trẻ già thành bụi
Hồn phách lìa, sắc thân như mộng
Cuộc mưu sinh, con rối kéo lôi
Hằng ngày đùa, đưa tay bắt bóng
Hạc cửu cao đầu đỏ có thừa
Cá Vũ môn đuôi hồng chẳng đổi
Chẳng quay đầu, hồi quang phản chiếu
Hợp tâm yếu, thức tánh thông minh
Cầu giải thoát, chánh giác viên thành
Nơi trần tục, tâm thanh diệu dụng…
Giàu sang mây trôi
Gió lửa tan rồi
Trẻ già thành bụi
Hồn phách lìa, sắc thân như mộng
Cuộc mưu sinh, con rối kéo lôi
Hằng ngày đùa, đưa tay bắt bóng
Hạc cửu cao đầu đỏ có thừa
Cá Vũ môn đuôi hồng chẳng đổi
Chẳng quay đầu, hồi quang phản chiếu
Hợp tâm yếu, thức tánh thông minh
Cầu giải thoát, chánh giác viên thành
Nơi trần tục, tâm thanh diệu dụng…
Bài Thói
đời hư dối bản dịch của chúng tôi (1989):
Vân cẩu đổi thay
lắm vẻ mà
Mơ màng phó trọn giấc Nam Kha
Sương vừa chớm hạ, sen đang nụ
Gió kịp vời xuân, mai đã hoa
Trăng lặn, bóng trăng khôn trở lại
Sông trôi, sóng nước mãi trôi qua
Hãy xem đàn én lầu Vương Tạ
Nay xuống làm thân với mọi nhà
Mơ màng phó trọn giấc Nam Kha
Sương vừa chớm hạ, sen đang nụ
Gió kịp vời xuân, mai đã hoa
Trăng lặn, bóng trăng khôn trở lại
Sông trôi, sóng nước mãi trôi qua
Hãy xem đàn én lầu Vương Tạ
Nay xuống làm thân với mọi nhà
(TVLT II, tr.250)
Bản dịch
của Thích Thanh Từ (1996):
Vân cẩu đổi thay
lắm vẻ mà
Mơ màng gởi trọn giấc Nam Kha
Sương vừa rửa hạ, sen đang nụ
Gió mới mời xuân, mai đã hoa
Trăng khuất núi tây, không còn bóng
Nước trôi đông hải, sóng đã qua
Anh xem đàn én lầu Vương Tạ
Nay đến làm thân với mọi nhà.
Mơ màng gởi trọn giấc Nam Kha
Sương vừa rửa hạ, sen đang nụ
Gió mới mời xuân, mai đã hoa
Trăng khuất núi tây, không còn bóng
Nước trôi đông hải, sóng đã qua
Anh xem đàn én lầu Vương Tạ
Nay đến làm thân với mọi nhà.
v.v.
Tôi nghĩ về Boristo
Nguyen thế này: Cứ chăm chăm đi
đánh người thì không còn
giữ được cái tâm sáng để
biết đâu mới là đen hay trắng.
Đó âu cũng là nghiệp, ông
cứ nghiệm rồi sẽ thấy.
Ngày
11-12-2018
N.H.C.
_____________
KHỔ THÂN ÔNG NGUYỄN HUỆ CHI
Thật ngạc nhiên là một sản phẩm ra đời cách đây hơn nửa thế kỷ, việc
biên soạn Thơ văn Lý-Trần và Nhật ký trong tù của Viện Văn học, lại bị
một số người xới lại gây ra thị phi cho học giả Nguyễn Huệ Chi.
GS. Nguyễn Huệ Chi không là thầy của tôi, tôi cũng chẳng quen thân hay nằm trong hội nhóm gì của ông. Nếu xét về quan hệ thì trên FB, tôi đã từng tranh luận nảy lửa với ông về ngôn ngữ, về một quan điểm chính trị nào đó. Những lúc đó, tôi có ghét ông ở sự lịch lãm đến ba phải, nhưng rồi tôi vẫn kính phục ông, một trí thức có trình độ và tâm huyết đối với quốc gia, dân tộc.
Với tôi, việc nào ra việc đó. Người ta có xem Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh là bọn trí thức bồi bút cho Tây, các văn gia của Tự lực văn đoàn là bọn Quốc dân đảng phản động, những Phan Khôi, Trần Dần, Lê Đạt và nhóm Nhân văn giai phẩm là quân chống đảng, hay những Chu Hảo, Nguyên Ngọc là thành phần suy thoái, tự diễn biến thì là việc của đấu đá chính trị. Năng lực và nhân cách cùng với những gì người ta đóng góp cho dân trí đều phải được ghi nhận trân trọng.
Trước khi đọc loạt bài trả lời của GS. Nguyễn Huệ Chi, thú thật tôi cũng hoang mang khi nghe chính bạn bè tôi xì xào bàn tán về sự gian lận trong quá trình làm bộ sách Thơ văn Lý - Trần. Trong khoảng thời gian dài ấy, không thấy ông Nguyễn Huệ Chi lên tiếng, tôi càng hoang mang. Tất nhiên, tôi vẫn nghĩ, việc lên tiếng thanh minh cho một việc làm cách đây hơn nửa thế kỷ là bất khả: chứng cứ, tài liệu có thể không còn, nhân chứng thì già nua hoặc đã chết. Vả lại, có luật nào bắt người ta phải tự chứng minh mình vô tội hay trong sạch nếu những người tố cáo ông Huệ Chi cố tình ngụy tạo để vu khống, bôi nhọ?
Từ đó, tôi vẫn luôn đặt câu hỏi, vì sao trong thời điểm đó và suốt thời gian quyển Thơ văn Lý - Trần xuất bản và lưu hành, những ngài khoa bảng danh giá kia lại không có một lời nào tố giác hay phản biện công khai mà lại chờ khi sắp xuống lỗ mới cung cấp thông tin, tài liệu cho đám học trò hay nhà báo đánh ông Nguyễn Huệ Chi? Ông Nguyễn Huệ Chi từng là quan to với quyền sinh quyền sát lớn đến mức làm cho mấy ngài khoa bảng kia khiếp sợ vậy sao?
Tôi chịu khó đọc hết loạt bài trả lời của GS. Nguyễn Huệ Chi mà lòng đau nhói. Dài nhưng khúc chiết, rõ ràng, không né tránh bất cứ điều gì. Thật thuyết phục. Nó giải tỏa những hoang mang, nghi vấn của tôi. Nhưng đau nhói vì tôi hình dung ông phải bỏ ra rất nhiều thời gian để truy lại ngọn nguồn sự việc và tư liệu đã chìm lấp sau hơn nửa thế kỷ. Thế mới thấy danh dự, tự trọng của một nhân sĩ trí thức cao hơn núi.
Khổ thân ông. Lẽ ra ông phải dành thời gian và tâm huyết cho những việc lớn hơn. Tôi nghĩ đây là bài trả lời cuối cùng, ông không cần phải trao đổi thêm gì nữa.
Bây giờ thì tôi đặt câu hỏi ngược lại cho những người đánh ông Nguyễn Huệ Chi, mà lại đánh trên trang Văn nghệ TP Hồ Chí Minh với danh nghĩa văn nghệ nhưng khét tiếng nhân danh chính trị. Rằng sự cố tình tấn công uy tín Nguyễn Huệ Chi chỉ vì đám giặc già khoa bảng trước khi xuống lỗ không ai nhớ mặt đặt tên hay vì bảo vệ đám quan tham đang ngứa ngáy khó chịu bởi trang Bauxite Việt Nam phản biện xã hội do ông Nguyễn Huệ Chi chủ trương?
.
Rất nể GS. Nguyễn Huệ Chi kiên nhẫn, điềm tĩnh nhưng dứt khoát trả lời “đám giặc già khoa bảng trước khi xuống lỗ” . Không phải người có kiến văn và nhân cách cao không thể làm thế được. Nhiều người đã nhận ra được đám giặc già ẩn danh đó là ai cũng vài đệ tử theo đóm ăn tàn. Nếu đám giặc già đó dám lộ danh thì chắc chắn sẽ có nhiều phản ứng dữ dội từ độc giả.
Trả lờiXóaChúng tôi đồng tình và đồng cảm với bác Chu Mộng Long. Phần cuối, bác hỏi mà cũng là trả lời rồi. Buồn cho Nước và Dân ta biết mấy. Kính mong cụ Nguyễn Huệ Chi không chấp lưu manh nữa. Kính chúc cụ bình tâm an hưởng tuổi già, sau những cống hiến đã đi vào lịch sử...
Trả lờiXóa