MỞ
ĐẦU
Đối tượng của
bài viết này là chương trình và sách giáo khoa miền Nam
1954-1975, tuy nhiên nếu không nhắc sơ lại thời
kỳ quá độ trong đó nền giáo dục Việt
Nam chuyển từ cựu học sang tân học, chúng ta
sẽ khó theo dõi để nhận ra một cách rõ ràng
những sự thay đổi cùng tên gọi các cấp,
lớp, ban học, cũng như nội dung cụ thể
của các chương trình học mới sau này.
Có thể nói, không kể
thời kỳ Nho học mà sự cáo chung được
đánh dấu bằng khoa thi Hội cuối cùng ở Trung
Kỳ vào tháng 4 năm Kỷ Mùi (1919), nền giáo dục
hiện đại Việt Nam chỉ bắt đầu
xuất hiện từ đầu thế kỷ 20 khi
người Pháp đã củng cố xong nền cai trị
của họ tại Việt Nam.
Lý do
chấm dứt con đường học hành thi cử
truyền thống đã được vua Khải
Định đưa ra trong lời phê tờ trình của
Bộ Học, trước khoa thi cuối cùng nêu trên:
“Kỳ thi năm nay là khoa thi cuối cùng, đường
khoa cử từ đây dứt hẳn. Trẫm nghĩ
rằng quy chế cựu học đã không còn đáp
ứng được điều mong muốn, trong khi con
đường tương lai của tân học đang
thênh thang mở rộng trước mặt” (theo Khải Định chính yếu
sơ tập).
Trước đó, kể
từ Đạo dụ ngày 31/5/1906, chính phủ Bảo
hộ Pháp được sự thỏa thuận của
Nam triều ấn định nền học chính mới
thay dần cho nền giáo dục Nho học cũ, áp
dụng ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, theo đó chia làm
ba bậc học:
(1) Ấu
học gồm lớp Đồng ấu (lớp
Năm), lớp Dự bị (lớp Tư), lớp Sơ
đẳng (lớp Ba). Chương trình học gồm
chữ Pháp và chữ Quốc ngữ; cuối bậc Ấu
học (tức lớp Ba), học sinh phải qua một
kỳ thi để lấy bằng Sơ học Yếu
lược (Primaire Élémentaire).
(2) Tiểu
học gồm lớp Nhì năm thứ nhứt (Cours
Moyen 1ère année), lớp Nhì năm thứ hai (Cours Moyen
2ème année), và lớp Nhứt (Cours Supérieur).
Chương trình học cũng gồm chữ Pháp và
chữ Quốc ngữ; cuối cấp thi lấy bằng
Tiểu học Yếu lược, cũng gọi Sơ
đẳng Tiểu học hay Sơ học Pháp Việt
(Certificat d’Etude Primaire Franco-Indigène, tương
đương bằng Tiểu học sau này).
(3) Trung
học, gồm hai cấp/ ban Cao đẳng Tiểu
học và Tú tài: (a) Cao
đẳng Tiểu học học đủ các môn Pháp
văn, Toán, Lý, Hóa, Vạn vật (Sinh vật), Sử,
Địa… tương tự chương trình Pháp, gồm
4 năm: Nhất niên (1 ère année), Nhị niên (2 ème année), Tam
niên (3 ème année), Tứ niên (4 ème année). Tất cả
đều dạy bằng tiếng Pháp, trừ 2 môn
Việt văn và Hán văn; (b) Tú
tài (Enseignement secondaire, tương đương Trung
học Đệ nhị cấp hay cấp III sau này),
thời gian học 3 năm (tương tự 3 lớp
bậc sau cùng của chương trình Trung học Pháp), chia
làm 3 ban Triết học/ Văn chương, Toán và Khoa
học, với học trình gồm các lớp Đệ
nhất niên (1 ère année secondaire, tương đương
lớp Đệ tam hay lớp 10 sau này), Đệ nhị
niên (2 ème année secondaire, tương đương lớp
Đệ nhị hay lớp 11 sau này) và Đệ tam niên (3
ème année secondaire, tương đương lớp
Đệ nhất hay lớp 12 sau này). Cũng dạy toàn
bằng tiếng Pháp, trừ môn Việt văn và Triết
học Trung Hoa. Kể từ Đệ nhất niên đã
bắt đầu phân ban gồm ban Khoa học (Sciences), ban
Toán (Mathématiques), ban Triết (Philosophie). Học sinh học
xong Đệ nhị niên (tương đương
lớp Đệ nhị hay lớp 11 sau này) thi lấy
bằng Tú tài I (hay Tú tài phần I), nếu đậu
mới được học năm cuối cùng
(Đệ tam niên, tương đương lớp Đệ
nhất hay lớp 12 sau này) để thi lấy bằng Tú
tài II (hay Tú tài toàn phần).
Riêng ở Nam Kỳ là xứ
thuộc địa nên nền học chính đều theo
quy chế thuộc địa, chỉ có chương trình
Pháp, nhưng ở vài trường (như Chasseloup Laubat,
Pétrus Ký… ở Sài Gòn) cũng có dạy thêm một số
giờ tiếng Việt.
Ở Bắc và Trung, hai
chương trình trung học Pháp và Pháp Việt nêu trên
vẫn được áp dụng cho đến năm 1945
thì được thay bằng chương trình toàn Việt
(lấy tiếng Việt làm chuyển ngữ) ban hành trong
thời chính phủ Trần Trọng Kim bằng Dụ
số 67 ngày 3/6/1945 do Hoàng đế Bảo Đại ký và
được thực thi ngay với khoa thi Tú tài niên khóa
1944-1945. Đây là chương trình trung học Việt Nam
đầu tiên trong lịch sử giáo dục Việt Nam
hiện đại, tham khảo từ chương trình
Pháp, quen gọi Chương trình Trung học Hoàng Xuân Hãn, vì
do một nhóm giáo sư tâm huyết ở Hà Nội và
Huế biên soạn cấp tốc chỉ trong khoảng 10
ngày, dưới sự chủ trì, đôn đốc của
Bộ trưởng Giáo dục và Mỹ thuật Hoàng Xuân
Hãn.
Riêng ở Nam, đến năm
1949, trong thời kỳ Quốc gia Việt Nam dưới
quyền Quốc trưởng Bảo Đại,
chương trình cũ (Pháp và Pháp Việt) mới
được thay thế bằng chương trình Hoàng
Xuân Hãn.
Đến tháng 9/1949, hai bộ
Chương trình Giáo dục Việt Nam mới dành cho
bậc Tiểu học và bậc Trung học với một
số thay đổi từ chương trình Hoàng Xuân Hãn
đã được ban hành chỉ cách nhau chừng
tuần lễ, dưới thời Bộ trưởng
Quốc gia Giáo dục Phan Huy Quát, để áp dụng chung
trong những vùng thuộc Quốc gia Việt Nam kiểm
soát. Được biết sau đó, cả hai bộ
chương trình này còn được cải cách thêm
lần nữa vào năm 1953 dưới thời Bộ
trưởng Quốc gia Giáo dục Nguyễn Dương
Đôn.
Vì vậy, để thấy
được sự tiến triển qua các thời
kỳ của chương trình và sách giáo khoa Việt Nam giai
đoạn 1954-1975, chúng ta không thể không xét qua một
số bộ chương trình giáo dục cũ nhưng có
tính cơ sở như vừa nêu trên, trong đó có
Chương trình Trung học Hoàng Xuân Hãn 1945, và Chương
trình Tiểu học 1949, vì những bộ chương trình
Trung và Tiểu khác về sau đều dựa theo 2 bộ
chương trình này để từ đó chỉnh sửa
và phát triển thêm, với sự thay đổi gần
như không đáng kể.
Hiện nay, mặc dù chỉ
mới sau 40 năm thay đổi, việc khảo sát/
nghiên cứu đầy đủ về chương trình
và sách giáo khoa miền Nam trước đây là một
việc làm không dễ chút nào. Nguyên do vì các thư viện
cả tư nhân lẫn nhà nước đều ít có
chỗ nào quan tâm lưu trữ loại tài liệu này
(kể cả Thư viện Quốc gia Hà Nội, Thư
viện Tổng hợp TP HCM, Thư viện Khoa học Xã
hội TP HCM…), loại tài liệu mà người ta
đơn giản cho rằng không còn cần dùng đến
nữa, nên sau ngày 30/4/1975 đã bị vô tình hủy bỏ
hầu hết. Chúng tôi đã ráng lùng sục, hỏi han
khắp nơi vẫn chưa tìm đủ được
tất cả những bộ chương trình giáo dục
đã được Bộ Quốc gia Giáo dục miền
Nam in ra, còn về sách giáo khoa phục vụ cho chương
trình giảng dạy thì tuy cũng tương tự như
vậy nhưng may mắn lại được một
số người yêu sách “hoài cổ” giữ
được chút ít. Vì vậy, khi trình bày bài viết này,
đặc biệt ở phần chương trình giáo
dục, có những chỗ chúng tôi sẽ trích dẫn nguyên
văn tài liệu cũ khá dài, không phải không biết
ngại tốn giấy mực, nhưng ngoài việc minh
họa còn có ý phần nào giúp thế hệ trẻ và
những người nghiên cứu lịch sử giáo
dục sau này có sẵn tài liệu tham khảo, khi cần
thì vẫn có thể trích dẫn lại được, mà
không quá vất vả như khi chúng tôi phải đi tìm
chúng (ở những đoạn trích nguyên văn này, chúng tôi
sẽ cho in bằng font chữ khác với cỡ chữ
nhỏ hơn bình thường, cho dễ phân biệt).
Phần mô tả nội dung
cụ thể chương trình học mỗi cấp
lớp của hai bậc Trung, Tiểu học, cũng
như sách giáo khoa tương ứng, chúng tôi sẽ chỉ
tập trung vào 3 môn Văn, Đạo đức/ Công dân
giáo dục (Tiểu học, Trung học hay cấp I, II) và
Triết (Trung học Đệ nhị cấp hay cấp
III) vì nếu giới thiệu sang tất cả những
môn khác sẽ quá mênh mông dài dòng, và vì đây cũng là 3 môn
học tiêu biểu cho thấy những nét đặc
trưng của nền giáo dục miền Nam 1954-1975
vốn dựa trên nền tảng triết lý giáo dục
(hay những nguyên tắc căn bản) gồm Nhân bản,
Dân tộc và Khai phóng. Về sách giáo khoa liên quan các bộ môn
trên, chúng tôi cũng lại xin chú trọng giới thiệu
chi tiết hơn về sách giáo khoa của bậc Tiểu
học, vì quan niệm đây là bậc học phổ thông
nền tảng có tính đại chúng quyết định
cho những bậc học tiếp sau.
Tuy chủ đề bài viết
là chương trình và sách giáo khoa miền Nam trước
1975, nhưng khi trình bày cho từng đề mục hữu
quan, chúng tôi không thể không nhắc qua những giai
đoạn trước đó, vì nếu không làm như
vậy, sẽ không thể nhận ra được
mối liên lạc nhân quả trong suốt dòng mạch phát
triển có tính kế thừa và liên tục. Chẳng
hạn, nếu không nắm bắt sơ qua nội dung các
sách giáo khoa về Quốc văn, Luân lý của thời
Trần Trọng Kim trước đó thì sẽ không
thể hiểu được lý do về nội dung
hiện hữu của các sách giáo khoa Quốc văn,
Đạo đức, Công dân giáo dục về sau.
Tương tự, tìm hiểu về chương trình
học của miền Nam trước 1975, như trên đã
nói, chúng ta cũng không thể không xét tới những
bộ chương trình cũ đã được biên
soạn trước, từ 1945.
Riêng về chương trình và
sách giáo khoa ở bậc Đại học, chúng tôi cũng
xin nói lướt qua cho biết vậy thôi, đơn
giản chỉ vì Đại học miền Nam
được quyền tự trị, về học
vụ mỗi trường đại học tự lo
lấy, không có chương trình học quy định và
cũng không bị Bộ Quốc gia Giáo dục chi phối,
chỉ đạo. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ xin lưu ý
giới thiệu sơ qua chương trình học và
một số giáo trình thường được
giảng dạy trong các trường Đại học Sư
phạm, vì quan niệm đây như bộ “máy cái” đào
tạo giáo viên, có tác dụng rất quan trọng
đối với toàn bộ sự phát triển của
nền giáo dục chung cả nước.
Hết phần 1
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét