Tiếng Dân
2 - 8 - 2017
LTS: Về sự kiện Vĩnh Tân 1, báo Năng lượng Việt Nam có bài viết của ba vị Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Huy Phùng, PGS TS Nguyễn Cảnh Nam và PGS TS Vũ Thanh Ca, gửi Thủ tướng Chính phủ, nói rằng: “Trong
số các ý kiến phản biện, hay thư góp ý có rất nhiều ý kiến có nội dung
cảm nhận, định tính và không dựa trên cơ sở khoa học, không cung cấp
những thông tin chính xác mà còn tạo ra nhiễu loạn thông tin, có khả năng gây ra những bất ổn xã hội và cản trở những hoạt động kinh tế bình thường để phát triển đất nước“.
Mặc dù mang danh là các nhà khoa học, những người có học hàm, học vị,
nhưng các nhà khoa học này đã không vận dụng những kiến thức khoa học
của mình để bảo vệ môi trường đất nước và người dân. Các vị này đã im
lặng, không hề lên tiếng về những báo cáo gian trá đánh giá tác động môi
trường, mạo danh các nhà khoa học, để Vĩnh Tân 1 có được giấy phép đổ
chất thải xuống biển, tàn phá môi trường Việt Nam. Các nhà khoa học này
chẳng hề bận tâm gì về chuyện Vĩnh Tân có được giấy phép nhấn chìm chất
thải xuống biển nhờ sự lừa đảo!
Đọc qua bài báo của báo Năng lượng Việt Nam, có thể thấy các nhà khoa
học này cho rằng tất cả sự lừa dối của Vĩnh Tân 1 là đúng, và họ đã vận
dụng kiến thức khoa học và trí tuệ của mình để biện minh cho Vĩnh Tân
1. Không những thế, họ còn nhân danh khoa học để chỉ trích các phản đối
của dư luận và của các nhà khoa học khác.
Thật ra họ không quan tâm đến tài nguyên môi trường, an ninh lương
thực của đất nước, họ đang bịt tai và lừa bịp lãnh đạo, cổ vũ cho Vĩnh
Tân 1 không chỉ nạo vét chôn chất thải xuống biển, đe dọa Hòn Cau, mà từ
nay Vĩnh Tân được ung dung nhập cảng và đốt than non, xả khí độc, thải
xỉ độc và nước độc.
Họ là ai? Họ là những kẻ có học vị, học hàm, sử dụng trí tuệ của mình
để phá hoại đất nước. Hãy ghi tên ba vị Phó Giáo sư, Tiến sĩ này vào sổ
đen, là những người đã giúp các nhà đầu tư Trung Quốc tàn phá môi
trường Việt Nam: PGS TS Bùi Huy Phùng, PGS TS Nguyễn Cảnh Nam và PGS TS Vũ Thanh Ca.
------------------------
Kiến nghị Thủ tướng giải quyết vấn đề
nạo vét cảng biển Vĩnh Tân
31-7-2017
Ngày 31/7/2017, các chuyên gia, nhà khoa học: PGS, TS. Bùi Huy Phùng, PGS, TS. Nguyễn Cảnh Nam và PGS, TS. Vũ Thanh Ca có bản Báo cáo tổng hợp các bài báo phản biện khoa học đăng trên Tạp chí Năng lượng Việt Nam về việc nhận chìm chất nạo vét ở cảng biển Vĩnh Tân gửi tới Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc. Báo cáo nhấn mạnh: Trong số các ý kiến phản biện, hay thư góp ý có rất nhiều ý kiến có nội dung cảm nhận, định tính và không dựa trên cơ sở khoa học, không cung cấp những thông tin chính xác mà còn tạo ra nhiễu loạn thông tin, có khả năng gây ra những bất ổn xã hội và cản trở những hoạt động kinh tế bình thường để phát triển đất nước.
Trong Báo cáo tổng hợp gửi Thủ tướng Chính phủ, các nhà khoa học cho
biết: Ngay sau khi Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp Giấy phép cho Công ty
TNHH Điện lực Vĩnh Tân 1 được nhận chìm 918.533 m3 chất nạo vét tại
vũng quay tàu xuống khu vực biển đã được chọn ở vùng biển Bình Thuận,
trên các phương tiện thông tin đại chúng có rất nhiều ý kiến lo ngại,
không đồng tình. Báo cáo cho rằng, những ý kiến có thể coi là “phản
biện”, hay “thư góp ý” về các quyết định của các cơ quan quản lý nhà
nước cần dựa trên các căn cứ khoa học và thực tiễn nhất định.
“Với nhận định này, chúng tôi cho rằng, trong số các ý kiến phản
biện, hay thư góp ý có rất nhiều ý kiến có nội dung cảm nhận, định tính
và không dựa trên cơ sở khoa học, không cung cấp những thông tin chính
xác mà còn tạo ra nhiễu loạn thông tin, có khả năng gây ra những bất ổn
xã hội và cản trở những hoạt động kinh tế bình thường để phát triển đất
nước”, Báo cáo nhấn mạnh.
Để Thủ tướng Chính phủ có góc nhìn đa chiều, khoa học và thực sự
khách quan, qua đó xem xét một cách thấu đáo về vấn đề dư luận xã hội
đang quan tâm tại dự án nạo vét cảng biển ở Vĩnh Tân, các nhà khoa học
đã tổng hợp nội dung các bài báo phản biện khoa học đã được đăng tải
trên Tạp chí Năng lượng Việt Nam. Với một mong muốn là được góp phần
nhỏ bé giúp dự án sớm được triển khai thực hiện, Nhà máy Nhiệt điện Vĩnh
Tân 1 về đích đúng tiến độ, chủ đầu tư sớm ổn định sản xuất để kịp thời
có thêm nguồn điện bổ sung cho miền Nam trong những năm sắp tới.
Đặc biệt, trong Báo cáo gửi Thủ tướng, các chuyên gia đã khuyến cáo
“tránh việc tạo thêm tiền lệ phản ứng “nhiều người” về một vấn đề “chưa
rõ” tới các dự án công nghiệp, năng lượng của đất nước sẽ được triển
khai đầu tư trong tương lai tới”.
Dưới đây đây là nội dung Báo cáo tổng hợp gửi Thủ tướng Chính phủ.
1. Luật pháp quốc tế và Việt Nam về nhận chìm chất nạo vét ở biển
Vào tháng 11 năm 1972, tại Hội nghị Liên chính phủ tổ chức tại thành
phố Luân Đôn (Vương quốc Anh), Công ước về phòng ngừa ô nhiễm biển do đổ
chất thải và các chất khác ở biển (Công ước Luân Đôn 1972) được thông
qua. Hiện nay đã có 89 nước phê chuẩn Công ước. Để hiện thực hóa Chương
trình Nghị sự 21, tăng cường bảo vệ môi trường biển phục vụ phát triển
bền vững, tại cuộc họp đặc biệt của các nước thành viên Công ước Luân
Đôn 1972 vào năm 1996 tại Luân Đôn, Nghị định thư về Công ước về phòng
ngừa ô nhiễm biển do đổ chất thải và các chất khác ở biển (Nghị định thư
Luân Đôn 1996) được thông qua (và sửa đổi, bổ sung năm 2006, 2009,
2013).
Trong Công ước Luân Đôn 1972 và Nghị định thư Luân Đôn 1996 đều quy
định chất nạo vét ở đáy biển là chất được phép đổ xuống biển. Cơ sở của
quy định này là chất nạo vét là chất được đưa lên từ đáy biển và việc
đưa nó trở lại biển là một việc rất tự nhiên nếu nó không chứa những
chất độc hại có khả năng làm môi trường biển thay đổi theo chiều hướng
xấu đi.
Nhiều luật pháp quốc tế về môi trường, đặc biệt là Công ước Liên hợp
quốc về Luật biển 1982, các Nghị quyết Đại hội đồng Liên Hợp quốc về Đại
dương và Luật biển cũng luôn đề cập tới các hoạt động nhận chìm xuống
biển. Đặc biệt, các nước Bắc Âu và Tây Âu đã cùng nhau xây dựng Công ước
về bảo vệ môi trường biển Đông Bắc Đại Tây dương (Công ước OSPAR) quy
định rất rõ những điều kiện nhận chìm.
Theo Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (bản dịch do Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2012), sự nhận chìm là (i) mọi sự
trút bỏ có ý thức xuống biển các chất thải, hoặc các chất khác từ tàu
thuyền, phương tiện bay, giàn nổi hoặc công trình bố trí ở biển; (ii)
mọi sự đánh chìm tàu thuyền, phương tiện bay, giàn nổi, hoặc công trình
khác được bố trí ở biển.
Việc nhận chìm chất nạo vét xuống biển được luật pháp nhiều nước trên
thế giới cho phép và thực hiện rất phổ biến. Chẳng hạn, Cục Khí tượng
và Đại dương Hoa Kỳ (NOAA), Cục Bảo vệ môi trường Hoa Kỳ (EPA), Ủy ban
Công ước OSPAR (khu vực Đông Bắc Đại Tây dương), v.v. đều viết rõ rằng
hầu hết chất nạo vét yêu cầu được nhận chìm ở biển. Báo cáo đánh giá đại
dương thế giới lần 1 do Liên hợp quốc ban hành năm 2016 nêu rõ vào năm
2010, riêng nước Bỉ đã nhận chìm khoảng 52 triệu tấn chất nạo vét (tính
theo khối lượng khô) xuống biển. Báo cáo của Ủy ban Công ước OSPAR năm
2010 cho thấy từ năm 1990 tới 2010, các nước ở khu vực Đông Bắc Đại Tây
dương đã nhận chìm hàng năm từ 80 đến 150 triệu tấn chất nạo vét tính
theo khối lượng khô xuống biển.
Theo báo cáo đánh giá Đại dương Thế giới do Liên Hợp quốc (năm 2016),
chỉ có ít hơn 50% thành viên Công ước Luân Đôn 1972 báo cáo nhận chìm.
Tuy vậy, trong báo cáo về nhận chìm năm 2016 của IMO, vào năm 2012 các
nước trên thế giới đã cấp phép và nhận chìm khoảng 650 triệu tấn chất
nạo vét tính theo khối lượng khô xuống biển. Với con số hơn 50% các nước
thành viên Công ước Luân Đôn 1972 (87 nước vào năm 2012) không báo cáo
như nêu ở trên và những nước không tham gia công ước cũng không báo cáo,
có thể ước tính rằng số lượng thực của chất nạo vét được nhận chìm
xuống biển vào năm 2012 nằm trong khoảng từ 800 triệu tấn đến 1 tỷ tấn.
Một thí dụ rất điển hình về nhận chìm cát nạo vét là bãi biển Palm,
Florida, Hoa Kỳ. Đây là bãi biển đẹp và đắt giá nhất Hoa Kỳ. Bãi này bị
xói lở do cát bị vận chuyển dọc bờ theo hướng sóng thịnh hành và lắng
đọng ở phía cuối của bãi. Để duy trì bãi, người ta đã nạo vét cát ở cuối
bãi, chở lên “nhận chìm” ở đầu bãi.
Tại Việt Nam, Luật bảo vệ môi trường 2014 đã cho phép nhận chìm, đổ
thải ở biển. Việc nhận chìm ở biển đã được quy định chi tiết trong Luật
Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo 2015 và Nghị định số
40/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật tài nguyên, môi trường biển và hải đảo. Danh mục các chất được phép
nhận chìm ở biển quy định trong Nghị định số 40/2016/NĐ-CP của Chính
phủ hoàn toàn trùng khớp với danh mục các chất, bao gồm cả chất nạo vét
được đổ xuống biển quy định trong Công ước Luân Đôn 1972 và Nghị định
thư Luân Đôn 1996. Như vậy, luật pháp quốc tế và luật pháp Việt Nam đều
cho phép nhận chìm ở biển. Mục đích là để quản lý tốt hơn và giảm thiểu
tác động môi trường do nhận chìm ở biển, đồng thời giảm chi phí nhận
chìm, đổ thải, tạo điều kiện để phát triển kinh tế biển một cách hiệu
quả nhất.
Một quy định rất chặt chẽ trong luật pháp quốc tế và luật pháp Việt
Nam về nhận chìm ở biển là phải thực hiện thẩm định và cấp phép để đảm
bảo kiểm soát và hạn chế thấp nhất những thiệt hại về môi trường, sinh
thái do các hoạt động nhận chìm gây ra. Theo đó, phải đảm bảo khu vực
nhận chìm không phải là khu vực có tầm quan trọng cao về môi trường,
sinh thái và hoạt động nhận chìm ở biển không được gây ra những tác động
có hại tới các khu vực biển có tầm quan trọng cao về môi trường sinh
thái ở xung quanh khu vực nhận chìm.
2. Thành phần của chất nạo vét ở Vĩnh Tân và khả năng ảnh hưởng tới môi trường khu vực dự kiến nhận chìm
Theo Báo cáo dự án nhận chìm chất nạo vét ở Vĩnh Tân, độ dày lớp đất
cát nạo vét điển hình khoảng 14,5 m. Trong đó có một lớp cát pha bùn sét
với hàm lượng đất, bùn, sét không vượt quá 5%. Các lớp khác chủ yếu là
cát và có rất ít bùn sét. Một số lượng đất trong chất nạo vét đã được
nèn chặt qua nhiều năm nên khi bị nhận chìm xuống biển rất khó có khả
năng bị hòa tan trong nước biển.
Khu vực dự kiến nhận chìm được Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp phép
có diện tích 30 ha. Kết quả khảo sát hiện trường trình bày trong Báo cáo
dự án nhận chìm và kết quả khảo sát độc lập của Viện Hải dương học cho
thấy nền đáy biển khu vực nhận chìm chất nạo vét tại khu vực vũng quay
tàu và luồng vào cảng biển Nhà máy Nhiệt điện Vĩnh Tân 1 chủ yếu là nền
cát với rất ít sinh vật sinh sống. Khi nhận chìm, hầu hết các sinh vật
sinh sống ở đáy biển hoặc là bơi đi nơi khác, hoặc là có khả năng xuyên
qua lớp đất, cát để lên mặt và không bị chết. Sau khi dự án nhận chìm
kết thúc, các sinh vật này sẽ nhanh chóng quay trở lại và hệ sinh thái ở
đây sẽ được phục hồi. Vì vậy, hoạt động nhận chìm sẽ ảnh hưởng không
đáng kể tới đa dạng sinh học và nguồn lợi thủy sản ở khu vực này.
Khi nhận chìm, bùn, sét và các chất độc (nếu có) trong chất nạo vét
có thể hòa tan vào nước và được dòng chảy biển mang đi, ảnh hưởng tới
các khu vực xung quanh. Theo kết quả phân tích đối với dự án nhận chìm
chất nạo vét tại Vĩnh Tân do Trung tâm công nghệ xử lý môi trường, Bộ Tư
lệnh Hóa học thực hiện một cách độc lập, trong thành phần của chất nạo
vét không thấy có chất độc hại như: kim loại nặng, hoặc các chất độc hại
khác vượt quá mức cho phép. Như vậy, vấn đề cần quan tâm khi nhận chìm
chất nạo vét chỉ là nước đục chứ không phải là hàm lượng của các chất
độc hại.
3. Tác động có thể có của hoạt động nhận chìm tới môi trường bãi cạn Breda và khu bảo tồn biển Hòn Cau
Hoạt động nhận chìm chất nạo vét cảng biển trong dự án Nhiệt điện
Vĩnh Tân 1 có thể có tác động tới môi trường của các khu vực xung quanh,
đặc biệt là khu bảo tồn biển Hòn Cau và bãi cạn Breda là những khu vực
có các rạn san hô quý hiếm và hệ sinh thái rạn san hô với đa dạng sinh
học rất cao. Nếu chất nạo vét bị vận chuyển tới và lắng đọng tại các khu
vực này, thiệt hại về môi trường, sinh thái sẽ rất lớn. Ngoài ra, khu
vực ven bờ biển là khu vực lấy nước nuôi tôm giống nên cũng cần tránh
nước đục. Vì vậy, dự án cần được thực hiện sao cho nước đục không ảnh
hưởng không đáng kể tới các khu vực nêu trên.
Vùng biển Bình Thuận có một hệ thống dòng chảy rất phức tạp. Mùa hè,
dưới tác dụng của gió mùa Tây Nam, dòng mặt chảy ven bờ rất mạnh và có
hướng từ Tây Nam lên Đông Bắc và hướng ra ngoài biển khi vượt qua Bình
Thuận sang Ninh Thuận. Mùa đông, dòng chảy mặt chủ yếu có hướng từ Bắc
xuống Nam. Cần chú ý rằng, hệ thống dòng chảy biển là tổng hợp của dòng
chảy do gió gây ra, dòng chảy do chênh lệch mật độ và cao độ mặt nước và
dòng chảy do lực hấp dẫn gây ra (dòng chảy triều). Ngoài ra, vùng biển
khu vực này còn chịu ảnh hưởng của hiện tượng nước trồi.
Các kết quả đo đạc hiện trường và tính toán bằng các mô hình toán
hiện đại (do PGS, TS. Vũ Thanh Ca, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam và
nhóm nghiên cứu của GS.TS. Đinh Văn Ưu, Trường Đại học Khoa học Tự
nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện) cho thấy tại khu vực biển
ngoài khơi Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa có xoáy nghịch tạo ra do
hoàn lưu biển và tại tâm xoáy có vùng nước trồi cách bờ trong khoảng từ
trên 100km đến 150km. Nước trồi là nước từ dưới độ sâu hàng trăm mét nổi
lên trên mặt biển nên có nhiệt độ nước thấp và độ muối cao. Vì vậy,
nước này nặng hơn nước biển ven bờ. Khi nổi lên mặt biển ở khu vực tâm
xoáy, nước này sẽ chảy vào gần bờ tại khu vực Mũi Né và men theo bờ đi
lên phía Bắc trước khi chảy chếch ra ngoài khơi theo hướng Đông Bắc ở
khu vực ranh giới tỉnh Bình Thuận sang tỉnh Ninh Thuận. Chính hệ thống
nước trồi này đã làm cho vùng biển Khánh Hòa, Bình Thuận và Ninh Thuận
vào mùa hè rất mát và gây ra khô hạn ở Ninh Thuận. Khi vào gần bờ, nước
này sẽ chìm xuống (vì nặng hơn nước gần bờ), xáo trộn mạnh mẽ với nước
mặt và tạo ra một lớp nước gần như đồng nhất từ mặt biển tới độ sâu khá
lớn, có thể tới cả trăm mét. Trong lớp nước đồng nhất này, dòng chảy có
vận tốc lớn sẽ tăng cường trao đổi động lượng giữa mặt nước và các lớp
nước bên dưới, làm hầu như toàn lớp này nước chảy theo một hướng – đó là
hướng từ Tây Nam lên Đông Bắc. Chính động lượng rất lớn của lớp nước
này đã tạo ra vùng nước quẩn ở vùng biển từ Khánh Hòa tới Ninh Thuận với
dòng chảy ven bờ rất yếu từ Bắc xuống Nam, nhưng dòng chảy này chỉ dừng
ở khu vực biển giữa tỉnh Ninh Thuận mà không tới ranh giới giữa hai
tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận.
Như vậy, hiện tượng nước trồi ở ngoài khơi Bình Thuận, Ninh Thuận,
Khánh Hòa không làm thay đổi hướng dòng chảy mùa hè từ Tây Nam lên Đông
Bắc tại khu vực ven biển Bình Thuận, đặc biệt là tại khu vực nhận chìm
chất nạo vét. Vì nước đục là do dòng chảy vận chuyển nên cũng được vận
chuyển lên Bắc, do vậy không thể ảnh hưởng tới bãi cạn Breda và khu bảo
tồn biển Hòn Cau.
Tuy nhiên, nếu xảy ra gió mùa Đông Bắc với thời gian dài, dòng chảy
tại khu vực nhận chìm sẽ thay đổi hướng và nước đục sẽ có khả năng ảnh
hưởng tới khu bảo tồn biển Hòn Cau và bãi cạn Breda. Vì giấy phép nhận
chìm của Bộ Tài nguyên và Môi trường chỉ cho phép đổ vào mùa hè và đầu
thu (từ 23/6/2017 tới 31/10/2017), khả năng xảy ra gió mùa Đông Bắc với
cường độ lớn, thời gian dài trong thời gian này khá hiếm. Với hệ thống
trạm quan trắc quy định như trong giấy phép, nếu xảy ra hiện tượng nước
đục lan tới ranh giới khu bảo tồn biển Hòn Cau trong gió mùa Đông Bắc
thì sẽ dừng ngay hoạt động nhận chìm để chờ gió đổi sang hướng Nam, Đông
Nam, hoặc Tây Nam. Đồng thời, cần xây dựng các phương án ứng phó sự cố
môi trường nếu sự cố xảy ra trong quá trình nhận chìm.
Trong điều kiện bão, các sóng bão có chu kỳ khá dài có thể tác động
tới đáy biển nơi nhận chìm chất thải nạo vét. Tuy vậy, do sóng biển là
quá trình thế, không xoáy nên dưới tác động của sóng cát biển sẽ chỉ
dịch chuyển được một đoạn rất ngắn do hiệu ứng phi tuyến và không thể
cuốn lên để trùm lên san hô tại Hòn Cau, hoặc Breda. Bùn có thể bị cuốn
lên, nhưng động lực mạnh mẽ tại rạn san hô trong bão sẽ không cho phép
bùn lắng đọng ở đây và gây hại cho san hô. Thực tế là trong bão, bùn từ
trong lục địa chảy ra rất nhiều, làm đục cả dải nước biển ven bờ, nhưng
không ảnh hưởng gì đến các rạn san hô.
Theo các kết quả nghiên cứu trên thế giới, bùn là những hạt có kích
thước nhỏ hơn 60 micromét, có cấu tạo dạng bản và tích điện trái dấu ở
giữa bản (điện âm) và xung quanh (điện dương) nên nó có xu hướng kết
bông (tiếng Anh gọi là flocculation hay aggregation) do tích điện trái
dấu và hút nhau giữa cạnh hạt bùn và giữa hạt bùn. Các khối bông kết bùn
giúp bùn lắng đọng nhanh hơn, nhưng khá yếu trong nước ngọt. Tuy vậy,
khi ra đến biển, nước biển có chứa rất nhiều i-ôn. Các i-ôn này sẽ làm
các khối bông kết của bùn vững chắc hơn rất nhiều. Chính các khối bông
kết này giúp bùn nhanh chóng lắng đọng xuống đáy ở vùng cửa sông, ven
biển để tạo ra các đồng bằng châu thổ.
Với lý do này, chỉ khu vực gần cửa sông mùa lũ là có nước đục, còn
biển ngoài khơi luôn trong xanh. Đó cũng là lý do tại sao sau các trận
mưa lớn, nước sông tải ra biển thậm chí hàng tỉ m3 nước đục nhưng chỉ
một thời gian ngắn sau đó nước biển trở thành trong sạch rất nhanh. Khi
lắng đọng xuống đáy, bùn sẽ hấp thụ các chất nhiễm bẩn khác và làm sạch
nước biển.
Như vậy, trong gió mùa (mùa hè), bùn trong dòng nước đục do hiện
tượng nhận chìm chất nạo vét gây ra sẽ bị vận chuyển lên phía Đông Bắc,
ra ngoài xa và nhanh chóng lắng đọng xuống đáy biển và không thể tồn tại
từ lâu dài để bị vận chuyển qua lại và lắng đọng xuống khu bảo tồn biển
Hòn Cau cũng như các khu vực khác có tầm quan trọng về môi trường, sinh
thái cao.
Tóm lại, việc nhận chìm chất nạo vét ở Vĩnh Tân không có gì đáng lo
ngại và nếu được kiểm soát tốt sẽ không gây hại cho khu bảo tồn biển Hòn
Cau, bãi cạn Breda và các khu vực lấy nước nuôi tôm giống ven bờ.
4. Tại Vĩnh Tân cần thiết phải đầu tư nạo vét cảng để tiếp nhận tàu chở than có tải trọng lớn nhằm giải quyết bài toán kinh tế
Bờ biển khu vực Bình Thuận dài, nhưng nông. Tỉnh Bình Thuận có lợi
thế rất cơ bản về “mặt tiền” – bờ biển. Tổng chiều dài bờ biển của Bình
Thuận khoảng 192km. Tính trung bình “mặt tiền” của Bình Thuận khoảng
24,58m/km2 (gấp 2,36 lần mức bình quân của Việt Nam và gấp 10,3 lần mức
bình quân của thế giới). Tuy nhiên, bờ biển Bình Thuận nhìn chung nông
và bị bồi lấp nhanh do có nhiều cửa sông (với mật độ trung bình 15km bờ
biển có một cửa sông. Vì vậy, ngoài lĩnh vực du lịch, việc phát triển
các dự án sản xuất công nghiệp có nhu cầu giao thông đường biển ở Bình
Thuận rất khó khăn. Đặc biệt, các dự án nhiệt điện có nhu cầu bắt buộc
phải tiếp nhận khối lượng than rất lớn (than khai thác trong nước cũng
như than nhập khẩu) bằng đường biển.
Ví dụ, theo báo cáo của Xí nghiệp Khảo sát Hàng hải miền Nam, trước
khi nạo vét, cảng biển tạm của dự án Nhiệt điện Vĩnh Tân 4 (2x600MW) có
các thông số như sau: (i) Trong phạm vi luồng tàu vào ra bến (có chiều
dài 870m, rộng 30m), điểm có độ sâu nhỏ nhất (cách mặt bến 70m) là
-3,2m; (ii) Trong phạm vi khu nước trước bến, điểm có độ sâu nhỏ nhất là
-2,8m nằm ở giữa khu và cách bến khoảng 5m về phía biển. Vì vậy, nếu
không nạo vét cảng, dự án Nhiệt điện Vĩnh Tân 4 chỉ có thể tiếp nhận
được xà lan tải trọng 3.000 DWT.
Như vậy, nếu các dự án nhiệt điện không đầu tư nạo vét cảng biển, và
chỉ sử dụng xà lan 3.000 DWT để chuyển tải và cập bến bốc than, khả năng
bị ách tắc và gián đoạn trong khâu cấp khoảng 3,7 triệu tấn than/năm để
phát điện là không tránh khỏi. Vì vậy, theo Quyết định số 2414/QĐ-TTg
ngày 11/12/2013, Cảng than của Vĩnh Tân 4 phải được nạo vét để có thể
tiếp nhận được tàu có tải trọng 100.000 DWT.
Theo thiết kế được phê duyệt, Trung tâm Nhiệt điện Vĩnh Tân có nhu
cầu tiếp nhận than từ phía biển (“mặt tiền”) khoảng 15 triệu tấn/năm. Vì
vậy, để giảm chi phí phát điện, các dự án nhiệt điện thuộc Trung tâm
Nhiệt điện Vĩnh Tân cần phải nạo vét đáy biển khu vực gần bờ để xây dựng
các cảng nhập than có mớm nước càng sâu càng tốt nhằm tiếp nhận được
các loại tàu chở than có tải trọng càng lớn càng tốt.
Trên thực tế, việc cấp than cho các dự án điện bằng tàu biển có tải
trọng trên 5÷6 vạn DWT so với loại tàu có tải trọng dưới 3 vận tấn (DWT)
sẽ giảm được chi phí vận tải (gồm cước thuê tàu, chi phí xếp và dỡ
hàng) khoảng 5÷7U$/tấn than, chưa kể còn giảm được thất thoát trong quá
trình xếp dỡ. Tuy vậy, việc thiết lập các cảng than sâu cho các dự án
điện ở khu vực Vĩnh Tân rất khó khăn. Ví dụ, dự án Nhiệt điện Vĩnh Tân 2
(đang vận hành), mặc dù chi phí đầu tư cảng than rất lớn (ở thôn Vĩnh
Phúc, xã Vĩnh Tân, huyện Tuy Phong), nhưng độ sâu luồng vào chỉ có 11,7m
và độ sâu trước bến bốc chỉ có 11,3m. Vì vậy, hiện nay cảng nhận than
của Vĩnh Tân 2 chỉ tiếp nhận được tàu chở than có tải trọng
22.000÷30.000 DWT.
Như vậy, nếu xây dựng được cảng than nước sâu ở Bình Thuận để có thể
tiếp nhận tàu chở than tải trọng trên 50.000 DWT, cụm các NMNĐ ở Vĩnh
Tân sẽ tiết kiệm (giảm chi phí sản xuất điện) được không dưới 90 triệu
U$/năm. Nếu tính cho cả đời dự án (điện và cảng 40 năm) sẽ tiết kiệm
được 3,6 tỷ U$. Con số này tương đương với tổng mức đầu tư của cả 2 dự
án Vĩnh Tân 1 (2x600MW) và dự án Vĩnh Tân 4.
5. Tại Vĩnh Tân phải nhận chìm chất nạo vét trong bờ ra khu vực biển sâu ngoài bờ
Chính vì những lý do nêu trên, Bộ Công Thương đã phê duyệt hạng mục
đầu tư “Bến chuyên dùng phục vụ Nhà máy Nhiệt điện Vĩnh Tân 1”, với độ
sâu mớm nước theo thiết kế -12,7m, có khả năng tiếp nhận tàu chở than
tải trọng 30.000÷50.000 DWT. Để thực hiện nhiệm vụ thiết kế này, chủ đầu
tư buộc phải thi công nạo vét đáy biển ở các khu vực trước bến và vũng
quay tàu với khối lượng lớn.
Ngoài ra, sau này trong quá trình vận hành, cũng như mọi cảng biển
khác, để duy trì độ sâu mớm nước, cảng than của Nhà máy Nhiệt điện Vĩnh
Tân 1 hàng năm phải nạo vét khối lượng bồi lấp ở đáy biển khoảng 0,268
triệu m3/năm. Toàn bộ khối lượng nạo vét được Bộ Tài nguyên và Môi
trường đã phê duyệt và UBND tỉnh Bình Thuận đã chấp nhận cho chủ đầu tư
được nhận chìm ngoài biển, ở khu vực có diện tích 30 ha, độ sâu trung
bình hơn 36m, cách cảng hơn 10km và cách vùng lõi khu bảo tồn biển Hòn
Cau khoảng 8 km.
6. Tại Vĩnh Tân đưa chất nạo vét từ biển lên bờ không khả thi về mặt kinh tế và không có nhu cầu
Trong khi cả thế giới đều chấp thuận việc nhận chìm ngoài khơi các
chất thu được trong quá trình nạo vét xây dựng cảng biển, gần đây, có ý
kiến đề cập đến việc đưa chất nạo vét ở Vĩnh Tân lên bờ. Trước hết, đây
chỉ là ý kiến hoàn toàn “cảm tính”, không có cơ sở khoa học.
Phải khẳng định rằng, “trên bờ” và “ngoài khơi” là hai môi trường đổ
thải/nhận chìm hoàn toàn khác nhau. Nếu chất nạo vét được đổ lên bờ, về
nguyên tắc, bãi thải trên bờ cần được xây dựng theo đúng tiêu chuẩn của
một “bãi thải” để vừa không được ảnh hưởng tới hệ sinh thái trên bờ, vừa
không được ảnh hưởng tới sinh thái dưới biển. Như vậy, ở Vĩnh Tân đòi
hỏi phải xây dựng kè bao cũng như bảo vệ, chống thấm rất tốn kém và ảnh
hưởng tới môi trường, xã hội rất lớn. Ngoài ra, việc thiết lập bãi thải
trên bờ ở Vĩnh Tân sẽ đòi hỏi chi phí đổ thải lớn hơn so với trường hợp
đổ thải từ trên bờ xuống, ví dụ như ở mỏ sắt Thạch Khê, Hà Tĩnh. Vì còn
phát sinh chi phí cho công đoạn dỡ tải từ xà lan mở đáy đưa chất nạo vét
từ biển lên bờ (ở Thạch Khê đưa chất thải từ trên bờ xuống biển). Ngoài
ra, tại khu vực Bình Thuận, ở trên bờ có rất nhiều cát sạch có thể sử
dụng cho mục đích san lấp tạo mặt bằng với chi phí thấp hơn nhiều (chỉ
bằng 10%) so với việc hút bùn cát từ đáy biển lên.
Về mặt kỹ thuật, việc nạo vét đáy biển được thực hiện chủ yếu bằng
tàu hút bùn, kết hợp với xà lan mở đáy. Trong điều kiện cụ thể của Việt
Nam hiện nay, việc bơm các vật liệu nạo vét ngược từ dưới biển lên bờ để
san lấp tạo mặt bằng chỉ có thể thực hiện được trong phạm vi bán kính
1-2km.
Hơn nữa, tại khu vực huyện Tuy Phong, nơi có nhu cầu nạo vét đáy biển, hiện không có nhu cầu san lấp ở trên bờ.
Phương án xây kè đổ thải chất nạo vét để lấn biển là không khả thi về
kỹ thuật và kinh tế và môi trường, sinh thái vì các lý do như sau:
Các khu vực bờ biển hiện nay đang ở vị trí cân bằng và các yếu tố
động lực (như sóng và dòng chảy biển) và vận chuyển bùn cát đang ở trạng
thái duy trì cân bằng đó. Đối với các khu vực bờ biển đang bị xói lở,
để bảo vệ bờ biển, chống xói lở người ta phải xác định cán cân bùn cát
để có giải pháp can thiệp, bù thêm bùn cát nếu như bị thiếu hụt. Làm kè
đổ cát lấn biển tại một khu vực như đề xuất của Bình Thuận sẽ làm thay
đổi trường sóng, dòng chảy, ngăn chặn dòng vận chuyển cát và do vậy phá
vỡ cân bằng hiện có. Ngoài ra, kè lấn biển còn phá vỡ khả năng tự bảo vệ
tự nhiên của bờ biển. Các nghiên cứu cho thấy bãi cát tự nhiên như ở
Bình Thuận có khả năng tiêu tán đến 90% năng lượng sóng, trong khi kè
lấn biển chỉ tiêu tán được 10% đến 30% năng lượng sóng. Do vậy, công
trình ven bờ biển thông thường (như kè) chỉ có thể bền vững nếu có bãi
cát phía trước. Vì khu vực lấn biển không có bãi cát, sóng sẽ đánh trực
tiếp vào kè và làm sập kè, để lại một vùng bờ biển hoang tàn và mang
khoản đầu tư hàng trăm, thậm chí hàng ngàn tỉ đồng, xuống biển. Hơn nữa,
do phá vỡ cán cân cát, công trình lấn biển sẽ gây xói lở ở các khu vực
bờ biển cạnh đó. Kinh nghiệm xói lở tại Hội An cho thấy rằng, kè do các
resort xây dựng không thể ngăn nổi sóng và một số resort bị xói lở, phá
hoại tới mức thậm chí bị bỏ hoang; hoặc thực trạng sụt lở, xói mòn tại
một số bãi biển ở phía Nam cũng chứng tỏ điều đó. Hơn nữa, lấn biển là
phá hoại vĩnh viễn một vùng biển. Khác với nhận chìm, nếu là đáy cát,
tại khu vực nhận chìm hệ sinh thái sẽ phục hồi khá nhanh sau khi việc
nhận chìm hoàn thành.
Để bảo vệ bờ biển, lấn biển, cần phải thuận theo tự nhiên. Nhật Bản,
Singapore có lấn biển nhưng họ thuận theo tự nhiên, dùng công trình để
thay đổi trường sóng và đổ cát để nuôi bãi, tạo bãi để lấn biển. Lấn
biển theo cách này vừa có bãi, vừa bảo vệ bờ, nhưng phải chấp nhận chi
phí vô cùng tốn kém.
Mặt khác, thời gian qua, việc thải tro xỉ từ nhà máy nhiệt điện Vĩnh
Tân theo thiết kế cũng đang gặp khó khăn về địa điểm (do phải đổ thải
trên bờ). Trong tương lai, do không có vị trí thải tro – xỉ trên bờ phù
hợp, các dự án nhiệt điện ở Vĩnh Tân sẽ gặp rất nhiều khó khăn, có nguy
cơ sẽ phải dừng sản xuất. (Trường hợp tương tự đang xảy ra đối với dự án
Nhiệt điện Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh).
7. Kết luận
Việc Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp phép cho Công ty TNHH Điện lực
Vĩnh Tân 1 nhận chìm chất nạo vét đáy biển ra khu vực biển đã xác định
ngoài khơi là hợp lý: Đủ cơ sở pháp lý và thực tiễn; khả thi về mặt kỹ
thuật và môi trường; hiệu quả về kinh tế và phù hợp với thực tế của địa
phương. Cụ thể như sau:
Thứ nhất: Luật pháp quốc tế và Việt Nam cho phép nhận chìm chất nạo
vét ở đáy biển ra biển. Trên thế giới, hầu hết chất nạo vét luồng và
cảng biển được nhận chìm ở biển vừa vì lý do kỹ thuật, vừa vì lý do kinh
tế.
Thứ hai: Về mặt kỹ thuật, việc nhận chìm thực chất chỉ là xê dịch lớp
cát, đất bùn trên đáy biển ở khu vực này chồng lấp lên lớp cát, đất,
bùn trên đáy biển ở khu vực khác.
Thứ ba: Trong quá trình nhận chìm: Chiều cao lớp bùn đáy biển ở khu
vực nhận chìm chỉ tăng thêm khoảng 3,3m. Khu vực đổ thải này có độ sâu
hơn 36m. Thực tế, chất nạo vét được chuyên chở và nhận chìm bằng xà lan
mở đáy, và các công việc này chỉ được chủ đầu tư thực hiện trong thời
gian sóng biển có chiều cao không quá 2m. Với trình tự nhận chìm, cường
độ nhận chìm và thời gian, kỹ thuật nhận chìm hợp lý, việc nhận chìm sẽ
không có ảnh hưởng đáng kể tới đa dạng sinh học biển tại khu vực nhận
chìm. Việc nhận chìm chỉ được thực hiện trong điều kiện gió mùa Tây Nam;
do vậy nước đục sẽ được vận chuyển lên phía Đông Bắc, ra xa và lắng
đọng xuống đáy biển, không thể ảnh hưởng tới khu bảo tồn biển Hòn Cau và
bãi cạn Breda.
Thứ tư: Nếu nhận chìm ở độ sâu như tại khu vực nhận chìm ở biển Bình
Thuận, sau này sóng dài từ đại dương truyền vào sẽ dần mang lớp cát dưới
đáy biển vào gần bờ để bồi đắp cho bờ bãi quốc gia. Do vậy, cát nhận
chìm dưới đáy biển không mất đi mà vẫn là một phần của lãnh thổ quốc
gia.
Thứ năm: Trong điều kiện cụ thể của cảng than Vĩnh Tân tại biển Bình
Thuận, việc “nhận chìm” ngoài khơi là giải pháp không thể tránh khỏi
(phù hợp với điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế cũng như ít thiệt
hại về môi trường sinh thái nhất). Tuy nhiên, công việc tiếp theo cần
lưu ý là quan trắc và giám sát để xử lý các vấn đề có thể phát sinh
trong tổ chức thực hiện.
8. Kiến nghị
Các chuyên gia, nhà khoa học trong Hội đồng Phản biện Khoa học của
Tạp chí Năng lượng Việt Nam kính đề nghị Thủ tướng Chính phủ giao các
bộ, cơ quan liên quan tham khảo, nghiên cứu những phân tích, ý kiến phản
biện trong các bài báo khoa học đã được đăng tải trên Năng lượng Việt
Nam và đã được tổng hợp trên đây.
Với những kiến giải như trên, chúng tôi kính mong Thủ tướng Chính phủ
xem xét cân nhắc để chỉ đạo giải quyết vấn đề nạo vét cảng biển ở Vĩnh
Tân một cách khách quan, khoa học, khả thi và mang lại hiệu quả chung để
đảm bảo phát triển bền vững nền kinh tế đất nước.
HỘI ĐỒNG PHẢN BIỆN TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM
Nghe kết luận kinh quá . Các PGS, TS này lấy bằng cấp học hàm học vị bằng cái mẹt với mấy cục tiền tổ chảng định che cả mặt trời . Nên nhận chìm cả các vị đó theo bùn thải Vĩnh Tân ở chỗ nào đó chứ đừng gần Hòn Cau !
Trả lờiXóaHãy đưa ba tên phản quốc này ra xử trước tòa án nhân dân
XóaNhìn bản mặt bọn chúng thấy khốn nạn quá. Không hiểu mấy thằng này còn dạy dỗ con cháu gì về đạo đức, về lòng yêu nước...?
XóaCác lều khoa học này ngậm tiền bẩn rồi...
Trả lờiXóaBa tên phản quốc: PGS TS Bùi Huy Phùng, PGS TS Nguyễn Cảnh Nam và PGS TS Vũ Thanh Ca này sẽ bị nhân dân Việt Nam đời đời nguyền rủa.
Trả lờiXóaThể chế có khả năng biến người thông minh thành kẻ ngu đần, biến kẻ sĩ, người quân tử thàng kẻ tiểu nhân. Thử điểm lại các sự kiện đã diễn ra trong lịch sử xem nhận xét này liệu có đúng. Xin được các bạn bình phán!
Trả lờiXóaĐến FORMOSA họ còn lừa được các nhà quản lý của VN, chứ mấy cái "xe rác" của Vĩnh Tân chẳng là cái gì mà không "mua được" mấy ông "chòi" khoa học kia nhé !
Trả lờiXóaMấy gã Phó giáo sư này chỉ viết bài nịnh bợ vuốt đuôi thôi, đâu có viết nổi báo cáo khoa học với đầy đủ số liệu và lập luận nghiên cứu đâu!
Trả lờiXóaMấy thằng PGS này thật khốn nạn không vì một nền khoa học chân chính
Trả lờiXóa