Thứ Ba, 25 tháng 12, 2012

CÁO PHÓ

.
.
.
 .
CÁO PHÓ
ĐẠI GIA ĐÌNH CHÚNG TÔI VÔ CÙNG 
KÍNH TIẾC BÁO TIN

Mẹ, Bà, Cụ của chúng tôi là:
 Cụ bà HOÀNG THỊ TÚ TÂM

Sinh ngày 28 tháng 9 năm Quý Sửu (tức ngày 17.10.1913)
Nguyên quán: làng Bích Khê, xã Triệu Long,
huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị

Cu Nữ sinh trường Đồng Khánh - Huế 
Nguyên cán bộ Bệnh viện Việt Đức Hà Nội
Nguyên trợ lý và thư ký của Cố GS Viện sĩ Tôn Thất Tùng

đã từ trần hồi 04h05 ngày 24 tháng 12 năm 2012, 
(tức ngày 12 tháng 11 năm Nhâm Thìn).
Hưởng đại thọ 100 tuổi.

Lễ viếng từ 13h30 đến 14h30 ngày 25 tháng 12 năm 2012
tại nhà tang lễ thành phố, 125 Phùng Hưng, Hà Nội

Lễ truy điệu vào hồi 14h45 cùng ngày,
An táng tại Đài hóa thân hoàn vũ Hà Nội
.
Trưởng nam: TRẦN ĐÌNH SỬ và các con, cháu, chắt đồng khấp báo!

____________________________

Toàn thể đại gia đình chúng tôi thành kính dâng lời cầu nguyện Đức Phật A Di Đà và Chư Phật tiếp dẫn hương hồn Cụ bà Hoàng Thị Tú Tâm về cõi tịnh độ trong muôn vàn kính tiếc của các con, cháu, chắt hai họ Hoàng - Trần. 

Trong giờ phút tràn đầy niềm thương tiếc Cụ bà Hoàng Thị Tú Tâm, được phép của Bác Trần Đình Sử (GS.TS Văn học, ĐH Sư phạm HN), chúng tôi xin trân trọng giới thiệu lại và chia sẻ cùng chư vị bài nói của Bác Trần Đình Sử tại buổi lễ Mừng Thọ 100 tuổi cụ Hoàng Thị Tú Tâm, Tết Nhâm Thìn 2012:

Mừng cụ Hoàng Thị Tú Tâm một trăm tuổi

Thưa Má,
Thưa bác Khánh, bác Nguyệt,
Cùng các em, các cháu, chắt thân quý,

Năm nay, 2012 má, bà và cụ Hoàng Thị Tú Tâm của chúng ta vừa tròn 100 tuổi.

Tuy tuổi cao trí nhớ giảm sút nhưng má vẫn còn sống với các con, cháu, đó là một niềm vui, hạnh phúc lớn của cả gia đình. Đó cũng là lí do để chúng ta họp mặt hôm nay trong không khí ấm cúng thân mật của tình ruột thịt.

Nhân dịp này con xin nói về má để các em, các cháu, chắt được biết về má để thêm yêu quý má hơn.

Má Hoàng Thị Tú Tâm, theo gia phả họ Hoàng Bích Khê, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị ghi, sinh ngày 28 – 9 năm Quý Sửu, tức ngày 17 tháng 10 năm 1913 tại Quảng Trị. Lí lịch cán bộ ở bệnh viện Việt Đức Hà Nội thì ghi, sinh ngày 15 tháng 4 năm 1915. Theo gia phả năm nay Má vừa tròn 100 tuổi, cái tuổi xưa nay hiếm mà người đời con cháu vẫn ao ước cho cha mẹ mình. Trong họ hàng nhà ta cũng có nhiều người sống đến trăm tuổi, má của chúng ta cũng không thua kém gì. Má sống được thế, ngoài nhờ phúc ấm của Tổ tiên, ngoài sức sống tự nhiên của má, còn có công sức chăm sóc của các con cháu, mà trực tiếp bên mình ngày đêm là công lao của con gái Trần Thị Thảo, một đứa con cũng bé nhỏ, yếu đuối mà dẻo dai không kém má mà lại rất hiếu thảo.

Thuở nhỏ má có tên là Hàm, thời đi học và công tác lấy tên là Tú Tâm.

Má là cháu nội của ngài Hoàng Hữu Xứng, Hiệp biện đại học sĩ triều Nguyễn, người đã từng vẽ bản đồ đầy đủ của nước Đại Nam. Má là con gái thứ tư trong sáu chị em của cụ Hoàng Hữu Kiệt, cử nhân Hán học năm Duy Tân thứ 9, tức năm 1915, năm cụ 30 tuổi. Cụ Hoàng Hữu Kiệt từng được bổ nhiệm làm tri huyện tại Sông Cầu tỉnh Phú Yêu, tri huyện Hướng Hoá, Quảng Trị, chuyển vào tri huyện Hoà Vang, Quảng Nam, nhưng do làm quan thanh liêm, bênh vực dân chúng, việc quan bị coi là “bất hợp thức”, buộc phải về hưu non khi mới bốn mươi sáu tuổi. Cụ mua đất hoang ở Khe Bội xã Triệu An, huyện Triệu Phong, Quảng Trị, lập ấp, thuê người làm ruộng, lấy tên là thôn Phúc Khê để duy trì cuộc sống và mong có người hương khói sau này. Hiện nay toàn bộ làng Phúc Khê của ông ngoại đã chìm trong hồ nước mới xây của tỉnh bên sông Thạch Hãn. Do nhà nghèo, trong sáu chị em chỉ có hai bà được đi học, đó là bà Diệu Phương và bà má nhà ta. Má nhà ta vóc người nhỏ bé, xương cốt  mảnh khảnh, yếu đuối nên được ông bà ưu tiên cho đi học nhiều hơn. Thời ấy người ta đi học muộn. Má học trường nữ học Đồng Khánh Huế, một trường nổi tiếng. Má thông minh, học giỏi, nhưng năm 18 tuổi vừa có bằng Tiểu học Pháp Việt (Primaire) thì năm ấy (năm 1931) ông ngoại Hoàng Hữu Kiệt bị mất chức, phải về vườn, má không có điều kiện học lên nửa, mà phải xin đi làm việc để giúp gia đình. Lúc đầu má làm nhân viên bán sách cho hiệu sách cụ Bùi Huy Tín ở thành nội, sau chuyển sang đi dạy tiểu học ở trường Sa-l Marie An Cựu. Ít lâu sau, năm 1936 má có dịp vay 50 đồng, mua lại trường tiểu học Thanh Dương, nhờ anh rể Nguyễn Đăng Khoa, thân phụ của bác Nguyễn Đăng Khánh đứng tên làm hiệu trưởng, tự mình làm chủ. Trường hoạt động được mấy năm, do thiếu kinh nghiệm quản lí, đến năm 1939 đóng cửa. Cuối năm 1939 má thành hôn với Ba Trần Đình Bảo, từ đó mới có tất cả anh em cháu chắt chúng ta như hôm nay.  

Từ năm 1939 đến 1945 cuộc mưu sinh tạm thong dong nhưng vất vả làm mẹ. Đó là năm má sinh ra các con Trần Đình Sử (1940), Trần Thị Thảo (1941), Trần Đình Bổng (1943) và chuẩn bị sinh Trần Đình Khảng (1946). Sáu năm trời nuôi bốn con nhỏ thật là vất vả. Từ sau ngày mặt trận Huế vỡ, cả gia đình rời bỏ thành phố Huế để chuyển ra Quảng Trị bằng thuyền. Trên đường đi  qua huyện Hải Lăng, bất ngờ bị dân quan trên bờ nghi oan là Việt gian, tràn xuống bao vây, bắt Ba và cả nhà giam vào ngục huyện Hải Lăng. Áp giải lên Thị xã Quảng Trị gặp toàn bà con: ông Nguyễn Đăng Khoa, ông Trần Hữu Dực, bà Hoàng Thị Ái (sau này là Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam - NXD chú)...nên được thả ngay. Nhưng toàn bộ tài sản trên thuyền đều bị tịch thu hết, ra tới Quảng Trị gia đình hoàn toàn tay trắng.

Từ năm 1946 đến năm 1954, ba đi công tác ở Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh, bắt đầu làm văn phòng uỷ ban, rồi chánh văn phòng uỷ ban tỉnh, sau làm chủ tịch huyện Vĩnh Linh năm 1947, rồi phó chủ tịch tỉnh Quảng Trị, ủy viên uỷ ban khu 4, luôn luôn xa nhà. Ở nhà chỉ có một mình má với năm đứa con nhỏ. Từ năm 1951 có thêm em Trần Thị Nghĩa. Lúc đầu nhà làm tạm ở Khe Bội, ăn uống luôn đói kém, thường chỉ có khoai sắn, rau lang. Khổ nhất là khi Tây đi càn. Mỗi lần nghe mõ báo động, má phải chờ đủ mấy anh em về mới dắt díu nhau chạy trốn. Sau khi nhà bị Tây lùng đốt đi cả nhà chuyển lên chiến khu Ba Lòng ở thôn Lương Hạ, má phải tự mình, có chị Trần Thị Lễ giúp sức, tự mình trồng lúa, trồng sắn, trồng khoai, trồng bí, bầu, nuôi gà, heo để tự túc. Mấy năm đầu chưa biết làm ruộng má phải kết hợp cắt may áo thuê, nấu cơm tháng cho một số cán bộ để có thêm tiền nuôi các con. Ba đi làm hoàn toàn không có lương. Thỉnh thoảng về, mua cho các con mấy thước vải nâu may áo, thỉnh thoảng tự anh, cậu bé mười tuổi, lặn lội một mình sang cơ quan uỷ ban ở bên kia sông Thạch Hãn ở sâu trong rừng xin mấy cân gạo. Từ nhà ra sông Thạch Hãn lấy nước khoảng trên 500 mét, nhưng đường rất dốc. Có lần má đi gánh nước trượt chân, ngã gẫy xương quai xanh phải điều trị lâu ngày. Có lần Tây lùng (càn) chiến khu, cả nhà dắt díu nhau chạy vào rừng, đi men theo dòng suối. Bất ngờ má đạp phải lưỡi dao của ai bỏ quên dưới nước, đứt gan bàn chân, màu chảy lênh láng. Cả nhà lại phải tạm lánh bên suối. Năm 1950 - 51 bà có mang em Nghĩa, biết không có sức đi gánh nước, má chuẩn bị cho mình mấy cái bầu bằng quả bầu để mang nước. Vì thương má anh giành đi mang nước, nhưng sức yếu bị ngã, làm vỡ mấy cái bầu, làm má khóc thảm thiết, vì lo một thân một mình khi sinh nở.

Những năm ở chiến khu má cũng tham gia chấp hành phụ nữ xã, chi hội phụ nữ Hoàng Ngân; dạy trường tiểu học xã Triệu Nguyên. Sau năm 1954 tập kết ra Nghệ An. Ở Nghệ An má có hai nỗi đau lớn. Một là em Trần Đình Bổng, 12 tuổi, bị thương hàn, điều trị sai đã mất, thứ hai là má có thai em bé, nhưng do sức yếu không nuôi được. Sau hai cái đau đó má suy sụp hẳn, phải nằm viện dài ngày tại bệnh viện dã chiến Cửa Hội. Ra viện má đi học ý tá rồi nhiều lần chuyển cơ quan, cuối cùng về làm ở Bệnh viện Việt Đức, phòng y vụ tại Hà Nội. Ở phòng Y vụ má từng làm thư kí cho giáo sư Tôn Thất Tùng, giữ tủ sách, tủ thuốc của giáo sư. Lúc này các con lần lượt được đi học các trường học sinh Miền Nam nên má cũng bớt vất vả.

Tổng kết những năm tháng công tác má cũng được nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất, huân chương kháng chiến chống Mĩ hạng hai.

Từ ngày về hưu bà lo việc chăm sóc sức khoẻ cho ông. Nhờ có bà mà ông được sống đến 90 tuổi. Bà về hưu đem tình thương yêu chăm sóc các cháu. Các cháu Trang Thanh Thuỷ, Trang Thanh Hiền, Nguyễn Hải Long, Nguyễn Hải Ngọc, Trần Trung Thành, Trần Thị Lan, Trần Đình Khải, Trần Đình Kiên ít nhiều đều được hưởng sự quan tâm chăm bẵm của bà.

Từ ngày về hưu má còn hăng hái tham gia sinh hoạt với các cụ hưu trí, cũng tham gia diễn kịch, làm thơ, viết bài, được tặng giải “Sợi tóc xanh” của Hội người cao tuổi Việt Nam. Bà vẫn đi lại vui chơi với các bạn học trường Đồng Khánh Huế năm xưa. Nhưng rồi các bạn bè của má cũng lần lượt qua đời, thưa vắng hết, má ít giao lưu, mắt mờ, trí nhớ sa sút, nhưng vẫn còn nhận biết con cháu.

Má là người phụ nữ nhỏ bé, yếu đuối mà đã dẻo dai chịu đựng không biết bao nhiều khó khăn, cực khổ, sinh hạ và nuối nấng chúng con nên người. Má kế thừa gia phong thật thà, liêm khiết của ông ngoại, giáo dục chúng con nên người. Nhà tuy nghèo nhưng sống trong sạch, lương tâm thanh thản. Chúng con biết ơn má, thương yêu má, phụng dưỡng má để má được như hôm nay chúng con cũng được an lòng. Mừng thọ má trăm tuổi, chúng con mong má còn ở với chúng con lâu hơn, để chúng con, cháu, chắt còn có dịp báo hiếu với má. Đó cũng là tâm nguyện của chúng con. Kính chúc Má sức khoẻ, an hưởng tuổi già.

Hà Nội, ngày 7 tháng giêng năm Nhâm Thìn (2012)
Thay mặt các con, cháu, chắt: Trưởng nam Trần Đình Sử

16 nhận xét :

  1. Xin chia buồn cùng gia quyến. Chúc cụ Tiên Cảnh Nhàn Du!

    Trả lờiXóa
  2. Xin thành kính chia buồn cùng gia đình Cụ

    Trả lờiXóa
  3. Hoàng Thị Tú Tâm...!cụ ơi
    Một trăm tuổi đời vinh hiển cao sang
    Đức, tâm, trí dũng vẹn toàn
    Không tham của cải, chẳng màng lợi danh
    Những lo chăm chỉ làm ăn
    Nuôi con khôn lớn, trưởng thành bình yên
    Tề gia nên giá vợ hiền
    Đôi bên nội ngoại...đẹp duyên ông bà
    Cháu con đã rạng "tên nhà"
    Trang văn khúc triết, thật là tinh anh.
    Đã đành là lẽ tử sinh
    Nến hương con gửi tâm tình sẻ chia
    Mẹ ơi!... cõi thọ...bên kia
    Thấu chăng con cháu bơ vơ nhường nào?
    Vong linh Người đã thanh tao
    Hoàng - trần huyết lệ gửi trao cuộc đời
    Dẫu là gạo, tấm đấy thôi
    Non sông một dải, đất trời Trị - Thiên!
    TRƯƠNG ĐÔNG HÀO

    Trả lờiXóa
  4. Nguyễn Minh Thuyết - Hoàng Hoà Bìnhlúc 22:38 24 tháng 12, 2012

    Chúng tôi xin bày tỏ niềm thương tiếc
    Cụ Hoàng Thị Tú Tâm
    và thành kính phân ưu cùng đại gia đình GS Trần Đình Sử.
    Cuộc đời của Cụ gắn liền với những năm tháng gian lao của đất nước là một mẫu mực về nghị lực và sự đảm đang, về tình yêu thương của người phụ nữ Việt Nam dành cho chồng con, cháu chắt.
    Cầu chúc cho hương hồn Cụ được phiêu diêu miền Cực lạc.

    Trả lờiXóa
  5. Xin thành kính chia buồn cùng tang quyến, cách riêng cùng hai bác Diện-Hiền.

    Trả lờiXóa
  6. Ng H Châu, cháu ngoại bà Võ Thị Quỳnh Diêulúc 08:55 25 tháng 12, 2012

    Gia đình Nguyễn Hải Châu thành kính chia buồn cùng tang quyến,
    cầu chúc hương hồn bà Hoàng Thị Tú Tâm phiêu diêu miền cựu lạc

    Trả lờiXóa
  7. Xin thành kính chia buồn cùng tang quyến va hai ban Diện-Hiền.

    Trả lờiXóa
  8. Ng H Châu, cháu ngoại bà Võ Thị Quỳnh Diêulúc 09:35 25 tháng 12, 2012

    Thành kính chia buồn cùng tang quyến,
    cầu chúc hương hồn bà Hoàng Thị Tú Tâm phiêu diêu miền cực lạc

    Trả lờiXóa
  9. Thành kính phân ưu!

    Trả lờiXóa
  10. Xin chia buồn cùng gia quyến.

    Trả lờiXóa
  11. Xin kính vái trước hương hồn cụ Hoàng Thị Tú Tâm.
    Thành kính gửi lời chia buồn cùng toàn thể tang quyến.
    Chấn Phong.

    Trả lờiXóa
  12. cám ơn Nguyễn Haỉ Châu và gia đình. dì Nghĩa

    Trả lờiXóa
  13. Chân thành phân ưu cùng Gia đình GS Trần Đình Sử cùng hai bạn Diện-Hiền. Tôi biết tin muộn quá vì trước và sau 22-12 bận đi gặp đồng đội khắp nơi không vào mạng được.

    Trả lờiXóa
  14. Cầu chúc hương hồn DÌ sớm tiêu diêu nơi cõi Phât.
    Đoàn Ứng Viên,con trai bà Hoàng thi Diệu Phương.

    Trả lờiXóa
  15. Xin kính viếng Cụ Bà :
    " THỌ TRỌN BÁCH NIÊN CHU DU TIÊN CẢNH "

    NNTAM - Huế

    Trả lờiXóa
  16. Cầu cho hương hồn DÌ được siêu thoát
    Đoàn công Nghị,con trai bà Hoàng thị Diệu Phương

    Trả lờiXóa