Đó là câu lấy từ bài thơ "Nhân dân" của Nguyễn Khoa Điềm. Ai cũng biết, ông từng là Ủy viên bộ chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tư tưởng- văn hóa, Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin... Nhưng với tôi hơn tất cả ông là một thi sĩ có nhiều bài thơ hay. Thơ ông đã vào nhà trường từ lâu với các bài “Mẹ và quả”, “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”; “Đất nước” trích từ trường ca “Mặt đường khát vọng”…
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Khoa Điềm. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Khoa Điềm. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Tư, 11 tháng 9, 2019
Nguyễn Khoa Điềm: “SỰ SỢ HÃI KHÔNG CỨU ĐƯỢC CHÚNG TA”
Nhãn:
Đỗ Ngọc Thống
,
Nguyễn Khoa Điềm
,
thơ
Thứ Hai, 22 tháng 4, 2013
Nguyễn Khoa Điềm: ĐẤT NƯỚC NHỮNG THÁNG NĂM THẬT BUỒN
Đất nước những tháng năm thật buồn
Nguyễn Khoa Điềm
Đất nước những năm thật buồn
Nửa đêm ngồi dậy hút thuốc vặt
Lần mò trên trang mạng tìm một tin lành
Như kẻ khát nước qua sa mạc
Chung quanh yên ắng cả
Ngoài đường nhựa vắng tiếng xe lại qua
Người giàu, người nghèo đều ngủ
Cả bầy ve vừa lột xác
Sao mình thức?
Sao mình mải mê đeo đuổi một ngày mai tốt lành?
Bây giờ lá cờ trên Cột cờ Đại Nội
Có còn bay trong đêm
Sớm mai còn giữ được màu đỏ?
Bây giờ con cá hanh còn bơi trên sông vắng
Mong gặp một con cá hanh khác?
Bao giờ buổi sáng, buổi chiều nhìn ra đường
Thấy mọi người nhẹ nhàng, vui tươi
Ấm áp ly cà phê sớm
Các bà các cô khỏe mạnh yêu đời
Hớn hở tập thể dục
Bao giờ giọt nước mắt chảy xuống má
Không phải gạt vội vì xấu hổ
Ngước mắt, tin yêu mọi người
Ai sẽ nắm vận mệnh chúng ta
Trong không gian đầy sợ hãi?
Những cây thông trên núi Ngự Bình thấp thoáng ngọn nến xanh
Đời đời an ủi
Cho người đã khuất và người sống hôm nay …
22.4.2013
Nguồn: Quê Choa.
Nhãn:
Nguyễn Khoa Điềm
,
Quê Choa
,
thơ
Thứ Bảy, 28 tháng 4, 2012
Nguyễn Khoa Điềm: THƯƠNG NHỚ VĂN GIANG
![]() |
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm |
NXD - blog trân trọng giới thiệu chùm thơ viết năm 2006
của Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm:
THÁNG GIÊNG VỀ VĂN GIANG
Tháng giêng sao anh không về Văn Giang ngắm sông Hồng
Nhìn cỏ chân đê trôi trong sương khói
Mùa xuân ngủ ngon trên lưng những con bò vàng
Ngoài đồng đã kín những người đi tìm no ấm
Trong ngôi chùa cổ nở xoè pho tượng Quan Âm nghìn tay nghìn mắt
Tôi nắm tay những người nông dân ấm, mềm, chân thật
Như níu được nhau tự ngày xưa vỡ đê*
Mừng đến rưng nước mắt
Nhà nối nhà, đã ấm, đã sáng, vọng một điệu chèo
Sông Hồng mãi miết làm lịch sử …
* Sử chép có thời kỳ Văn giang 18 năm liền bị vỡ đê
CÁNH ĐỒNG BUỔI CHIỀU
Có một nhà thơ đi mãi vào cánh đồng buổi chiều
Lởm chởm những gốc rạ sau mùa cấy gặt
Mùi thơm lúa khoai thân thuộc
Nói gì hở tiếng reo cỏ may
Mùa thu vừa trở lại?
Nhà thơ cúi xuống tìm những hạt mồ hôi bỏ quên trên mặt đất
Bao người đã mất, đang còn
Sống âm thầm sau rặng tre khuất lấp
Không một dấu vết
Những mặt ruộng nứt nẻ
Chúng ta vẫn bưng bát cơm trắng mỗi ngày
Thật đơn giản, hiển nhiên, như hơi thở
Không còn nhớ có bao giọt mồ hôi trên mặt ruộng
Bao nhiêu bùn, bao nhiêu khổ đau
Khi mồ hôi trở nên quá rẻ
Kẻ ranh ma trở nên quá giàu
Đã lâu nhà thơ lại trở về với cánh đồng làng
Hít sâu hương thơm no ấm
Nhận ra trong mỗi khuôn mặt đen sạm
Những tháng ngày bỏ quên
Bằng bước chân chậm rãi
Nhà thơ lặng lẽ nối gót người nông dân đi mãi
Mặc cho ngôi sao hôm xa ngái dẫn đường
Thăm thẳm ngõ quê rơm rạ
Trái tim lăn tròn êm ả.
Ngày 5. 9. 2006
Nguồn: Blog Quechoa.
của Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm:
THÁNG GIÊNG VỀ VĂN GIANG
Tháng giêng sao anh không về Văn Giang ngắm sông Hồng
Nhìn cỏ chân đê trôi trong sương khói
Mùa xuân ngủ ngon trên lưng những con bò vàng
Ngoài đồng đã kín những người đi tìm no ấm
Trong ngôi chùa cổ nở xoè pho tượng Quan Âm nghìn tay nghìn mắt
Tôi nắm tay những người nông dân ấm, mềm, chân thật
Như níu được nhau tự ngày xưa vỡ đê*
Mừng đến rưng nước mắt
Nhà nối nhà, đã ấm, đã sáng, vọng một điệu chèo
Sông Hồng mãi miết làm lịch sử …
* Sử chép có thời kỳ Văn giang 18 năm liền bị vỡ đê
CÁNH ĐỒNG BUỔI CHIỀU
Có một nhà thơ đi mãi vào cánh đồng buổi chiều
Lởm chởm những gốc rạ sau mùa cấy gặt
Mùi thơm lúa khoai thân thuộc
Nói gì hở tiếng reo cỏ may
Mùa thu vừa trở lại?
Nhà thơ cúi xuống tìm những hạt mồ hôi bỏ quên trên mặt đất
Bao người đã mất, đang còn
Sống âm thầm sau rặng tre khuất lấp
Không một dấu vết
Những mặt ruộng nứt nẻ
Chúng ta vẫn bưng bát cơm trắng mỗi ngày
Thật đơn giản, hiển nhiên, như hơi thở
Không còn nhớ có bao giọt mồ hôi trên mặt ruộng
Bao nhiêu bùn, bao nhiêu khổ đau
Khi mồ hôi trở nên quá rẻ
Kẻ ranh ma trở nên quá giàu
Đã lâu nhà thơ lại trở về với cánh đồng làng
Hít sâu hương thơm no ấm
Nhận ra trong mỗi khuôn mặt đen sạm
Những tháng ngày bỏ quên
Bằng bước chân chậm rãi
Nhà thơ lặng lẽ nối gót người nông dân đi mãi
Mặc cho ngôi sao hôm xa ngái dẫn đường
Thăm thẳm ngõ quê rơm rạ
Trái tim lăn tròn êm ả.
Ngày 5. 9. 2006
Nguồn: Blog Quechoa.
Nhãn:
Nguyễn Khoa Điềm
,
thơ
,
Văn Giang
Thứ Tư, 11 tháng 4, 2012
Vương Tâm: BẢN NHẠC BUỒN TRÊN ĐỒI CHÂU Ê
Bản nhạc buồn trên đồi Châu Ê
Vương Tâm

Tôi nghe như có tiếng u trầm vang lên. Hẳn là tiếng người đang than hoà trong làn gió? Hương nhang phảng phất toả lan. Tôi vội rảo chân qua những bậc đá bước lên, thì ra có một thanh niên đang quỳ trước mộ bà Điềm Phùng Thị. Anh ta chắp tay và miệng nói những gì đó mà tôi không thể nghe được. Những âm thanh nghẹn lại. Tôi đứng lặng trong một không gian chông chếnh nỗi u hoài.
Trước mặt tôi bức tượng người bằng đá ong đỏ au trong ánh nắng, tĩnh lặng phía sau hai ngôi mộ của vợ chồng bà. Thấy tôi đến, anh thanh niên dong dỏng cao đứng dậy cúi chào, rồi im lặng bước đi. Tôi vội tiến tới bắt tay, hỏi vài câu nhưng anh ta lấy khăn lau nước mắt rồi chỉ vào ngôi mộ bà Điềm Phùng Thị, miệng thốt ra vài tiếng u ơ như muốn nói điều gì đó, mà không thể diễn tả nổi. Tôi chợt nhớ ra có thể đây là một học trò của bà trong những lớp điêu khắc cho người câm điếc ngày nào.
Tất cả bỗng tĩnh lặng. Gió như cũng đứng im. Tôi cúi đầu, chắp tay trước mộ bà. Bức tượng người đá ong trên cao im lặng nhìn tôi. Dường như âm thanh câm lặng ấy muốn thét lên điều gì đó. Có thể là những nỗi niềm còn ẩn ức. Những suy tư cần chia sẻ. Những nỗi đau thầm kín đang sụt sùi trong mộng ước cần giải toả của con người. Phải chăng đó chính là tín hiệu phát ra từ ngôn ngữ điêu khắc của Điềm Phùng Thị. Sự trầm tĩnh của đá nhưng lại lung linh như lửa vậy…
Chả thế mà đa phần tượng của bà đều xoay quanh mô tuyp khối “Im lặng”, “Chắp tay”, “Cầu nguyện”, “Cổng hư vô cõi Phật”. Phải chăng mọi điều đều xuất phát từ 7 miếng ghép xoay chuyển đầy biến ảo, đó là 7 “mô đun” của bà liên quan đến cõi thiền đầy trầm luân. Phải chăng ngay từ khi bước chân vào làng hội hoạ, bà đã từng bảo vệ luận án tiến sĩ ở Pháp cùng với chồng về nha khoa, có cái tên “Tục ăn trầu”, cũng đã rất gần với tư duy của ngôn ngữ tạo hình trên đá. Cái màu đỏ nồng ấm của trầu cau khi hoà lẫn đá vôi đã hoà sắc trong từng bản nhạc trầm buồn trên từng thớ đá. Có người nói tượng của bà là ký hiệu, hay bí ẩn, hoặc vô ngôn cũng đều ánh từ màu đỏ thắm trên môi người ấy mà thôi.
.
Trước mặt tôi bức tượng người bằng đá ong đỏ au trong ánh nắng, tĩnh lặng phía sau hai ngôi mộ của vợ chồng bà. Thấy tôi đến, anh thanh niên dong dỏng cao đứng dậy cúi chào, rồi im lặng bước đi. Tôi vội tiến tới bắt tay, hỏi vài câu nhưng anh ta lấy khăn lau nước mắt rồi chỉ vào ngôi mộ bà Điềm Phùng Thị, miệng thốt ra vài tiếng u ơ như muốn nói điều gì đó, mà không thể diễn tả nổi. Tôi chợt nhớ ra có thể đây là một học trò của bà trong những lớp điêu khắc cho người câm điếc ngày nào.
Tất cả bỗng tĩnh lặng. Gió như cũng đứng im. Tôi cúi đầu, chắp tay trước mộ bà. Bức tượng người đá ong trên cao im lặng nhìn tôi. Dường như âm thanh câm lặng ấy muốn thét lên điều gì đó. Có thể là những nỗi niềm còn ẩn ức. Những suy tư cần chia sẻ. Những nỗi đau thầm kín đang sụt sùi trong mộng ước cần giải toả của con người. Phải chăng đó chính là tín hiệu phát ra từ ngôn ngữ điêu khắc của Điềm Phùng Thị. Sự trầm tĩnh của đá nhưng lại lung linh như lửa vậy…
Chả thế mà đa phần tượng của bà đều xoay quanh mô tuyp khối “Im lặng”, “Chắp tay”, “Cầu nguyện”, “Cổng hư vô cõi Phật”. Phải chăng mọi điều đều xuất phát từ 7 miếng ghép xoay chuyển đầy biến ảo, đó là 7 “mô đun” của bà liên quan đến cõi thiền đầy trầm luân. Phải chăng ngay từ khi bước chân vào làng hội hoạ, bà đã từng bảo vệ luận án tiến sĩ ở Pháp cùng với chồng về nha khoa, có cái tên “Tục ăn trầu”, cũng đã rất gần với tư duy của ngôn ngữ tạo hình trên đá. Cái màu đỏ nồng ấm của trầu cau khi hoà lẫn đá vôi đã hoà sắc trong từng bản nhạc trầm buồn trên từng thớ đá. Có người nói tượng của bà là ký hiệu, hay bí ẩn, hoặc vô ngôn cũng đều ánh từ màu đỏ thắm trên môi người ấy mà thôi.
.

Mộ bà Điềm Phùng Thị
Lại nữa có người nói 7 mô đun của bà là 7 mẫu tự, là 7 sắc cầu vồng, hay 7 nốt nhạc, đều đúng cả. Những sao lại u uẩn nỗi niềm là vậy, có thể hình dung, trong cõi vô thường của đạo Phật, con số 7 lại thể hiện vạn vật linh thiêng khi đức Phật vừa ra khỏi lòng mẹ. Ngài bước đi 4 hướng, mỗi hướng 7 bước. 7 bước là chỉ quyền lực sáng tạo của con người khám phá thế giới trí tuệ và tâm hồn con người khi hoà cùng vũ trụ…
Bà bước vào thế giới hội hoạ với nhiều điều lạ lùng, khi đã bước sang tuổi 40 (năm 1960). Bà từng tốt nghiệp đại học Y khoa ở Hà Nội năm 1946, rồi đi theo cách mạng làm việc cho đến năm 1948, thì sang Pháp chữa bệnh. Sau đó bà tiếp tục học và bảo vệ luận án Bác sĩ nha khoa (học hàm Tiến sĩ), năm 1954. Với những người thành danh như bà quả là khó lý giải câu chuyện vì sao bà dứt hẳn lĩnh vực y khoa để dấn thân vào hội hoạ, và bắt đầu ngay từ điêu khắc. Bà say mê đến nỗi, thời kỳ đầu bà còn tranh thủ đúc tượng ngay trong nhà bếp, mỗi khi rời dao kéo ở phòng khám trở về. Thậm chí có những đêm cảm hứng tuôn trào, để giữ giấc ngủ cho chồng, bà còn ôm tượng vào phòng tắm để chau chuốt cho đúng ý tưởng mình theo đuổi.
Nhãn:
Điềm Phùng Thị
,
Huế
,
Nguyễn Khoa Điềm
,
Nguyễn Xuân Diện
Thứ Tư, 18 tháng 1, 2012
SÁCH MỚI: THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM - tuyển tập 40 năm do tác giả chọn
Thưa chư vị,
Chúng tôi vừa nhận được tập thơ: Thơ Nguyễn Khoa Điềm - tuyển tập 40 năm do tác giả chọn do Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm gửi tặng.
Nguyễn Xuân Diện & Trang Thanh Hiền trân trọng cảm ơn Nhà thơ và kính chúc thi sĩ cùng quý quyến một mùa xuân mới an vui, thư thái, một năm mới hạnh phúc!
Trước thềm năm mới Nhâm Thìn, xin trân trọng giới thiệu cùng chư vị chùm bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm, rút trong tập thơ trên:
Thơ Nguyễn Khoa Điềm
Về quê đón Tết
Trở về nhà
Nói cười trong gian bếp cũ
Đi vào đi ra
Ngồi bệt xuống thềm
Ngó mây bay trên vườn người khác
Mười năm đi xa
Mỗi năm một lần về quê ăn Tết
Người già nói ta còn trẻ
Cô gái trẻ cười ta mau già
Thử luồn tay vào tóc
Sợi bạc không che kín ngón
Mừng ông bà một nén hương mới
Khói thơm xanh trên nóc nhà
Bạn cũ đến chơi
Chép miệng sống cũng tạm được
Phải cái hơi móm
Cười trống trơ như Đỗ Phủ
Nhìn nhau thương con mắt
Còn lung lay ngọn lửa rừng
Thời bom đạn
Rót một chút rượu
Nào mừng một năm đi qua
Ít hoạn nạn
Mừng một ngày mới
Thong thả
Chưa cần tính tháng, tính năm...
Sau ngày hội
Những lo âu chờ đợi cũng đi qua
Điều hay dở đã thuộc ngày hôm trước
giấc ngủ của người trong cuộc
Đã nhẹ nhàng hơn
Nửa đêm tiếng mưa xa
chợt gọi anh về
Vùng yên lặng những chập chờn quên lãng
Cũng vậy thôi, chẳng có gì hơn
Điều được mất
Ngày đi qua, quãng đường đã bước
Hăm hở lo toan, cay đắng vụng về
chỉ còn trống vắng đêm thâu
Lặng lẽ một người
Lặng lẽ một đời
Như tảng đá
Tảng đá sạch rơi vào vùng núi cũ
Một Trường Sơn sương giá đã vào thu
Một tình yêu gửi gắm tự ngày xưa…
14.10.2000
Hy vọng
Nhiều khi đá dạy ta mềm mỏng
Sự tàn nhẫn nhắc ta điều lành
Nỗi buồn đánh thức hy vọng
Giữa thế giới không nhiều may mắn
Ta học cách vừa lòng với mình
Chia sẻ sự bình tâm của cỏ
Mãi khi giữa đêm chợt thức
Bập bềnh ý nghĩ xót xa:
Anh còn có thể, không thể?...
Thăm thẳm ngày xưa bình an
Vời vợi ngày mai chói nắng…
2.2.2004
Cánh đồng buổi chiều
Có một nhà thơ đi mãi vào cánh đồng buổi chiều
Lởm chởm những gốc rạ sau mùa cấy gặt
Mùi thơm lúa khoai thân thuộc
Nói gì hở tiếng reo cỏ may
Mùa thu vừa trở lại?
Nhà thơ cúi xuống tìm những hạt mồ hôi bỏ quên trên mặt đất
Bao người đã mất, đang còn
Sống âm thầm sau rặng tre khuất lấp
Không một dấu vết
Những mặt ruộng nứt nẻ
Chúng ta vẫn bưng bát cơm trắng mỗi ngày
Thật đơn giản, hiển nhiên, như hơi thở
Không còn nhớ có bao nhiêu giọt mồ hôi trên mặt ruộng
Bao nhiên bùn, bao nhiêu khổ đau
Khi mồ hôi trở nên quá rẻ
Kẻ ranh ma trở nên quá giàu
Đã lâu nhà thơ lại trở về với cánh đồng làng
Hít sâu hương thơm no ấm
Nhận ra trong mỗi khuôn mặt đen sạm
Những tháng ngày bỏ quên
Bằng bước chân chậm rãi
Nhà thơ lặng lẽ nối gót người nông dân đi mãi
Mặc cho ngôi sao Hôm xa ngái dẫn đường
Thăm thẳm ngõ quê rơm rạ
Trái tim lăn tròn êm ả.
5.9.2006
Tập thiền
Con hãy đưa miếng cơm vào bụng như ngày hôm qua con chưa được ăn và ngày mai cơm không còn nữa
Con hãy nhận ra từng hạt cơm dính với từng hạt cơm như bụi lúa đứng bên bụi lúa
Từng hạt, từng hạt nở trên cánh đồng như những vì sao chi chít bầu trời
Con hãy bưng bát cơm nặng đầy như phần thưởng mỡ màu mùa gặt hái
Rồi con nhớ lại trong đời con cũng đã từng đứt bữa
Cũng đã từng lấy cơm chấm cơm
Mỗi hạt cơm cõng một củ sắn, củ khoai hoặc chỉ là rau dại
Lúc đó mỗi hạt cơm trong miệng con thật ngọt bùi, thơm thảo
Con không cần ăn đến sơn hào hải vị
Để biết đến vị ngon có thể có trong đời
Chỉ cần trong một sát-na* con biết lắng mình vào cuộc sống
Một hạt cơm là cả cuộc đời.
Ngày 21.12.2006
Trong những buổi chiều
Trong những buổi chiều buồn bã
Tôi nói thầm với hàng cây trước nhà
Hãy dịu dàng hơn, hãy dịu dàng nữa
Trong những buổi chiều buồn bã
Đá cứng hơn, chân mềm hơn
Tôi trèo lên hừng hực ngọn bê - tông núi lửa
Mãi khi vầng trăng treo trước cửa
Chợt nhớ khuôn mặt hiền xót xa
Nghiêng xuống cánh đồng ngày xưa
Vì sao không thể yêu mến hơn?
Vì sao không xanh tươi hơn?
Vì sao không trong sạch hơn?
Tháng 7.2004
----------
(*) Đơn vị thời gian nhỏ nhất theo kinh điển Phật giáo
Nhãn:
Giới thiệu sách
,
Nguyễn Khoa Điềm
,
thơ
Thứ Hai, 21 tháng 11, 2011
NHÂN DÂN - Thơ Nguyễn Khoa Điềm
Nhân dân
Nguyễn Khoa Điềm
Cúi mình trên đồng lúa
Lao lên các hỏa điểm chiến tranh
Lăn mình trong các cuộc xuống đường
Cặm cụi với sách vở
Họ là nhân dân thứ thiệt
Nhưng trên diễn đàn cao nhất nước
Nhưng trên diễn đàn cao nhất nước
Có người nói nhân dân chưa đủ trí tuệ
Để hưởng luật biểu tình !
Tôi nghĩ mãi
Ai đã bầu ra ông nghị này nhỉ ?
Sao lại sợ nhân dân biểu tình ?
Không !
Không !
Sự sợ hãi không cứu được chúng ta
Mà chính là sự can đảm
Đi tới dân chủ.
Tháng 11. 2011
Tháng 11. 2011
N.K.Đ
Tác giả gửi cho Quê choa
Nhãn:
Luật biểu tình
,
Nguyễn Khoa Điềm
,
Quê Choa
Đăng ký:
Bài đăng
(
Atom
)