liên quan đến Công hàm Phạm Văn Đồng
Bauxite Việt Nam
03-06-2014
Sau khi Bauxite Việt Nam đăng bài Xóa bỏ tai họa công thư Phạm Văn Đồng 1958 của nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai, chúng tôi nhận được bài của anh Hà Sĩ Phu bàn về cách thoát khỏi sự ràng buộc của Công hàm này, và thư của anh Dương Danh Huy nhắc lại một bài anh đã công bố liên quan đến Công hàm Phạm Văn Đồng. Nhận thấy cả hai bài đều có ích cho nhận thức của chúng ta, Bauxite Việt Nam xin đăng để rộng đường dư luận.Bauxite Việt Nam
Bàn về hai cách thoát khỏi Công hàm 1958
Hà Sĩ Phu
Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai đã “đóng đanh” bức Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 bằng những chứng cứ trên giấy trắng mực đen như sau:
- Thực chất của công hàm đó là “công khai tuyên bố thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc ở các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, là “rất tai hại, rất phản động”, “là một tai họa cho Việt Nam”, là “có tác hại phản quốc phải hủy bỏ”.
- Đó là một CÔNG HÀM cấp
nhà nước (hình bên), giữa hai đại diện cao nhất của hai chính phủ, vì
thế không thể tùy tiện hạ thấp tầm quan trọng của công hàm này thành một
“công thư”, coi văn bản này “không có giá trị, vì anh không thể đem cho cái không phải quyền của anh”. Tác giả cho thấy cách lập luận nhằm hủy bỏ tầm quan trọng của một Công hàm như vậy là “hời hợt”, chỉ là “cãi chày cãi cối”, là “vô trách nhiệm”!
- Vì vậy. để hủy bỏ được công hàm tai hại ấy, tác giả thấy phải đưa ra một giải pháp khác là “Quốc Hội mới của CHXHCN VN phải phủ quyết cái công thư phản động ấy”.
Đấy là những kết luận
dứt khoát dựa trên những chứng cứ không thể chối cãi. Nhưng một khi đã
công nhận những kết luận ấy không thể không tiếp tục đặt ra những câu
hỏi khác và bàn thêm về hai cách giải thoát khỏi Công hàm 1958 ấy cho
thật cặn kẽ.
1/ Một Công hàm đã bán chủ quyền, đã “phản động, phản quốc” như vậy thì tác giả của Công hàm ấy, cá nhân cũng như tập thể, cần được phán xét ra sao, chịu trách nhiệm thế nào với hậu thế, với sự tồn vong của đất nước? Bài học rút ra là gì?
2/ Thoát khỏi Công hàm 1958 bằng cách nào?
Mọi người đều thấy Công
hàm 1958 là sự ràng buộc nguy hiểm nên đều thấy phải tìm cách thoát khỏi
Công hàm đó. Nhưng tùy thuộc mục đích ưu tiên bảo vệ đất nước hay ưu
tiên bảo vệ chế độ mà phát sinh hai kiểu thoát hiểm.
- Muốn bảo vệ cái nền
móng, bảo vệ thể chế, sợ dứt dây động rừng thì lái cho thiên hạ quên đi
tầm quan trọng của Công hàm đó, hạ thấp tính chính thống và tính pháp lý
của Công hàm, coi Công hàm là thứ chẳng đáng quan tâm. Song ngụy biện
kiểu này chỉ để tự che mắt mình và che mắt dân, chứ không thể cãi được
với kẻ xâm lược tinh quái đã “nắm đằng chuôi”, và cũng không thuyết phục
được công lý quốc tế khách quan. Thật vậy, ai có thể tưởng tượng một
Thủ tướng lại dễ dãi đến mức quyết định “cho” nước láng giềng một phần
lãnh thổ của Tổ quốc chỉ vì nghĩ rằng phần lãnh thổ ấy đang thuộc phần
quản lý của đồng bào mình ở miền Nam thì cứ việc “cho” cũng chẳng hại
gì? Trong khi vị Thủ tướng này luôn nhắc lời Chủ tịch Hồ Chí Minh, người
chịu trách nhiệm cao nhất bấy giờ, rằng “Tổ quốc Việt Nam là một,… chân lý ấy không bao giờ thay đổi” kia mà? Thêm nữa, đã tâm niệm “Tổ quốc Việt Nam là một”
thì khi Trung Quốc chiếm mất Hoàng Sa năm 1974 phải hiểu là một phần Tổ
quốc của mình bị xâm lược (dù đồng bào nửa nước bên kia đang quản lý),
sao không có một lời phản đối bọn xâm lược. lại phấn khởi vui mừng vì
một vùng biển đảo của Tổ quốc đã vào tay nước bạn để nước bạn giữ cho?
Thật tiếu lâm, khôi hài đến chảy nước mắt.
- Tóm lại là cố gắng vô
hiệu Công hàm 1958 kiểu này không có giá trị thực tế gì, rất dễ bị đối
phương bẻ gãy. Nếu kiện ra Liên Hiệp Quốc, chỉ một Công hàm Phạm Văn
Đồng đủ làm cho Việt Nam đuối lý (chưa cần đến những hiệp ước nhượng bộ,
đầu hàng về sau mà Trung Quốc đã thủ sẵn trong tay). Khi Trung Quốc đã
chốt được tính pháp lý chính danh của Công hàm 1958 thì mặc nhiên đã vô
hiệu được tất cả những chứng cứ lịch sử trước 1958 và cả những tranh cãi
sau 1958 đến nay. Chính phủ Việt Nam cũng biết vậy nên cứ trì hoãn
không dám kiện Trung Quốc, viện lý do rất “đạo đức” là sợ làm đổ mất
“bát nước đầy” (cái bát nước hữu nghị mà phía Trung Quốc đã phóng uế
vào!). Kiểu chống đỡ lúng túng này chỉ bởi vì ưu tiên bảo vệ chế độ, bắt
Tổ quốc phải hy sinh cho chế độ.
- Vậy phải thoát khỏi Công hàm 1958 bằng cách khác, “bằng một tuyên bố công khai có giá trị pháp lý cao hơn” ví dụ “Quốc hội mới của CHXHCN VN phải phủ quyết cái công thư phản động ấy”
như bác Nguyễn Khắc Mai đề xuất. Giải pháp này có hiệu quả đến đâu? Vấn
đề là một chính phủ với tư cách hậu duệ kế tục của chính phủ Phạm Văn
Đồng – Hồ Chí Minh thì đương nhiên có trách nhiệm thi hành những tuyên
bố của chính phủ hợp pháp trước đây đã ký, Trung Quốc có quyền đòi hỏi
theo luật như vậy, điều Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký thì Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng có trách nhiệm thực hiện, một khi ông Thủ tướng sau đã
nguyện kế tục sự nghiệp của ông Thủ tướng trước. Chỉ còn một cách: Muốn
khước từ thi hành Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 buộc Chính quyền Việt Nam
hiện nay phải nhân danh nhân dân Việt Nam tuyên bố khước từ và tẩy chay
những sai lầm “phản động, phản quốc” của chế độ cũ, lập chế độ
mới. Liệu cái Quốc hội Cộng sản hiện nay có dám cắt đứt cái mạch máu
huyết thống này để kiến tạo một quyết định thoát Cựu, thoát Trung, ích
nước lợi nhà như vậy không?
Khó khăn cốt lõi vẫn ở chỗ: Muốn thoát Hán, mà bước một là thoát khỏi Công hàm phản quốc 1958, chỉ có cách phải giải Cộng, thoát Cộng!
3/ Thoát Cộng được lợi những gì?
Trong thực tiễn Việt Nam hiện nay nói thoát Cựu, thoát Cộng hay “vượt qua chính mình” thực ra cùng một nghĩa, tuy “vượt qua chính mình” là cách nói dễ nghe hơn, nhưng tôi xin được dùng chữ thoát Cộng vì đúng thực chất nhất.
Nếu giữ chủ nghĩa Cộng sản thì phải gánh chịu những tai hại gì?
- Toàn bộ kế hoạch “đô hộ Việt Nam kiểu mới” mấy chục năm nay của Trung Cộng được thiết kế trên hai chữ Cộng sản, giữ cái nền Cộng sản là giúp cho mưu đồ Hán hóa có một ưu thế ở tầm chiến lược.
- Giữ Cộng sản thì Việt
Nam bị ràng buộc bởi quá khứ đầy nợ nần và lầm lỡ, khó thoát ra, chẳng
hạn như công hàm 1958, cam kết Thành Đô, các ký kết thời Lê Khả Phiêu,
thời Nông Đức Mạnh, thời Nguyễn Phú Trọng…
- Còn giữ Cộng sản thì
quan hệ ràng buộc Trung-Việt như quan hệ giữa “thú dữ và con mồi” cứ
thít chặt lại, trong khi các khối đoàn kết để kháng cự thì bị lỏng ra,
ví dụ giới lãnh đạo thì bị chia thành phái thân Tàu và nhóm lợi ích,
lãnh đạo thì ngày càng đối lập với dân, quốc nội với hải ngoại vẫn còn
cách biệt, các liên kết Việt Mỹ, Việt Âu, Việt ASEAN… đều bị yếu tố Cộng
sản hạn chế một phần, không thể thanh thoát… Như thế lấy đâu ra sức
mạnh?
Trái lại, chỉ cần thoát
Cộng thì tất cả những trở ngại trên sẽ được giải tỏa, đặc biệt là toàn
bộ dân Việt khắp nơi khắp chốn tự nhiên sẽ ôm lấy nhau mà reo hò, không
cần bất cứ một nghị quyết “hòa hợp hòa giải” nào hết, niềm mơ ước một
hội nghị Diên Hồng từ đó mới có cơ sở để mở ra, nếu không thì Diên Hồng
mãi mãi chỉ là một lời hô hào suông, không có thực chất.
4/ Thoát Cộng dễ hay khó?
- Sẽ quá khó, quá gay
go, nếu Đảng Cộng sản cứ ôm lấy vinh quang quá khứ và lợi quyền hiện tại
khiến cho Đảng ngày càng xa dân, đối lập với dân, mỗi động tác dân chủ
hóa, dẫu còn ở mức độ “cải lương” thôi cũng đã là một cuộc cọ xát nảy
lửa, đã xảy ra bắt bớ cầm tù, nói gì đến sự đổi mới thể chế, đổi mới hệ
thống?
- Nhưng không, sẽ vô
cùng dễ dàng nếu Đảng biết “tự vượt qua mình”, lấy lợi ích dân tộc trên
hết mà vượt trên quá khứ, chuyển sang nền dân chủ đa nguyên như các nước
tiên tiến thì Đảng có mất chỉ mất cái danh hão mà được tất cả. Chẳng
những không ai chỉ trích quá khứ nữa làm gì, mà các vị cầm quyền còn
được nhân dân yêu quý và biết ơn thật sự, không còn tình trạng “thấy mặt
là tắt tivi” như bấy lâu nay. Về tinh thần đã thanh thỏa như vậy, về
vật chất cũng cơ bản được đảm bảo; có phải nhân dân đã từng bắn tiếng
rằng nếu người lãnh đạo biết đổi mới để cứu nước, thoát Hán thì dân sẵn
sàng độ lượng cho tận hưởng bổng lộc đấy thôi? Triển vọng xán lạn ấy có
thể lắm chứ, sao lại không?
Quả bóng cứu dân cứu
nước hiện đang trong chân người cầm quyền, dân rất mong mỏi những người
cầm quyền biết xử lý thông minh, khôn ngoan, ích nước lợi nhà. Chỉ trừ
trường hợp chẳng may, đợi mãi, vô vọng (chẳng hạn như tiền đạo họ Phùng
cứ sút mãi bóng vào lưới nhà) thì tất nhiên dân phải đứng dậy giành quả
bóng về chân mình mà xử lý theo đúng ý nguyện của dân, để “nâng thuyền hay lật thuyền” như quy luật của muôn đời mà Nguyễn Trãi đã diễn tả bằng một hình ảnh lưu danh bất hủ…
H.S.P. (2-6-2014)
Tác giả gửi BVN.
——
Lấy lại Hoàng Sa: Những điều bất khả thi
Dương Danh Huy, nhà nghiên cứu về Biển Đông
Kỷ niệm 40 năm hải chiến Hoàng Sa đã nhắc lại vết thương mất lãnh thổ chưa lành của người Việt.
Vết thương đó đã đem lại
nhiều bức xúc trong 40 năm qua, và đã có một số ý tưởng cho việc giành
lại Hoàng Sa hoặc củng cố lập luận pháp lý của Việt Nam.
Nhưng trong số đó có một số ý tưởng không khả thi:
1: Kiên trì đàm phán với Trung Quốc.
Trung Quốc chủ trương
không đàm phán về chủ quyền đối với các đảo Trường Sa. Đối với Hoàng Sa,
Trung Quốc còn không công nhận là có tranh chấp. Hiện nay không có việc
đàm phán cho vấn đề chủ quyền đối với đảo, do đó ý tưởng kiên trì đàm
phán về vấn đề chủ quyền đối với đảo là kiên trì trong một việc không
hiện hữu, và sẽ không đi đến đâu.
Giả sử các bên trong
tranh chấp có đàm phán về chủ quyền đối với đảo đi nữa, cũng khó mà
Trung Quốc sẽ trả dù chỉ là một phần các đảo Hoàng Sa cho Việt Nam. Ở
Trường Sa, nếu có đàm phán, không nước nào sẽ chấp nhận mình không được
đảo nào. Khó có chính phủ Philippines, Trung Quốc hay Việt Nam nào dám
đối đầu với dư luận trong nước của họ để chấp nhận không giành được phần
lớn các đảo. Vì vậy, dù các bên có kiên trì đàm phán thì cũng khó giải
quyết tranh chấp đảo.
Việc đưa tranh chấp đảo
cho một tòa án quốc tế phân xử sẽ là khách quan nhất. Nó cũng là một lối
thoát để cho các chính phủ đi đến một giải pháp trong khi tránh búa rìu
dư luận trong trường hợp giải pháp đó không được như yêu sách ban đầu.
2: Đơn phương kiện Trung Quốc như Philippines
“Việc kiện Trung Quốc về chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa là rất khác với việc Philippines kiện Trung Quốc.”
Việc kiện Trung Quốc về chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa là rất khác với việc Philippines kiện Trung Quốc.
Việc Philippines có thể
đơn phương kiện Trung Quốc là dựa trên việc thủ tục giải quyết tranh
chấp của UNCLOS cho phép Tòa thụ lý một số vấn đề liên quan đến việc
giải thích UNCLOS cho tranh chấp biển và thềm lục địa, mặc dù Trung Quốc
đã bảo lưu theo Điều 298 của UNCLOS, và cho dù Trung Quốc có vắng mặt.
Nhưng những vấn đề đó không bao gồm phân xử chủ quyền đối với đảo. Vì
vậy, không nước nào có thể dùng thủ tục giải quyết tranh chấp của UNCLOS
để đơn phương kiện Trung Quốc về chủ quyền đối với đảo.
Bên cạnh đó, ngoài thủ
tục giải quyết tranh chấp của UNCLOS hiện nay không có cách nào khác để
chúng ta đơn phương kiện Trung Quốc về chủ quyền đối với đảo. Đối với
vấn đề chủ quyền, Tòa chỉ có thể thụ lý nếu tất cả các bên chấp nhận
thẩm quyền của Tòa.
Vì vậy, hiện nay chưa có
điều kiện để ra tòa về vấn đề chủ quyền đối với đảo. Điều Việt Nam cần
làm là công khai yêu cầu Trung Quốc ra tòa. Mặc dù Trung Quốc sẽ không
chấp nhận, điều đó sẽ cho thế giới thấy Trung Quốc là bên sợ lẽ phải và
cản trở việc giải quyết tranh chấp.
3: Tuyên bố thừa kế di sản VNCH
Ý tưởng này là quan điểm
cho rằng Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) chưa từng thừa
kế chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa, và bây giờ phải tuyên bố thừa
kế “di sản Việt Nam Cộng Hòa (VNCH)” thì mới thừa kế. Nó còn có thể bao
gồm cả CHXHCNVN cần tuyên bố cắt đứt với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
(VNDCCH) để vô hiệu hóa những điều bất lợi về Hoàng Sa, Trường Sa.
Ý tưởng này không có cơ sở trong luật quốc tế.
Tòa sẽ đặt vấn đề: sau
khi CHXHCNVN được thành lập như một quốc gia vào năm 1976 thì Hoàng Sa,
Trường Sa thuộc về nước nào? Nếu phía Việt Nam cho rằng vào năm 1976
CHXHCNVN chưa thừa kế chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa, nhưng đã
thừa kế khi tuyên bố thừa kế “di sản VNCH”, thí dụ như vào năm 2014, câu
chuyện Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam sẽ bị kết liễu.
Lý do là nếu vào năm
1976 CHXHCNVN chưa thừa kế chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa, và
không những thế cho đến năm 2014 vẫn chưa thừa kế, thì chủ quyền đó sẽ
rơi vào tay một trong những quốc gia khác đã đòi chủ quyền từ trước
1976.
Ý tưởng sai lầm rằng từ
năm 1976 đến 2014 CHXHCNVN không có chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường
Sa có nghĩa Tòa sẽ khó tránh kết luận trong thời gian đó chủ quyền đã
rơi vào tay Trung Quốc hoặc Philippines. Giả sử như năm 2014 CHXHCNVN có
tuyên bố “thừa kế di sản VNCH” đi nữa, Tòa cũng sẽ khó tránh kết luận
rằng đến 2014 thì chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa đã thuộc về
Trung Quốc hoặc Philippines từ trước rồi, không còn để cho CHXHCNVN thừa
kế nữa.
Ý tưởng sai lầm đó có
nghĩa kết liễu chủ quyền Việt Nam vào năm 1976 với hứa hẹn làm cho nó
tái sinh sau hơn 35 năm bằng cách tuyên bố “thừa kế di sản VNCH”, một
hứa hẹn sẽ không bao giờ hiện thực
Ý tưởng đó cũng là ngược
với thực tế. Trên thực tế, gần như không nước nào trên thế giới cho
rằng CHXHCNVN chưa thừa kế vùng lãnh thổ hay quyền chủ quyền nào đó từ
VNCH, gián tiếp qua CHMNVN, kể cả những khu vực có tranh chấp với Lào,
CPC, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines, thậm chí cả với Trung
Quốc. Không có lý do hợp lý để cho người Việt lại cho rằng Việt Nam chưa
từng thừa kế chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa.
Ý tưởng cần tuyên bố cắt
đứt với VNDCCH nhằm vô hiệu hóa những điều bất lợi về Hoàng Sa, Trường
Sa cũng không có cơ sở trong luật quốc tế. “Cắt đứt” với VNDCCH, một
chính thể vốn không còn tồn tại, hay không là một vấn đề nội bộ của Việt
Nam. Việc chủ quyền pháp lý trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc
về nước nào là một vấn đề luật pháp quốc tế. Luật quốc tế không công
nhận việc tuyên bố cắt đứt trong nội bộ hay với quá khứ để đơn phương
hủy bỏ nghĩa vụ pháp lý (nếu có) giữa các quốc gia.
Để Việt Nam ngày nay hay
trong tương lai có chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa, chỉ có hai
trường hợp: CHXHCNVN phải có chủ quyền đó ngay từ 1976, nếu không thì
Trung Quốc và Philippines phải có hành vi bị cho là từ bỏ danh nghĩa hay
yêu sách chủ quyền của họ. Sẽ khó có trường hợp thứ nhì, do đó chúng ta
phải chứng minh được trường hợp thứ nhất.
Ý tưởng 4: Tuyên bố hủy công hàm Phạm Văn Đồng
Đây là một biện pháp bất lợi cho Việt Nam.
Hiện nay câu hỏi “CHPVĐ
có gây ra nghĩa vụ ràng buộc cho CHXHCNVN liên quan đến Hoàng Sa, Trường
Sa hay không?” là một vấn đề còn tranh cãi. Nếu Quốc hội Việt Nam chính
thức tuyên bố hủy CH đó, thì tuyên bố đó có thể bị cho là gián tiếp
công nhận rằng nó có gây ra nghĩa vụ pháp lý cho CHXHCNVN có cho tới
ngày nó bị hủy – vì nếu nó không gây ra nghĩa vụ pháp lý nào cho
CHXHCNVN thì tại sao cần hủy?
Sự công nhận gián tiếp
đó là bất lợi cho Việt Nam. Hơn nữa, nếu Việt Nam gián tiếp công nhận
rằng CHPVĐ đã gây ra một nghĩa vụ ràng buộc cho Việt Nam đối với Trung
Quốc, thí dụ như cho đến 2014, thì luật quốc tế cũng không công nhận
việc Việt Nam đơn phương hủy nghĩa vụ đó. Như vậy Việt Nam sẽ tự bước
vào một cái bẫy và sẽ không thoát ra được.
***
Tóm lại, Việt Nam cần
công khai yêu cầu Trung Quốc ra tòa,cũng như cần lập luận rằng CHXHCNVN
đã có chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa ngay từ 1976 và CHPVĐ đã
không làm cho mất chủ quyền đó vào tay Trung Quốc. Nếu không bảo vệ
thành công quan điểm đó thì bây giờ có tuyên bố thừa kế, cắt đứt, hủy,
cũng sẽ vô tác dụng. Nếu bây giờ tuyên bố thừa kế, cắt đứt, hủy, thì chỉ
có thể phản tác dụng.
Bài viết phản ánh quan điểm của tác giả, thành viên nhóm Nghiên cứu Biển Đông và có sự góp ý của Phạm Thanh Vân.
D. D. H.
Nguồn: BBC
Thấy khó thật anh Tễu ơi, khó quá chừng luôn. Tôi là đảng viên tôi biết, thoát cộng, thoát tàu là chuyện viển vông, chỉ đến khi nào chúng tự chết đi...mà cũng mong cho nó chết sớm để tổ quốc nhờ, dân nhờ
Trả lờiXóaToàn dân đang xem xét sự lựa chọn và thái độ dứt khoát của đang CSVN. Không được câu giờ nữa,, nếu trể là trăm năm là nghìn năm đấy.!
Trả lờiXóacông hàm PVĐ là bài học cho những ai "lãnh tụ, lãnh đạo" có tư tưởng & cái nhìn "ngắn hạn" sẽ bị người người, đời đời nguyền rủa
Trả lờiXóaTheo tôi được biết qua các tài liệu thì năm 1951, sau khi Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thành lập được 2 năm, ông Chu Ân Lai đã tuyên bố chủ quyền của Trung Hoa trên toàn bộ biển Đông. Lúc đó, Việt Nam đang kháng chiến quyết liệt chống Pháp. Ông Hồ Chí Minh và chính phủ Việt Nam có biết tuyên bố ấy không khi ông Hồ là "huynh" của ông Chu.
Trả lờiXóa- Năm 1956, ông Ung Văn Khiêm, thứ trưởng Bộ ngoại giao Việt Nam DCCH nó với thứ trưởng ngoại giao Trung Hoa Lí Tiên Niệm rằng: Từ lịch sử quá khứ, Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về Trung Quốc. Cũng năm đó, Chu Ân Lai trao trả Bạch Long Vĩ lại cho Việt Nam (là đảo mà họ được Việt Nam nhờ tiếp quản hộ vào 1954). Có đổi chác gì ở đây?
- Năm 1958, ông thủ tướng Phạm Văn Đồng kí công hàm đồng ý với Trung Quốc Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Quốc. Điều này là chắc chắn về mặt pháp lí. Không thể cãi được.
Vậy thì sao? Chỉ một điều là: Tất cả những tuyên bố của Trung Hoa, đặc biệt là quyết nghị 1958 là đơn phương, là vi phạm luật pháp quốc tế đương thời mà Trung Quốc thừa nhận. Việc ông Phạm Văn Đồng đồng thuận với Quyết nghị trên của Trung Hoa là sai lầm lịch sử.
Chúng ta cần thừa nhận sai lầm đó như đã thừa nhận sai lầm trong cải cách ruộng đất. Khốn nỗi là, ai nói đến sai lầm xưa nay của lãnh đạo Đảng, Nhà nước là ngay lập tức được coi như là "lực lượng thù địch".
Bây giờ thì rõ ra cái chân lí dân gian: "Đường đi hay tối, nói dối hay cùng". Không thừa nhận ông Phạm Văn Đồng sai nên thành ra bây giờ "Há miệng mắc quai". Nếu lí lẽ rằng, Ông Đồng lấy cái của người khác đem cho Trung Hoa thì ông ấy thành kiểu người gì vậy. Hãy so với lí lẽ của Lê Văn Thịnh khi đàm phán với nhà Tống thì rõ.
Nếu lí lẽ rằng, Ông Đồng lấy cái của người khác đem cho Trung Hoa thì ông ấy thành kiểu người gì vậy, ông là đại diện của Ai tại thời điểm đó ?
Xóa_________________________
Ứng bất biến dĩ vạn biến: để lợi dụng được nhiều Viện trợ từ TQ, Chính phủ do ông PVĐ đại diện đã lừa giặc ( bạn): Ai bảo bạn ngu thì chết.
Chứ 2 đảo đó đúng là của VNCH, nếu TQ dùng vũ lực chiếm là sai đứt đuôi
Tác giả viết rất hay , nhưng tôi nghĩ tác giả chỉ như người chết đuối vớ lấy nước bọt mà thôi . Người cộng sản không bao giờ tự thay đổi mình được , không thể vì dân tộc, vì đất nước , mà bỏ qua quyền lợi của đảng , và cái gọi là hào quang của đảng . Nhân dân hãy tự cứu mình mà thôi !
Trả lờiXóa