Nguyễn Hùng Vĩ
Lời dẫn của tác giả: Bài báo này được tác giả viết cách nay 14 năm và đã in ở Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 10 (184) 1999 (từ trang 102 đến trang 106) với 5 ảnh chụp hiện trạng cột đá lúc đó. Ở chỗ chèn ảnh, bài viết đã bị mất một đoạn trích dẫn các ý kiến của các nhà nghiên cứu đi trước. Nay tác giả đánh máy lại nguyên văn bản in vừa để lưu giữ làm tư liệu cá nhân vừa cung cấp tư liệu cho những ai cần tham khảo. Đến nay, việc tiếp xúc với nhiều tài liệu hơn đã giúp tác giả tiếp tục khẳng định giả thiết về công trình kiến trúc trên cột đá này là hợp lí và đang tiến hành làm các bản vẽ kĩ thuật đối chứng các tài liệu mới.
.
Lời dẫn của tác giả: Bài báo này được tác giả viết cách nay 14 năm và đã in ở Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 10 (184) 1999 (từ trang 102 đến trang 106) với 5 ảnh chụp hiện trạng cột đá lúc đó. Ở chỗ chèn ảnh, bài viết đã bị mất một đoạn trích dẫn các ý kiến của các nhà nghiên cứu đi trước. Nay tác giả đánh máy lại nguyên văn bản in vừa để lưu giữ làm tư liệu cá nhân vừa cung cấp tư liệu cho những ai cần tham khảo. Đến nay, việc tiếp xúc với nhiều tài liệu hơn đã giúp tác giả tiếp tục khẳng định giả thiết về công trình kiến trúc trên cột đá này là hợp lí và đang tiến hành làm các bản vẽ kĩ thuật đối chứng các tài liệu mới.
.
Cột đá chùa Dạm là một di vật
quen thuộc đối với giới nghiên cứu văn hóa, lịch sử, nghệ thuật và tôn giáo..
Nhờ giá trị chủ yếu mà từ tháng 1 năm 1964, chùa Dạm được Nhà nước công nhận Di
tích lịch sử-văn hóa của Quốc gia. Thác bản của nó được phục chế với tỉ lệ 1:1
đặt trước mặt Viện Bảo tàng Mỹ thuật Hà Nội. Tính chất hoành tráng nhưng tinh tế
của nó đã chinh phục lòng chiêm ngưỡng của chúng ta.
Tất nhiên, cũng như nhiều di vật
nổi tiếng, việc nghiên cứu nó để lại nhiều ý kiến khác nhau đặc biệt là về chức
năng và tác dụng của ...[Đoạn bị chèn ảnh mất]… Mỹ thuật Lý-Trần, Mỹ thuật Phật giáo của Chu Quang Trứ, nhà nghiên
cứu mỹ thuật có nhắc tới cột đá nổi tiếng này. Trong khoa học, ý kiến khác nhau
là chuyện thường tình. Người viết bài này sở dĩ gọi nó một cách quyết đoán là “Cột đá chùa Một Cột” là vì sau khi đọc
những trong cuốn sách đang có uy tín này của ông. PGS Chu Quang Trứ ở bài Trông về chùa Dạm viết: “Có người cho cột đá chùa Dạm phải đỡ một tấm
kiến trúc ở trên đỉnh nó, như kiểu chùa Một Cột (Hà Nội). Nhưng quan sát kĩ, ta
thấy những cái hốc quanh đầu cột rải ra không đều, chỗ thì quá mau, chỗ lại quá
thưa, tất cả 6 lỗ mà có tới một phần ba vòng thân cột không có lỗ nào. Dầu cho
có một trí tưởng tượng đến mức cao độ cũng khó có thể vẽ nên một kiểu nhà xây
trên cột này được”.
Để bài viết nhanh đi đến kết thúc, tôi có thể nói ngay rằng ý kiến của PGS Chu Quang Trứ là hoàn toàn sai. Lí do của sự sai là do ông chưa quan sát kĩ mà thôi. Có lẽ ông ngắm trực tiếp cột đá, nhưng khi nghiên cứu ông chỉ dựa vào ảnh chụp và đặc biệt dựa vào thác bản ở Bảo tàng Mỹ thuật, mà theo tôi phần ngọn cột đá được các nhà phục chế làm rất chi là cẩu thả nên sai trầm trọng nhiều chi tiết.
1. Những số liệu đo được:
Ngày 23 tháng 9 năm 1999, được
sự giúp đỡ của PGS Đặng Văn Lung (Viện Văn học) và hai sinh viên chuyên ngành
Hán Nôm (Khoa Văn học, Trường Đại học KHXH &NV) tôi đã tiến hành khảo sát
và đo đạc trực tiếp cột đã này. Dầu đã qua non ngàn năm gội nắng mưa sấm sét
nhưng những gì còn lại là có thể đo được tương đối chính xác. Trụ đá vẫn đứng
thẳng trơ gan cùng tuế nguyệt tuy có
bị sứt gãy một số chỗ.
Trước hết là dáng thẳng đứng của
cột vẫn hoàn toàn bảo đảm khi ngắm các góc băng dây dọi. ta dễ dàng nhận ra mặt
tiền của công trình nhờ đôi rồng chầu mặt trời trên phần trụ tròn. Hướng mặt của
trụ là hướng tây (hơi chếch nam 5-7 độ) và có thể gọi là chính tây.
Từ mặt nền trở lên, trụ đá được
chia làm bốn phần tương đương.
Phần dưới cùng là một khối hộp
vuông mỗi bên có cạnh ngang là 1m65 (165cm) và 1m55 (155cm). Hộp có chiều cao từ
mặt nền là 1m07 (107cm).
Phần trên tiếp theo gồm hai giật
cấp liên tục từ khối vuông sang khối tròn bằng cách chem. các cạnh vuông đứng.
Phần giật cấp một cao gần 0,70m (70cm). Phần giật cấp hai, vát sâu hơn để tạo
khối gần thành trụ tròn, cao khoảng 0,30m (30cm). (Vì khi chém vát, có độ
nghiêng nên khá khó đo, tuy nhiên, chịu khó thì vẫn đo được). Tổng cộng chiều
cao cả hai giật cấp là khoảng 1,01m (101cm).
Phần trụ tròn có trang trí đôi
rồng chầu mặt trời, lượn thoăn thoắt quấn quanh cột và phần đuôi ngoắc vào nhau
xoắn xuýt, uyên chuyển, có chiều cao 1m07 (107cm).
Hiện trạng, phần phù điêu này ở
mặt bắc bị hư hại nặng, còn ở mặt nam vỡ một ít. Phần còn lại hầu như nguyên vẹn.
Giới hạn trên cùng của phần này là hai đường chân chỉ nổi song song còn thấy được
ở mặt sau trụ. Bằng nhiều lần đo phần tròn của chu vi, phần thu vào so với khối
vuông, chúng tôi qua tính toán gần đúng và ước lượng phần trụ tròn này có đường
kính hơn 1,30 (130cm) mội ít. Và sau này chúng ta sẽ biết, nó trong điều kiện
tròn tuyệt đối sẽ có đường kính chính xác là 1,347m (134,7cm).
Phần mà chúng tôi đặc biệt quan
tâm là phận ngọn của trụ đá, nơi bắt đầu xuất hiện các lỗ dầm để tạo kết cấu đỡ
công trình chùa. Trong tình trạng hiện nay, phần ngọn bị hư hại khá nặng. Chúng
ta có thể nhìn thấy những vết vỡ lớn mà theo nhân dân truyền lại là do sét
đánh. Quan sát trực tiếp, chúng tôi cho rằng các vết vỡ thư nhất là do công
trình bị sập trong một thời gian nào đó và đồng thời do con người có thể đập
nó. Hầu như trên đó, không để lại dấu vết lạ nào chứng tỏ sét đánh trực tiếp
vào đầu cột đá này (dấu vết nóng chảy của cát chẳng hạn). Đồng thời mặt ngoài của
nó không có trang trí. Tuy bị hư hại
nhưng dấu vết gia công con lại của con người trên đó còn để cho ta có thể
nghiên cứu khá mạch lạc nó với tư cách là một trụ đỡ công trình chùa Một Cột.
Trước hết, các lỗ ngoàm chính
(6 lỗ). Phải nói ngay rằng các lỗ ngoàm này hoàn toàn nằm trên một mặt phẳng
song song với mặt phẳng nền. Không có cái cao cái thấp như ở bảng phục chế
nói trên. Chúng tôi lần lượt đo số liệu các lỗ ngoàm này. Để tiện chúng tôi
đánh số từ lỗ 1 đến lỗ 6 theo chiều ngược chiều kim đồng hồ và lấy lỗ bên phải
mặt chính diện (mặt tây) nhìn từ tâm cột ra làm lỗ 1.
Lỗ 1: Mặt ngoài trụ còn nguyên
dấu, cong khá đều, lỗ hầu như còn nguyên vẹn. Số đo được là: chiều ngang miệng
lỗ 16,5cm; chiều cao lỗ 30cm, chiều sâu mặt lỗ ngoàm chịu lực: 30cm, góc mặt (cạnh
huyền) tối thiểu 24 độ (nếu mặt dài thẳng đứng).
Lỗ 2: Mặt ngoài trụ có phần gia
công và có phần tự nhiên (dựa theo mép trên lỗ cột ta thấy rõ điều đó), lỗ còn
nguyên vẹn. Số đo được là: chiều ngang miệng lỗ 16,6cm, chiều sâu chịu lực mặt
lỗ (mặt dưới): 14cm. Chiều cao tối đa 30cm. Vì mặt đá có lẹm không tính được
góc nghiêng tối thiểu. (Nếu có đủ dụng cụ đo vẫn có thể tính được), lỗ 1 và lỗ
2 nằm ở mặt chính diện (mặt tây).
Lỗ 3: Nằm trên đường sinh chia
đôi mặt phía nam trụ. Mặt trụ từ lỗ 2 đến lỗ 3 hơi gồ hình trán trâu, có thể bởi
các lõi cát kết cứng, khó gia công. Mặt ngoàm dưới và mặt trụ xung quanh bị sứt
mẻ. Ngắm cái cách sứt vỡ ở mặt này, đối chiếu với dấu vết hư hại một cách khéo
léo của mặt đối xứng, chúng ta đoán chắc được chiều đổ sập của ngôi chùa dựng
trên đó. Lỗ này vẫn cho ta các số đo: chiều ngang: 15,5cm, chiều sâu còn lại
4cm, chiều cao: 28cm.
Lỗ 4: Nằm ở bên phải mặt đông
cũng là mặt sau của công trình. Lỗ còn nguyên vẹn nằm trên mặt trụ còn khá nguyên
và còn dấu vết gia công mài phẳng. Các số đo như sau: rộng 16,0cm, sâu: 16,0cm,
chiều cao 34cm, góc chéo (cạnh huyền) vào: tối thiểu 250 (giả thiết mặt trụ thẳng
đứng).
Lỗ 5: Nằm ở bên trái mặt đông.
Phần trên lỗ bị vát do sứt mẻ. Các số đo là: chiều rộng: 16,5cm, chiều sâu:
12cm, chiều cao: 30cm. Vì sứt mẻ nên không tính góc nghiêng.
Lỗ 6: Nằm trên đường sinh chia
đôi mặt phía bắc trụ (đối xứng với 3). Phần mặt này bị hư hại nặng. Chúng tôi
cho rằng đây là phía mà công trình đã sập xuống. Số đo còn lại như sau: chiều rộng
16cm, chiều sâu 17cm, chiều cao còn lại 17cm.
Đó là 6 lỗ ngoàm chính, phản
ánh 6 dầm đỡ chéo công trình, đầu dưới cắm vào trụ, đầu trên đỡ các dầm ngang
chịu lực như ta thấy ở phục chế chùa Một Cột hiện nay ở Hà Nội. Trên phần ngọn
này của trụ ta còn gặp các loại lỗ khác hết sức thú vị (rất tiếc là ở bản phục
chế, điều này được thể hiện một cách ví dụ mà thôi, nên vừa quá sót lại vừa
sai).
Trước hết là trên toàn bộ phần
ngọn, chúng tôi thấy có tất cả 8 lỗ nhỏ hình chữ nhật khá đồng dạng, với kích
thước là 5cm và 6cm x 4cm. Lỗ sâu nhất là 8cm và lỗ cao nhất là 4cm. Mặc dù
không phân bố đều trên tất cả các mặt nhưng trên mỗi mặt, vị trí lỗ (7/8) đều
có một tương tác cân bằng nào đó với các lỗ dầm. Mặt chính (tây) có một lỗ cân
giữa hai lỗ dầm và cùng cao độ mặt lỗ dầm chịu lực (mặt dưới). Giữa lỗ dầm 2 và
lỗ dầm 3 không có lỗ nhỏ. Giữa lỗ dầm 3 và lỗ dầm 4 có một lỗ nhỏ khá cân. Giữa
lỗ dầm 4 và lỗ dầm 5 (mặt đông) có 4 lỗ phân bố cân lực với lỗ dầm và một lỗ lệch.
Giữa lỗ dầm 4 và lỗ dầm 5 không có lỗ nhỏ. Giữa lỗ dầm 6 và lỗ dầm 1 có một lỗ
nhỏ cân lực với dầm. Như vậy ta thấy rằng hai phần không có lỗ nhỏ đối xứng với
nhau. Theo chúng tôi, các lỗ nhỏ này không được tạo ra một lần cùng với công
trình mà có thể qua một thời kỳ tu sửa nào đó, người ta đục thêm để chống hoặc
níu cho công trình khỏi xộc xệch qua thời gian. Nếu chống, người ta rèn các cây
sắt, rồi 2 đầu bẻ hình chữ Z lệch để một đầu cắm vào trụ đá, một đầu cắm (theo
lỗ đục) vào dầm gỗ chịu lực. Nếu để níu, người ta đóng một đoạn gỗ tròn vào lỗ,
đóng khuy kim loại vào giữa rồi dùng dây sắt níu đều công trình xuống. Chúng
tôi cũng thoáng nghĩ đến đây là những lỗ treo đèn hoặc treo cờ trong các hội tắm
Phật, cũng như trong Lãm Sơn dạ yến nhưng điều này khó xảy ra nếu
công trình trên là gỗ (mà chắc là thế). Ngoài ra, khó nói gì hơn về tác dụng của
các lỗ này nếu nghiên cứu phân bố của chúng.
Điều thú vị tiếp theo là chúng
tôi khi trèo lên trụ đá để đo đạc đá phát hiện tiếp các lỗ ngoàm phụ, hình chữ
nhật, có chiều rộng 10cm, chiều cao không xác định vì bị vỡ phía trên và chiều
sâu còn lại 3-4cm. Qua phân bố rất hợp lý của chúng, không thể gọi tên nào đúng
hơn đây chính là các lỗ ngoàm con sơn. Hai lỗ ở mặt chính diện nằm cao cách đáy
2 lỗ dầm chính là 78cm và đều dịch vào giữa một thân gỗ ngoàm. Đây chính là nơi
lắp các con sơn trợ lực kiểu xỏ kèo lá, ép với dầm ngang chịu lực của công
trình. Có điều là, quan sát kỹ các lỗ ngoàm con sơn này, chúng tôi thấy phong
cách đục lỗ không thống nhất với phong cách lỗ ngoàm chính. Lỗ đục vụng, các lốt
đục không đều, trông có vẻ vất vả, lực tác dụng vào cột ít và không đồng đều.
Chúng tôi nghi các lỗ này cũng được làm trong quá trình tu bổ công trình chứ
không được tạo tác từ đầu?
Điều phát hiện cuối cùng khiến
chúng tôi vui thích là khi trèo lên và trông thấy rãnh dầm chịu lực chính còn để
lại trên nóc cột. Đây chính là dầm cuối cùng của chùa. Rãnh dầm chia đôi nóc trụ,
theo hướng bắc nam, song song với mặt tiền của trụ đá. Phần còn đo được như
sau: chiều rộng 23,0cm, chiều dài còn đo được 7cm, gờ bên còn đo được 3cm. Rãnh
dầm đáy bằng phẳng và còn hết sức vuông thành sắc cạnh. Rất tiếc là, các tác giả
phục chế cột đá đã bỏ qua một cách đáng tiếc chi tiết này. Đến đây chúng ta đã
có thể hình dung dầm ngang chịu lực đầu tiên của công trình là một phiến gỗ (hoặc
đá?) hình hộp có gáy 23,0cm và dóng thẳng lên trên đó chính là đòn nóc của ngôi
chùa. Mặt trên của dầm hộp gỗ này với những lý do sau này bạn sẽ hiểu, chúng
tôi cho là 46cm (hơn hai gang tay). Chỉ với một hộp dầm này, chúng ta đã có thể
tính được sức chịu lực uốn của nó có thể đỡ nặng bao nhiêu theo khẩu độ vượt
tùy ý. Đến đây, các bạn có thể dựng được một bộ dầm đỡ công trình gồm: 3 hộp gỗ
chéo hình chong chóng, tạo hệ thống dầm ngang chịu lực, 6 dầm chống từ cột lên
dầm ngang tạo hình các đài sen và có thể là thêm các kết cấu phụ (?). Tôi xin
cùng các bạn đi đến điều bất ngờ lý thú của phần 2 bài viết này.
2. Các số đo và tín ngưỡng:
Sau khi đã đo đạc với các số liệu
trên, tôi trở về Hà Nội và trong hai ngày chạy tìm thước thợ. Những gì đọc được
ở văn bia trong cuốn Thơ văn Lý Trần
và đặc biệt là đoạn trích về cách chọn đất làm chùa mà cụ Nguyễn Bá Lăng dẫn
trong cuốn sách tôi rất mực yêu mến (bởi những bức ảnh đen trắng thật tuyệt) là
cuốn Kiến trúc Phật giáo Việt nam khiến
tôi nghĩ về ý nghĩa tín ngưỡng của các số đo mà tôi thu thập được trên thực trạng
di tích. Là một công trình kiến trúc, hơn nữa là kiến trúc đậm tính tôn giáo,
chắc hẳn các số đo phải tuân thủ các quy định tín ngưỡng. Trong hai ngày, tôi
nhặt được một lượng thông tin làm công vụ rất tối thiểu nhưng đạt đến hiệu quả
không thể ngờ. PGS.TS sử học Vũ Minh Giang nhắn qua PGS.TS Nguyễn Quang Ngọc
cho tôi những thông tin sau:
Thước đo trong lịch sử Việt Nam có sự biến
động so với mét của phương Tây. Ngay bây giờ chỉ có thể tạm nói những thông
tin: Thời Nguyễn Gia Long 1 thước bằng 0,42m. Thời Tự Đức 1 thước bằng 0,46m.
Thời Thành Thái 1 thước bằng 0,40m. Thời Lý chưa khảo được nhưng ước tính khoảng
bằng 0,40m.
Qua GS Trần Quốc Vượng, tôi gọi
điện hỏi PGS.TS Trịnh Sinh và được ông cho biết thời Hán chuẩn hóa số đo nhưng
đến Vương Mãng có cải cách khá đồng bộ, còn thước đời Tống chưa tra được. Và
ông giới thiệu cho tôi PGS Nguyễn Duy Hinh nhưng tôi chưa kịp gặp để học hỏi.
PGS Hoàng Văn Khoán cung cấp
cho tôi một phiên bản (chép lại với tỉ lệ 1:1) chiếc thước Lỗ Ban của đình Viềng
với những lời giải thích trên đó cùng một phiên bản (ảnh chụp tỉ lệ 1:1) chiếc
thước Minh Mạng cùng các cung và lời giải thích bằng thơ chữ Hán năm chữ. Tôi
đem dịch cả hai thước và thú thật lần đầu tiên tôi tiếp xúc với cái gọi là thước
Lỗ Ban và hiểu được đôi điều vỡ lòng về nó. Sau khi hiểu nguyên lý của thước,
điều bất ngờ lại nằm trong ngăn bàn nhà mình, đó là chiếc thước Lỗ Ban tàu bán
rất nhiều ở các cửa hàng tạp phẩm. Trên thước có ghi chữ Lỗ Ban xích và thể hiện tương ứng bốn loại thước khác nhau trong đó
có 2 loại thước mà theo sự mách bảo của bản thảo thước Viềng, tôi cứ hiểu đại
là Lỗ Ban bát bộ và Lỗ Ban cửu phân
thập tam thức. Đây là tôi tạm gọi thế để chỉ công cụ tri thức dùng nóng
trong lúc này. Có gì sai sau này học thêm vậy. Chúng ta thử quy đổi theo hệ số
chiều dài bằng m hiện nay, tiếp tục thử quy ra thước đời Đường và đời Tống là
triều đại Trung Quốc trước và tương đương triều Lý. Các số đo thường đẹp một
cách đáng quan tâm:
Đối
tượng
|
m
(±số lẻ tín ngưỡng)
|
Lỗ
Ban hiện tại
|
Lỗ
Ban quy ra Đường, Tống
|
-Chiều
ngang phần khối vuông
|
-Mặt
Tây: 165cm
-Mặt
Nam: 155cm
|
Thiên
đức, Hỉ sự, Tiến bảo, Nạp phúc (cung Vượng).
Tiến
bảo, Tài đức (cung Tài).
|
Thiên
Đức, Hỉ sự, Tiến bảo, Nạp phúc (cung Vượng.)
Tiến
bảo, Tài đức, Phúc tinh, Cập đệ (giữa cung Tài và Đinh).
|
-Chiều
cao phần khối vuông
|
107cm
|
Đăng
Khoa, Quý tử, Thiêm Đinh (cung Hưng).
|
Đại
cát, Tài vượng (cung Nghĩa).
|
-Chiều
cao phần giật cấp
|
101cm
|
Hoành
tài, Thuận khoa (cung Quan).
|
Thiên
đức, Hỉ sự, Tiến bảo (cung Vượng).
|
-Chiều
cao phần trụ tròn có hoa văn rồng
|
107cm
|
Đăng
Khoa, Quý tử, Thiêm Đinh (cung Hưng).
|
Đại
cát, Tài vượng (cung Nghĩa).
|
-Chiều
cao lỗ ngoàm dầm chống (gáy dầm chống)
|
16,5cm
|
Đại
cát, Tài vượng (cung Nghĩa).
|
Đại
cát, Tài vượng (cung Nghĩa).
|
-Chiều
rộng rãnh dầm ngang chịu lực (gáy dầm chịu lực)
|
23cm
|
Hoành
tài, Thuận khoa (cung Quan).
|
Đăng
Khoa, Quý tử (cung Hưng).
|
-Khoảng
cách tâm 2 lỗ ngoàm dầm chống mặt tiền và mặt hậu còn đo được chính xác
|
70,5cm
|
Cô
quả (cung Thất).
|
Thiên
đức, Hỉ sự (cung Vượng).
|
Theo bảng đối chiếu trên, các
nhà nghiên cứu lịch sử có thể có những suy nghĩ liên hệ nó với cuộc đời Ỷ Lan,
Lý Nhân Tông cũng như mục đích xây dựng chùa Dạm. Có thể chính xác thế chăng
khi đo trên mặt đá gồ ghề? Chả lẽ thước đời Lý lại là 2 loại Lỗ Ban mà một loại
ứng với 39cm chẵn (0,39m) và một loại ứng với 43cm chẵn (0,43m)? Câu hỏi thứ nhất
có thể trả lời bằng cách cầm thước đi đo cột đá, vì nó rất gần Hà Nội, nó đã
còn 900 năm và nó đang còn. Câu hỏi thứ 2 thì trên thước nó đã cho những chỉ số
hiển nhiên biết làm sao được. Riêng chúng tôi sắp tới sẽ đi đo tất cả những gì
là kiến trúc mà nhà Lý còn để lại vì số đó quả không nhiều lắm. So sánh hai bản
số liệu, chúng tôi nghiêng về phía cho rằng nhà Lý đã dùng thước đo Đường Tống.
Bài viết hết phần 2 này, ở cả
phía tín ngưỡng và các số liệu mô tả chỉ cho ta kết luận hiển nhiên rằng: những
người tạo tác cột đá hành động theo tư duy kiến trúc thời đó và cột đá càng
đích thị là cái chùa Một Cột còn đứng trơ gan khi chùa đã đổ sập về phía núi
(phía Bắc). Nhưng vấn đề không dừng lại ở đây.
3. Suy luận đến đâu là vừa:
Tôi không chép lại đây những gì
mà những văn bản khả tín trung đại đã ghi về Lãm Sơn. Để hiểu các văn bản đó một
cách thông thường là không khó lắm (hiểu xuyên qua folklore mới khó) và ghi
chép lại chỉ là chuyện công phu. Tôi cũng biết rằng, cho đến nay, sự kiện dựng
chùa Một Cột, thậm chí dựng cột đá Lãm Sơn đi nữa quan trọng đến thế nhưng chưa phát hiện một
dòng ghi nào về nó. “Lập thạch trụ vu địa (đìa?) trung là chuyện ở Thăng Long
trước làm chùa Dạm gần 40 năm. Nhưng có những chuyện cung cần nói thêm.
Cột đá này được tạo tác bằng chất
liệu đá cát kết nguyên khối, loại đá này phổ biến từ núi Tiêu (núi sót cuối
cùng) lên đến Lục Ngạn. Nhìn độ sâu của lốt đục và màu đá, ta thấy đây là loại
cát kết điển hình, không non cũng chẳng già quá. Loại đá này có tỉ trọng 265
gram trên một cm khối. Ta thử làm một phép tính nhân thì sẽ được một khối lượng
12 m khối cho phần nổi của cột đá trên mặt đất. Nếu đây là một cột đá lăn từ
núi xuống hoặc chở nơi khác đến (lý do đào ngòi Con Tên hướng phần chính nam ra
sông Đuống, ngòi to, rộng, thẳng như tên bắn và chắc là sâu, hiện còn vết
tích(?) thì chắc sẽ còn phần chân là 4m khối. Ta có một trọng lượng toàn bộ cột
dễ đến hơn 42 tấn cả thảy. Để chở khopois lượng này bằng cách cốn bè với sông
sâu là được, còn để kéo nó trên đất bằng phải ước lượng 840 người. Còn kéo lên
núi với độ cao hơn 60m với nhiều giật cấp thì ông cha ta là đồng long gắng sức,
muôn người như một. Đã diễn ra một kì tích ở đây. Chúng ta có thể tưởng tượng đến
một đại công trường cổ với niềm vui cộng đồng, tâm lí hướng thần, hướng thượng
và một niềm đam mê tôn giáo tuyệt vời. Nhìn các tháp Chăm chúng tôi cũng nghĩ
như vậy. Chúng tôi nghiêng về phía trụ đá này đã được dựng nên. Nhưng nếu nó vốn
đứng đó 165 triệu năm trước thì sao? Ngăm hướng đi, nhịp điệu của những lốt đục
trên phần khối vuông còn để lại chúng tôi nghi nó được tạo nên trong tư thế đứng
thẳng và của những người cầm búa tay phải. Nhưng mà thôi, câu hỏi này quá dễ trả
lời khi ta cần một mũi khoan bé nhỏ bên cạnh, không ảnh hưởng gì về mặt vật lý
cũng như cảnh quan. Đến lúc đó, chúng ta sẽ rõ hơn nó là văn hóa cự thạch, văn
hóa ling a, văn hóa trụ biểu hay văn hóa…chùa Một Cột và hay là một tích hợp tất
cả, vừa đứt đoạn, vừa liên tục.
Còn như bây giờ, tôi mạnh dạn đọc
nó theo nghĩa chính, nghĩa đen là cột đá
chùa Một Cột núi Dạm. Khi tôi phát ngôn từ xem, mặc dù nó được cấu tạo cả về không gian thời gian là bằng phụ
âm đầu x, nguyên âm chính e và phụ âm cuối m nhưng thông tin của tôi đến người nghe không phải là thế và tư
duy của tôi cũng không nghĩ đến. Những lớp văn hóa khác tích lũy trong cột đá
này cũng vậy. Trước hết phải gọi nó, hiểu nó như cái chức năng, tác dụng, ý
nghĩa mà nó được chứa đựng.
Dựa trên hai mặt tây và đông
(trước và sau) còn đo được chính xác, chúng tôi thấy khoảng cách lỗ ngoàm 1 và
2, 4 và 5 (từ tâm ngoàm đếm tâm ngoàm) đều là 70,5cm (lại là một con số tuyệt đẹp
của thước Lỗ Ban: Thiên đức, Hỉ sự cung Vượng ). Chúng tôi cho rằng nếu phần
này được gia công tuyệt đối tròn thì tât nhiên đường kính của trụ tròn theo
tính toán sẽ là 134,7cm (các tài liệu trước đây cho rằng nó khoảng 130cm). tôi
cho rằng đây mới là con số chính xác trong tư tưởng những người dựng cột. trên
thực chất, họ đã chia trụ đá làm 6 cung bằng nhau thành một dàn dầm chóng cân đối
hoàn toàn. Điều tương hợp giữa con số thực địa và con số trong đồ án khiến
chúng ta không thể có cách lí giải nào khác. Bài viết chúng tôi tạm dừng ở đây
vì phần còn lại dành cho các nhà kiến trúc. Và chính phần còn lại này (thử dựng
một ngôi chùa Lý lên cột đá đó) có thể làm được nhưng khó khăn muôn vàn vì đơn
giản là chúng ta hầu như không còn một kiến trúc gỗ nào nguyên vẹn từ Lý đến giờ
để tham khảo. Chùa Một Cột Hà Nội đẹp hài hòa, tinh tế và tài hoa nhưng đó chỉ
là dị bản sau nhiều lần dị bản của nguyeenbanr đã mất đi. Nó còn xa nguyên bản
hơn cả cái phục chế cột đá chùa Dam đặt tại Bảo tàng Mĩ thuật Hà Nội.
Kết thúc bài viết này, tôi cảm
thấy vui khi một tuần hè của mình trôi qua có ý nghĩa, đặc biệt là tâm lý hướng
đến 1000 năm Thăng Long-Hà Nội. Tôi xin được nhận sự góp ý của những người quan
tâm./.
Hà Nội, ngày 27 tháng 9 năm
1999.
N.H.V.
Tài liệu tham khảo:
-Chu
Quang Trứ - Mỹ thuật Lý – Trần, Mỹ thuật
Phật giáo. Nxb Thuận Hóa. 1998.
-Nguyễn Bá Lăng – Kiến trúc Phật giáo Việt Nam – Tập 1, Nxb Đại học Vạn Hạnh, Sài gòn 1972.
-Xem: Ngô Thừa Cát : Trung Quốc độ lượng hành sử - Thương vụ ấn thư quán 1957, tr. 90.
-Nguyễn Bá Lăng – Kiến trúc Phật giáo Việt Nam – Tập 1, Nxb Đại học Vạn Hạnh, Sài gòn 1972.
-Xem: Ngô Thừa Cát : Trung Quốc độ lượng hành sử - Thương vụ ấn thư quán 1957, tr. 90.
Mời xem thêm bài của Họa sỹ Nguyễn Văn Chiến trên batinh.com
Trả lờiXóahttp://batinh.com/index.php?option=com_content&view=article&id=1105:gii-ma-ct-a-chm-rng-chua-dm&catid=1:news&Itemid=13