Thứ Hai, 3 tháng 9, 2012

Bùi Văn Bồng: ÔNG DƯƠNG VĂN CỪ SỢ GÌ TRONG HIẾN PHÁP 1946?

Ông Dương Văn Cừ sợ gì trong Hiến pháp 1946?

Bùi Văn Bồng

Trong bài “Xã hội dân sự” – một thủ đoạn của diễn biến hòa bình” đăng trên báo Nhân dân ngày 31-8 mới rối, tác giả Dương Văn Cừ viết: “Ðáng chú ý là một số đối tượng cơ hội chính trị có quan điểm chống đối cực đoan đã lợi dụng một số tổ chức quần chúng hợp pháp để tổ chức các hội thảo, tọa đàm, diễn đàn có nội dung đòi hỏi đưa Hiến pháp 1992 trở về Hiến pháp năm 1946, trưng cầu ý dân về Ðiều 4 cũng như toàn bộ Hiến pháp, lập Tòa án Hiến pháp, thúc đẩy XHDS và thực hiện các quyền tự do dân chủ, tự do ngôn luận, báo chí, lập hội theo tiêu chí phương Tây, tư hữu hóa đất đai… Nếu thực hiện các nội dung này theo ý đồ của họ thì chế độ XHCN thực tế sẽ không còn tồn tại ở Việt Nam. Ðây là phương thức đấu tranh công khai rất nguy hiểm, nếu không cảnh giác có thể sẽ giúp các thế lực thù địch lợi dụng các tổ chức XHDS để đưa ra những kiến nghị nhằm thay đổi thể chế, thay đổi hệ thống luật pháp XHCN bằng luật pháp dân chủ, tư sản”…

Trước hết, mang tên là báo Nhân dân, nhưng chính tờ báo này là nhật báo của Đảng, chủ yếu tuyên truyền quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nêu gương thành tích, còn những nội dung nêu lên thực trạng, bức xúc của nhân dân về đời sống, xã hội, tiếng nói của nhân dân một cách tự do, thực sự dân chủ còn rất ít và thiếu mạnh dạn. Ngay trong bài này, tác giả Dương Văn Cừ đã công khai phản đối sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, phủ nhận đường lối thực thi dân chủ của Đảng.

Lẽ nào Ban biên tập báo Nhân dân duyệt cho đăng bài này hầu như chưa hiểu cặn kẽ, sâu sắc về hệ thống chính trị suốt 82 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, một XHDS Việt Nam đã đống góp tích cực và hiệu quả cho nhiều phong trào cách mạng, nhất là những khi Tổ quốc bị xâm lăng và xã hội gặp nhiều khó khăn, ách tắc. Tác giả bài viết và Ban biên tập báo Nhân dân đã hiểu sai lệch về XHDS trong chế độ XHCN ở Việt Nam. Nhất là khi nước ta tiến hành công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, hội nhập WTO, mở rộng quan hệ quốc tế, “muốn làm bạn với tất cả các nước”, rất cần quan tâm phát huy thế mạnh và bản chất ưu việt của XHDS theo đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước.

Ông Cừ đã quên rằng, hệ thống các tổ chức quần chúng, các hội nghề nghiệp đều là Tổ chức quần chúng của Đảng, được Nhà nước cho phép hoạt động đùng pháp luật. Đúng như tác giả Đào Tiến Thi đã viết trong bài: “Tôi nghĩ Đảng CSVN không tẩy chay xã hội dân sự” là bài viết kịp thời, có lập luận chắc chắc, minh dẫn và phân tích rất có lý (Xem bài LINK này: http://webwarper.net/ww/~av/anhbasam.wordpress.com/2012/09/01/1232-toi-n... .

Thuật ngữ xã hội dân sự xuất hiện lần đầu tiên ở châu Âu vào thế kỷ 16 và trở nên phổ biến vào thế kỷ 18. Xã hội dân sự cấu thành từ tổng thể của các tổ chức xã hội và dân sự tự nguyện mà các tổ chức này tạo nên cơ sở của một xã hội tự vận hành, khác với các cấu trúc quyền lực của một nhà nước (bất kể hệ thống chính trị của nhà nước này thuộc kiểu gì) và các thể chế thương mại của thị trường. Xã hội dân sự là “Diễn đàn giữa gia đình, nhà nước và thị trường, nơi mà mọi con người bắt tay nhau để thúc đẩy quyền lợi chung”. Trung tâm Xã hội dân sự của Trường đại học kinh tế London định nghĩa Xã hội dân sự như sau: “Xã hội dân sự đề cập tới một mảng các hoạt động tập thể tự nguyện xung quanh các giá trị, mục tiêu, ý thích chung. Xã hội dân sự thường bao gồm một sự đa dạng về phạm vi hoạt động, các thành viên tham gia và các hình thái tổ chức, khác nhau về mức độ nghi lễ, tự do và quyền lực. Xã hội dân sự thường được hình thành dưới dạng các tổ chức như các hội từ thiện, các hiệp hội, các công đoàn, các nhóm tương trợ, các phòng trào xã hội, các hiệp hội kinh doanh, các liên minh, và các đoàn luật sư…”.

Trở lại với trích đoạn đầu bài trên đây, không hiểu sao bỗng nhiên ông Cừ lại tỏ ra sợ, né tránh, thậm chí phủ nhận bản Hiến pháp gốc, căn bản của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Ông Cừ viết là có sự lợi dụng dân chủ này-nọ để “đòi hỏi đưa Hiến pháp 1992 trở về Hiến pháp năm 1946”. Theo tôi được biết, Đảng, Nhà nước, Quốc hội đang phát động toàn Đảng, toàn dân tham gia ý kiến sửa lại Hiến pháp. Có những ý kiến đề xuất là đừng bỏ đi những giá trị dân chủ rất nền tảng và căn bản khẳng định tính ưu việt của chế độ ta, tại sao lại phải né tránh?

Hiến pháp 1946 là bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được soạn thảo và được Quốc hội của Nhà nước công nông non trẻ thông qua vào ngày 9-11-1946 với 240 phiếu tán thành (trên 242 phiếu). Ủy ban dự thảo Hiến pháp được thành lập theo Sắc lệnh số 34-SL ngày 20-9-1945 gồm có 7 thành viên: Hồ Chí Minh, Vĩnh Thụy, Đặng Thai Mai, Vũ Trọng Khánh, Lê Văn Hiến, Nguyễn Lương Bằng, Đặng Xuân Khu ( Trường Chinh). Bản dự thảo Hiến pháp đã được soạn thảo và công bố vào tháng 11 năm 1945. Cũng phải kể đến Ban dự thảo Hiến pháp (Tiểu ban Hiến pháp) được Quốc hội bầu ra ngày 2-3-1946 gồm có 11 thành viên, trong đó có các thành viến như: Tôn Quang Phiệt, Cù Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Trần Duy Hứng, Đỗ Đức Dục, Huỳnh Bá Nhung, Trần Tấn Thọ, Nguyễn Cao Hách,… tiếp tục nghiên cứu và bổ sung để hoàn chính Hiến pháp trước khi trình ra Quốc hội. Trong phiên họp ngày 29-10-1946, Tiểu ban Hiến pháp được mở rộng thêm 10 đại biểu đại diện cho các nhóm, các vùng và đồng bào thiểu số để tu chỉnh dự thảo hiến pháp và trình ra Quốc hội ngày 2 tháng 11 năm 1946 để Quốc hội thảo luận, sửa chữa và thông qua.

Do được chuẩn bị soạn thảo rất kỹ và trưng cầu rộng rãi như vậy, Hiến pháp năm 1946 bao gồm lời nói đầu và 7 chương, 70 điều, được coi là bản Hiến pháp tuy ngắn gọn, nhưng đầy đủ, rất nhiều điều quy định trong Hiến pháp 1946 đã được nhân dân tán thưởng, đặt niềm tin, kỳ vọng vào chế độ chính trị tốt đẹp, thực sự dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước” của dân, do dân, vì dân”. Tại Hiến pháp này, quyền tự do của người dân trong chế độ độc lập, tự do, có điều kiện được hưởng nhân quyền, quyền mưu cầu hạnh phúc. Những điểm nhấn có giá trị dân chủ trong Hiến pháp 1946 là: “Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái, trai, giai cấp, tôn giáo. Đảm bảo các quyền tự do dân chủ. Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Với tinh thần đoàn kết, phấn đấu sẵn có của toàn dân, dưới một chính thể dân chủ rộng rãi, nước Việt Nam độc lập và thống nhất tiến bước trên đường vinh quang, hạnh phúc, cùng nhịp với trào lưu tiến bộ của thế giới và ý nguyện hoà bình của nhân loại… Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá. Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình. Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung. Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện. Công dân Việt Nam có quyền:

- Tự do ngôn luận
- Tự do xuất bản
- Tự do tổ chức và hội họp
- Tự do tín ngưỡng
- Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài…


Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam. Nhà ở và thư tín của công dân Việt Nam không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật. Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm…”. Trong nhiều cái sợ về bản Hiến pháp 1946 mang đậm tư tưởng Hồ Chi Minh, ông Cừ sợ câu “tư hữu tài sản công dân” đã ghi trong Hiến pháp 1946 phải không?Trong đó có đất “đai là sở hữu toàn dân”? 

Ngày xưa chỉ có một nhóm địa chủ, bị cải cách ruộng đất dẹp bằng cách rất hà khắc và tang thương từ lâu rồi, dễ gì “ngóc đầu” nữa mà sợ? Nay “đất đai là sở hữu toàn dân, do Nhà nước quản lý”, cá nhân người dân không có quyền “tư hữu đất đai”, cho nên đã bị biết bao đại gia, chính quyền mượn cớ “đất Nhà nước” để cướp trắng tay, còn hơn địa chủ ngày xưa? Và làm như thế có coi là họ đã chiếm dành phần tư hữu những trang trại, đất đai, mặt bằng, dự án đó hay không? Có đúng pháp luật không? Công bằng xã hội ở đâu? Đất vàng đất bạc của họ, ai mà đụng đến được? 

Ông nói rằng cho dân cái quyền “sở hữu đất đai” là chính quyền và đại gia không thể vin cớ gọi là “nhà nước” để chiếm đoạt được dễ dàng chứ gì? Thế, thử hỏi: “Chính quyền và đại gia móc nối với nhau cưỡng chế thu hồi đất của dân như cướp ngày đã “trích phần trăm” cho ông những gì rồi?”.

Đánh giá về giá trị của Hiến pháp 1946, Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng, một chuyên gia về luật đánh giá: “Hiến pháp 1946 là một bản hiến văn hết sức ngắn gọn, súc tích. Toàn bộ bản hiến văn chỉ gồm 70 điều. Trong đó có những điều chỉ vẻn vẹn một dòng. (Ví dụ Điều 12 được viết như sau: “Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm”). Một trong những lý do giải thích sự ngắn gọn này là: Hiến pháp 1946 đã được thiết kế theo tư tưởng pháp quyền”. PGS-TS Phạm Duy Nghĩa, Đại học Quốc gia Hà Nội, cho rằng Hiến pháp 1946 vẫn còn nguyên giá trị, bởi mỗi câu chữ trong đó đều “vang vọng tiếng dân”. Đây là bản Hiến pháp được soạn thảo theo tinh thần phân chia quyền lực theo hướng xã hội dân chủ (thường được biết đến với thuật ngữ “tam quyền phân lập”: lập pháp (Quốc hội), hành pháp (Chính phủ) và tư pháp (Tòa án) giống như Hiến pháp Hoa Kỳ và Hiến pháp của các nước cộng hòa khác. Về tam quyền phân lập, TBT Nguyễn Phú Trọng gần đây đã xác nhận là Đảng CSVN không chấp nhận nguyên lý này, cho rằng “tam quyền” chỉ là một sự phân công dưới sự lãnh đạo của Đảng là thôi!

Mặt khác, điểm đáng chú ý là Điều 10 bản Hiến pháp 1946 qui định rõ ràng các quyền tự do cá nhân: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, tự do đi lại trong nước và ra nước ngoài”. Đây là những quyền tự do bị hạn chế trong các bản hiến pháp sau này.

Trong bài viết, ông Dương Văn Cừ còn thẳng cánh phê phán sự đòi hỏi: “các quyền tự do dân chủ, tự do ngôn luận, báo chí, lập hội theo tiêu chí phương Tây”. Ô hay! Vậy ông quên rằng, ngay phần mở đầu Bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ngày 2-9, đã đưa những “lập luận theo tiêu chí phương Tây”:

Hỡi đồng bào cả nước!
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 17913 cũng nói:

“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được…”.


Với bài viết đăng trên báo Đảng, ông Cừ nói là “một số đối tượng … đòi hỏi đưa Hiến pháp 1992 trở về Hiến pháp năm 1946 …”. Chắc chắn ông Cừ cũng biết rằng, những ý kiến “đòi hỏi” như vậy không ai đòi bê nguyên xi Hiến pháp 1946, mà người ta chỉ yêu cầu cho dù có sửa lại, bổ sung Hiến pháp mới cho phù hợp thời thế, nhiệm vụ mới thì cũng nên tôn trọng, giữ lại và nâng cao những nội dung rất cách mạng, khoa học và cơ bản, không nên xem nhẹ hoặc bỏ qua những nội dung thiết thực, có lợi cho nền dân chủ thực sự, cho quốc gia, dân tộc. Theo ông Cừ có nên coi Hiến pháp đạo luật cơ bản, hay chỉ là thứ văn bản trang trí, làm đẹp cho chế độ hay là chuẩn mực của mọi người, bảo đảm quyền và nghĩa vụ của nhân dân để ai cũng “sống và làm việc” theo hiến pháp, pháp luật? Có những điều hiến pháp qui định nhưng đến nay người cầm quyền vẫn né tránh không luật hóa như tự do ngôn luận, biểu thị thái độ, hội họp, tự do đi lại, cư trú, luật biểu biểu tình…? Ai có những hành động vi hiến khi ra nghị định, thông tư, chỉ thị trái với hiến pháp? Tính “ưu việt” (hay sự hơn hẳn về dân chủ, nhân quyền) của chế độ XHCN là gì ? Phải chăng là hơn hẳn ở chỗ không thực hiện theo đúng Điều 1 của chương Chính thể trong Hiến pháp 1946: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Muốn là chế độ “hơn hẳn” tại sao lại tổ chức các mạng lưới ngăn chận tự do phát biểu chính kiến? Tại sao công an tùy tiện đánh chết phạm nhân mà vẫn không bị truy tố theo luật định? “Ưu việt” là vì xem đất đai là sở hữu toàn dân, sợ giao quyền sử dụng lâu dài cho dân sẽ “phục hồi địa chủ”, “trỗi dậy tư hữu”? Tạo kẻ hở “do nhà nước quản lý” để rồi sinh ra “một bộ phận không nhỏ” trong Đảng cầm quyền trở thành cường hào ác bá, tham nhũng tràn lan? Rồi cả những hành động liên tục ngăn chặn, đàn áp, qui chụp những người yêu nước là phản động, bị các “lực lượng thù địch” xúi giục để lật đổ chế độ?…

Ông Cừ còn viết: “…nếu không cảnh giác có thể sẽ giúp các thế lực thù địch lợi dụng các tổ chức XHDS để đưa ra những kiến nghị nhằm thay đổi thể chế, thay đổi hệ thống luật pháp XHCN bằng luật pháp dân chủ tư sản”… Với cách lập luận này, vô tình (hay hữu ý) ông Cừ bắt xẹo cho rằng những câu trích dẫn vào bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chủ tịch cũng mang màu sắc “dân chủ tư sản” hay sao? Ông muốn ám chỉ Bác Hồ đã ”mồi mớm” cho việc thực thi dân chủ đúng đạo, đúng đời, đúng bản chất chế độ, “gợi ý” cho XHDS ngay từ 2-9-1945 chứ gì? Những quy định đó trong Hiến pháp 1946 là thể hiện cao độ tính dân chủ, thực thi xây dựng một chế độ dân chủ, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng một “nước Việt Nam độc lập, tự do, toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” như các Nghị quyết của Đảng đề ghi. Tất cả các Hiến pháp ban hành và sửa đổi cả gần chục lần trong 66 năm qua cũng phải dựa trên cái nền cơ bản của Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946. Thiết nghĩ, những quan điểm, nhận thức, lý luận đã cũ mèm, khô cứng và “một chiều”, một thời được coi như sắc bén, không nên áp dụng để phân tích, đánh giá thực trạng xã hội hiện nay, nếu cần phải biên soạn lại cả những giáo trình còn mang tính áp đặt, sáo mòn, nói lấy được trong các trường Đảng để hoàn chỉnh, sát thực tế hơn. Xin hỏi ông Dương Văn Cừ: “Hiến pháp 1946 sai đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam ở chỗ nào, nguy cơ hại dân, phản quốc ở chỗ nào?”. Thế mà, ngay trong dịp kỷ niệm 67 năm Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2-9, báo Nhân dân lại cho xuất bản một quan điểm lệch lạc những vấn đề đưa ra cùng lập luận ấu trĩ, ngang phè đến phát lạ, không hiểu vì lý do gì, động cơ gì mà báo Nhân dân và tác giả Dương Văn Cừ lại sợ, thể hiện rõ sự né tránh Hiến pháp 1946 đến thế?

Nguồn: Blog Bùi Văn Bồng

Nguyễn Trần Bạt: XÃ HỘI DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM & Phản hồi của BS Phạm Hồng Sơn


Xã hội dân sự tại Việt Nam

Quyền con người là giá trị chính trị trung tâm của khái niệm xã hội dân sự. Không thừa nhận các quyền con người, không xem nó là giá trị phổ quát thì không có xã hội dân sự. Chừng nào mà nhà nước còn độc quyền các lẽ phải thì không thể có xã hội dân sự bởi vì xã hội dân sự tồn tại trên các lẽ phải của nó, các lẽ phải hiển nhiên, và quyền con người được xây dựng trên các lẽ phải hiển nhiên ấy. Tự do phải đi từ phía quyền chứ không phải đi từ phía năng lực của quản lý nhà nước.

 

Ông Nguyễn Trần Bạt trả lời phỏng vấn Trung tâm dữ liệu các tổ chức phi chính phủ

Hỏi: Chúng tôi được biết ông là một trong những nhà tư vấn đầu tư hàng đầu Việt Nam, nhưng bên cạnh đó, ông còn có rất nhiều nghiên cứu sâu sắc về chính trị, xã hội. Chúng tôi là đại diện của Trung tâm dữ liệu các tổ chức phi chính phủ (VUFO – NGO Resource Centre), đến đây xin được phỏng vấn ông một số vấn đề về xã hội dân sự. Chương trình phỏng vấn này nằm trong dự án nghiên cứu về các tổ chức xã hội dân sự tại Việt Nam do Bộ phát triển quốc tế Anh (DFID) tài trợ. Dự án sẽ khảo sát ý tưởng của nhiều bên, từ phía các cơ quan của Đảng, nhà nước cũng như từ phía các tổ chức xã hội dân sự. Những vấn đề mà chúng tôi nghiên cứu là: Xã hội dân sự là gì? Ở Việt Nam, các tổ chức như Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ… có phải là các tổ chức dân sự không, vai trò của chúng là gì? Các tổ chức xã hội dân sự có quan hệ với nhà nước như thế nào? v.v..

Chúng ta thấy rằng các tổ chức này hỗ trợ nhà nước từ việc cung cấp dịch vụ y tế, dịch vụ công đến việc phản ánh tiếng nói của người dân, cao hơn nữa là lobby về chính sách. Vậy, theo ông, chính sách hiện nay của nhà nước có tạo thuận lợi cho sự phát triển của các tổ chức xã hội dân sự không, hay là các chính sách nên như thế nào để những tổ chức này phát huy được vai trò của mình?

TÔI NGHĨ ĐẢNG CSVN KHÔNG CHỦ TRƯƠNG TẨY CHAY XÃ HỘI DÂN SỰ


Posted by basamnews on 01/09/2012
“Quan niệm như ông Dương Văn Cừ mới chính là tiếp tay cho các thế lực thù địch (thù địch thực sự, ví dụ các thế lực hiếu chiến ở Trung Quốc đang âm mưu thôn tính Việt Nam). Vì ông gieo giắc nỗi sợ hãi cho xã hội về một kẻ thù không nhìn thấy. Vì ông tạo ra sự đối lập giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.”

Thư ngỏ gửi ông Tổng biên tập báo Nhân dân

TÔI NGHĨ ĐẢNG CSVN KHÔNG CHỦ TRƯƠNG TẨY CHAY XÃ HỘI DÂN SỰ

Đào Tiến Thi

Kính gửi ông Thuận Hữu, Tổng biên tập báo Nhân dân điện tử.

Tôi hết sức ngỡ ngàng khi đọc bài Xã hội dân sự – một thủ đoạn của diễn biến hòa bình * của tác giả Dương Văn Cừ (DVC) đăng trên báo Nhân dân điện tử do ông làm tổng biên tập.

Nhận thấy bài báo này có những sai trái trầm trọng, có hại cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đặc biệt là có hại cho sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay nên tôi viết cho ông bức thư này.

Tôi xin kể một vài quan niệm sai của tác giả DVC:

HOÀ THƯỢNG THÍCH MINH CHÂU - NGƯỜI CHA ĐỠ ĐẦU CỦA TUỔI TRẺ DẤN THÂN

Hòa thượng Thích Minh Châu 
- Người cha đỡ đầu của tuổi trẻ dấn thân

Những năm làm Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh, dù công việc nhiều nhưng hòa thượng vẫn luôn đi sát đời sống và sinh hoạt của sinh viên.
Chẳng hạn khi phong trào đấu tranh đòi hòa bình, tự do và dân chủ bùng nổ lớn tại các đô thị miền Nam vào cuối năm 1969-1970, sinh viên Đại học Vạn Hạnh trở thành một trong các mũi nhọn xung kích của phong trào. Vì vậy vào một buổi chiều đầu năm 1970, lúc các phân khoa vừa bước vào giờ học, một lực lượng cảnh sát đặc biệt với gần 100 tay súng do Đỗ Kiến Nâu chỉ huy đã theo lệnh của Tổng nha Cảnh sát đô thành bất thần kéo đến bao vây Đại học Vạn Hạnh ở số 222 Trương Minh Giảng, quận Nhì (nay là đường Lê Văn Sỹ, quận 3) để lùng bắt lực lượng đấu tranh, trong đó đứng đầu là sinh viên Võ Như Lanh, Chủ tịch Ủy ban đấu tranh của Viện Đại học Vạn Hạnh (sau này là Tổng biên tập Báo Tuổi Trẻ và Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn) và Đặng Thanh Tâm, người nòng cốt tổ chức thực hiện đặc san Hướng Đi chống chính quyền... Nghe tin, hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu đã rời ngay cuộc họp ở phòng giám thị, tiến ra cổng trường đứng trước mũi súng và lưỡi lê của đội ngũ cảnh sát và mật vụ đang dàn hàng ngang. Đi bên hòa thượng là đại đức Thích Nguyên Tánh, tức học giả Phạm Công Thiện, tác giả cuốn Ý thức mới trong văn nghệ và triết học. Hòa thượng đĩnh đạc nói lớn với Đỗ Kiến Nâu và cũng là để mọi người đang vây quanh nghe rõ:
- “Nam mô Bổn sư Thích - ca Mâu - ni Phật, thưa quý vị, quý vị không được dùng bạo lực bắt bớ sinh viên của chúng tôi trong khuôn viên nhà trường. Các vị phải tôn trọng quyền tự trị đại học đã được xác lập, tuyệt đối không được đem cảnh sát và vũ khí vào trường đại học. Yêu cầu quý vị rút lui. Nếu không chúng tôi sẽ công bố trước dư luận trong nước và thế giới...”.
Hòa thượng nói một cách ôn tồn, chậm rãi từng tiếng, nhưng hết sức kiên quyết. Bất ngờ trước hình ảnh của một viện trưởng đích thân đi bộ ra cổng trường đối thoại, Đỗ Kiến Nâu sau một lúc đắn đo, đã chắp hai tay lại, cúi đầu chào cung kính hòa thượng, rồi đưa chiếc ba-toong lên trời vẫy hai lần, làm hiệu lệnh cho đội cảnh sát đặc nhiệm rút lui. Hòa thượng mỉm cười, cùng học giả Phạm Công Thiện và sinh viên quay vào giảng đường 208 mà ở đó đang vang lên tiếng guitar thùng với câu hát cộng đồng giòn giã: “Dậy mà đi hỡi đồng bào ơi”...
Đó là một trong những hình ảnh không thể quên được về một vị viện trưởng, một hòa thượng, một tấm lòng từ bi không rời khỏi những bước đường đấu tranh của tuổi trẻ hôm nào...

Chủ Nhật, 2 tháng 9, 2012

ĐẠI LÃO HOÀ THƯỢNG THÍCH MINH CHÂU VIÊN TỊCH

Đại lão Hòa thượng Thích Minh Châu viên tịch


Đại lão Hòa thượng Thích Minh Châu, Phó Pháp chủ GHPGVN, nguyên đại biểu quốc hội nước CHXHCN VN trong 5 khóa liên tiếp (khóa VI, VII, VIII, IX, X) vừa thu thần thị tịch vào lúc 9h sáng ngày 16/7 Nhâm Thìn (nhằm ngày 01/09/2012) tại Thiền viện Vạn Hạnh, số 750, Nguyễn Kiệm, Q. Phú Nhuận, Sài Gòn, hưởng thượng thọ 93 tuổi.
- Lễ viếng bắt đầu vào lúc 09h00 ngày 02 tháng 9 năm 2012 đến hết ngày 08 tháng 9 năm 2012 (từ ngày 17 - 24/7 năm Nhâm Thìn).
- Lễ truy điệu được cử hành lúc 08h00 ngày 09 tháng 9 năm 2012 (ngày 24 tháng 9 năm Nhâm Thìn) và sau đó cung tiễn kim quan Trưởng lão Hòa thượng nhập Bảo tháp tại Thiền viện Vạn Hạnh.
Gia đình Phật tử chúng con xin dâng lời cầu nguyện Giác linh Đại lão Hoà thượng Thích Minh Châu cao đăng Phật Quốc. Xin thành kính khởi thân nghiêng mình chia sẻ niềm đau ly biệt với Gia tộc họ Đinh hậu duệ của Cụ Nghè Đinh Văn Chấp, tới các học giả Minh Chi và Đinh Linh, cùng chư vị môn đồ pháp quyến của Đại lão Hoà thượng Thích Minh Châu. 

TIỂU SỬ HOÀ THƯỢNG THÍCH MINH CHÂU

Hòa thượng, thế danh Đinh Văn Nam sinh năm 1920 tại Quảng Nam, xuất gia năm 1946 với cố Hòa thượng Tăng thống GHPGVN Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế.
Từ năm 1952 đến 1963, hòa thượng xuất dương du học tại Sri Lanka, Ấn Độ và đỗ tiến sĩ Phật học với luận án bằng Anh ngữ: The Chinese Madhyma Agama and the Paly Majihima Nikaya.
Từ năm 1964 đến năm 1975, sau 14 năm du học ở nước ngoài, Hòa thượng trở lại quê nhà và giữ chức vụ Tổng vụ trưởng Tổng vụ Văn hóa-Giáo dục GHPGVNTN, và Viện trưởng Viện đại học Vạn Hạnh, chuyên lo sự nghiệp giáo dục và đào tạo Tăng tài cho PGVN cũng như dành thời gian nhất định để dịch thuật và biên soạn kinh sách để truyền bá lời Phật dạy. Đến nay có trên 30 tác phẩm do Hòa thượng dịch thuật, trước tác và biên soạn.
Năm 1979, Hòa thượng tham gia vận động thống nhất và thành lập GHPGVN.
Năm 1981, Hòa thượng làm hiệu trưởng Trường Cao cấp Phật học VN, cơ sở I tại Hà Nội và năm 1984, làm Hiệu trưởng Trường Cao cấp Phật học VN, cơ sở II tại TP.HCM.
Năm 1989, Hoà thượng thành lập và làm Viện trưởng Viện Nghiên Cứu Phật học Việt Nam và Hội đồng phiên dịch Đại tạng kinh Việt Nam.
Năm 1992, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc GHPGVN lần thứ 3, Hoà thượng được suy cử làm Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Đồng Trị Sự GHPGVN.
Năm 1996, Hòa thượng được Đại Học Mahachulalongkornrajvidyalaya (Thái Lan) tặng bằng Tiến Sĩ Phật Học Danh Dự.
Năm 1997, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc GHPGVN lần thứ 4, Hoà thượng được suy cử làm Phó Chủ tịch Thường trực kiêm Viện trưởng Viện Nghiên Cứu Phật học Việt Nam.
Năm 2007, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc GHPGVN lần thứ 6, Hoà thượng được suy tôn làm Phó Pháp chủ Hội đồng chứng minh GHPGVN.
Đại lão Hoà thượng Thích Minh Châu, trụ trì Tổ đình Tường Vân -Thừa Thiên, Huế, và viện chủ Thiền viện Vạn Hạnh - TP. Hồ Chí Minh, là vị cao tăng thạc đức có uy tín lớn của Phật giáo Việt Nam trong và ngoài nước, là một trong những người đặt nền tảng cho sự nghiệp giáo dục của GHPGVN.

Nguồn: ChuaPhucLam.com.

ĐỘC LẬP - TỰ DO - HẠNH PHÚC

“ĐỘC LẬP, TỰ DO, HẠNH PHÚC”
 Phạm Xuân Nguyên

Đó là dòng tiêu đề gồm ba từ sáu chữ luôn xuất hiện cùng quốc hiệu Việt Nam trong 67 bảy năm qua, từ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa sau ngày 2/9/1945 đến Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hiện nay. Sáu chữ đơn giản nhưng đó là “ham muốn tột bậc” của người khai sinh ra chính thể cộng hòa đầu tiên ở Đông Nam Á, là cái đích Người đặt ra cho những người đồng chí hướng của mình phải phấn đấu hy sinh đưa lại cho dân tộc mình, cho quốc dân đồng bào mình. Ba từ bình dị mà thiêng liêng đã được Người nung nấu từ lòng yêu nước luôn cháy bỏng trong lòng. Có lẽ Người đã nghiền ngẫm nhiều từ câu khẩu hiệu nổi tiếng của cuộc Đại cách mạng Pháp “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” (Liberté, Égalité, Fraternité). Trong hoàn cảnh Việt Nam “bình đẳng” trước hết phải là “độc lập”. Thực dân Pháp khi sang đô hộ nước ta đã dựa vào cái tư tưởng chủng tộc văn minh, tiến hóa, thể hiện trong câu nói “Có đồng đẳng mới bình đẳng”. Dưới  mắt chúng, giống dân da vàng là thấp kém về chủng tộc, về văn hóa, không thể nào sánh vai ngang hàng được với giống dân da trắng văn minh, tiến bộ. Người thanh niên Nguyễn Ái Quốc cũng như bao người Việt Nam yêu nước khác không bao giờ chấp nhận sự áp đặt lịch sử phi tự nhiên đó. Độc lập dân tộc sẽ đưa lại bình đẳng cho quốc gia và con người. Cuộc cách mạng tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã chứng minh cho mục đích đó. Khi Hồ Chí Minh sang Pháp tháng 6/1946 Người đã ở vị thế chủ tịch của một nước Việt Nam mới độc lập, thoát khỏi ách thống trị của nước Pháp và buộc nước Pháp phải đón tiếp ở tư thế thượng khách. Bình đẳng luôn phải trong tư cách độc lập, càng ở tầm vóc quốc gia càng phải vậy.

Độc lập đi liền với tự do. Độc lập dân tộc đi liền với tự do của người dân. Chính Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh tư tưởng nếu nước độc lập mà người dân không được tự do thì cái độc lập đó cũng không để làm gì. Tự do là một tài sản quý giá và vĩnh hằng của con người, có thể coi đó cũng là một quyền tự nhiên của con người. Chính trong Tuyên ngôn độc lập của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng của các nhà lập quốc Hoa Kỳ để từ những quyền cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do, suy rộng ra quyền của một dân tộc. Cũng trên tinh thần đó, tôi nghĩ, vị chủ tịch của nước Việt Nam mới đã mở rộng tư tưởng “bác ái” thành “hạnh phúc”. Bác ái là tình thương, lòng yêu mến con người rộng khắp, bao trùm. Hạnh phúc là tình thương được cụ thể hóa thành “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Hạnh phúc là tình thương cho mọi con người được chan hòa bình đẳng trong một cộng đồng ấm no, hòa bình. Hạnh phúc là khi con người được thỏa mãn những nhu cầu và yêu cầu chính đáng của mình. Hạnh phúc là khi người dân được sống đầy đủ các quyền công dân của mình trong một đất nước độc lập, dưới một nhà nước bảo đảm cho họ quyền tự do dân chủ, nhất là tự do tư tưởng. Năm 1956 đến nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khóa I, trường Đại học Nhân Dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ ràng điều này: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người.”

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc. Mỗi năm đến ngày cách mạng tháng Tám và ngày Quốc khánh, tôi thường ngẫm về ba từ sáu chữ này. Gắn với tên nước và tên gọi chế độ từ thuở ra đời, ba từ đó theo tôi là toàn bộ di sản chính trị và toàn bộ lòng yêu nước của một con người mang tên Hồ Chí Minh để lại cho đất nước và nhân dân ta. Trong những ngày này năm nay, độc lập càng đòi hỏi được bảo vệ và củng cố, tự do càng được yêu cầu bảo đảm, hạnh phúc càng được khát khao đạt tới.  Ba từ nói thì dễ, đọc thì nhanh, nhưng làm thì khó khăn, lâu dài, đó là một chuyện đơn giản khó làm.
        Hà Nội 31.8.2012
(Bài đăng báo Tuổi Trẻ, 1/9/2012, đây là bản chính của tác giả)

Nguồn: Quê Choa.

Thứ Bảy, 1 tháng 9, 2012

Thư giãn cuối tuần: ÔNG HUYỆN XỬ TỘI MỘT CON RUỒI

Lời dẫn của bác Ha Le: Lại cuối tuần rồi. Xin đóng góp với mục Thư giãn của hiên trà bác Tễu bằng cách tình nguyện gõ lại nguyên văn một vài chuyện trong tập Chuyện Đời Xưa, bản Quốc ngữ của Petrus Ký. Đây cũng là cách tỏ lòng biết ơn bác Nguyễn Văn đã chia sẻ văn bản quí giá này. 

Tễu Blog xin cám ơn các bác và hoan hỷ giới thiệu với bạn đọc.

ÔNG HUYỆN XỬ TỘI CON RUỒI
.
Một người kia ở xứ rẫy bái quê mùa. Đến bữa nó đơm quải, dọn ra một mâm cúng; thì con ruồi lên đậu ăn. Thì người chủ giận sao nó có xấc; mới đi thưa với ông huyện rằng: "Lạy ông, tôi cúng cho cha mẹ tôi, mà con chi không biết nó bay lên, nó ăn trước đi, hỗn hào quá lắm." Ông huyện mới biểu nó: "Hễ nó hỗn hào vô phép, thì gặp nó đâu đánh nó đó!" Nói vừa buông miệng, con ruồi ở đâu bay lại, đậu trên má ông huyện ấy. Thì thằng ấy nói: "Bẩm ông, ông mới xử nó làm vậy, mà nó còn dể ngươi, nó tới đậu rên mặt ông." Và nói và giơ tay ra, giăng cánh, đánh một vả lên mặt ông huyện xửng vửng.

CON THỎ CỨU CON VOI MÀ NHÁT CỌP

Lần khác, con thỏ đi chơi, gặp con voi đang rầu rị quá; mới hỏi vì làm sao mà làm bộ buồn bực làm vậy. Thì con voi nói: "Bữa hổm con cọp gặp, biểu tôi thì ngày kia tháng nọ tới chỗ nọ, nộp mình cho nó tới nó ăn  thịt, mà nay đã gần tới kỳ; không biết liệu làm sao." Thỏ thấy tội nghiệp thì nói: "Thôi để tôi tính giùm mà cứu cho cho khỏi nó ăn thịt! Hễ tới ngày thì lại rước tôi; tôi đi với, tôi làm phước, tôi cứu cho." 

Thứ Sáu, 31 tháng 8, 2012

BÁT NƯỚC ĐÃ HẮT ĐI RỒI, KHÔNG VỜI LẠI ĐƯỢC!

Phục dựng chùa Trăm Gian: 

Bát nước đã đổ xuống đất…  

Chùa Trăm Gian 'chui lọt lỗ kim' của sự vô trách nhiệm? 

Bộ Văn hóa yêu cầu xử lý vụ 'tàn sát' chùa Trăm Gian

    Trong không gian “nóng bỏng” của dư luận về việc phá hoại di tích chùa Trăm Gian, chiều 30/8 Sở Văn hoá, Thể thao & Du lịch Hà Nội đã tổ chức cuộc họp báo chính thức do Giám đốc Sở- ông Phạm Quang Long chủ trì. Rất nhiều vấn đề đã được các cơ quan thông tấn, báo chí đề cập tới, tựu trung là: Chùa Trăm Gian đã bị phá hủy đến mức độ nào? Ai, đơn vị nào sẽ phải chịu trách nhiệm về sai phạm này? Việc phục dựng lại những công trình đã bị phá hủy ở chùa Trăm Gian sẽ được tiến hành ra sao, liệu có thể phục dựng lại nguyên trạng?

    Cuộc họp có sự góp mặt của TS Lê Thành Vinh, Viện trưởng Viện bảo tồn di tích, ông Vũ Văn Đông- Phó chủ tịch huyện Chương Mỹ (Hà Nội), ông Vũ Văn Doãn - Chủ tịch xã Tiên Phương (huyện Chương Mỹ).

    Đúng như cam kết ban đầu của Giám đốc Sở Phạm Quang Long, mọi câu hỏi đều được trả lời. Tuy nhiên, những vấn đề cốt yếu mà báo chí và dư luận quan tâm thì vẫn chưa có câu trả lời chính xác; và xem ra, trách nhiệm thuộc về ai, đơn vị nào… thì cũng vẫn còn phải… chờ!

    Dân có cần, nhưng quan chưa vội?

    Theo thông tin từ Sở Văn hoá, Thể thao & Du lịch Hà Nội, cũng là điều được các cơ quan báo chí đề cập tới nhiều trong những ngày qua, ngày 13/4/2010, Sở Kế hoạch & Đầu tư Hà Nội đã có quyết định số 162/ QĐ- KHĐT về việc phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án tu bổ, tôn tạo di tích lịch sử chùa Trăm Gian, huyện Chương Mỹ và giao cho Sở Văn hoá, Thể thao & Du lịch làm chủ đầu tư dự án. Các thủ tục chuẩn bị cho đầu tư đã được Sở hoàn thành, gồm cả hồ sơ thiết kế thi công, tổng dự toán đã được Cục Di sản văn hoá thoả thuận tại văn bản số 425/DSVH-DT ngày 12/7/2010 và được Sở Văn hoá, Thể thao & Du lịch phê duyệt tại quyết định số 1190/QĐ- VHTTDL ngày 27/10/2010.

    Gần 1 năm sau đó, ngày 25/9/2011, Sở Văn hoá, Thể thao & Du lịch, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính Hà Nội, UBND huyện Chương Mỹ đã kiểm tra hiện trạng di tích và thống nhất đánh giá thực trạng nhiều hạng mục kiến trúc như ống Muống, Thượng điện, nhà Tổ, gác Khánh… và cho rằng các hạng mục này đang bị “xuống cấp nghiêm trọng có nguy cơ sập đổ, dù đã được nhà chùa và địa phương thực hiện việc chống đỡ tạm thời trong mùa mưa bão năm 2011 vẫn không đảm bảo an toàn cho hệ thống di vật và khách thập phương vào lễ Phật” (nguyên văn trong Thông cáo báo chí của Sở VHTTDL gửi phóng viên chiều qua, 30/8).

    Trước thực trạng này, Sở Văn hoá, Thể thao & Du lịch, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, UBND huyện Chương Mỹ đã có văn bản liên sở số 1961 ngày 10/10/2011, đề xuất với UBND thành phố Hà Nội cho phép chủ đầu tư hạ giải ngay các hạng mục xuống cấp trong tình trạng nguy hiểm và triển khai thi công; đồng thời Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính cân đối, bố trí kinh phí để thực hiện dự án ngay trong năm 2011.
    Quang cảnh cuộc họp ngày 30/8. Ảnh: Lộc Lan.
    Thế nhưng, do “tình hình kinh tế khó khăn, thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 của Chính phủ “Về những giải pháp tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội”, nên UBND thành phố Hà Nội chưa bố trí được nguồn kinh phí đầu tư cho dự án tu bổ, tôn tạo di tích chùa Trăm Gian vào năm 2011”.

    Và tới tận ngày 29/6/2012, UBND thành phố Hà Nội mới ban hành quyết định số 2960/QĐ- UBND về việc giao mục tiêu, nhiệm vụ và kế hoạch vốn thực hiện các chương trình Mục tiêu Quốc gia và một số mục tiêu thành phố Hà Nội năm 2012, nhưng chưa giao vốn để thực hiện dự án. Khi đó, số phận của chùa Trăm Gian tất nhiên vẫn chưa được tính đến!

    CHẬP CHOẠNG CHIỀU VU LAN

    Cảnh mẹ liệt sĩ sống ở túp lều tranh

    29/08/2012 05:00:00 PM (GMT+7)
    VNN - Gần 90 tuổi, tóc đã bạc trắng, mắt mờ, da nhăn nheo, tay chân run rẩy nhưng người mẹ liệt sĩ ở huyện Thạch Hà (Hà Tĩnh) vẫn phải sống một mình trong túp lều tranh, vách đất xiêu vẹo.
    Ước nguyện có gian nhà ngói để thờ tự đứa con đã hi sinh xương máu cho Tổ quốc bấy lâu nay vẫn chưa thực hiện được khiến cụ trăn trở, đau đáu khi ngày "về với đất" đang đến gần.

    Mơ ước nhỏ nhoi tháng ngày cuối đời
    Ước nguyện có gian nhà ngói thờ con trai của mẹ liệt sĩ Phạm Thị Vượng vẫn chưa thực hiện được, bao năm nay, cụ vẫn phải sống trong túp lều tranh, vách đất này.

    Khi người dẫn đường đưa chúng tôi đến trước túp lều tranh, vách đất rách nát, xiêu vẹo, nằm ẩn khuất dưới khóm tre và bảo "nhà cụ Vượng mẹ liệt sĩ là ở đây".

    Nghe có tiếng khách lạ, cụ bà tóc bạc trắng, da nhăn nheo, đang nằm cố gượng dậy. Tên mẹ là Phạm Thị Vượng (SN 1925) lấy chồng là ông Nguyễn Hữu Côn (SN 1915), có được 5 người con. Năm 1968 khi đứa con út mới được 2 tuổi thì chồng mất vì bạo bệnh. Một mình bà bươn chải nuôi con.


    Năm 1974, anh Nguyễn Xuân Hồng (SN 1956, là người con thứ 3 trong gia đình) nhập ngũ tham gia chiến đấu ở chiến trường miền Nam, một năm sau, người mẹ như chết lặng khi nhận được giấy báo tử liệt sĩ Hồng đã hi sinh ngày 09/4/1975 tại chiến trường miền Nam trong cuộc tấn công vào Xuân Lộc.

    "Trong mấy đứa con, mẹ thương thằng Hồng nhiều nhất, nó hiền lành, ít nói, ngày nhập ngũ nó còn nói vào giải phóng miền Nam xong sẽ về cưới vợ để mẹ bồng cháu. Vậy mà, sau lần đó, nó không bao giờ về được nữa. Nó hi sinh khi chưa đầy 19 tuổi..." - cụ Vượng rưng rưng trong đôi mắt sâu thẳm.

    Xót xa khi mất đi người con trai yêu quý cống hiến xương máu cho Tổ quốc trong chiến tranh rồi lại đến lượt những đứa con thời bình, đau ốm, bệnh tật "ra đi" trước mẹ.

    Trong túp lều tranh, vách đất xiêu vẹo, chật chội khiến mẹ liệt sĩ cảm thấy buồn tủi, ứa nước mắt khi không có được một góc sạch sẽ để đặt bàn thờ, lo hương khói cho con.

    Nguyễn Huệ Chi: NHỮNG VẤN NẠN CỦA MỘT THỦ ĐÔ XANH, SẠCH, ĐẸP

    Những vấn nạn của một Thủ đô xanh, sạch, đẹp

    Nguyễn Huệ Chi

    Chưa có một thời nào mà những chuyện nhố nhăng kệch cỡm lại diễn ra trâng tráo như thời buổi hôm nay. Cả một Chùa Trăm Gian nổi tiếng hàng mấy trăm năm bỗng dưng bị quan chức ngành văn hóa đè ra đập phá vô tội vạ nhân danh “tôn tạo”, kỳ thực chỉ là vì khoản tiền hàng mấy chục đến cả trăm tỷ đồng béo bở gói trong cái dự án tôn tạo quái dị này. Những lăng mộ các vua Trần ở Yên Sinh – một thời đại rạng rỡ những chiến công đánh giặc giữ nước, ngay dưới thời Nguyễn còn được các vua Nguyễn cho trùng tu cẩn thận, năm 1971 chúng tôi đi khảo sát còn chụp ảnh lưu niệm, thế mà cả một Nhà nước mải lo “4 tốt 16 chữ vàng” nên quên bẵng, để dân thi nhau sấn vào cướp phá đào xới tanh bành cho đến viên gạch cuối cùng, và chen lấn làm nhà lên đấy, rồi đến nay lại bảo nhau “lập dự án trùng tu”, hỏi có vạn lần vô phúc hay không? 

    Mà trùng tu như thế nào? Có ai đi trên con đường thiên lý ghé thăm đền thờ An Dương Vương (đền Cuông) ở Diễn Châu thì khắc thấy tất cả những tô đắp thô kệch rẻ tiền của xi măng thay cho các cột kèo điêu khắc tinh xảo bằng gỗ lim xưa kia (dù không phải thật cổ nhưng cũng đã bám đầy lớp patin của nhiều thế kỷ mà người viết bài này còn được thấy năm 1948 khi cùng gia đình đi tản cư ghé thăm nơi đó), cùng với những đôi câu đối xấu xí (cũng trên xi măng) làm cộm con mắt bất kỳ ai có chút kiến văn giờ đây đến thăm lại ngôi đền.

    Thứ Năm, 30 tháng 8, 2012

    HÀNG VẠN NGƯỜI TỤ TẬP TẠI CHÂN CẦU VƯỢT NGÃ TƯ SỞ DỰ LỄ VU LAN






    Tối thứ Năm, ngày Mười Bốn tháng Bảy năm Nhâm Thìn (30.8.2012).

    Ảnh: N.V.A

    MÙA VU LAN, TIẾNG KÊU TỪ CHÙA TRĂM GIAN VỌNG KHẮP TRẦN GIAN

    Vu Lan đập tan chùa cổ, thằng trộm cứu được Diêm Vương


    (Trái hay phải) – Trong khi dân tình hồ hởi đập tan chùa cổ trăm gian nghìn năm tuổi giữa tháng Vu Lan của nhà Phật, thì mấy ông Thập điện Diêm Vương lại thoát nạn xếp ngang với mông trẻ con nhờ mấy thằng trộm cướp…

    Đợi 1.000 năm nữa nhé để phục hồi nguyên trạng theo yêu cầu rất kịp thời của Bộ.
    Đợi 1.000 năm nữa nhé để phục hồi nguyên trạng theo yêu cầu rất kịp thời của Bộ
    Được tờ Tuổi Trẻ khơi ra đầu tiên, cho đến nay, câu chuyện chùa Trăm Gian được đám hậu sinh hô biến từ ngàn tuổi thành một ngày tuổi đã trở thành sự kiện thuộc hàng nóng bỏng nhất trên mặt báo.

    Thế nên, chẳng cần phải phân tích thêm về tính chất tày trời của vụ việc nữa - vốn được các nhà báo đua nhau mổ xẻ ở đủ các chiều cạnh.

    Như thường lệ, giả thiết đầu tiên mà dân tình nghĩ đến là các quan chức địa phương hoặc của ngành lại rỗi việc, cho nên vẽ ra dự án này để tiêu tiền ngân sách rồi qua đó, nếu có thể thì chấm mút tí ti, cải thiện đời sống giữa thời buổi thóc cao gạo kém. Nhưng đọc kỹ, thì thấy không phải như vậy.

    Lịch sử trùng tu di tích ở xứ ta chỉ mấy năm qua, nào chùa Trấn Quốc, nào Thành cổ Tây Sơn, thậm chí cả sự tích biến Thành cổ Nhà Mạc Tuyên Quang thành… cái lò gạch cũng đều có dấu ấn của các cơ quan chức năng trùng tu.

    Một trong những lý do được đưa ra là tiền trùng tu di tích… nhiều quá, như năm 2011, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã đề xuất một con số khổng lồ cho việc tu bổ, tôn tạo di tích: 11.000 tỉ đồng. Quý vị thử nghĩ xem, với số tiền khổng lồ ấy mà không đập đi xây mới thì tiêu sao cho hết?

    Các nhà báo của chúng ta khi tường thuật về các vụ việc trên đây cũng đã ngậm ngùi trích rất nhiều ý kiến của các bậc phó thường dân, nhất là những cụ cao niên đức cao vọng trọng trong làng, thở than cho cái gọi là trùng tu theo kiểu phá hoại bất chấp góp ý của các cụ.

    Đây đó cũng có nhiều ý kiến tâm huyết cho rằng, việc quản lý và trùng tu di tích phải được trả lại cho người dân, như quan điểm của UNESCO rằng di sản phải sống thực sự giữa cộng đồng như nó vốn thế.

    Nay thì có thể thấy, hình như ước mong hết sức chính đáng ấy không phải lúc nào cũng đúng, cũng phù hợp.

    Hãy thử quay trở lại trường hợp mà ta đang xét, tờ Lao Động tường thuật như sau: Cụ Nguyễn Đức Tuệ - 82 tuổi, người xã Tiên Phương - vừa tự hào khoe năm nay mình “được tuổi”, được tín nhiệm mời leo lên thượng lương, cất nóc cho chính tòa gác khánh này, rồi trầm trồ: “Người ta xẻ một cây gỗ lim ra, vót nó thành 4 cái cột chùa khổng lồ y như chúng ta chẻ tre vót đũa ấy. To tiền lắm, riêng khu này chắc khoảng 3 tỉ đồng rồi nhé”.