Thứ Năm, 3 tháng 11, 2011

DANH SÁCH 199 TẠO SĨ (TIẾN SĨ NGẠCH VÕ) TRIỀU LÊ


Lời dẫn của macbupda:
Thời phong kiến, sĩ tử Nho gia đều có chí hướng thi cử chiếm công danh rồi cống hiến cho nước nhà. Ấy là bên văn. 

Còn bên võ, nhà nước cũng tổ chức một số khoa thi, chọn lấy những người có tài, và ban cho phẩm vị. 

Tạo sĩ khoa thi võ cũng tương đường tiến sĩ (tức ông Nghè) bên văn.
Em có kiếm được quyển "Võ cử và các võ tiến sĩ ở nước ta" (tác giả Nguyễn Thúy Nga, Nxb. Thế Giới), trong đó có danh sách các vị đỗ võ khoa cao cấp của Việt Nam thời Lê và thời Nguyễn. 

Xin giới thiệu để mọi người cùng tham khảo.

Các Tạo sĩ đời Lê
1. Phạm Công Tự
Người xã Cự Khánh, huyện Đông Sơn, nay thuộc tỉnh Thanh Hóa. Đỗ Tạo sĩ trúng hạng khoa Giáp Thìn niên hiệu Bảo Thái 5 (1724) đời vua Lê Dụ Tông. Làm quan trải các chức: Cai cơ, Thiêm Sai, Trấn thủ.

2. Phạm Hữu Tuấn

Người xã Yên Thường, huyện Đông Ngàn, nay thuộc xã Yên Thường, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội.Đỗ Tạo sĩ trúng hạng khoa Giáp Thìn niên hiệu Bảo Thái 5 (1724) đời vua Lê Dụ Tông. Em Phạm Hữu Nhậm, anh em đỗ cùng khoa; anh Phạm Hữu Tá, ông nội Phạm Hữu Vĩ.

3. Phạm Hữu Nhậm

Người xã Yên Thường, huyện Đông Ngàn, nay thuộc xã Yên Thường, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội. Đỗ Tạo sĩ thứ trúng hạng khoa Giáp Thìn niên hiệu Bảo Thái 5 (1724) đời vua Lê Dụ Tông. Anh Phạm Hữu Tá, Phạm Hữu Tuấn, anh em đỗ cùng khoa; ông bác Phạm Hữu Vĩ.

4. Mai Châu Điểm

Người xã Liên Cừ, huyện Thuần Lộc, nay thuộc huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
Đỗ Tạo sĩ thứ trúng hạng khoa Giáp Thìn niên hiệu Bảo Thái 5 (1724) đời vua Lê Dụ Tông.

5. Văn Đình Dận (1703-1754)

Người xã Lạc Phố, huyện Hương Sơn, nay thuộc huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
22 tuổi đỗ Tạo sĩ trúng hạng khoa Giáp Thìn niên hiệu Bảo Thái 5 (1724) đời vua Lê Dụ Tông. Sách Kiến văn tiểu lục ghi: “Sau là danh tướng”. Làm quan đến chức Trấn thủ Tuyên Quang năm Vĩnh Hựu 6 (1740), tước Điều Trung hầu; năm Vĩnh Hựu 5 (1739) thăng Điều quận công. Thọ 51 tuổi. Sau khi mất được truy phong làm phúc thần.
Cha Văn Đình Ức, ông nội Văn Đình Cung.

6. Nguyễn Đức Luận

Người xã Quế Ổ, huyện Quế Dương, nay thuộc xã Chi Lăng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Đỗ Đồng Tạo sĩ thứ thủ hạng khoa Giáp Thìn niên hiệu Bảo Thái 5 (1724) đời vua Lê Dụ Tông.

7. Nguyễn Thì Lỵ (1702-1787)

Người xã Đình Vĩ, huyện Đông Ngàn, nay thuộc xã Yên Thường, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội. 23 tuổi đỗ Đồng Tạo sĩ thứ thủ hạng khoa Giáp Thìn niên hiệu Bảo Thái 5 (1724) đời vua Lê Dụ Tông.  Sách Kiến văn tiểu lục ghi: “Sau là danh tướng”. Làm quan chức Cai cơ. Được về trí sĩ, thọ 85 tuổi, trải việc 4 triều.

8. Đặng Đình Truyền

Người xã Lương Xá, huyện Chương Đức, nay thuộc xã Lam Điền, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây. Đỗ Đồng Tạo sĩ thứ thủ hạng khoa Giáp Thìn niên hiệu Bảo Thái 5 (1724) đời vua Lê Dụ Tông.

9. Hoàng Nghĩa Bá (1696-1743)

Người xã Hoàng Vân, huyện Kim Động, nay thuộc huyện Kim Động, Hưng yên.
29 tuổi đỗ Đồng Tạo sĩ thứ thủ hạng khoa Giáp Thìn niên hiệu Bảo Thái 5 (1724) đời vua Lê Dụ Tông. Sách Kiến văn tiểu lục ghi: “Sau là danh tướng”. Làm quan chức Thống lĩnh, tước Bích Quận công. Thọ 47 tuổi. Sau khi mất được truy phong làm phúc thần.

10. Bùi Thế Tước

Người xã Thạch Thán, huyện Yên Sơn, nay thuộc xã Thạch Thán, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây. Đỗ Đồng Tạo sĩ thứ thủ hạng khoa Giáp Thìn niên hiệu Bảo Thái 5 (1724) đời vua Lê Dụ Tông.

11. Trịnh Điền

Họ Tôn thất. Đỗ Đồng Tạo sĩ thứ thủ hạng khoa Giáp Thìn niên hiệu Bảo Thái 5 (1724) đời vua Lê Dụ Tông.

12. Đặng Đình Đạt

Người xã Lương Xá, huyện Chương Đức, nay thuộc xã Lam Điền, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây. Đỗ Tạo sĩ thứ trúng hạng khoa Đinh Mùi niên hiệu Bảo Thái 8 (1727) đời vua Lê Dụ Tông.

13. Phạm Hữu Tá

Người xã Yên Thường, huyện Đông Ngàn, nay thuộc xã Yên Thường, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội. Đỗ Tạo sĩ thứ trúng hạng khoa Đinh Mùi niên hiệu Bảo Thái 8 (1727) đời vua Lê Dụ Tông. Em Phạm Hữu Nhậm, Phạm Hữu Tuấn, ông chú Phạm Hữu Vĩ.

14. Nguyễn Duy Diệu

Người xã Yên Lãng, huyện Yên Lãng, nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. Đỗ Tạo sĩ thứ trúng hạng khoa Đinh Mùi niên hiệu Bảo Thái 8 (1727) đời vua Lê Dụ Tông.

15. Nguyễn Phúc Nhuận

Người trang Gia Miêu Ngoại, huyện Tống Sơn, nay thuộc xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Đỗ Đồng tạo sĩ thứ thủ hạng khoa Đinh Mùi niên hiệu Bảo Thái 8 (1727) đời vua Lê Dụ Tông. Làm quan chức kiêm Trấn thủ, tước quận công. Cha Nguyễn Phúc Hán.

16. Vũ Khúc Lâm.

Người xã Vượng Xã, huyện Cẩm Giàng, nay thuộc huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.
Đỗ Đồng tạo sĩ thứ thủ hạng khoa Đinh Mùi niên hiệu Bảo Thái 8 (1727) đời vua Lê Dụ Tông.

17. Võ Tá Đức (1711-?)

Người xã Hà Hoàng, huyện Thạch Hà, nay thuộc xã Thạch Hạ, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Biên sinh hợp thức, 21 tuổi đỗ Tạo sĩ trúng hạng khoa Tân Hợi niên hiệu Vĩnh Khánh 3 (1731) đời vua Lê Duy Phường. Làm quan chức Đốc trấn, Quyền phủ. Sau khi mất được tặng tước quận công. Cháu họ Võ Tá Tông, chú cháu cùng khoa; chú Võ Tá Thạc.

18. Võ Tá Tông

Người xã Hà Hoàng, huyện Thạch Hà, nay thuộc xã Thạch Hạ, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. 21 tuổi đỗ Tạo sĩ thứ trúng hạng khoa Tân Hợi niên hiệu Vĩnh Khánh 3 (1731) đời vua Lê Duy Phường. Làm quan chức Cai cơ. Mất tại trận, sau khi mất được tặng tước quận công. Chú Võ Tá Đức, chú cháu cùng khoa; ông họ Võ Tá Thạc.

19. Nguyễn Đức Uông

Người xã Quế Ổ, huyện Quế Dương, nay thuộc xã Chi Lăng, nay là huyện Quế Ổ, tỉnh Bắc Ninh. Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Tân Hợi niên hiệu Vĩnh Khánh 3 (1731) đời vua Lê Duy Phường. Làm quân trải các chức Cai cơ, Thống lĩnh. Mất tại trận. Sau khi mất được tặng tước quận công, bao phong phúc thần.

20. Lê  Công Phụ

Người xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, nay là xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Tân Hợi niên hiệu Vĩnh Khánh 3 (1731) đời vua Lê Duy Phường.

21. Tống Đức Hải

Người xã Bùi Xá, huyện Tống Sơn, nay thuộc huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Tân Hợi niên hiệu Vĩnh Khánh 3 (1731) đời vua Lê Duy Phường.

22. Hoàng Công Tuấn

Người xã Trung Vũ, huyện Thụy Nguyên, nay thuộc tỉnh Thanh Hóa. Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Tân Hợi niên hiệu Vĩnh Khánh 3 (1731) đời vua Lê Duy Phường.
23. Hoàng Nghĩa Thông
Người xã Hoàng Vân, huyện Kim Động, nay thuộc huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Tân Hợi niên hiệu Vĩnh Khánh 3 (1731) đời vua Lê Duy Phường. Chú Hoàng Nghĩa Đương, chú cháu cùng khoa.

24. Nguyễn Đống

Người xã Hạ Bồng, huyện la Sơn, nay thuộc xã Đức Lĩnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Tân Hợi niên hiệu Vĩnh Khánh 3 (1731) đời vua Lê Duy Phường. Tước quận công

25. Hoàng Nghĩa Đương.

Người xã Hoàng Vân, huyện Kim Động, nay thuộc huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Tân Hợi niên hiệu Vĩnh Khánh 3 (1731) đời vua Lê Duy Phường. Cháu Hoàng Nghĩa Thông, chú cháu cùng khoa.

26. Hoàng Công Phái

Người xã Đang Dương Hạ, huyện Bạch Hạc. Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Tân Hợi niên hiệu Vĩnh Khánh 3 (1731) đời vua Lê Duy Phường. Làm quan chức cai cơ.

27. Võ Tá Trung

Người xã Hà Hoàng, huyện Thạch Hà, nay thuộc xã Thạch Hạ, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Đỗ Tạo ssĩ trúng hạng khoa Quý Sửu niên hiệu Long Đức 2 (1733) đời vua Lê Thuần Tông. Làm quan chức Thiêm sai, Cai cơ. Mất tại trận. Sau khi mất được tặng tước quận công. Anh Võ Tá Thụy, cha Võ Tá Lệ, bác Võ Tá Dao.

28. Phạm Công Thiếp

Người xã Lãng Điền, huyện Thượng Nuyên, nay thuộc huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Đỗ Tạo sĩ trúng hạng khoa Quý Sửu niên hiệu Long Đức 2 (1733) đời vua Lê Thuần Tông.

29. Lê Cảnh.

Người hương Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên, nay thủo thị trấn Lam Sơn, xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Đỗ Tạo sĩ thứ trúng hạng khoa Quý Sửu niên hiệu Long Đức 2 (1733) đời vua Lê Thuần Tông.

30. Hoàng Đỉnh Thản

Người xã Lê Xá, huyện Gia Lâm, nay thuộc xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội.
Đỗ Tạo sĩ thứ trúng hạng khoa Quý Sửu niên hiệu Long Đức 2 (1733) đời vua Lê Thuần Tông. Anh Hoàng Đình Huyên, anh em đỗ cùng khoa.

31. Nguyễn Địch Côn

Người xã Vụ Cầu, huyện Thanh Ba, nay thuộc huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Quý Sửu niên hiệu Long Đức 2 (1733) đời vua Lê Thuần Tông. Làm quan chức Cai cơ, Đốc trấn trấn Kinh Bắc, kèm dạy ở nhà Võ học. Em Nguyễn Địch Tăng, anh em đỗ cùng khoa, ông nội của Nguyễn Địch Chủng, Nguyễn Địch Quỳnh, Nguyễn Địch Trọng.

32. Nguyễn Đình Thạch

Người xã Hương Duệ, huyện Kỳ Hoa, nay thuộc xã Cẩm Duệ, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Quý Sửu niên hiệu Long Đức 2 (1733) đời vua Lê Thuần Tông. Làm quan chức Quyền phủ, tước Tào quận công, quốc sư kiêm quốc lão, Phụng thị ngũ lão. Sau lại được mời ra làm quan. Thọ 78 tuổi. Sau khi mất được bao phong phúc thần. Anh Nguyễn Đình Chử, Nguyễn Đình Quyền.

33. Đặng Đình Trụ.

Người xã Lương Xá, huyện Chương Đức, nay thuộc xã Lam Điền, huyện chương Mỹ, tỉnh Hà Tây. Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Quý Sửu niên hiệu Long Đức 2 (1733) đời vua Lê Thuần Tông.

34. Hoàng Đình Huyên

Người xã Lê Xá, huyện Gia Lâm, nay thuộc xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội.
Biền sinh hợp thức, đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Quý Sửu niên hiệu Long Đứ 2 (1733) đời vua Lê Thuần Tông. Em Hoàng Đình Thản. Anh em đỗ cùng khoa.

35. Hoàng Nghĩa Nhương.

Người xã Hoàng Vân, huyện Kim Động, nay thuộc huyện Kim Động, tỉnh Hững Yên.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Quý Sửu niên hiệu Long Đức 2 (1733) đời vua Lê Thuần Tông. Làm quan Cai cơ. Cha của Hoàng Nghĩa Yến, ông nội của Hoàng Nghĩa Trụ.

36. Phạm Phượng Nhac

Người xã Cự Khánh, huyện Đông Sơn, nay thuộc tỉnh Thanh Hóa. Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Quý Sửu niên hiệu Long Đức 2 (1733) đời vua Lê Thuần Tông.

37. Nguyễn Địch Tăng

Người xã Vụ Cầu, huyện Thanh Ba, nay thuộc huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. 21 tuổi đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Quý Sửu niên hiệu Long Đức 2 (1733) đời vua Lê Thuần Tông. Anh của Nguyễn Địch Côn, ông bác của Nguyễn Địch Chủng, Nguyễn Địch Quỳnh, Nguyễn Địch Trọng.

38. Võ Tá Tín

Người xã Hà Hoàng, huyện Thạch Hà, nay thuộc xã Thạch Hạ, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Biền sinh hợp thức, đỗ Tạo sĩ trúng hạng khoa Bính Thìn, niên hiệu Vĩnh Hựu 2 (1736) đời vua Lê Ý Tông.

39. Nguyễn Đình Danh

Người xã Đặng Xá, huyện Lương Tài, nay thuộc xã Trùng Xá, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh. Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Bính Thìn, niên hiệu Vĩnh Hựu 2 (1736) đời vua Lê Ý Tông. Làm quan Cai cơ. Em Nguyễn Đình Khội, chú Nguyễn Đình Can.

40. Hoàng Đình Tá

Người xã Quế Trạo, huyện Hiệp Hòa, nay thuộc xã Thái Sơn, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Đỗ Đồng tạo sĩ trúng hạng khoa Bính Thìn, niên hiệu Vĩnh Hựu 2 (1736) đời vua Lê Ý Tông.

41. Võ Tá Thụy

Người xã Hà Hoàng, huyện Thạch Hà, nay thuộc xã Thạch Hạ, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Biền sinh Hợp thức, 25 tuổi đỗ Tạo sĩ trúng hạng khoa Kỷ Mùi niên hiệu Vĩnh Hựu 5 (1739) đời vua Lê Ý Tông. Làm quan chức Cai cơ, Tham lĩnh xứ Nghệ An. Cha Võ Tá Dao, em Võ Tá Trung, chú Võ Tá Lệ.

42. Võ Tá Cơ (1725-?)

Người xã Hà Hoàng, huyện Thạch Hà, nay thuộc xã Thạch Hạ, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Biền sinh Hợp thức, 25 tuổi đỗ Tạo sĩ trúng hạng khoa Kỷ Mùi niên hiệu Vĩnh Tộ 5 (1739) đời vua Lê Ý Tông. Làm quan chức Cai cơ, Đô đốc, tước Vượng Cơ Hầu. Anh Võ Tá Kiên, Võ Tá Bật, Võ Tá Thì; cha Võ Tá Dự. (sinh năm 1725 thì năm 1739 mới 15 tuổi, vậy có lẽ ông sinh năm 1915 mới đúng)

43. Nguyễn Đình Chử (1715-?)

Người xã Hương Duệ, huyện Kỳ Hoa, nay thuộc xã Cẩm Duệ, huyện Cảm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Biền sinh Hợp thức, 25 tuổi đỗ Đồng Tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Kỷ Mùi niên hiệu Vĩnh Tộ 5 (1739) đời vua Lê Ý Tông. Em Nguyễn Đình Thạch, Nguyễn Đình Quyền.

44. Phạm Đình Lân

Người xã Hạ Liệt, huyện Đông Sơn, nay thuộc Thanh Hóa. Đỗ Đồng Tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Kỷ Mùi niên hiệu Vĩnh Tộ 5 (1739) đời vua Lê Ý Tông.

45. Nguyễn Phúc Hán

Người trang Gia Miêu Ngoại, huyện Tống sơn, nay thuộc xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Làm quan Cai cơ quản hải đạo. Con Nguyễn Phúc Nhuận.
46. Đặng Đình Viện
Người xã Lương Xá, huyện Chương Đức, nay thuộc xã Lam Điền, huyện chương Mỹ, tỉnh Hà Tây. Trước đỗ Toát thủ, sau đỗ Tạo sĩ trúng hạng khoa Quý Hợi niên hiệu Cảnh Hưng 4 (1743) đời vùa Lê Hiển Tông. Trường thứ 3 đỗ hạng ưu.
Làm quan đến Thiêm sai.
47. Ngô Phúc Hoành.
Người xã Trảo Nha, huyện Thạch Hà, nay thuộc thị trấn Can Lộc, (thị trấn Nghèn), huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Biền sinh hợp thức, đỗ Tạo sĩ thứ trúng hạng khoa Quý Hợi niên hiệu Cảnh Hưng 4 (1743) đời vua Lê Hiển Tông. Làm quan đến Quyền phủ, Trấn thủcác xứ Sơn Tây, Hải Dương; Kinh lược sứ đạo Thanh Hoa. Tước Hoành Phúc hầu, sau thăng tước quận công. Thọ 97 tuổi. Cha của Ngô Phúc Chủng.
48. Nguyễn Đình Khôi.
Người xã Đặng Xá, huyện Lang Tài, nay thuộc xã Trừng Xá, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh. Đỗ Tạo sĩ thứ thủ hạng khoa Quý Hợi niên hiệu Cảnh Hưng 4 (1743) đời vua Lê Hiển Tông. Làm quan Trấn thủ An Quảng. Anh của Nguyễn Đình Danh; cha của Nguyễn Đình Can.
49. Nguyễn Đình Quyền
Người xã Hương Duệ, huyện Kỳ Hoa, nay thuộc xã Cẩm Duệ, huyện Cảm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Đỗ Đồng Tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Quý Hợi niên hiệu Cảnh Hưng 4 (1743) đời vua Lê Hiển Tông. Làm quan Quảng cơ Hậu Tiệp, tước Bàn Trung hầu. Em Nguyễn Đình Thạch, anh Nguyễn Đình Chử.
50. Lê Đình Giảng
Người xã An Quảng, huyện Lôi Dương, nay thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Đỗ Đồng Tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Quý Hợi niên hiệu Cảnh Hưng 4 (1743) đời vua Lê Hiển Tông. Làm quan chức Cai cơ.
51. Trịnh Hoành
Họ Tôn thất. Biền sinh hợp thức, đỗ Tạo sĩ trúng hạng khoa Nhâm Thân niên hiệu Cảnh Hưng 13 (1752) đời vua Lê Hiển Tông.
52. Vũ Quốc Cán
Người xã Đôn Thư, huyện Thanh Oai, nay thuộc xã Kim Thư, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Biền sinh hợp thức, đỗ Tạo sĩ trúng hạng khoa Nhâm Thân niên hiệu Cảnh Hưng 13 (1752) đời vua Lê Hiển Tông.
53. Lê Thế Quýnh
Người xã Nhân Mục Cựu, huyện Thanh Trì, nay thuộc phương Thượng Đình, quận Thanh Xuân, TP Hà Nội. Biền sinh hợp thức, đỗ Tạo sĩ thứ trúng hạng khoa Nhâm Thân niên hiệu Cảnh Hưng 13 (1752) đời vua Lê Hiển Tông. Làm quan chức Thiêm sai quản đường biển. Cha Lê Thế Định.
54. Mai Doãn Nhã
Người xã Đông Bình, huyện Gia Định, nay thuộc xã Xuân Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Biền sinh hợp thức, đỗ Tạo sĩ thứ thủ hạng khoa Nhâm Thân niên hiệu Cảnh Hưng 13 (1752) đời vua Lê Hiển Tông. Làm quan chức Thiêm sai quản đường biển.
55. Đỗ Thế Dụng
Người xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, nay là xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, TP Hà Nội. Chính quán xã Lai Cách, nay là thị trấn Lai Cách, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Nhâm Thân niên hiệu Cảnh Hưng 13 (1752) đời vua Lê Hiển Tông.

56. Hoàng Đình Thể

Người xã Hà Thượng, huyện Thuần Lộc, nay thuộc huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Nhâm Thân niên hiệu Cảnh Hưng 13 (1752) đời vua Lê Hiển Tông. Làm quan Đại tư mã, Trấn thủ các xứ Nghệ An, Hưng Hóa, kiêm dạy ở nhà võ học đạo Quảng Nam - Thuận Hóa, phó tướng quân. Tước quận công. Chết vì việc nước, được phong làm phúc thần. Cha của Hoàng Đình Đức, Hoàng Đình Duệ và Hoàng Đình Khuê. (Hoàng Đình Thể và hai con là Hoàng Định Duệ, Hoàng Đình Khuê tử trận trong cuộc tiến công ra Phú Xuân của quân Tây Sơn năm Bính Ngọ 1786).

57. Phạm Ngô Trác (1724-?)

Người xã Da Cầu, huyện Tống Sơn, nay thuộc huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa.
29 tuổi đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Nhâm Thân niên hiệu Cảnh Hưng 13 (1752) đời vua Lê Hiển Tông. Làm quan chức Thiêm Sai, Trấn Thủ, Đốc chiến, Đốc lĩnh. Chú họ của Phạm Ngô Thạch.

58. Võ Tá Kiên

Người xã Hà Hoàng, huyện Thạch Hà, nay thuộc xã Thạch Hạ, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Đỗ Tạo sĩ trúng hạng khoa Giáp Tuất niên hiệu Cảnh Hưng 15 (1754) đời vua Lê Hiển Tông. Làm quan chức Hiệp mưu đạo Quảng Nam - Thuận Hóa, Cai cơ Tả Thắng. Tước Kiện Kim hầu. Chết vì việc nước.
Em Võ Tá Cơ, anh Võ Tá Bật, Võ Tá Thì. Chú Võ Tá Dự.
(ông cùng tử trận với Hoàng Đình Thể trong trận Phú Xuân năm Bính Ngọ 1786)

59. Vũ Đăng Khoa

Người xã Kim Lan, huyện Cẩm Giang, nay thuộc xã Kim Giang, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. 28 tuổi đỗ Tạo sĩ thứ thủ hạng khoa Giáp Tuất niên hiệu Cảnh Hưng 15 (1754) đời vua Lê Hiển Tông. Trường thứ 3 đỗ hạng ưu.

60. Trịnh Tự Đĩnh.

Tự Quý Quyền 貴 權
Người xã Phù Lỗ Đông, huyện Kim Hoa, nay thuộc xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn, TP Hà Nội. Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Giáp Tuất niên hiệu Cảnh Hưng 15 (1754) đời vua Lê Hiển Tông. Làm quan chức Cai đội, Thái Bảo, Trấn thủ Hải Dương. Cha của Trịnh Tự Hiển, Trịnh Tự Thuần và Trịnh Tự Thức.

61. Đàm Đắc Chẩm

Người xã Tương Trúc, huyện Thanh Trì, nay thuộc xã ngũ Hiệp, huyện Thanh Trì, TP Hà Nội. Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Giáp Tuất niên hiệu Cảnh Hưng 15 (1754) đời vua Lê Hiển Tông. Làm quan Đề lĩnh.

62. Nguyễn Đình Triêm

Người xã Thiết Thượng, huyện Yên Dũng, nay thuộc tỉnh Bắc Giang. Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Giáp Tuất niên hiệu Cảnh Hưng 15 (1754) đời vua Lê Hiển Tông. Làm quan Thủ hiệu.

63. Trịnh Châu

Họ Tôn thất. Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Giáp Tuất niên hiệu Cảnh Hưng 15 (1754) đời vua Lê Hiển Tông.

64. Biện Vũ Duệ.

Người xã Diên Lữ, huyện Nam Đường, nay thuộc huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Đỗ Tạo sĩ trúng hạng khoa Đinh Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 18 (1757) đời vua Lê Hiển Tông.

65. Võ Tá Thạc.

Người xã Hà Hoàng, huyện Thạch Hà, nay thuộc xã Thạch Hạ, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Đỗ Tạo sĩ trúng hạng khoa Đinh Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 18 (1757) đời vua Lê Hiển Tông. Cháu Võ Tá Tổng.

66. Lê Bùi Chiểu

Người xã Đặng Xá, huyện Gia Lâm, nay thuộc xã Đặng Xá, huyện Giam Lâm, TP Hà Nội. Biền sinh hợp thức, đỗ Tạo sĩ trúng hạng khoa Đinh Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 18 (1757) đời vua Lê Hiển Tông.
66. Lê Bùi Chiểu
Người xã Đặng Xá, huyện Gia Lâm, nay thuộc xã Đặng Xá, huyện Giam Lâm, TP Hà Nội. Biền sinh hợp thức, đỗ Tạo sĩ trúng hạng khoa Đinh Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 18 (1757) đời vua Lê Hiển Tông.

67. Phạm Như Toại

Người xã Phúc Dương, huyện Hương Sơn, nay thuộc huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
Đỗ Tạo sĩ trúng hạng khoa Đinh Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 18 (1757) đời vua Lê Hiển Tông. Làm quan Trấn thủ Tuyên Quang.

68. Nguyễn Địch Bàn

Người xã Vụ Cầu, huyện Thanh Ba, nay thuộc huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.
Biền sinh hợp thức, đỗ Tạo sĩ trúng hạng khoa Đinh Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 18 (1757) đời vua Lê Hiển Tông. Làm quan Trấn thủ các xứ Hải Dương, An Quảng và Sơn Tây, chỉ huy đồng tri. Tước Điện Lĩnh hầu. Cha của Nguyễn Địch Bàn, anh họ Nguyễn Địch Liên, Nguyễn Địch Vượng; ông họ nguyễn Địch Khuê.

69. Trương Tuân

Người xã Như Kinh, huyện Gia Lâm, nay thuộc thị trấn Như Quỳnh, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. 22 tuổi đỗ Tạo sĩ thứ thủ hạng khoa Đinh Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 18 (1757) đời vua Lê Hiển Tông. Làm quan Trấn thủ Tuyên Quang. Cháu Trương Thuyên. Chú cháu đỗ cùng khoa.

70. Nguyễn Hữu Diễn

Người phường Đông Tác, huyện Thọ Xương, any thuộc quân Hoàn Kiếm, TP Hà Nội.
Quê trang Gia Miêu Ngoại, huyện Tống Sơn, nay thuộc xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Biền sinh hợp thức, đỗ Tạo sĩ thứ thủ hạng khoa Đinh Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 18 (1757) đời vua Lê Hiển Tông.

71. Lê Đỗ Tích

Người xã Hiến Phạm, huyện Văn Giang, nay thuộc huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.
Biền sinh hợp thức, 50 tuổi đỗ Tạo sĩ thứ thủ hạng khoa Đinh Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 18 (1757) đời vua Lê Hiển Tông.

72. Nguyễn Đình Khanh

Người xã Hương Duệ, huyện Kỳ Hoa, nay thuộc xã Cẩm Duệ, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Đinh Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 18 (1757), đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan chức Cai cơ.

73. Trịnh Tông

Họ Tôn thất.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Đinh Sửu, niên hiệu Cảnh Hưng 18 (1757), đời vua Lên Hiển Tông.

74. Hoàng Sĩ Bá

Người xã Hà Thượng, huyện Thuần Lộc, nay thuộc huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Đinh Sửu, niên hiệu Cảnh Hưng 18 (1757), đời vua Lên Hiển Tông.

75. Đinh Kỳ Trân

Người xã Phượng Dực, huyện Thượng Phúc, nay thuộc xã Phương Dục, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Đinh Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 18 (1757) đời vua Lê Hiển Tông.

76. Lê Trọng Hải

Người xã Hoằng Liệt, huyện Thanh Trì, nay thuộc xã Hoàng Liệt, huyện Thanh Trì, TP Hà Nội.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Đinh Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 18 (1757) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan quản đường biển.

77. Trương Thuyên

Người xã Như Kinh, huyện Gia Lâm, nay thuộc thị trấn Như Quỳnh, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Đinh Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 18 (1757) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan chức Cai cơ.
Chú Trương Tuân. Chú cháu đỗ cùng khoa.
(Hai chú cháu họ Trương này thấy có hai cách ghi họ Trương khác nhau, nhưng có lẽ ghi theo họ Trương của Trương Thuyên (77) là đúng, nghi là sách có sai sót).

78. Nguyễn Hữu Nhậm

Người xã Hạ Bồng, huyện La Sơn, nay thuộc xã Đức Lĩnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Đinh Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 18 (1757) đời vua Lê Hiển Tông.

79. Trần Danh Nhạc

Người xã Thiêm Lộc, huyện Ý Yên, nay thuộc huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Đinh Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 18 (1757) đời vua Lê Hiển Tông.

80. Văn Đình Lượng

Người xã Lạc Phố, huyện Hương Sơn, nay thuộc huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
Đỗ Tạo sĩ trúng hạng khoa Canh Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 21 (1760) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan chức Cai cơ.
Con Văn Đình Dận, chú Văn Đình Cung.

81. Hoàng Nghĩa Yến

Người xã Hoàng Vân, huyện Kim Động, nay thuộc huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Đinh Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 21 (1760) đời vua Lê Hiển Tông.
Con của Hoàng Nghĩa Nhượng, cha của Hoàng Nghĩa Trụ.

82. Lương Như Cán

Người xã Cốc Lương, huyện Tiên Phúc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, TP Hà Nội.
21 tuổi đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Đinh Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 21 (1760) đời vua Lê Hiển Tông.

83. Bùi Duy Thì

Người xã ỷ Bích, huyện Thuần Lộc, nay thuộc huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Đinh Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 21 (1760) đời vua Lê Hiển Tông.
Cha Bùi Danh Lân.

84. Trịnh Liêm

Họ Tôn thất, hàng thứ 2 thân với chúa.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Đinh Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 21 (1760) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan Thủ hiệu.

85. Trịnh Chung

Họ Tôn thất
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Đinh Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 21 (1760) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan chức Thủ hiệu.
Em của Trịnh Thuyên, anh của Trịnh Tư, Trịnh Tiêm.

86. Trịnh Chân Trí

Người xã Thận Vị, huyện Thượng Nguyên, nay thuộc huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Đinh Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 21 (1760) đời vua Lê Hiển Tông.

87. Lê Tự

Người hương Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên, nay thuộc thị trấn Lam Sơn, xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Đinh Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 21 (1760) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan Cai cơ.

88. Văn Đình Cung

Người xã Lạc Phố, huyện Hương Sơn, nay thuộc huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
Đỗ Tạo sĩ ưu trúng hạng kho Quý Mùi niên hiệu Cảnh Hưng 24 (1763) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan chức Cai cơ.
Lấy quận chúa em gái chúa Trịnh Sâm. Sau bị khép vào tội ngầm thông mưu phản nghịch, bị giam vào ngục, chúa Trịnh miễn cho khỏi tội chết.
Cháu nội Văn Đình Dận, con Quản quận công Văn Đình Ức, cháu họ Văn Đình Lượng.

89. Trịnh Thự
Họ Tôn thất.
Biền sinh hợp thức, đỗ Tạo sĩ trúng hạng khoa Quý Mùi niên hiệu Cảnh Hưng 24 (1763) đời vua Lê Hiển Tông.

90. Phạm Đình Phan

Người làng Kim Đôi, huyện Võ Giàng, nay thuộc xã Kim Chân, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
Biền sinh hợp thức, đỗ Tạo sĩ thứ trúng hạng khoa Quý Mùi niên hiệu Cảnh Hưng 24 (1763) đời vua Lê Hiển Tông.

91. Võ Tá Bật

Người xã Hà Hoàng, huyện Thạch Hà, nay thuộc xã Thạch Hạ, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Đỗ Tạo sĩ thứ trúng hạng khoa Quý Mùi niên hiệu Cảnh Hưng 24 (1763) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan thủ hiệu thiêm sai phủ liêu, Trấn thủ trấn Sơn Nam Hạ.
Em Võ Tá Cơ, Võ Tá Kiên; anh Võ Tá Thì; chú Võ Tá Dự.

92. Lê Thế Trâm (1743-?)

Người làng Nhân Mục Cựu, huyện Thanh Trì, nay thuộc phường Thượng Đình, quận Thanh Xuân, TP Hà Nội.
Biền sinh hợp thức, 21 tuổi thi một lần đỗ Tạo sĩ thứ trúng hạng khoa Quý Mùi niên hiệu Cảnh Hưng 24 (1763) thời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan chức Thiêm sai, Cai cơ.

93. Đỗ Thế Dận

Người xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, nay thuộc xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, TP Hà Nội.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Quý Mùi niên hiệu Cảnh Hưng 24 (1763) thời vua Lê Hiển Tông.
Năm Cảnh Hưng 35 (1774) làm quan Trấn thủ các trấn Thanh Hoa, Sơn Nam; năm Cảnh Hưng 38 (1777) lĩnh Trấn thủ sơn Tây, Kinh Bắc. Tước Trương Trung hầu. Sau bị cách chức vì không đương nổi việc.

94. Nguyễn Danh Đát

Người xã Phú Hoa, huyện Tiên Phong, nay thuộc xã phú Phương, huyện Ba Vị, tỉnh Hà Tây.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Quý Mùi niên hiệu Cảnh Hưng 24 (1763) thời vua Lê Hiển Tông.

95. Vũ Tất Nhậm (1735-?)

Người xã Mỹ Thự, huyện Đường An, nay thuộc huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.
29 tuổi đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Quý Mùi niên hiệu Cảnh Hưng 24 (1763) thời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan Cai cơ.

96. Nguyễn Địch Vượng

Người xã Vụ Cầu, huyện Thanh Ba, nay thuộc huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Quý Mùi niên hiệu Cảnh Hưng 24 (1763) thời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan quản hải đạo.
Cha của Nguyễn Địch Khuê; em họ Nguyễn Địch Liên, Nguyễn Địch Bàn; chú họ Nguyễn Địch Bân.

97. Trịnh Thuyên (1724-?)

Họ Tốn thất
37 tuổi đoõ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Quý Mùi niên hiệu Cảnh Hưng 24 (1763) thời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan Cai cơ. Chết vì việc nước.
Anh của Trịnh Chung, Trịnh Tư và Trịnh Tiêm.

98. Nguyễn Trọng Mại (1736-?)

Người xã Quế Ổ, huyện Quế Dương, nay thuộc xã Chi Lăng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
28 tuổi đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Quý Mùi niên hiệu Cảnh Hưng 24 (1763) thời vua Lê Hiển Tông.

99. Hoàng Đình Bảo (1743-1782)

Trước tên là Hoàng Đăng Bảo. Sau đổi tên là Tố Lý.
Người xã Phụng Công, huyện Yên Dũng, nay thuộc huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang.
Trước đã đỗ Hương tiến khoa Ất Dậu niên hiệu Cảnh Hưng 26 (1765), 24 tuổi lại đỗ Tạo sĩ ưu phân hạng khoa Bính Tuất niên hiệu Cảnh Hưng 27 (1766) đời vua Lê Hiển Tông. Trường thứ 3 đỗ hạng ưu.
Có tài cả văn lẫn võ, được Ân Vương Trịnh Doanh gả con gái, làm Phò mã.
Làm quan quảnh binh, Trấn thủ các xứ: Thuận Hóa, Sơn Nam; sau làm Tham tụng. Tước Điển Thọ hầu, sau thăng Huy quận công. Bị loạn quân giết năm Canh Hưng 43 (1782).
Cháu họ Hoàng Ngũ Phúc, được Hoàng Ngũ Phúc nuôi làm con.

100. Phạm Hữu Vĩ (1739-?)

Người xã Yên Thường, huyện Đông Ngàn, nay thuộc xã Yên Thường, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội.
Biền sinh hợp thức, 28 tuổi đỗ Tạo sĩ trúng hạng khoa Bính Tuất niên hiệu Cảnh Hưng 27 (1766) đời vua lê Hiển Tông.
Làm quan Cai Cơ.
Cháu nội Phạm Hữu tuấn; cháu họ Phạm Hữu Nhậm, Phạm Hữu Tá.

101. Võ Tá Thì (1745-?)

Người xã Hà Hoàng, huyện Thạch Hà, nay thuộc xã Thạch Hạ, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Biền sinh hợp thức, 22 tuổi thi một lần đỗ Tạo sĩ thứ thủ hạng khoa Bính Tuất niên hiệu Cảnh Hưng 27 (1766) đời vua lê Hiển Tông.
Làm quan Thủ hiệu thiêm sai phủ liêu.
Em Võ Tá Cơ, Võ Tá Kiên và Võ Tá Bật; chú Võ Tá Dự.

102. Lê Thì Hoan (1746-?)

Người xã Phú Hào, huyện Lôi Dương, nay thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Biền sinh hợp thức, 21 tuổi đỗ Đồng Tạo sĩ tưu trúng hạng khoa Bính Tuất niên hiệu Cảnh Hưng 27 (1766) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan Cai cơ.

103. Trần Danh Siêu (1743-?)

Người làng Vạn Phần, huyện Đông Thành, nay là xã Điền Vạn, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Biền sinh hợp thức, 24 tuổi đỗ Đồng Tạo sĩ tưu trúng hạng khoa Bính Tuất niên hiệu Cảnh Hưng 27 (1766) đời vua Lê Hiển Tông.
Anh Trần Danh Thự.

104. Nguyễn Địch Liên

Người xã Vụ Cầu, huyện Thanh Ba, nay thuộc huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.
Đỗ Đồng Tạo sĩ tưu trúng hạng khoa Bính Tuất niên hiệu Cảnh Hưng 27 (1766) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quân Thủ hiệu. Năm Bính Ngọ chết vì việc nước.
Em họ Nguyễn Địch Bàn, anh họ Nguyễn Địch Vượng, chú họ Nguyễn Địch Bân, bác họ Nguyên Địch Khuê.

105. Trịnh Chử (1743-?)

Họ Tôn thất.
24 tuổi đỗ Đồng Tạo sĩ tưu trúng hạng khoa Bính Tuất niên hiệu Cảnh Hưng 27 (1766) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan Thủ hiệu.
Anh Trịnh Bích, Trình Thì.

106. Nguyễn Tông Hải

Người xã Yên Khê, huyện Gia Lâm, nay thuộc xã Yên Trường, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội.
Trước thi hương đỗ Hương cống, sau chuyển sang ngạch võ. Biền sinh hợp thức, đỗ Tạo sĩ trúng hạng khoa Kỷ Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 30 (1769) đời vua Lê Hiển Tông.

107. Nguyễn Đình Khoan

Người xã Thượng Trì, huyện Văn Giang, nay thuộc huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.
Trước thi hương đỗ Hương cống, sau chuyển sang ngạch võ. Biền sinh hợp thức, đỗ Tạo sĩ thứ trúng hạng khoa Kỷ Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 30 (1769) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan đến chức Cai cơ.

108. Nguyễn Đức Trung

Người xã Quế Ổ, huyện Quế Dương, nay thuộc xã Chi Lăng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
Đỗ Tạo sĩ thứ thủ hạng khoa Kỷ Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 30 (1769) đời vua Lê Hiển Tông.
Em Nguyễn Đức Hiệp, chú Nguyễn Trọng Mại.

109. Nguyễn Đình Tuân

Người xã yên Thường, huyện Đông Ngàn, nay thuộc xã Yên Thường, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội.
Biền sinh hợp thức, đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Kỷ Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 30 (1769) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan Thủ hiệu.
Em Nguyễn Đình Xuyến, anh Nguyễn Đình Bát.

110. Nguyễn Mậu Phác

Người xã Hà Dương, huyện Vĩnh Lại, nay thuộc huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Kỷ Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 30 (1769) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan Cai cơ, chết vì việc nước.
111. Dương Đình Hài
Người xã Phụng Công, huyện Yên Dũng, nay thuộc huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang.
Biền sinh hợp thức, đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Kỷ Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 30 (1769) đời vua Lê Hiển Tông.
 

112. Nguyễn Đình Hòe
Người xã Câu Tử, huyện Duy Tiên, any thuộc huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Kỷ Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 30 (1769) đời vua Lê Hiển Tông.

113. Phạm Huy Dật

Người xã Cao Mỗ, huyện Thần Khê, nay thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
Biền sinh hợp thức, đỗ Đồng tạo sĩ sưu trúng hạng khoa Kỷ Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 30 (1769) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan Thủ hiệu

114. Nguyễn Hữu Diệm

Người xã Mỹ Dụ, huyện Hưng Nguyên, nay thuộc huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Kỷ Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 30 (1769) đời vua Lê Hiển Tông.

115. Nguyễn Danh Thái

Người xã Phú Hoa, huyện Tiên Phong, nay thuộc xã Phú Phương, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây.
Biền sinh hợp thức, đỗ Đồng Tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Kỷ Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 30 (1769) đời vua Lê Hiển Tông.

116. Nguyễn Gia Bàn (1745-?)

Người xã Hà Dương, huyện Vĩnh Lại, nay thuộc huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
25 tuổi đỗ Đồng Tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Kỷ Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 30 (1769) đời vua Lê Hiển Tông.

117. Hoàng Nghĩa Nhị

Người xã Hoàng Vân, huyện Kim Động, nay thuộc huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.
Biền sinh hợp thức, đỗ Tạo sĩ trúng hạng khoa Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 33 (1772) đời vua Lê Hiển Tông.
Trường thứ 3 đỗ hạng ưu.
Làm quan Trấn thủ đạo An Quảng.
Cháu Hoàng Nghĩa Bá.

118. Võ Tá Lệ

Người xã Hà Hoàng, huyện Thạch Hà, nay thuộc xã Thạch Hạ, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Đỗ Tạo sĩ trúng hạng khoa Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 33 (1772) đời vua Lê Hiển Tông.
Con Võ Tá Trung, cháu gọi Võ Tá Thụy là chú, anh họ Võ Tá Dao.

119. Võ Tá Dao (1746-?)

Người xã Hà Hoàng, huyện Thạch Hà, nay thuộc xã Thạch Hạ, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
27 tuổi đỗ Tạo sĩ thứ thủ hạng khoa Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 33 (1772) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan Trấn thủ Nghệ An.
Con Võ Tá Thụy, cháu gọi Võ Tá Trung là bác, em họ Võ Tá Lệ.

120. Võ Tá Dự (1748-?)

Người xã Hà Hoàng, huyện Thạch Hà, nay thuộc xã Thạch Hạ, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Biền sinh hợp thức, 25 tuổi đỗ Tạo sĩ thứ thủ hạng khoa Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 33 (1772) đời vua Lê Hiển Tông. Trường thứ 3 đỗ hạng ưu.
Làm quan Cai cơ, Thủ hiệu, Thiêm sai phủ liêu.
Sau đổi sang họ Dương (Dương Vũ Dự).
Con Võ Tá Cơ, cháu họ Võ Tá Kiên, Võ Tá Bật, Võ Tá Thì.

131. Trịnh Tiêm

Họ Tôn thất.
Biền sinh hơp thức, đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 33 (1772) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan Thủ hiệu.
Em Trịnh Thuyên, Trịnh Chung, Trịnh Tư, anh em đỗ cùng khoa.

123. Nguyễn Hữu Lý

Người xã Mậu Lâm, huyện Nga Sơn, nay thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Biền sinh hợp thức, đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 33 (1772) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan Cai cơ.

124. Trịnh Nhuận (1748-?)

Họ Tôn thất.
Biền sinh hợp thức, 25 tuổi đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 33 (1772) đời vua Lê Hiển Tông.
(Các tài liệu chữ Hán đều ghi là chữ nhuận 潤 có bộ thủy, nhưng tác giả Nguyễn Thúy Nga cho rằng người họ chúa Trịnh đều có bộ mộc nên đã đổi lại thành chữ nhuận có bộ mộc, xem hình kèm theo).

125. Ngô Hữu Khoát (1748-?)

Người xã Yên Thường, huyện Đông Ngàn, nay thuộc xã Yên Thường, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội.
25 tuổi đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 33 (1772) đời vua Lê Hiển Tông.

126. Trần Danh Chấn

Không rõ quê quán.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 33 (1772) đời vua Lê Hiển Tông.

127. Trịnh Liêm

Họ Tôn thất.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 33 (1772) đời vua Lê Hiển Tông.

128. Trần Danh Thự.

Người xã Vạn Phần, huyện Đông Thành, nay là xã Điền Vạn, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 33 (1772) đời vua Lê Hiển Tông.
Em Trần Danh Siêu.

129. Phan Đình Cung

Người xã Nam Ngạn, huyện La Sơn, nay thuộc Hà Tĩnh.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 33 (1772) đời vua Lê Hiển Tông.

130. Hoàng Đình Đức (1750-?)

Người xã Hà Thượng, huyện Thuần Lộc, nay thuộc huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
Biền sinh hợp thức, 23 tuổi đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 33 (1772) đời vua Lê Hiển Tông.
Con của Hoàng Đình Thể; anh Hoàng Đình Duệ, Hoàng Đình Khuê.
Làm quan đến Trấn thủ xứ Hưng Hóa.

131. Nguyễn Đình Trụ

Người xã Linh Đường, huyện Thanh Trì, nay thuộc xã Hoàng Liệt, huyện Thanh Trì, TP Hà Nội.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 33 (1772) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan Cai cơ.

132. Trịnh Quyền

Họ Tôn thất.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 33 (1772) đời vua Lê Hiển Tông.
133. Trịnh Thì
Họ Tôn thất
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 33 (1772) đời vua Lê Hiển Tông.
Em Trịnh Chử, Trịnh Bích.

134. Nguyễn Ngô Khanh

Người xã Văn Trinh, huyện Ngọc Sơn, nay thuộc huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.
Biền sinh hợp thức, đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 33 (1772) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan Thủ hiệu.

135. Nguyễn Đức Hiệp

Người xã Quế Ổ, huyện Quế Dương, nay thuọc xã Chi Lăng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 33 (1772) đời vua Lê Hiển Tông.
Anh Nguyễn Đức Trung, chú Nguyễn Đức Mai.

136. Trịnh Bích

Họ Tôn thất.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 33 (1772) đời vua Lê Hiển Tông.
Em Trịnh Chử, anh Trịnh Thì.

137. Trịnh Bàn

Họ Tôn thất.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 33 (1772) đời vua Lê Hiển Tông.

138. Lê Trọng Phan (1748-?)

Người xã Bùi Xá, huyện La Sơn, nay thuộc xã Bùi Xã, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Biền sinh hợp thức, 25 tuổi đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 33 (1772) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan Cai cơ.

139. Nguyễn Đình Xuyến (1743-?)

Người xã Yên Thường, huyện Đông Ngàn, nay thuộc xã Yên Thường, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội.
Biền sinh hợp thức, 30 tuổi đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 33 (1772) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan Thủ hiệu, Tham đốc.
Anh Nguyễn Đình Trân, Nguyễn Đình Bát.

140. Nguyễn Gia Quan

Người xã Phương Liệt, huyện Thanh Trì, TP Hà Nội.
Đỗ Tạo sĩ trúng hạng khoa Bính Thân niên hiệu Cảnh Hưng 37 (1776) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan quyền phủ Hiển lĩnh kiêm Trấn thủ Thái Nguyên.

141. Bùi Thế Toại.

Người xã Tiên Lý, huyện Đông Thành, nay thuộc tỉnh Nghệ An.
Đỗ Tạo sĩ trúng hạng khoa Bính Thân niên hiệu Cảnh Hưng 37 (1776) đời vua Lê Hiển Tông. Trường thứ 3 đỗ hạng ưu.
Làm quan Hiến lĩnh Trấn thủ Nghệ An.
142. Lê Thế Siêu
Người xã Nhân Mục Cựu, huyện Thanh Trì, nay thuộc phường Thượng Đình, quận Thanh Xuân, TP Hà Nội.
Biền sinh hợp thức, đỗ Tạo sĩ thứ trúng hạng khoa Bính Thân niên hiệu Cảnh Hưng 37 (1776) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan Thiêm sai.

143. Lê Thế Định

Người xã Nhân Mục Cựu, huyện Thanh Trì, nay thuộc phường Thượng Đình, quận Thanh Xuân, TP Hà Nội.
25 tuổi đỗ Tạo sĩ thứ thủ hạng khoa Bính Thân niên hiệu Cảnh Hưng 37 (1776) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan Thiêm sai.
Con Lê Thế Quýnh.

144. Nguyễn Huy Chiểu

Người xã Nhân Môn, , huyện Thanh Trì, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, TP Hà Nội.
Đỗ Tạo sĩ thứ thủ hạng khoa Bính Thân niên hiệu Cảnh Hưng 37 (1776) đời vua Lê Hiển Tông.

145. Vũ Đình Khanh

Người xã Tiên Cầu, huyện Kim Động, nay thuộc xã Hiệp Cường, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.
Đỗ Tạo sĩ thứ thủ hạng khoa Bính Thân niên hiệu Cảnh Hưng 37 (1776) đời vua Lê Hiển Tông.
(Sách Đại Việt sử ký tục biên ghi: “Tạo sĩ mới đỗ khoa Ất Mùi Vũ Đình Khanh trong ngày phúc duyệt có mang sách vào trường, bị bắt, phải xóa tên).

146. Ngô Trọng Định

Người xã Phương Quế, huyện Thượng Phúc, nay thuộc xã Liên Phương, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Bính Thân niên hiệu Cảnh Hưng 37 (1776) đời vua Lê Hiển Tông.

147. Nguyễn Thế Dao

Người xã Nghi Khê, huyện Tứ Kỳ, nay thuộc xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Bính Thân niên hiệu Cảnh Hưng 37 (1776) đời vua Lê Hiển Tông.

148. Nguyễn Đăng Nhương

Người xã Bái Ninh, huyện Hoằng Hóa, nay thuộc thuộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Bính Thân niên hiệu Cảnh Hưng 37 (1776) đời vua Lê Hiển Tông.

149. Đoàn Bá Sướng

Người xã Đồng Quan, huyện Thượng Phúc, nay thuọc huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây.
Đỗ Đồng Tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Bính Thân niên hiệu Cảnh Hưng 37 (1776) đời vua Lê Hiển Tông.
Anh Đoàn Bá Trọng

150. Nguyễn Quốc Quý

Người xã Lộng Đình, huyện Văn Giang, nay thuộc huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Bính Thân niên hiệu Cảnh Hưng 37 (1776) đời vua Lê Hiển Tông.

151. Nguyễn Địch Chủng (1746-?)

Người xã Vụ Cầu, huyện Thanh Ba, nay thuộc huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.
Biền sinh hợp thức, 29 thuổi đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Bính Thân niên hiệu Cảnh Hưng 37 (1776) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan Thủ hiệu.
Cháu nội Nguyễn Địch Côn; cháu gọi Nguyễn Địch Tăng là ông bác; em Nguyễn Địch Trọng, Nguyễn Địch Quỳnh.

152. Nguyễn Danh Triêm
Người xã Phú Hoa, huyện Tiên Phong, nay thuộc xã Phù Phương, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Bính Thân niên hiệu Cảnh Hưng 37 (1776) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan thủ hiệu. Chết vì việc nước, được phong Tráng liệt đại vương.
(Có lẽ ông chính là Chiêm Vũ Hầu chết vì loạn kiêu binh năm 1784. Xin tham khảo nguồn sau: http://dulichvietnam.asia/vn/?product.item.2856)

153. Lê Đình Cẩn (1726-?)

Người xã Nhân Mục Cựu, huyên Thanh Trì, nay thuộc phường Thượng Đình, quận Thanh Xuân, TP Hà Nội.
Biền sinh hợp thức, 51 tuổi đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa khoa Bính Thân niên hiệu Cảnh Hưng 37 (1776) đời vua Lê Hiển Tông.

154. Trịnh Đĩnh

Họ Tôn thất.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Bính Thân niên hiệu Cảnh Hưng 37 (1776) đời vua Lê Hiển Tông.
Chết vì việc nước năm Bính Ngọ.
155. Nguyễn Địch Bân
Ngời xã Vụ Cầu, huyện Thanh Ba, nay thuộc huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.
Biền sinh hợp thức, đỗ Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Bính Thân niên hiệu Cảnh Hưng 37 (1776) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan Hiển lĩnh, thiêm sai, Trấn thủ Hải Dương. Chết vì việc nước.
Con Nguyễn Địch Bân; cháu họ Nguyễn Địch Liêm, Nguyễn Địch Vượng; anh họ Nguyễn Địch Khuê.

156. Đỗ Đình Diệm

Người xã Tiểu Lan, huyện Đông Yên, nay thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
Đỗ Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Bính Thân niên hiệu Cảnh Hưng 37 (1776) đời vua Lê Hiển Tông.
Chết vì việc nước.
Anh Đỗ Đình Liễn.

157. Nguyễn Danh Lan

Người xã Ỷ Bích, huyện Thuần Lộc, nay tuộc huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
Đỗ Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Bính Thân niên hiệu Cảnh Hưng 37 (1776) đời vua Lê Hiển Tông.
Chết vì việc nước.

158. Trần Vũ Định

Người xã Thiện Phiến, huyện Tiên Lữ, nay thuộc xã Thiện Phiến, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên.
Đỗ Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Bính Thân niên hiệu Cảnh Hưng 37 (1776) đời vua Lê Hiển Tông.

159. Tạ Đăng Liêm

Người xã Đại Phùng, huyện Đan Phượng, nay thuộc thị trấn Phùng, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây.
Đỗ Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Bính Thân niên hiệu Cảnh Hưng 37 (1776) đời vua Lê Hiển Tông.
Cố nội là Tạ Đăng Vọng, ông nội là Tạ Đăng Huân, cha là Tạ Đăng Đạo đều đỗ Tiến sĩ ngạch văn.

160. Trịnh Tự Hiển

Người xã Phù Lỗ, huyện Kim Hoa, nay thuộc xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn, TP Hà Nội.
Đỗ Tạo sĩ quản thủ hạng thịnh khoa Kỷ Hợi niên hiệu Cảnh Hưng 40 (1779) đời vua Lê Hiển Tông.
Con Trịnh Tự Đĩnh, anh Trịnh Tự Thuần, Trịnh Tự Thức.

161. Hoàng Nghĩa Trụ.

Người xã Hoàng Vân, huyện Kim Động, nay thuộc huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.
Biền sinh hợp thức, thi một lần đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng thịnh khoa Kỷ Hợi niên hiệu Cảnh Hưng 40 (1779) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan Thủ Hiệu.
Con Hoàng Nghĩa Yến, cháu nội Hoàng Nghĩa Nhượng.

162. Trịnh Thiều

Họ Tôn thất.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng thịnh khoa Kỷ Hợi niên hiệu Cảnh Hưng 40 (1779) đời vua Lê Hiển Tông.

163. Vũ Tá Ngạnh

Người xã Hoa Đường, huyện Đường An, nay thuộc xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.
Biền sinh hợp thức, đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng thịnh khoa Kỷ Hợi niên hiệu Cảnh Hưng 40 (1779) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan Cai cơ.

164. Nguyễn Đình Cẩn

Người xã Hương Duệ, huyện Kỳ Hoa, nay thuộc xã Cẩm Duệ, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng thịnh khoa Kỷ Hợi niên hiệu Cảnh Hưng 40 (1779) đời vua Lê Hiển Tông.
Chết vì việc nước.

165. Võ Tá Siêu.

Ngưỡi xã Hà Hoàng, huyện Thạch Hà, nay thuộc xã Thạch Hạ, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Biền sinh hợp thức, 21 tuổi thi một lần đỗ Tạo sĩ thứ trúng hạng khoa Tân Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 42 (1781) đời vua Lê Hiển Tông.
Làmquan Thủ hiệu.

166. Võ Tá Diệm

Ngưỡi xã Hà Hoàng, huyện Thạch Hà, nay thuộc xã Thạch Hạ, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Đỗ Tạo sĩ thứ trúng hạng khoa Tân Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 42 (1781) đời vua Lê Hiển Tông.

167. Hoàng Đình Duệ

Người xã Hà Thượng, huyện Thuần Lộc, nay thuộc huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
 Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Tân Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 42 (1781) đời vua Lê Hiển Tông.
Chết vì việc nước.
Con Hoàng Đình Thể, em Hoàng Đình Đức, anh Hoàng Đình Khuê, anh em đỗ cùng khoa.

168. Hoàng Đình Khuê

Người xã Hà Thượng, huyện Thuần Lộc, nay thuộc huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
 Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Tân Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 42 (1781) đời vua Lê Hiển Tông.
Chết vì việc nước.
Con Hoàng Đình Thể, em Hoàng Đình Đức, em Hoàng Đình Duệ, anh em đỗ cùng khoa.

169. Khúc Đăng Liêm

Người xã Lãng Khuê huyện Ngự Thiên, nay thuộc huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Tân Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 42 (1781) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan Thủ hiệu.

170. Nguyễn Gia Huyên

Người xã Hà Dương, huyện Vĩnh Lại, nay thuộc huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
Biền sinh hợp thức, đỗ Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Tân Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 42 (1781) đời vua Lê Hiển Tông.

171. Đoàn Bá Trọng

Người xã Đồng Quan, huyện Thượng Phúc, nay thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây.
Biền sinh hợp thức, đỗ Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Tân Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 42 (1781) đời vua Lê Hiển Tông.
Em Đoàn Bá Sưởng.

172. Ngô Phúc Chúng

Người xã Trảo Nha, huyện Thạch Hà, nay thuộc thị trấn Can Lộc (thị trấn Nghèn), huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
Đỗ Tạo sĩ thứ thủ hạng khoa Ất Tị niên hiệu Cảnh Hưng 46 (1785) đời vua Lê Hiển Tông. Trường thứ 3 đỗ hạng ưu.
Con Ngô Phúc Hoành.

173. Hoàng Phùng Gia

Người xã Vân Cốc, huyện Bạch Hạc.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Ất Tị niên hiệu Cảnh Hưng 46 (1785) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan Đô đốc triều Tây Sơn.
Tục gọi là Tạo Ba Bầu. Con thứ 3 Dục quận công.

174. Nguyễn Đăng Nhượng.

Người xã Bái Ninh, huyện Hoằng Hóa, nay thuộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Ất Tị niên hiệu Cảnh Hưng 46 (1785) đời vua Lê Hiển Tông.
Em Nguyễn Đăng Nhưỡng, chú Nguyễn Đăng Đệ.

175. Bùi Đăng Huân

Người xã Đoàn Đào, huyện Phù Dung, nay thuộc huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên.
Biền sinh hợp thức, đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Ất Tị niên hiệu Cảnh Hưng 46 (1785) đời vua Lê Hiển Tông.

176. Trịnh Giai

Họ Tôn thất
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Ất Tị niên hiệu Cảnh Hưng 46 (1785) đời vua Lê Hiển Tông.
177. Nguyễn Đăng Đệ
Người xã Bái Ninh, huyện Hoằng Hóa, nay thuộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Ất Tị niên hiệu Cảnh Hưng 46 (1785) đời vua Lê Hiển Tông.
Cháu họ Nguyễn Đăng Nhưỡng, Nguyễn Đăng Nhượng.

178. Dương Vị

Người xã Long Phúc, huyện Thạch Hà, nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Ất Tị niên hiệu Cảnh Hưng 46 (1785) đời vua Lê Hiển Tông.
Em họ Dương Dận, Dương Thiều.

179. Nguyễn Đình Bát

Người xã Yên Thường, huyện Đông Ngàn, nay thuộc xã Yên Thường, huyện Gia Lâm, TP Hn.
Biền sinh hợp thức, đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Ất Tị niên hiệu Cảnh Hưng 46 (1785) đời vua Lê Hiển Tông.
Em Nguyễn Đình Xuyến, Nguyễn Đình Tuân.

180. Ngô Trọng Thọ

Người xã Mỹ Thự, huyện Đường An, nay thuộc huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Ất Tị niên hiệu Cảnh Hưng 46 (1785) đời vua Lê Hiển Tông.

181. Phạm Ngô Thạch (1765-?)

Người xã Da Cầu, huyện Tống Sơn, nay thuộc huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa.
21 tuổi đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Ất Tị niên hiệu Cảnh Hưng 46 (1785) đời vua Lê Hiển Tông.
Cháu họ Phạm Ngô Trác.

182. Lê Xuân Trác

Người xã Dương Xá, huyện Đông Sơn, nay thuộc tỉnh Thanh Hóa.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Ất Tị niên hiệu Cảnh Hưng 46 (1785) đời vua Lê Hiển Tông.

183. Nguyễn Trọng Nhẫn

Người xã Mỹ Điền, huyện Yên Dũng, nay thuộc huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Ất Tị niên hiệu Cảnh Hưng 46 (1785) đời vua Lê Hiển Tông.

184. Đỗ Đình Liễn

Người xã Tiển Lan, huyện Đông Yên, nay thuộc huyện Khoái Châu, Hưng Yên.
Biền sinh hợp thức, đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Ất Tị niên hiệu Cảnh Hưng 46 (1785) đời vua Lê Hiển Tông.
Em Đỗ Đình Diệm.

185. Nguyễn Địch Khuê

Người xã Vụ Cầu, huyện Thanh Ba, nay thuộc huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.
Biền sinh hơp thức, đỗ Đồng Tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Ất Tị niên hiệu Cảnh Hưng 46 (1785) đời vua Lê Hiển Tông.
Con Nguyễ Địch Vương, cháu họ Nguyễn Địch Bàn, Nguyễn Địch Liên em học Nguyễn Địch Bân.

186. Nguyễn Đình Can

Người xã Đặng Xá, huyện Lang Tài, nay thuộc xã Trung Xá, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Ất Tị niên hiệu Cảnh Hưng 46 (1785) đời vua Lê Hiển Tông.
Con Nguyễn Đình Khôi, cháu họ Nguyễn Đình Danh.

187. Dương Dận

Người xã Long Phúc, huyện Thạch Hà, nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Ất Tị niên hiệu Cảnh Hưng 46 (1785) đời vua Lê Hiển Tông.
Anh Dương Thiều, anh em cùng khoa; anh họ Dương Vị.

188. Dương Thiều

Người xã Long Phúc, huyện Thạch Hà, nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Ất Tị niên hiệu Cảnh Hưng 46 (1785) đời vua Lê Hiển Tông.
Em Dương Dận, anh em cùng khoa; anh họ Dương Vị.

189. Lê Hữu Đạm

Người xã An Tĩnh, huyện Quảng Xương, nay thuộc huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Ất Tị niên hiệu Cảnh Hưng 46 (1785) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan Thủ hiệu.

190. Ngô Phúc Thưởng

Người xã Trảo Nha, huyện Thạch Hà, nay thuộc thị trấn Can Lộc (thị trấn Nghèn), huyên Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Ất Tị niên hiệu Cảnh Hưng 46 (1785) đời vua Lê Hiển Tông.

191. Nguyễn Thọ Doãn

Người xã Phù Ninh, huyện Đông Ngàn, nay thuộc xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Ất Tị niên hiệu Cảnh Hưng 46 (1785) đời vua Lê Hiển Tông.

192. Phạm Trọng Trạc

Người xã An Luật, huyện Gia Lộc, nay thuộc huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Ất Tị niên hiệu Cảnh Hưng 46 (1785) đời vua Lê Hiển Tông.

193. Hoàng Đình Thực (1765-?)

Người xã Linh Đường, huyện Thanh Trì, nay thuộc xã Hoàng Liệt, huyện Thanh Trì, TP Hà Nội.
21 tuổi đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Ất Tị niên hiệu Cảnh Hưng 46 (1785) đời vua Lê Hiển Tông.
Làm quan Tả tiệp.

194. Trịnh Tự Thuần (1765-?)

Người xã Phù Lỗ, huyện Kim Hoa, nay thuộc xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn, TP Hà Nội.
21 tuổi đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Ất Tị niên hiệu Cảnh Hưng 46 (1785) đời vua Lê Hiển Tông.
Con Nguyễn (?) Tự Đĩnh, em Nguyễn Tự Hiển, anh Nguyễn Tự Thức, anh em đỗ cùng khoa.

195. Trịnh Tự Thức (1769-?)

Người xã Phù Lỗ, huyện Kim Hoa, nay thuộc xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn, TP Hà Nội.
17 tuổi thi một lần đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Ất Tị niên hiệu Cảnh Hưng 46 (1785) đời vua Lê Hiển Tông.
Con Trịnh Tự Đĩnh; em Trịnh Tự Hiển, Trịnh Tự Thuần.

196. Nguyễn Hữu Ích

Người xã Dương Xá, huyện Đông Sơn, nay thuộc tỉnh Thanh Hóa.
Biền sinh hợp thức, đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Ất Tị niên hiệu Cảnh Hưng 46 (1785) đời vua Lê Hiển Tông.

197. Nguyễn Đức Bồi

Người trang Gia Miêu Ngoại, huyện Tống Sơ, nay thuộc xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa.
Biền sinh hợp thức, đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Ất Tị niên hiệu Cảnh Hưng 46 (1785) đời vua Lê Hiển Tông.

198. Nguyễn Địch Quỳnh (1765-?)

Người xã Vụ Cầu, huyện Thanh Ba, nay thuộc huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.
21 tuổi đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Ất Tị niên hiệu Cảnh Hưng 46 (1785) đời vua Lê Hiển Tông.
Cháu nội Nguyễn Địch Côn; cháu gọi Nguyễn Địch Tăng là ông bác; em của Nguyễn Địch Chủng, anh của Nguyễn Địch Trọng.

199. Trương Đình Vệ

Người xã Vương Xá, huyện Cẩm Giàng, nay thuộc huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.
Đỗ Đồng tạo sĩ ưu trúng hạng khoa Ất Tị niên hiệu Cảnh Hưng 46 (1785) đời vua Lê Hiển Tông.

CHO TÔI KHEN MAI LINH THÊM MỘT CÂU NỮA!

Bài và ảnh trên Blog Mai Thanh Hải:

HOÀNG SA - TRƯỜNG SA TRÊN BẢN ĐỒ MAI LINH

 

Dọc đường xuống miền Tây, xe khách Mai Linh dừng lại Trạm nghỉ của Mai Linh ở huyện Cái Bè, Tiền Giang cho cả khách và tài nghỉ ngơi, xả... nước và ăn uống, mua sắm sau hơn 2 tiếng đồng hồ đánh vật với các thể loại đường sá rộng hẹp, xe cộ đầy ứ  cứ chực ngoi lên đầu người khác và các thể loại CSGT rình nấp bắn tốc độ, phạt lỗi đè vạch... Lơ ngơ khoác ba lô đi tìm hiểu khắp khu dịch vụ của Mai Linh, đến khu vực đặt vé đi các tỉnh khác, tự dưng thấy ấm lòng, khi nhìn trên bản đồ Mai Linh minh họa địa bàn hoạt động, thấy rành mạch 2 quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa phía ngoài biển, sát cánh với những địa danh trong đất liền. Những điều đơn giản là viết đầy đủ địa danh Tổ quốc, trên bản đồ như thế này (nhất là bản đồ... nội bộ), không phải ai cũng làm được. Mình biết thừa nhiều cơ quan quản lý Nhà nước, Ban Đảng ở Trung ương và nhất là dưới địa phương, khi làm bản đồ phục vụ công việc, sử dụng trong nội bộ, thường bảo thợ vẽ (cắt dán) bỏ Hoàng Sa - Trường Sa và các đảo - quần đảo của Tổ quốc, cho đỡ... tốn thêm tiền giấy mực. Chính vì vậy, nhìn tấm bản đồ minh họa của Mai Linh, mình hơi bị phục: Đâu phải doanh nghiệp nào cũng có tý ý thức chủ quyền biển đảo như thế?. Biết đâu sau này, Mai Linh vươn được ra Hoàng Sa - Trường Sa làm dịch vụ vận tải, thì vui nhể? 

 

 Bản đồ đây. Không hiểu các điểm khác, còn bản đồ thế này không?..

 

Nguyễn Xuân Diện: 

Chiều ngày 24.01.2010, nhân chuyến công tác tại Sài Gòn, tôi đến thăm Giáo sư Trần Văn Khê. Sau khi trò chuyện, Giáo sư Trần Văn Khê và chúng tôi đến thăm và ăn tối với Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng. Giáo sư Khê gọi xe taxi Mai Linh.Tan cuộc, xe taxi Mai Linh lại đưa GS Trần Văn Khê về đến nhà lúc 23h.

Cả lúc đi và về, GS Trần Văn Khê đều dành phần thanh toán tiền taxi bằng thẻ. Hãng taxi Mai Linh vì lòng trân trọng và ngưỡng mộ một nhà văn hóa lớn của đất nước đã tặng một chiếc thẻ để được phục vụ miễn phí GS Trần Văn Khê đi lại bất kỳ đâu và bất kỳ giờ giấc nào.

Vì vậy, cho tôi khen thêm Mai Linh Taxi một câu nữa!

Bài đọc thêm:

THĂM NHÀ GS TRẦN VĂN KHÊ VÀ ĂN TỐI Ở NHÀ GS NGUYỄN ĐĂNG HƯNG

 

Hôm nay, 24 tháng Giêng năm 2010, nhân chuyến công tác tại thành phố Hồ Chí Minh, tôi và Thạc sĩ Chu Tuyết Lan (cựu GĐ Thư viện Viện Hán Nôm) đã vinh dự được ghé thăm nhà riêng GS Trần Văn Khê. 14h15 máy bay hạ cánh xuống Tân Sơn Nhất, người bạn là GĐ doanh nghiệp Cao Lầu (Q. Thủ Đức) đã cho xe đón và đưa chúng tôi về khách sạn rồi đưa đến nhà GS Trần Văn Khê.
.

Ngôi nhà của GS Trần Văn Khê ở số 32 Huỳnh Đình Hai, Phường 24 quận Bình Thạnh, Tp Hồ Chí Minh. Đây vốn là một biệt thự cũ, nằm trên khuôn viên 600 mét vuông, do chính quyền Thành phố tặng GS Trần Văn Khê - người đã cả đời cống hiến và quảng bá cho văn hóa và âm nhạc Việt Nam trên khắp thế giới.

GS Trần Văn Khê đã về ở tại đây từ năm 2005. Và ông cho biết, sau này khi ông qua đời, đây sẽ là nhà lưu niệm Trần Văn Khê, và là nơi mà những người yêu âm nhạc có thể đến đọc sách, nghe và xem tư liệu về văn hóa và âm nhạc mà GS đã đưa từ Pháp về sau cả một đời tích góp và sưu tập từ khắp nơi trên thế giới. 

 

GS Trần Văn Khê và Nguyễn Xuân Diện
GS Trần Văn Khê và Thạc sĩ Chu Tuyết Lan

 

GS Trần Văn Khê nói với người giúp việc đưa chúng tôi đi thăm toàn bộ khu nhà: Thư viện sách báo, thư viện băng đĩa, bếp, phòng ăn và phòng tiếp khách - trưng bày nhạc cụ.


Phòng khách và trưng bày nhạc cụ

Phòng lưu trữ băng từ của GS Trần Văn Khê được bảo quản trong chế độ lạnh đặc biệt

Thư viện sách báo
Một giá sách nhỏ trong phòng riêng của GS Trần Văn Khê

 

Đúng như đã hò hẹn từ cả tuần nay, sau đó chúng tôi cùng đi taxi Mai Linh đến nhà GS Nguyễn Đăng Hưng để dùng bữa cơm tối, đàm đạo về văn chương và âm nhạc và tất nhiên sẽ cùng nhau đàn hát. Lúc ấy là 5h chiều. 

GS Nguyễn Đăng Hưng là một nhà khoa học lớn, hiện công tác tại Vương Quốc Bỉ, được biết đến như một người đã dành toàn bộ tài năng và tâm huyết để cống hiến cho sự nghiệp đào tạo cán bộ khoa học cho đất nước. Tôi đã được nghe danh ông đã lâu, đã đọc các bài viết và trả lời PV của ông trên các báo chí, và cũng đã thưởng thức các tác phẩm âm nhạc của ông; nhưng đến hôm nay mới vinh dự được gặp ông tại thành phố mang tên Bác Hồ.


GS. Nguyễn Đăng Hưng đón khách. Cận cảnh: Nhà biên khảo Thái Doãn Hiểu
và Nguyễn Xuân Diện

GS. Nguyễn Đăng Hưng và Thạc sĩ Chu Tuyết Lan

GS Nguyễn Đăng Hưng, GS Trần Văn Khê và Nguyễn Xuân Diện

GS. Nguyễn Đăng Hưng ôm đàn và hát các bài hát bằng tiếng Anh và tiếng Pháp. Ông chơi đàn với phong cách của một nghệ sỹ thực thụ khiến tất cả mọi người đều hết sức ngạc nhiên. 

Bữa cơm chiều trong nhà GS Nguyễn Đăng Hưng

GS Trần Văn Khê (89 tuổi) và GS Nguyễn Đăng Hưng (70 tuổi). Một người âm nhạc. Một người khoa học kỹ thuật. Một người nhẹ nhàng lịch lãm. Một người sôi nổi nồng nhiệt. Hai GS rất trân trọng và ngưỡng mộ sự nghiệp và nhân cách của nhau.

Từ phải sang: Bà Hoàng Liên và phu quân nhà biên khảo Thái Doãn Hiểu, GS Khê
và Thạc sĩ Chu Tuyết Lan

 

Sau khi GS Nguyễn Đăng Hưng hát các bài hát do GS sáng tác, là đến phần trình bày ca trù của Nguyễn Xuân Diện. GS. Trần Văn Khê nói về Ca trù và về "Chữ nhạc" của âm nhạc Việt Nam, về sự khác nhau giữa âm nhạc Việt Nam và Trung Quốc với minh họa sâu sắc và độc đáo. Nhà biên khảo Thái Doãn Hiểu đọc bài thơ ông sáng tác bên mộ cụ Nguyễn Du. Sau cùng, đã hơn 10h đêm, Nguyễn Xuân Diện ngâm bài thơ Tạm biệt để cảm ơn thịnh tình của chủ nhà và từ biệt GS Nguyễn Đăng Hưng.
.
Ngay trong buổi chiều đầu tiên đến Saigon, đã được đến thăm nhà hai GS danh tiếng của thế giới, đối với tôi là một vinh hạnh lớn lao. Và ngay trong lần đầu gặp mặt, GS Hưng đã mời cơm chiều và thưởng thức các tác phẩm âm nhạc của ông ngay trong căn nhà của ông với tình thân như đã quen nhau từ lâu, với tôi lại càng là một điều vô cùng may mắn và vinh hạnh.

Xe taxi Mai Linh lại đưa GS Trần Văn Khê về đến nhà lúc 11h. Cả lúc đi và về, GS Trần Văn Khê đều dành phần thanh toán tiền taxi bằng thẻ. Hãng taxi Mai Linh vì lòng trân trọng và ngưỡng mộ một nhà văn hóa lớn của đất nước đã tặng một chiếc thẻ để được phục vụ miễn phí GS Trần Văn Khê đi lại trong thành phố bất kỳ giờ giấc nào. 

 

Tp Hồ Chí Minh đêm 24.1.2010

NGHỆ AN: ẦM Ĩ GIẢI BÀ HỒ XUÂN HƯƠNG NĂM NAY

GIẢI THƯỞNG HỒ XUÂN HƯƠNG
- Không ổn ngay từ khung khổ pháp lý

Phạm Xuân Cần

Lời tác giả: Trước khi quyết định đưa bài này đăng báo, tôi đã gửi bản thảo đến hai vị lãnh đạo có thẩm quyền và trách nhiệm cao nhất về Giải thưởng VHNT Hồ Xuân Hương như một kiến nghị, với hy vọng bài báo này không cần “lộ sáng”, mà sự việc vẫn được xử lý theo chiều tích cực. Thế nhưng, phản hồi từ hai vị là rất khác nhau. Chiều hôm qua, ngày 1/11/2011 Ban Chỉ đạo Giải đã họp và quyết định vẫn tiếp tục giải thưởng tai tiếng này. Vì vậy, bài báo này mới có cơ hội đến với quý vị. Một cơ hội bất đắc dĩ!

Đã có trên dưới chục bài báo viết về Giải thưởng VHNT Hồ Xuân Hương năm nay. Tuy nhiên, xem lại các văn bản mang tính chất là khung khổ pháp lý mới thấy: Giải thưởng HXH năm nay không ổn ngay từ thể lệ, quy chế và các quy định khác. Với một khung khổ pháp lý như thế không phát sinh rắc rối mới là chuyện lạ.

1.Sai thẩm quyền và ngược quy trình

Theo các quy định hiện hành, khung khổ pháp lý cho các giải thưởng của UBND tỉnh Nghệ An đều phải được xây dựng theo quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và phải thông qua các cuộc họp ủy ban nhân dân tỉnh. Đặc biệt, về mức thưởng phải thông qua Hội đồng Nhân dân tỉnh để ra nghị quyết, sau đó UBND tỉnh mới ra quyết định. Ngay ở Nghệ An, việc xét các giải thưởng về khoa học công nghệ, báo chí, môi trường…đều thực hiện theo quy trình thuận đó. Nhưng riêng với Giải thưởng HXH năm 2011, quy trình đã bị/được đảo ngược. Ngày 22/11/2010, UBND tỉnh Nghệ An ra quyết định số 3908/QĐ.UB.VX “Về việc thành lập Ban chỉ đạo, Hội đồng sơ khảo, Hội đồng chung khảo Giải thưởng VHNT Hồ Xuân Hương lần thứ IV, giai đoạn 2006 – 2010”. Rõ ràng đây là một văn bản quyết định mang tính cá biệt. Hơn một tháng sau, ngày 6/1/2011 UBND tỉnh ra quyết định số 59/QĐ.UBND.VX “về việc phê duyệt Thể lệ giải thưởng VHNT Hồ Xuân Hương”, giai đoạn 2005 – 2010”. Đúng ra văn bản quyết định phê duyệt Thể lệ Giải chính là văn bản quy phạm pháp luật (vì nó có chứa quy tắc xử sự chung, được áp dụng nhiều lần đối với mọi đối tượng, hoặc một nhóm đối tượng). Dựa trên cơ sở văn bản quy phạm pháp luật này mới phát sinh các quyết định cá biệt khác để áp dụng. Tuy nhiên, Quyết định 59 đã được xây dựng và ban hành theo quy trình của một văn bản quyết định cá biệt. Sự sơ sài, thiếu sót và không chặt chẽ về pháp luật có nguồn gốc từ đây. Đó là chưa kể vì coi là quyết định cá biệt, nên sau này nội dung của nó đã bị tùy tiện thay đổi mà không theo một quy trình chuẩn nào.  Rõ ràng, “con” đã sinh ra “cha”!

Sai sót về thẩm quyền và quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong trường hợp này là không nhỏ!

2.Tiền hậu bất nhất dẫn đến “vừa đá bóng, vừa thổi còi”.

Sự việc sẽ không đáng phải săm soi lắm, nếu như hai văn bản này không có gì mâu thuẫn, thế nhưng điều đáng nói là trong trường hợp này “con” lại khác “cha”! Quyết định 3908 giao cho Hội VHNT tham mưu xây dựng Điều lệ của giải, nhưng sản phẩm được phê duyệt của quyết định 59 lại là Thể lệ. Tương tự như vậy, Quyết định 3908 quy định việc thành lập Hội đồng sơ khảo và Hội đồng chung khảo, nhưng trong Thể lệ lại ghi là “Ban sơ khảo và Hội đồng chung khảo” (mục III, 2.). Đến văn bản “Quy chế làm việc của Hội đồng giải thưởng VHNT HXH lần thứ IV, giai đoạn 2005 – 2010”, thì lại ghi là Hội đồng sơ khảo, trong đó có từng ban riêng. Về nội dung, Điều lệ có thể không khác Thể lệ, Hội đồng có thể không khác Ban là mấy, nhưng điều quan trọng là việc làm này chứng tỏ một cách làm việc tùy tiện, không nghiêm túc, đặc biệt không hề chuyên nghiệp về kĩ thuật lập pháp. Bên cạnh đó, Thể lệ có quy định thành phần “Ban sơ khảo” và “Hội đồng chung khảo”, tuy nhiên chỉ ghi chung chung là “Gồm các văn nghệ sỹ có năng lực thẩm định và một số đại diện sở, ban ngành cấp tỉnh có liên quan”. Vì không quy định cụ thể về tỷ lệ thành phần hội đồng (bao nhiêu là chuyên gia, bao nhiêu là quản lý) và tiêu chí thành viên hội đồng, nên điều này rất dễ bị tùy tiện khi lập các ban bệ. Thế nhưng, lo lắng đó cũng là thừa, vì thực ra khi văn bản này ra đời thì các Hội đồng xét thưởng đã được sinh trước đó hơn một tháng, bởi quyết định 3908. Phải chăng Thể lệ Giải đã căn cứ vào danh sách nhân sự có sẵn để xây dựng quy định về Hội đồng?

Về nội dung, có thể nói Thể lệ Giải thưởng VHNT HXH là một văn bản hết sức sơ sài (gần ba trang), không hề đề cập tiêu chí và “ba rem” chấm điểm. Các thành viên chỉ có thể chấm điểm hoàn toàn bằng cảm nhận chủ quan của riêng mình. Với một lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, khó lượng hóa như văn học nghệ thuật, mà thể lệ, tiêu chí không rõ ràng như vậy thì việc phát sinh thắc mắc, khiếu kiện phức tạp là điều không thể tránh khỏi. Nếu so sánh các quy định về giải HXH với các quy định về Giải Sáng tạo KHCN Nghệ An, thì mới thấy các quy định về Giải HXH sơ sài và cẩu thả một cách đáng kinh ngạc. Tuy nhiên, trong bài báo này chúng tôi chủ yếu khảo sát về khía cạnh pháp lý của các văn bản, nên chưa bàn sâu về các vấn đề đó.

Sai sót quan trọng nhất và có thể là một trong những nguyên nhân gây ra rắc rối cho giải thưởng HXH lần này chính là sự thiếu nhất quán về thành phần hội đồng giải thưởng giữa các văn bản pháp lý.

Sau ba lần trao giải trước, hình như những người có trách nhiệm đã tiên liệu được phức tạp sẽ phát sinh, nên ngay trong văn bản đầu tiên, đó là Quyết định 3908 về thành lập BCĐ, HĐSK, HĐCK, tại điều 2, điểm 3 đã ghi: “Để đảm bảo khách quan, các thành viên của các Ban sơ khảo, Hội đồng chung khảo không vừa là những người có tác phẩm tham dự Giải”. Điều này thể hiện một quyết tâm cao để ngăn ngừa tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi”, mà ba lần giải trước đó đã có lời dị nghị. Thế nhưng, đến văn bản tiếp theo sau đó là Quyết định về việc bổ sung, thay thế thành viên Ban Chỉ đạo, Tổ thư ký giúp việc, Hội đồng sơ khảo Giải thưởng VHNT HXH lần thứ IV” (Số 6410, ngày 30/12/2010), quy định trên đây đã bị hủy bỏ. Phải chăng có ai đó đã vin cớ nếu loại các thành viên HĐSK, HĐCK ra thì sẽ không có tác phẩm xứng đáng, để tác động đến lãnh đạo tỉnh thay đổi quyết định? (Điều này cần phải được làm rõ). Đến “Thể lệ giải thưởng”, thì “quyết tâm chống tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi” đã được “chế biến” thành: “Thành viên HĐSK, thành viên HĐCK nếu có tác phẩm dự giải thì không được dự các phiên họp xét, cho điểm tác phẩm của mình” (điểm 2, mục III của Thể lệ Giải). Cuối cùng văn bản “Quy chế làm việc của HĐGT VHNT HXH lần thứ IV” cũng chỉ nhắc lại: “thực hiện nghiêm điểm 2, mục III Thể lệ Giải thưởng”, mà không có cụ thể hóa gì thêm.

Thực ra quy định về thành phần hội đồng xét thưởng, trong đó có vấn đề cho phép hay không cho phép thành viên hội đồng đồng thời là người có tác phẩm dự giải, là một quy phạm pháp luật, thậm chí là quy phạm quan trọng nhất trong thể lệ của Giải thưởng này. Nhưng, điều này lại được đặt trong  các quyết định cá biệt (QĐ 3908 và QĐ 6410). Chính vì vậy, người ta đã dễ dàng sửa đổi nó một cách tùy tiện, không theo quy trình nghiêm ngặt của  việc xây dựng, ban hành, sửa đổi văn bản quy phạm pháp luật. Cho dù vì nguyên nhân gì thì tình trạng thay đổi tùy tiện, “tiền hậu bất nhất” này cũng là một tác nhân quan trọng làm bùng nổ sự rắc rối, phức tạp.



3.“Bỗng dưng”…Ban chỉ đạo? 

Điều khác biệt rõ nhất của kỳ giải thưởng lần này là sự xuất hiện của Ban Chỉ đạo. Sự ra đời của ban Chỉ đạo cùng với danh sách thành viên cụ thể được quy định tại Quyết định 3908, ngày 22/11/2010. Trong điều 1 của văn bản này, sau danh sách BCĐ có ghi: “BCĐ có nhiệm vụ chỉ đạo việc xét chọn Giải thưởng VHNT HXH lần thứ IV, giai đoạn 2005 – 2010 đạt kết quả tốt”. Đó là câu duy nhất có tính pháp lý quy định “chức năng, nhiệm vụ” của BCĐ. Sau đó, trong Thể lệ Giải không có một chữ nào nhắc đến BCĐ. Còn trong Quy chế HĐSK, HĐCK thì Ban Chỉ đạo được đặt ở ngay đầu trang, bên trái, với tư cách là cơ quan chủ trì, nhưng Quy chế lại là “Quy chế làm việc của Hội đồng Giải thưởng VHNT HXH lần thứ IV” (!). Điều đáng chú ý là trong một số quy định chi tiết của bản quy chế nói trên, BCĐ được nhắc đi nhắc lại là sẽ giám sát cuộc họp này, cuộc họp kia. Thế nhưng thẩm quyền này của BCĐ được quy định ở đâu thì không có. Ban chỉ đạo được thành lập nhằm mục đích để chỉ đạo Giải thưởng HXH được tổ chức nghiêm túc, chất lượng, nhưng rõ ràng chức năng, quyền và nhiệm vụ không rõ, quy chế hoạt động không có, văn bản gốc là Thể lệ Giải cũng không có chỗ cho thiết chế này. Điều này đã vô hình chung đặt BCĐ trong tình trạng lơ lửng, “chân không đến đất, cật không đến trời”.

4.Giải của Nhà nước hay giải của Hội VHNT?

Giải thưởng VHNT HXH là giải của chính quyền nhà nước tỉnh Nghệ An, vì vậy Chủ tịch UBND tỉnh có toàn quyền quyết định, đồng thời phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Mọi hoạt động của các loại hội đồng trước đó chỉ là hoạt động tư vấn. Tuy nhiên, cơ quan tư vấn gần nhất cho Chủ tịch UBND tỉnh nên và cần phải là một cơ quan nhà nước quản lý nhà nước về các hoạt động văn học nghệ thuật, mà cụ thể là Sở VHTTDL. Tương tự như cơ quan tư vấn về giải thưởng Sáng tạo KHCN là Sở KH&CN, tư vấn về giải thưởng báo chí là Sở TTTT, về môi trường là Sở TNMT. Việc quyết định 3908 của UBND tỉnh Nghệ An quy định: “Hội VHNT Nghệ An là cơ quan thường trực, chịu trách nhiệm xây dựng Điều lệ, cơ cấu và mức giải thưởng…” là không hợp lý. Hội VHNT có thể được tham vấn về Điều lệ, tổ chức lấy ý kiến của văn nghệ sĩ về Điều lệ giải theo quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, hoặc giới thiệu chuyên gia cho các Hội đồng xét thưởng, còn việc xây dựng văn bản pháp luật là của cơ quan nhà nước.

Sự thiếu chuyên nghiệp về pháp lý có lẽ có nguồn gốc từ việc giao cho Hội VHNT chủ trì xây dựng Điều lệ giải và các văn bản khác.

5.Kết luận và kiến nghị.

Khung khổ pháp lý cho giải thưởng HXH có quá nhiều vấn đề thiếu chặt chẽ và không hợp lý, thậm chí có sai sót về thẩm quyền và quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, cho thấy nó được tư vấn rất tồi. Việc tổ chức thực hiện lại có dấu hiệu thiếu nghiêm túc. Đó là những nguyên nhân quan trọng làm phát sinh nhiều rắc rối, phức tạp. Chính vì lẽ đó, tính chính xác, khách quan của giải là không thể tin cậy. Báo Lao động Nghệ An, số ra ngày 6 tháng 10 năm 2011, có đăng bài “Nhân cách được nghiệm thu” của nhà báo Chỉnh Chu, bài báo kết luận: “Tỉnh đầu tư một khoản tiền lớn cốt để nâng cao chất lượng tác phẩm văn học nghệ thuật tỉnh nhà. Nhưng điều đáng buồn là mục đích tốt đẹp đó đã không đạt được. Với số tiền lớn bỏ ra, chỉ làm được một việc là nghiệm thu nhân cách văn nghệ sĩ”. Đồng tình như vậy, nhưng với những gì đã nói ở trên, tôi đề nghị bổ sung thêm: “và nghiệm thu chất lượng của bộ máy vận hành giải”. Kết quả “nghiệm thu” như thế nào thì đã rõ!

Với thực trạng như đã phân tích, việc trao giải trong tình hình hiện nay là rất không nên, không thể. Giải pháp duy nhất là hủy kết quả, làm lại từ đầu, mà cốt tử là xây dựng lại khung khổ pháp lý cho giải một cách thật nghiêm túc, chính xác và hợp lý. Có như vậy mới cứu vãn được thanh danh của Giải thưởng văn học nghệ thuật Hồ Xuân Hương lần thứ IV, cũng như tạo tiền đề thuận lợi cho các kỳ giải sau.

*Bài viết do tác giả Phạm Xuân Cần, Phó giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ Nghệ An
gửi trực tiếp cho NXD-Blog.Xin cảm ơn tác giả!

Thứ Tư, 2 tháng 11, 2011

ĐỀ XUẤT ĐƯA LUẬT BIỂU TÌNH VÀO CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN BỊ CỦA QH XIII