Thứ Tư, 21 tháng 12, 2011

MỐI QUAN HỆ GIỮA NHO GIÁO VÀ CÔNG GIÁO Ở VIỆT NAM


Nhân dịp Lễ Giáng sinh và đón mừng năm mới 2012
Nguyễn Xuân Diện-blog xin gửi đến chư vị - đặc biệt là các linh mục, tu sĩ, bà con giáo dân, 
lời chúc: Một mùa Giáng sinh An lành - Hạnh phúc
Một  năm mới Thịnh vượng
______________________________

Nhân dịp này, xin gửi tới chư vị chùm bài về đề tài Thiên chúa giáo:

MỐI QUAN HỆ GIỮA NHO GIÁO VÀ CÔNG GIÁO Ở VIỆT NAM
Nguyễn Hồng Dương
Viện Nghiên cứu Tôn giáo
Đạo Công giáo truyền bá và bước đầu đứng chân ở Việt Nam vào thế kỷ XVII. Đây là thời kỳ nhà Lê Trung hưng, kế tục thời kỳ trước, nhà Lê vẫn sử dụng Nho giáo làm hệ tư tưởng trị nước. Các tôn giáo khác như Phật giáo, Đạo giáo vẫn thịnh hành trong nhân gian và cũng có những ảnh hưởng nhất định trong đường lối trị nước của nhà Lê.
Sự xuất hiện của Công giáo ở Việt Nam ngay từ buổi đầu đã là sự kiện tôn giáo đặc thù. Đó là việc truyền bá một tôn giáo hoàn toàn xa lạ với các tôn giáo truyền thống. Chẳng những thế tôn giáo này đã không thừa nhận các tôn giáo đang hiện diện, coi tất cả là tà giáo là đạo dối.
Các giáo sĩ Công giáo dựa vào tín lý, giáo lý Công giáo tấn công vào hệ tư tưởng Nho giáo, hệ tư tưởng trị nước thời bấy giờ.
Về phía Nho giáo để bảo vệ nền tảng tư tưởng của mình các nhà Nho mà đại biểu của nó là nhà Vua, là các Nho thần, tất nhiên cũng tấn công lại một cách mạnh mẽ những tư tưởng của Công giáo. Từ đó hình thành nên cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng mang tính học thuật.
Song cùng với thời gian, nhất là từ sau khi nhà Nguyễn bãi bỏ lệnh cấm đạo (1874) giữa Nho giáo và Công giáo dần dần hình thành nên mối tương giao và hoà hợp.
Bài viết này tập trung vào hai nội dung chính trong mối quan hệ giữa Nho giáo với Công giáo ở Việt Nam là xung đột và dung hợp.
Xung đột
Xung đột mà bài viết này đề cập là xung đột trên lĩnh vực tư tưởng có tính học thuật được thể hiện qua các văn kiện và các tác phẩm.
Về văn kiện là các đạo dụ, điều lệ của Vua, Chúa, hịch của phong trào Văn Thân, là các Thư chung và một số văn kiện khác của Giáo hội Công giáo.
Về tác phẩm là các trước tác của nhà vua, nhà nho và các giáo sĩ.
Trước hết xin bắt đầu từ phía Công giáo. Do khuôn khổ bài viết, về văn kiện chúng tôi chỉ đề cập đến thư chung, về tác phẩm là hai trước tác của giáo sĩ Alexandre de Rhodes và cuốn Hội đồng tứ giáo.
Thư chung: Thư chung là loại hình văn bản của giám mục soạn gửi cho cộng đồng tín hữu, hàng giáo phẩm vào tu sĩ thuộc giáo phận mà giám mục đó cai quản. Nội dung thư chung rất đa dạng trong đó có một số thư chung giám mục đề cập đến Nho giáo để rồi ngăn cấm không được tham dự các nghi lễ của Nho giáo. Thư chung được đọc công khai trong nhà thờ. Một trong những thư chung theo chúng tôi là tiêu biểu về việc đề cập đến Nho giáo là thư chung của Giám mục Phêrô Maria Đông giám mục giáo phận Tây Đàng Ngoài đề năm ? (1895). Thư chung được tập hợp trong cuốn: Sách thuật lại các thư chung địa phận tây Đàng Ngoài in tại Kẻ Sở 1908 với tựa đề: Về các việc dối trá. Nội dung: “Cắt nghĩa bốn điều sau này: Một là những sự không nên thờ; hai là những sự không nên làm về đàng phụng sự; ba là những sự không nên bàn về đàng hiếu sự; bốn là những việc dối trá không nên tin không nên kiêng”. Phần: Điều thứ I -Những sự không nên thờ viết: “Vậy trong những cách lỗi nhân đức thờ phượng, kẻ có đạo năng dịp mắc phải hơn thì có ba sự này: một là thờ Thần Phật, hai là thờ Khổng Tử, ba là thờ ông bà bà ông vải”. “Thờ Khổng Tử - Ông Khổng cũng là người thế gian như Bụt đã nói trên này, là quân tử nước Ngô đã làm thày đồ dạy những chữ nghĩa, song chẳng biết cội rễ và cũng sau hết mình là làm sao, nên không làm thày dạy dỗ thiên hạ được. Cho rằng là người khôn ngoan lý sự phần đời hơn nhiều người khác, nhưng mà nó dạy điều gì có lập công, gì trước mặt Đức Chúa Lời đáng thờ lạy đáng tế lễ đáng cầu khấn ru?
Mà bây giờ dù Thần dù Phật dù Khổng Tử cũng đã chết cả rồi, còn có quyền thế cứu giúp phù hộ người ta làm sao? Hẳn thật ai tin nó thờ nó là thờ dối trá và làm tôi ma quỉ”(1).
Phần: Điều thứ II - Những sự không được làm về đàng phụng sự viết: “Trong nước này kẻ vô đạo thờ Khổng Tử như đấng thánh có phép phù hộ, cùng xin người giúp sức cho mình được sáng dạ, được thi đỗ đơm tế mời về hưởng cỗ bàn vân vân, ấy là những điều dối trá tỏ tường kẻ có đạo chẳng nên thông công sự ấy, khi làm ở nhà thày đồ, hay là trong dịp thi cử nơi văn miếu văn chỉ; Cũng không nên lạy thần vị bàn án đã lập mà thờ ông Khổng bao giờ”.
Hai tác phẩm của giáo sĩ Alexandre de Rhodes. Trước hết là cuốn Phép giảng tám ngày. Đây là sách giáo lý đầu tiên bằng chữ quốc ngữ dùng cho cộng đồng tín đồ Công giáo ở Việt Nam lúc bấy giờ và còn ảnh hưởng lâu dài đến tận sau này. “Phép giảng tám ngày… là sách giáo lý trình bày trong mầu sắc minh giáo”(2). Sở dĩ tác giả Nguyễn Khắc Xuyên gọi như vậy là vì trong Phép giảng tám ngày, Rhodes dành một phần nội dung chỉ trích những tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam trong đó có Nho giáo, cho đó là đạo tà, đạo giả, dị đoan. Cuốn sách viết: “Trong Đại Minh còn giáo thứ ba, gọi là Đạo Nho, những kẻ hay chữ thì theo đấy, mà thờ ông Khổng vì sự ấy trong Đại Minh thì lấy ông Khổng làm nhất mà gọi Thánh hiền, là Thánh và hiền nhất vậy. Song le nói thể ấy chẳng phải lẽ đâu, vì chưng hay là ông Khổng Tử ấy biết đức Chúa cả làm nên mọi sự, là cội rễ mọi sự thánh, mọi sự lành, hay là chẳng biết. Ví bằng đã biết, mà làm thầy, thì phải dạy đầy tớ cho biết cùng, mà thờ đấy cho nên. Song le ông Khổng chẳng có làm sự ấy, vì vậy chẳng phải hiền, chẳng phải thánh, thật là độc dữ”(3).
So với tác phẩm: Phép giảng tám ngày, thì tác phẩm: Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài viết về Nho giáo và Khổng Tử có phần kĩ hơn: “Giáo phái thứ nhất và thời danh hơn cả là đạo Nho. Người khai sáng đạo này là một người Tầu tên là Khổng Tử, sinh sống ở nước Tàu, theo sử liệu vào cùng thời với Aristote bên Hi Lạp, nghĩa là vào khoảng ba trăm năm trước Thiên chúa giáng sinh. Người Đàng Ngoài tôn ông là thánh nhân, nhưng vô lý và trái lẽ, như tôi đã có lần thuyết phục họ. Bởi vì, theo tôi, nếu ngài được gọi là thánh nhân, thì ngài phải biết có một đức chúa Trời dựng nên trời và đất, nếu ngài không biết thì sao có thể là thánh được; không biết đấy là cội nguồn và là nguyên nhân mọi sự thánh, ngài chỉ thông truyền cho loài có lý trí bằng sự hiểu biết và yêu mến Thiên chúa cao cả. Nếu ông nhận biết, vì ông tự xưng là bậc tiến sĩ và tôn sư thì ông phải giảng dạy sự hiểu biết cần thiết cho sự cứu rỗi, đàng này ông không dạy rõ ràng trong kinh sách của ông, ông không đề cập tới Thiên Chúa nguyên lý mọi sự, thì sao có thể gọi ông là thánh(4).
Một trong những tác phẩm của Công giáo đề cập đến Nho giáo cần phải kể để là cuốn: Hội đồng tứ giáo (còn gọi là Hội đồng tứ giáo danh sư). Nội dung tác phẩm mang tính minh đạo. Thông qua một hội đồng mang tính giả định với tên gọi “Hội đồng tứ giáo” gồm 4 người đại diện cho 4 tôn giáo thời bấy giờ là Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo và Công giáo, gồm Nho sĩ (Nho giáo), Thượng Tọa (Phật giáo), Đạo giáo (Pháp sư), Tây Sĩ (Công giáo). Bốn vị đại diện “ngồi với nhau”, tranh luận về ba vấn đề:
Nguồn gốc con người.
Sống phải làm gì?
Chết rồi đi về đâu?
Trong tranh luận Nho sĩ luôn là người bắt đầu, Tây Sĩ là người sau cùng để kết luận vấn đề và tất nhiên là bác lại ý kiến của đại diện 3 tôn giáo. Ví dụ:
Để trả lời vấn đề thứ hai (Sống ở đời làm gì), Nho sĩ (…) lấy lời Đức Khổng mà giảng rằng: Sống ở đời người ta phải tu ngũ đức: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, và giữ ngũ luân: Quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu. Thầy pháp sư đưa ra câu của đức thánh Lão tử: Vật vi, vật ý, vật biện (chớ làm gì, chớ có ý gì, chớ phân biệt). Vị Hòa thượng thì nhắc lại người ta phải tu ngũ đức: Thí của, giữ chay, chịu nhục, tu đức, giữ lòng thật. Lại cấm 5 điều: một là cấm sát sinh, hai là cấm trộn cướp, ba là cấm tà dâm, bốn là cấm nói dối, năm là cấm uống rượu. Tây sĩ cũng dựa vào Thánh kinh Công giáo: Người ta phải giữ Thập giới (10 điều răn), phải giữ Thất qui (7 phép bí tích)(5).
Với ba vấn đề tranh luận trên, Công giáo đã trực diện đi vào ba vấn đề căn cốt mà các tôn giáo phải lý giải. Về hình thức là tranh luận là đối thoại nhưng thực chất là độc thoại với chủ ý là đánh đổ các tín lý của Nho, Phật, Đạo, đề cao, xác lập tín lý Công giáo.
Hội đồng tứ giáo là cuốn sách có kỷ lục về lần xuất bản. Có tác giả cho rằng nhà in Tân Định (Sài Gòn) đã tái bản cuốn sách này tới 15 lần. Một bản in tại nhà in Thái Bình, tới 12 lần(6).
Việc cuốn sách được tái bản nhiều lần ở hai miền Nam, Bắc cho thấy hẳn cuốn sách đã có tác dụng rất lớn không chỉ trong việc minh đạo mà còn thể hiện trong đấu tranh về tín lý của Công giáo ở Việt Nam với Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo.
Xung đột từ phía Nho giáo
Bắt đầu từ thời Lê(7), Nho giáo được dùng làm hệ tư tưởng trị nước. Nhà Vua đồng thời là nhà Nho, các bậc đại thần cũng đều là là Nho sĩ. Họ bước vào chốn quan trường qua thi cử Nho học. Vì vậy cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng của Nho giáo với Công giáo khá đa dạng và sinh động. Trước hết là cách nhìn nhận, phê phán của vua, chúa nhà Lê và tiếp theo là các vua Nguyễn qua các đạo dụ, qua các trước tác của nhà vua… Một quan điểm xuyên suốt cho đến khi nhà Nguyễn bãi bỏ lệnh cấm đạo (1874, Công giáo được xem là Tà đạo đối lập với Chính đạo - Nho học / giáo).
Thời Lê, năm Cảnh Trị thứ nhất (1663) đời vua Lê Huyền Tông, tháng 10, mùa đông. Nhắc rõ lai lịch cấm người theo tà đạo Gia Tô.
Trước đây có người Tây Dương gọi là Hoa Lang Di, vào nước ta, đem đạo dị đoan của Gia Tô lừa dối, dụ dỗ làm ngu muội dân chúng, những người quê mùa nông nổi phần nhiều tín mộ đạo ấy, họ lập tòa giảng, nghe giảng đạo, sự mê hoặc đắm đuối mỗi ngày càng rộng. Trước đã hạ lệnh đuổi người truyền đạo ấy đi, nhưng còn bọn tiểu nhân thấm sâu vào tập tục ấy chưa thay đổi được”(8).
Nhâm Thìn, năm thứ 8 (1712), tháng 3, mùa xuân, lại hạ lệnh cấm tà đạo Gia Tô. Triều đình đã nhiều lần ra điều lệnh cấm tà đạo Gia Tô nhưng quân và dân sở tại tham của đút lót của họ, che giấu lẫn nhau, nên đạo ấy lan ra làm người ta mê hoặc mỗi ngày một sâu rộng(9).
Năm 1754, tháng 9, mùa hạ. Lại cấm tà đạo Hòa Lan… Đạo Thiên chúa cũng gọi là “Thập tự giáo”. Giáo lý này dùng Thiên đường, địa ngục để phân biệt báo ứng về điều thiện, điều ác, cũng giống như đạo Phật, có thêm vào thuyết xưng tội, rửa tội nữa”(10).
Phong trào Tây Sơn nhìn nhận Công giáo là “Một tôn giáo không nhìn nhận cha, không nhìn nhận vua, không thờ kính thần linh”(11). Nhà Tây Sơn thực sự lo ngại ảnh hưởng tiêu cực của Công giáo tới Nho giáo “Từ khi các nước phương Tây lén lút đưa đạo của họ vào trong vương quốc này, ta biết rằng sự tôn thờ Đức Khổng Tử mỗi ngày một giảm và hầu như hoàn toàn bị bỏ rơi”(12).
Do tính chất phức tạp của Công giáo dưới triều Nguyễn nên các văn bản của triều Nguyễn khi đề cập đến Công giáo là gay gắt. Trong Điều lệ hương đảng, ban hành năm Giáp Tý (1804) thời vua Gia Long viết: “Lại như đạo Gia Tô là tôn giáo nước khác truyền vào nước ta, bịa đặt ra thuyết thiên đường, địa ngục khiến kẻ ngu phu, ngu phụ chạy vạy như điên, tiêm nhiễm thành quen mê mà không biết”(13).
Thời vua Minh Mạng, năm 1834 ban hành Thập huấn điều giáo dục dân chúng trên nền tảng Nho giáo và do vậy cũng đồng thời đả kích Công giáo, coi Công giáo là Tà đạo “làm cho bại hoại luân lý, hư hỏng giáo hóa, không thể tin được” (Điều 7 - Sùng Chính học)(14).
Năm Minh Mệnh thứ 13 (1832), nhân việc tha tội cho dân ở phường Nam Dương Tây, tỉnh Quảng Trị vốn theo Công giáo nay xin bỏ, vua Minh Mệnh dụ Bộ Hình rằng: Đạo Gia Tô nguyên từ người Tây Dương đem vào truyền bá đã lâu, dân ngu phần nhiều bị mê hoặc mà không biết hối. Thử nghĩ : Cái thuyết thiên đường, tóm lại chỉ đều là chuyện hoang đường, không có bằng chứng. Hơn nữa không kính thần minh, chẳng thờ tiên tổ, rất trái với chính đạo. Thậm chí lập riêng nhà giảng, tụ tập nhiều người, cám dỗ dâm ô phụ nữ, lừa gạt lấy mắt người ốm. Những việc trái luân lý, hại phong hóa, điều ấy kể ra còn nhiều, thực đã phạm đến pháp luật”(15).
Những nội dung trên về cơ bản được nhắc lại vào năm Minh Mệnh thứ 20 (1839) qua việc vua bảo Bộ Hình: “Thử nghĩ cái việc Thập ác, Giêsu, tóm lại chẳng có đạo lý gì, mà cái thuyết thiên đường, nước phép lại là vô lí. Thậm chí thác việc cầu hồn để lừa khoét con ngươi người (chết), mượn danh đồng trinh để dâm ô vợ con người ta, thương tổn phong hoá”(16).
Nhìn nhận Công giáo là tà đạo, không thờ tổ tiên, không kính quỉ thần đặt ra thuyết thiên đường, nước phép… cũng được các vua Thiệu Trị, Tự Đức nhắc trong các dụ.
Về trước tác đáng kể là tác phẩm Đạo biện (biện luận về đạo) trong Ngự chế văn tập của Tự Đức. Đạo biện ra đời có thể trước năm 1862. Trên cơ sở luận về đạo để rồi Tự Đức phê phán tín lý Công giáo: “Họ bảo Thiên Chúa tức là Thượng đế, Thượng đế là chúa tể của trời, tức là sáng tạo ra trời đất, vạn vật. Họ lại nói Thiên chúa không phải là trời, không phải là đất, không phải là lý, không phải là đạo, không phải là khí, không phải là tính, không phải là người, không phải là vật, không phải là quỉ, không phải là thần, đó là đầu mối của vạn vật, mà chính mình không bắt đầu từ đâu cả… đem so với Lão Tử khi nói “Vô danh là bắt đầu của trời vật, Đạo sinh ra một, một sinh ra hai” mới thấy thuyết của Gia Tô lại càng xuyên tạc thô sơ, họ chỉ biết mượn Thiên Chúa để che giấu cái dấu tích Gia Tô, và để làm văn hoa cho sự lầm lỗi vì đã thờ phụng xằng mà không kể gì đến gốc tích nữa”(17). Ở một đoạn khác Tự Đức phê phán: “Họ lại muốn người ta không được lễ tổ tiên, cha mẹ, thánh hiền, bảo rằng Thiên Chúa là gốc của nhân, vật, thần thánh, thì chỉ chuyên kính lễ Thiên chúa. Như thế họ lại càng sai lầm lớn lắm”(18).
Cách nhìn nhận, phê phán Công giáo của vua, chúa mà chúng tôi dẫn ra ở trên là do đứng trên quan điểm Nho giáo. Mặt khác có thể nói các vua, chúa, ngay cả vua Tự Đức một ông vua để tâm nghiên cứu Công giáo thì sự hiểu biết về Công giáo còn quá sơ sài. Thậm chí còn hiểu sai.
Bậc quân vương thì như vậy, các Nho thần hiểu biết về Công giáo thậm chí còn kém hơn, sai lạc hơn. Năm Minh Mệnh thứ 16 (1835) nhân nhà vua định rõ điều lệ cấm chỉ tà giáo Tây Dương, Tả phó đô ngự sử viện Đô sát Phan Bá Đạt tâu nói: “Tà giáo Tây Dương làm say đắm lòng người, thực là một đạo kiệt hiệt hơn hết trong các đạo dị đoan…Mã Song khai rằng thầy thuốc nước hắn, nhân người sắp chết, khoét lấy mắt phơi khô, hợp với hai vị a nguỵ và nhũ hương, tán nhỏ chế thuốc, trị bệnh ho đờm. Lại tục truyền tà giáo Tây Dương thường khoét mắt người, và cho 1 trai 1 gái, ở chung một nhà có tường ngăn cách, lâu ngày động tình dục, nhân đấy rập cho chết bẹp, lấy nước (xác chết đó) hoà thành bánh (thánh) mỗi khi giảng đạo cho mọi người ăn, khiến cho mê đạo không bỏ được. Cả đến người theo đạo khi trai gái lấy vợ chồng, thì đạo trưởng đem người con gái vào nhà kín, lấy danh nghĩa là để giảng đạo, thực ra là để dâm ô”(19).
Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng của Nho giáo với Công giáo còn được thể hiện qua tác phẩm Tây Dương Gia Tô bí lục (Ghi chép những chuyện kín của đạo Gia Tô Tây Dương). Về tác giả, tác phẩm và văn bản đã được đề cập trong Lời giới thiệu của cuốn sách(20). Do khuôn khổ của bài viết chúng tôi không thể phân tích sâu những ý kiến của mình khi cho rằng tác phẩm Tây Dương Gia Tô bí lục là cuốn sách do các nhà Nho viết ra nhằm mục đích phê phán Công giáo. Đây là công trình của nhiều người mặc dù trên đầu sách có tên tác giả.
Nội dung cuốn sách đề cập có nhiều phần sai lạc và phóng tác bởi sự hiểu biết hạn chế và còn bởi chủ đích của cuốn sách. Cách hành văn nhiều chỗ thô thiển, đôi khi thô lỗ. Bởi vì chủ đích của cuốn sách là thông qua việc đề cập đến lai lịch, hành trạng chúa Giêsu và việc truyền bá Công giáo vào Việt Nam, Trung Quốc để “đánh đổ” tôn giáo này về mặt học thuật. Điểm tựa để phê phán Công giáo là tín ngưỡng cổ truyền đặc biệt là hệ tư tưởng Nho giáo. Qua đó cũng chính là để xác lập tư tưởng Nho giáo.
Với độ dày hơn 300 trang cho thấy sự dày công của những nhà Nho khi soạn tác phẩm này. Vì vậy đây là cuốn sách dày nhất cho đến hết thời kỳ phong kiến mang nội dung đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng của Nho giáo với Công giáo. Chỉ riêng điều này thôi đã cho thấy tính quyết liệt của cuộc đấu tranh.
Khi nhà Nguyễn từng bước đầu hàng thực dân Pháp thì trong nước nổi lên phong trào Văn thân đánh Pháp. Khẩu hiệu của phong trào là: Bình Tây, sát tả” với lời hịch:
Than ôi, đạo dối Giêsu đã xâm nhập vào nước ta, lời cầu nguyện của họ chỉ tin vào chúa Trời và Thánh Thần.
Giáo lý của họ dạy rằng trên trái đất này chẳng có vua, chẳng có cha mẹ.
Lập luận của họ vừa vô lý vừa ngược đời:
Tư cách của họ đầy rẫy sự kiêu ngạo. Họ cướp đoạt đất đai phì nhiêu để xây dựng nhà thờ cho đạo dối.
Về mặt đạo lý họ tìm cách làm băng hoại nước ta để biến nước ta thành Công giáo. Họ làm nhục đạo lý Khổng Mạnh.
Dung hợp
Nếu như xung đột chỉ diễn ra trên bình diện tư tưởng thì dung hợp giữa Nho giáo và Công giáo diễn ra đa diện.
Về bình diện tư tưởng: Bên trên là việc trình bày về xung đột, tuy nhiên các giáo sĩ Công giáo không thể không thừa nhận cái hay cái tốt của Nho giáo mặc dù còn hạn hẹp và chỉ dưới góc độ tìm hiểu. Alexandre de Rhodes có những nhận xét sau về Khổng Tử: “Thực ra Khổng Tử nhà hiền triết này, trong những sách ông để lại, có nhiều giáo huấn về thuần phong mỹ tục: như khi ông nói, trước hết hãy sửa mình mà muốn thế thì xét mình mỗi ngày ba lần để sửa điều lầm lỗi. Sau đó mới đem tâm trí và chuyên cần xếp đặt, điều khiển gia đình. Và sau khi đã cẩn thận chu toàn chức vụ đầu tiên này chứ không trước khi đó, thì bấy giờ mới lo dìu dắt và cai trị quốc gia.
Ông còn luận về nhiều điều liên hệ tới pháp lý dân chính, về xét xử các vụ kiện và thi hành công lý, do đó các tiến sĩ Đàng Ngoài nghiên cứu kinh sách của ông một cách chuyên cần như chúng ta khảo sát hiến pháp hay bộ luật. Ông còn trình bày và phân giải những châm ngôn về chính trị và luật pháp tự nhiên. Vì thế ông không nói trái với những nguyên lí của Kitô giáo và cũng không nói những gì phải bác bỏ hay bị kẻ tin theo lên án”(21).
F.Buzômi, giáo sĩ người Italia xuất hiện ở Đàng Trong ngày 18-1-1615 nhận xét về vai trò của Nho giáo như sau: “Nhờ Khổng giáo, xã hội và gia đình Việt Nam đã có một tổ chức rất cao, người dân Việt Nam có những đức tính, phong tục rất đáng khâm phục nó đã giúp rất nhiều vào công cuộc truyền giáo”(22).
Thuyết “tam phụ” hay thần học “tam phụ”: Thiên chúa là Cha do Alexandre de Rhodes khởi xướng là sự ảnh hưởng của tư tưởng tam cương: quân thần, phụ tử, phu phụ của Nho giáo. Trong tam cương - ba giềng mối trong xã hội - Khổng Tử đã đề cập đến hai cha: Phụ tử - con đối với cha mẹ, quân thần - vua là cha mẹ dân để rồi A.Rhodes thêm một phụ/cha, với quan niệm Thiên chúa là Thượng phụ.
Trong phép giảng tám ngày A.Rhodes viết: “Bây giờ ta phải có ba đấng bề trên gọi là ba cha, ta phải thờ, ở đấng nào cho nên đấng ấy. Đấng dưới là cha mẹ sinh thân xác cho ta; đấng giữa là vua chúa trị nước; đấng trên tức đức chúa trời đất, làm chúa thật trên hết mọi sự. Có ba đấng này ta mới được sống, được ở. Vì chúng ta có cha mẹ, thì mới được thân xác thịt này sinh ra mà chớ… Vua Chúa cũng gọi là cha cả và nước cùng các dân. Chẳng có vua chúa, thì nước ở an lành chẳng được… Ắt thật thượng phụ là cha cả, chúa cả trên hết mọi sự, có thưởng có phạt trọng”(23).
Tư tưởng tam cương, ngũ thường còn được Công giáo vận dụng để hướng dẫn tín đồ sống đạo theo tín lý trong đó có việc hôn nhân. Công giáo đề cao hôn nhân một vợ một chồng gọi là “phép nhất phu, nhất phụ”. Thư của giám mục Hermosilla (Liêm) coi phép nhất phu nhất phụ thuộc về “cương” phu, phụ trong tam cương. Thư viết: “Các quân tử cứ lẽ tự nhiên đã suy đến sự ấy đã kể phép nhất phu, nhất phụ trong ba giềng mối can hệ nhất trong thiên hạ quen gọi là tam cương… Ví bằng người ta cẩn thận giữ cho phải mlễ trong việc nhất phu, nhất phụ thì các việc khác liền được an”(24).
Công giáo dù tạo ra chữ quốc ngữ nhưng một thời gian dài cho đến tận đầu thế kỷ XX kinh, bổn, giáo lý… lại soạn, in bằng Hán - Nôm mà dân gian quen gọi là chữ Nho. Tín đồ được xem là có hiểu biết trong xứ, họ đạo, làng Công giáo cho đến trước cách mạng Tháng Tám năm 1945 là những người biết “chữ Nho”, những người “Nho học”. Họ học chữ “Thánh hiền” bởi các “thầy đồ” ở làng lương. Họ được phép mang đồ lễ tặng thầày đồ, chỉ không được thờ cúng, bái lạy KhổngTử. Vì sợ tín đồ học “chữ Nho” với lương dân có thể bị chế nhạo, bị lôi kéo, nên với các xứ, họ đạo, làng Công giáo nào có “thầy đồ” là người Công giáo thì giáo dân phải học họ không được học thầy đồ là lương dân. Một trong những họ (hội đoàn) ra đời sớm là hội Nho gia tập hợp những thầy đồ là tín đồ Công giáo(25).
Chính vì vậy mà Công giáo đã để lại cho dân tộc một di sản Hán - Nôm quen gọi là Nôm đạo khá đồ sộ.
Tư tưởng Nho giáo thể hiện ở một số công trình kiến trúc Công giáo và cả trong những câu đối ở nhà thờ Công giáo. Nhà thờ chính toà Phát Diệm (Kim Sơn - Ninh Bình) mặt bằng kiến trúc theo hướng Bắc - Nam. Giữa ao hồ dựng tượng chúa Giêsu làm vua nhìn về hướng Nam, hai tay giang rộng. Hướng Nam là hướng của Thánh nhân theo quan niệm: Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ. Thánh nhân nhìn về hướng nam nghe thiên hạ giãi bày. Nhà thờ đá trong khu quần thể nhà thờ chính toà tạc biểu tượng lưỡng nghi/âm dương phía mặt sau hình sư tử và phượng hoàng. Chấn song phương đình là hình thân trúc. Trúc là biểu hiện tính ngay thẳng của người quân tử.
Nhà thờ xứ An Vân (Huế) có đôi câu đối.
Đạo sở cộng do chính tại càn khôn sắc bàng bạc
Nhân viết dư tri, cái vu tạo hóa tố uyên nguyên.
Dịch:
Đạo là con đường ai cũng phải đi, chính vì khắp càn khôn dáng của Thiên chúa luôn bàng bạc.
Người ta nói rằng: tôi biết (có Thiên Chúa) thấy công trình tạo hóa, ta phải truy tầm nguồn gốc.
“Đạo sở cộng do” là lấy lời của Khổng Tử trong câu: Đạo lộ dã, nhân sở cộng do. Hà nhân xuất bất do hộ.
Về phía Nho giáo, đại biểu của nó là tầng lớp Nho sĩ trên thực tế ít thấy có sự dung hợp với Công giáo. Điều này thật dễ hiểu bởi tư tưởng trung quân cũng có nghĩa là trung thành với hệ tư tưởng Nho giáo mà nhà vua sử dụng làm hệ tư tưởng chính thống. Khi nhà Nguyễn bãi bỏ lệnh cấm đạo thay đổi cách nhìn với Công giáo thì triều đại này dần dần mất vai trò trên chính vương quốc của họ. Nho giáo theo đó cũng tàn lụi dần để rồi chỉ còn là lớp trầm tích trong văn hóa Việt.
Tuy nhiên chính vào lúc Nho giáo tàn lụi người ta lại thấy lóe sáng tư tưởng của các nhà Nho cuối mùa của phong trào Đông Kinh nghĩa thục hồi đầu thế kỷ XX đề cao chữ quốc ngữ. Coi đây là một trong sáu đường mở mang dân trí. Việc các nhà Nho bỏ chữ thánh hiền dùng chữ quốc ngữ do các giáo sĩ Công giáo tạo ra rõ ràng là một “đột phá khẩu” về canh tân.
Con đường đầu tiên được đặt ra là: Dùng văn tự nước nhà “Phàm người trong nước đi học nên lấy chữ quốc ngữ làm phương tiện đầu tiên, để trong thời gian vài tháng đàn bà, trẻ con cũng đều biết chữ; và người ta có thể dùng quốc ngữ để ghi việc đời xưa, chép việc đời nay, và thư từ thì có thể chuốt lời và đạt ý. Đó thực là bước đầu tiên trong việc mở mang trí khôn vậy”(26).
Chú thích:
1. Sách thuật lại các thư chung địa phận Tây Đàng Ngoài, In tại Kẻ Sở 1908, tr.602-603.
2. Alexandre de Rhodes: Phép giảng tám ngày. Tủ sách Đại Kết. 1993 tr.XXIII.
3. Phép giảng tám ngày. Sđd, tr.112-113.
4. Alexandre de Rhodes: Lịch sử Vương quốc Đàng Ngoài. Tủ sách Đại Kết 1994, tr.39-40.
5. Linh mục Nguyễn Hưng: Sơ thảo thư mục Hán Nôm Công giáo, Lưu hành nội bộ, 2000, tr.187.
6 thảo thư mục Hán Nôm Công giáo, đd, tr.81.
7. Đây là nhận định của tác giả, song thực chất thì ngay từ thời Lý đã dựa theo Nho giáo để tổ chức Nhà nước và sang thời Trần thì bộc lộ rõ ràng hơn việc sử dụng Nho giáo làm hệ tư tưởng trị nước (BT)
8. Khâm định Việt sử thông giám Cương mục. Tập II, Nxb. Giáo dục, H. 1998, tr.300-301.
9. Khâm định Việt sử thông giám Cương mục, Sđd, tr 140.
10. Khâm định Việt sử thông giám Cương mục, Sđd, tr 627.
11. Launay A. Histoire de la Mission de Cochinchine. Vol III, tr.117 Dẫn theo Trương Bá Cần: Công giáo Đàng Ngoài thời Giám mục Pigneau (1771-1799). Tp. Hồ Chí Minh 1992.
12. Louvet E.L. Lacochinchine religieuse, tome I, tr.517. Dẫn theo Nguyễn Quang Hưng: Công giáo Việt Nam thời kỳ triều Nguyễn (1802-1883), Nxb. Tôn giáo, 2007, tr.159.
13. Đại Nam thực lục chính biên. T3, Đệ nhất kỉ, Nxb. KHXH, H. 1963, tr.168.
14. Đại Nam thực lục chính biên, T4 (Tái bản lần 2), Nxb. Giáo dục, H. 2004, tr.235.
15. Đại Nam thực lục chính biên, T11, Nxb. KHXH, H. 1964, tr.236.
16. Đại Nam thực lục chính biên, T21, Nxb. KHXH, H. 1969, tr.100.
17. Tự Đức: Đạo biện trong Tự Đức ngự chế văn tập. Tư liệu Viện Triết học, tr.44.
18. Tự Đức: Đạo biện, Sđd, tr.46.
19. Đại Nam thực lục chính biên, T17, Nxb. KHXH, H. 1966, tr.243.
20. Phạm Ngộ Hiên, Nguyễn Hoà Đường… Tây Dương Gia Tô bí lục, Nxb. KHXH, H. 1981, tr.111-25.
21. Lịch sử Vương quốc Đàng Ngoài, Sđd, tr.39-40.
22. Dẫn theo Nguyễn Hồng: Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam. T1 Hiện Tại, Sài Gòn 1959, tr.57.
23. Phép giảng tám ngày. Sđd, tr.17-24.
24. Những thư chọn trong các thư chung các đấng Vicariô Apôstôlicô và Vicariô Prôvinciale về dòng ông thánh Du Mingô đã làm tự năm 1849, Quyển thứ 2. In tại Kẻ Sặt 1903, tr.63.
25. Xem: Sách thuật lại các thư chung địa phận Tây Đàng Ngoài In tại Kẻ Sở, 1908, tr.209-210; 228-229.
26. Đặng Thai Mai: Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX Nxb. Văn học, H. 1974, tr.216./.
Thông báo Hán Nôm học 2008; tr.196-211
*Tác giả Nguyễn Hồng Dương là PGS. TS, 
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Tôn giáo (Viện KHXH VN)




Thứ Ba, 20 tháng 12, 2011

TỔNG QUAN TÀI LIỆU NHO GIÁO VÀ NHO HỌC Ở VIỆN HÁN NÔM

TỔNG QUAN TÀI LIỆU NHO GIÁO VÀ NHO HỌC 
Ở VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM 
(Khảo sát, đánh giá về trữ lượng và giá trị)

Nguyễn Xuân Diện

1. Mở đầu 

1.1. Chúng ta đã có nhiều công trình nghiên cứu về Nho giáo của các học giả danh tiếng, được xuất bản trong suốt thế kỷ XX, trong đó nhiều vấn đề của Nho giáo và Nho học được nhìn nhận và đi vào xu hướng tổng kết. Tuy nhiên, có một thực tế rằng, tài liệu về Nho học và Nho giáo Việt Nam viết bằng chữ Hán Nôm chưa từng được thống kê, miêu tả và chưa từng được khai thác, dịch thuật một cách có hệ thống. Và do vậy dẫn đến chưa sử dụng một cách có hiệu quả kho sách này trong việc đánh giá các giá trị của Nho giáo và Nho học trong quá khứ cũng như những ảnh hưởng trong hiện tại.

Trong các cứ liệu về Nho giáo và Nho học thì các tư liệu viết bằng chữ Hán Nôm là quan trọng bậc nhất, vì chúng được biên soạn ngay trong thời kỳ Nho giáo còn thịnh, và là các cứ liệu trực tiếp nhất về Nho giáo và Nho học trong lịch sử. 

1.2. Vấn đề biên soạn thư mục tổng hợp về Nho học và Nho giáo cũng đã từng được chú ý. Vào năm 1973, một bản thư mục như vậy đã được hoàn thành tại Thư viện Khoa học xã hội Hà Nội, dưới hình thức in rô-nê-ô. Trong thư mục này đề cập đến 4 mảng tài liệu: tài liệu tiếng Việt (53 tên tài liệu), tài liệu bằng tiếng Pháp (63 tên tài liệu), tài liệu bằng tiếng Nhật (14 tên tài liệu), tài liệu bằng chữ Hán Nôm (82 tên tài liệu). Đây chỉ là các tài liệu về Nho học và Nho giáo tại Thư viện Khoa học xã hội Hà Nội, và các tài liệu được lựa chọn thì theo một tiêu chí hẹp.

Trong bộ sách Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu , Nxb. KHXH, H. 1993, phần Sách dẫn có mục Nho giáo, cho biết có 147 tên tài liệu về Nho giáo.

Trong cuốn sách Bản sắc văn hóa Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 1998, GS. Phan Ngọc cũng dựa trên những bảng tra cứu, sách dẫn trong bộ sách Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu , kết hợp với các thống kê mới do ông thực hiện, để bàn về vai trò của giới trí thức trong văn hóa Việt Nam. Kết quả là GS. Phan Ngọc, đã phân tích và cung cấp nhiều thông tin bổ ích và những tổng kết về di sản Hán Nôm nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung.

Nhận thức được ý nghĩa của một bản thư mục Hán Nôm về Nho giáo và Nho học chúng tôi đã đề xuất với lãnh đạo Phòng Thông tin - Tư liệu - Thư viện của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, biên soạn một bản thư mục, đề xuất này đã được ủng hộ và tạo điều kiện để triển khai.

Bài viết dựa trên bản thư mục nói trên(1), phạm vi tài liệu trong bài viết và thư mục của chúng tôi là chỉ đề cập đến các tài liệu ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã được miêu tả trong sách Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu và nêu lên những nhận xét bước đầu về vấn đề này. 

2. Thống kê các tác phẩm về Nho giáo và Nho học tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm 

Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện đang lưu trữ một khối lượng tài liệu Hán Nôm lớn nhất Việt Nam; trong đó, theo thống kê có thể là chưa đầy đủ của chúng tôi có 1.689 tên tài liệu về Nho giáo và Nho học. Chúng tôi chia các tài liệu này thành 2 nhóm như sau:

2.1. Tài liệu kinh điển Nho gia, (81 tên tài liệu)

Đây là tài liệu gốc và trực tiếp để nghiên cứu về Nho học và Nho giáo Việt Nam trong lịch sử. Sự xuất hiện của các tài liệu này tại Việt Nam là một vấn đề đáng được nghiên cứu, trong đó có một số gợi ý đi sâu như: Tác phẩm kinh điển Nho học vào Việt Nam đầu tiên là tác phẩm nào ? Tác phẩm kinh điển đến Việt Nam bằng con đường nào ? Trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam thì thời gian nào, triều đại nào xuất hiện nhiều tác phẩm Nho giáo nhất và lý do vì sao ? Người xưa đã bàn về kinh điển hoặc tóm tắt kinh điển như thế nào ?

Về kinh điển nho gia có 81 tên tài liệu, trong số này:
- Về Tứ thư : 14 tên tài liệu; Về Ngũ kinh : 19 tên tài liệu,
- Tóm tắt kinh điển (toát yếu, tiết yếu): 15 tên tài liệu,
- Chú giải kinh điển: 15 tên tài liệu,
- Bản dịch kinh điển sang quốc âm (chữ Nôm): 25 tên tài liệu,
- Bình giải về kinh điển: 9 tên tài liệu,
- Bàn về kinh điển dưới dạng văn sách: 150 tên tài liệu.

Về mảng tài liệu này chúng ta thấy có các tác gia nổi tiếng trong thế kỷ XVIII như Ngô Thì Nhậm (Xuân thu quản kiến), Lê Quý Đôn (Tứ thư ước giải), Phạm Nguyễn Du (Luận ngữ ngu án),... bàn luận rất sâu về tư tưởng Nho giáo và các khía cạnh có liên quan. 

2.2. Tài liệu phản ánh ảnh hưởng của Nho giáo và Nho học tại Việt Nam

Vấn đề này có đến 1.608 tên tài liệu, bao quát nhiều lĩnh vực trong đời sống quá khứ như: văn học, giáo dục, đạo đức, luật pháp, chế độ, sử học, lễ nghi. Dưới đây sẽ đề cập đến từng lĩnh vực nêu trên.

- Văn học Nho giáo (1.246 tên tài liệu)

Văn học Nho giáo là một nền văn học do các trí thức Nho giáo sáng tác, dựa trên tư tưởng và thẩm mỹ theo quan điểm của Nho giáo. Đây là các tác phẩm văn học được viết bằng nhiều thể loại khác nhau, trong số các tác giả có những tên tuổi lớn được ghi nhận trong nền văn học Việt Nam như: Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đoàn Thị Điểm, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du, Tự Đức, Nguyễn Khuyến, Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh...

Trong phần này, chúng tôi đặc biệt lưu ý đến thơ vịnh sử - một loại đề tài rất phổ biến trong văn học trung đại, được gợi ra từ cảm hứng lịch sử Việt Nam và Trung Quốc. Tuy nhiên, khác với một tác phẩm sử biên niên hay một tác phẩm sử học trong đó tính biên niên, tính nghiêm cẩn của sử bút được đề cao lên hàng đầu, thơ vịnh sử đánh giá và bình luận về một nhân vật hoặc một sự kiện lịch sử nào đó bằng hình tượng văn học và ngôn ngữ thi ca. Qua đó tác giả rút ra những bài học, coi như một tấm gương soi và gửi gắm quan điểm nhân sinh của mình. Sự chọn lựa nhân vật hay sự kiện lịch sử nào không hoàn toàn tùy thuộc vào tầm vóc của nhân vật hoặc sự kiện mà tuỳ thuộc vào cảm hứng rất riêng của người viết. Đây là tài liệu rất hữu ích cho việc nghiên cứu về văn học và tư tưởng của Việt Nam trong quá khứ.

Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện còn lưu trữ 112 tài liệu thơ vịnh sử. Cuốn sách tập hợp được nhiều tác phẩm thơ vịnh sử nhất là Vịnh sử hợp tập (1 bản viết tay, 246 trang, VHv1785). Sách này do Dương Thúc Hiệp đề tựa năm Nhâm Dần, niên hiệu Thành Thái (1902), chép đến 900 bài thơ vịnh sử Trung Quốc của các tác giả Việt Nam Phạm Vĩ Khiêm, Nguyễn Đức Đạt, Dương Thúc Hiệp... Xếp sau Vịnh sử hợp tập về số lượng bài thơ là Vịnh sử thi tập (6 bản in, 252 trang, gồm các bản: VHv.1456, VHv.1782, VHv.1783, VHv.2268, VHv.2269, VHv.800/2). Bộ sách có 570 bài thơ vịnh 225 nhân vật lịch sử Trung Quốc. Trong khi đó có các tác giả như Đặng Minh Khiêm (với Thoát Hiên vịnh sử thi tập, Hà Nhiệm Đại (với Khiếu vịnh thi tập ), Tự Đức (với Ngự chế Việt sử tổng vịnh) lại lấy đề tài từ sử Việt Nam.

- Giáo dục và Khoa cử Nho giáo (537 tên tài liệu)

Chọn người tài vào bộ máy hành chính thông qua các cuộc thi về học vấn là một hình thức phổ biến ở Trung Quốc và các nước Đông Á chịu ảnh hưởng Nho giáo. Hệ thống khoa cử để cho tất cả mọi người đều có cơ hội thể hiện tài năng và trình độ học vấn là một trong những ưu việt của các nước này, đã từng được đánh giá và ca ngợi. Tuy nhiên, lối học từ chương, sáo rỗng và khuôn mẫu đã làm cản trở sự phát triển khoa học tự nhiên và kỹ thuật ở các nước này trong quá khứ. 

Thống kê cho thấy có đến 439 tên tài liệu về khoa cử. Trong số này có đến 332 tên tài liệu là tập hợp các bài văn mẫu làm tài liệu tham khảo cho những người học thi; chỉ có 1 cuốn nói về hệ thống bài thi và 30 cuốn đề cập đến phép thi, quy chế thi cử. Sách giáo khoa chỉ có 22 cuốn, chủ yếu là những sách do Ban Tu thư ở Huế biên soạn để dạy học trò theo lối mới vào đầu thế kỷ XX, theo chủ trương của Dương Lâm, Đoàn Triển, Bùi Hướng Thành, Đỗ Văn Tâm.


Trong suốt thời kỳ khoa cử Nho giáo, những người đi thi, đều có khát vọng được ghi danh trên bảng vàng bia đá, lưu mãi tiếng thơm, đều có khát vọng cống hiến cho triều đình và đất nước. Tên tuổi, quê quán của những người đỗ đạt trong các cuộc thi Nho giáo được chép trong loại tài liệu gọi là Đăng khoa lục (sách cho các thông tin về những người thi đỗ). Hiện nay, Viện Nghiên cứu Hán Nôm có lưu trữ 78 tên tài liệu (có tên gồm nhiều cuốn). Trong đó có 38 cuốn đã được sử dụng để biên soạn cuốn Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 -1919, Ngô Đức Thọ chủ biên, Nhà xuất bản Văn học năm 1993, với các thông tin chủ yếu nhất về các nhà trí thức Nho học Việt Nam đã trúng tuyển trong các kỳ thi đại khoa (tức thi Hội và thi Đình) do triều đình tổ chức.

Liên quan đến giáo dục Nho giáo, còn phải kể đến các tài liệu về Văn Miếu, là những thiết chế văn hóa phục vụ cho việc tôn vinh Đức Khổng Tử - vị “Vạn Thế Sư Biểu” của Nho giáo, và Quốc Tử giám là nơi đào tạo những người con ưu tú có triển vọng về học vấn. Thống kê cho biết có 20 tài liệu nói về văn miếu, bao gồm cả Văn miếu Hà Nội, Văn miếu Huế và văn miếu các tỉnh; có 9 tài liệu nói về Quốc Tử giám Hà Nội và Huế. 

- Đạo đức Nho giáo (134 tên tài liệu)

Đạo đức Nho giáo cũng là một vấn đề có vị trí nổi bật trong thư tịch của Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Và theo thống kê thì Viện Nghiên cứu Hán Nôm đang lưu trữ 134 tài liệu về vấn đề này. Các tài liệu loại này gồm: 1. Chuyện các nhà hiền triết nhân từ, các danh nho khí tiết, chuyện những người hiếu thảo, 2. Đạo đức của người làm quan, 3. Các sách về gia đình truyền thống v.v....

Trong mảng tài liệu về đạo đức Nho giáo, chúng tôi đặc biệt chú ý đến vấn đề gia đình truyền thống mà GS. Trần Đình Hượu đã từng có những nghiên cứu và có những tổng kết rất bổ ích và quan trọng. 

Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện có 61 tên tài liệu về gia đình truyền thống, đấy là chưa kể đến 264 cuốn gia phả của các dòng họ. Trong số tài liệu trên có tới 51 tên tài liệu về gia huấn. 

Về gia huấn, trên Tạp chí Hán Nôm số 3 (28) - 1996, tác giả Lê Thu Hương đã thông báo có khoảng 34 tên tài liệu. Bản gia huấn có niên đại sớm nhất mà Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn lưu giữ là Cùng đạt gia huấn (VHv.286). Đây là một bản viết tay, có niên đại 1733, do Hồ Phi Tích soạn. Cuốn này chép những bài học kinh nghiệm trong cuộc đời của ông, dạy con cháu trong nhà giữ gìn nền nếp, biết cần kiệm, cẩn thận, khiêm tốn, tránh kiêu căng, xa xỉ, đắm chìm trong chuyện rượu chè... Nói chung, sách gia huấn nêu ra những chuẩn mực ứng xử trong gia đình như cha con, vợ chồng, anh em, hoặc mở rộng ra trong mối quan hệ xã hội (quan hệ láng giềng, bạn bè). Một số bản còn đề cập đến giáo dục giới tính cho con trai, con gái (Hành tham quan gia huấn, Nữ huấn tam tự thư, Xuân Đình gia huấn). Riêng về Nữ huấn có 10 tên tài liệu. 

- Luật pháp (40 tên tài liệu)

Sau khi giành được độc lập, nhà nước phong kiến Việt Nam đã chú ý ngay đến việc xây dựng hệ thống luật pháp. Theo ghi nhận của sử sách và các bộ văn tịch chí thì ngay từ thời Lý (thế kỷ XI), Việt Nam đã có Hình thư, và thời Trần (thế kỷ XIII) có Hình luật thư. Về sau chúng ta còn biết tới các bộ luật khác được biên soạn như: Thiên Nam dư hạ tập, Quốc triều hình luật (Luật Hồng Đức), Quốc triều chiếu lệnh thiện chính thư, Quốc triều khám tụng điều lệ soạn dưới triều Lê (thế kỷ XV); Hồng Đức thiện chính thư soạn dưới triều Mạc (thế kỷ XVI); Hoàng Việt luật lệ (Luật Gia Long) soạn dưới triều Nguyễn (thế kỷ XIX). Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện lưu trữ 40 tên tài liệu có liên quan đến luật pháp Việt Nam thời phong kiến, trong đó có hai bộ Luật Hồng ĐứcLuật Gia Long.
 
Việt Nam không có bộ luật nào viết bằng chữ Nôm, nhưng hiện biết có 4 cuốn (AB.321; VNv.123/1-3; VNv.98/1-2-4) là bản diễn Nôm một số bộ luật, nhằm mục đích phổ biến luật pháp trong dân chúng được soạn dưới thời Nguyễn. 

- Chế độ cai trị (151 tên tài liệu)

Có thể nói, trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam, các triều đại phong kiến ở Việt Nam đều cai trị đất nước theo chế độ được quy định bởi Nho giáo. Tài liệu được xếp vào mục này bao gồm: 1. Các văn bản hành chính trao đổi giữa vua và các quan lại; 2. Cách tổ chức bộ máy chính quyền, quan chế các đời; 3. Các quy định về khen thưởng và kỷ luật. Nghiên cứu nhóm tài liệu này chúng ta sẽ thấy các vương triều đã quản lý và điều hành đất nước như thế nào, và nếu có sự so sánh với các nước Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản thì chúng ta có thể rút ra được nhiều nhận xét bổ ích. 

- Tài liệu sử học (22 tên tài liệu)

Trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm lưu trữ rất nhiều tài liệu về lịch sử, bao gồm cả chính sử, dã sử, dật sử...Tuy nhiên trong thư mục của chúng tôi chỉ đưa vào thư mục 22 tên tài liệu. Đây là các tài liệu mà trong đó trình bày rõ quan điểm viết sử, làm sử của các sử gia phong kiến: 1. Cách tiếp cận các nguồn sử liệu (sử Việt Nam, sử Trung Quốc, dã sử, truyền thuyết); 2. Cách trình bày sự kiện (chọn sự kiện và đưa vào chính văn hay đưa xuống phần phụ chép); 3. Những nhận xét, bình luận, đánh giá về các sự kiện và nhân vật lịch sử. 

- Điển lễ và Lễ nghi nho giáo (120 tên tài liệu)

Nhóm tài liệu này đề cập đến các điển lễ và lễ nghi Nho giáo do nhà nước quy định chính thức hoặc có chính thống, gồm: 1. Nghi lễ triều đình và hoàng tộc (lễ mừng thọ, đăng quang, tấn phong, lễ ban kim sách, ngân sách trong hoàng tộc); 2. Tế lễ thần linh, tiên liệt và trời đất (tế Nam Giao, tế Thái Miếu, tế Cung miếu - dưới thời các chúa Trịnh, để tế các tiên liệt của chúa Trịnh, tế Văn Miếu), thể lệ sắc phong cho bách thần; 3. Thể lệ sắc phong cho các quan chức có công lao và dân chúng. 

Các tài liệu thuộc điển lễ và lễ nghi Nho giáo có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu lịch sử các triều đại, như: văn chương hành chính mang tính quan phương, sự thay đổi về điển lễ qua các đời, các nghi thức nghi lễ diễn ra ở triều đình, sự tưởng thưởng của nhà nước đối với người có công lao, việc bổ nhiệm các quan chức, ghi nhận của nhà nước với bách thần...

3. Triển vọng của việc khai thác nguồn tài liệu Nho giáo và Nho học
3.1. Đánh giá về trữ lượng và giá trị 

Như vậy, theo thống kê của chúng tôi, tài liệu Nho giáo và Nho học chiếm tỷ lệ rất lớn trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm: 1.689 tên tài liệu/5.038 tên tài liệu trong toàn bộ kho sách. Trong số này, nhiều nhất là tài liệu về văn học Nho giáo: 1.246/ 1.689 tên tài liệu, tiếp theo là số tài liệu về Giáo dục Nho giáo: 537/ 1.689 tên tài liệu. 

Rõ ràng là Viện Nghiên cứu Hán Nôm đang lưu trữ một khối lượng thông tin rất phong phú, đa dạng và quan trọng về Nho giáo và Nho học. Chúng phản ánh một cách rõ nét nhất độ khúc xạ của Nho giáo và Nho học tại Việt Nam, thể hiện trên nhiều bình diện: tư tưởng, triết học, văn học, đạo đức, luật pháp; và do vậy là cơ sở để nghiên cứu so sánh Nho giáo và Nho học giữa Việt Nam với các nước như Trung Quốc, Hàn Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản trong quá khứ. 

3.2. Vấn đề khai thác, nghiên cứu, biên dịch các tài liệu này trong thời gian qua

Có thể nói, việc khai thác, nghiên cứu, biên dịch các tài liệu Hán Nôm ở Việt Nam được đẩy mạnh bắt đầu kể từ khi chữ Quốc ngữ dần dần chiếm vị trí ưu thế. Chữ Hán chữ Nôm dần trở nên khó hiểu đối với đông đảo nhân dân. Đầu thế kỷ XX, một số lượng di sản Hán Nôm đã được dịch ra chữ Quốc ngữ; các bản dịch và bài nghiên cứu đã được đăng tải trên các sách, báo như: Tri tân, Nam phong, Thanh nghị v.v. 

Bài Điểm qua tình hình dịch thuật và biên khảo thuộc lĩnh vực Hán Nôm trong thế kỷ XX, của PGS. Trần Nghĩa (Xin xem: Nhìn lại Hán Nôm học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb. KHXH, H. 2003, tr.57-71), cho chúng ta các thống kê sau:

“Trong thế kỷ XX, có khoảng 1347 tác phẩm dịch thuật và biên khảo thuộc lĩnh vực Hán Nôm đã được công bố, trong đó: Văn chiếm 579 tác phẩm; Sử chiếm 332 tác phẩm; Triết chiếm 87 tác phẩm; Giáo dục chiếm 58 tác phẩm; Y chiếm 62 tác phẩm; Địa chiếm 55 tác phẩm; Tổng hợp chiếm 174 tác phẩm” (trang 65). PGS. Trần Nghĩa còn cho biết: “Lượng sách được công bố so với lượng sách chưa khai thác, chiếm tỷ lệ như sau: 

Văn khai thác được 579/ 2500, tức chiếm 23,16 % trữ lượng. Sử khai thác được 332/ 1000, tức chiếm 33,20 % trữ lượng. Triết khai thác được 87/ 600, tức chiếm 14,50 % trữ lượng. Giáo dục khai thác được 58/ 450, tức chiếm 12,50 % trữ lượng. Y khai thác được 62/ 300, tức chiếm 21 % trữ lượng. Địa khai thác được 55/300, tức chiếm 18,33 % trữ lượng” (trang 66).

Xin lưu ý đây là thống kê mang tính tổng quát về toàn bộ kho sách Hán Nôm, và hiện tại chúng ta vẫn chưa có thống kê riêng về tình hình dịch thuật và biên khảo tài liệu thuộc Nho học và Nho giáo.

Thống kê của chúng tôi cũng đã chú ý đến khía cạnh này nhưng do còn chưa tập hợp được đầy đủ dữ liệu nên chưa công bố ở đây. 

4. Kết luận
 
4.1. Trong bối cảnh và xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, các dân tộc đều trong quá trình phát hiện lại những giá trị văn hóa và tinh thần của mình để làm tài sản đóng góp vào kho tàng di sản nhân loại. Những di sản này vừa khẳng định tính thống nhất của văn hóa nhân loại, vừa nói lên tính đa dạng và vẻ đẹp phong phú của văn hóa các dân tộc sống trên thế giới. Trong ý nghĩa như vậy, di sản Hán Nôm là một bộ phận cấu thành của di sản tinh thần của các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Thư tịch Hán Nôm đã có một đời sống riêng trong dòng chảy bất tận của văn hóa Việt Nam, trở thành thông điệp trao chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác, với cốt cách, giọng điệu, mang đậm nét tâm thế của căn cước Việt Nam. 

4.2. Dòng chảy văn hóa Việt Nam vẫn thao thiết chảy từ ngàn xưa đến nay, nhưng dòng thư tịch Hán Nôm thì đã dừng lại từ một trăm năm trước và thay bằng thư tịch chữ quốc ngữ tiếng Việt. Tiếp cận, nghiên cứu, giải mã những thông điệp của cha ông trong kho di sản Hán Nôm là một việc trở nên cấp thiết hiện nay. Đó là cách tốt nhất không để cho sự đứt đoạn về văn tự kéo theo sự đứt đoạn truyền thống. Để làm tốt công việc này, trước hết là phải tiến hành công việc kiểm kê vốn di sản này (cả ở trong và ngoài nước), làm cơ sở cho việc lập ra kế hoạch khai thác, dịch thuật trong tương lai, cũng như để quản lý một cách có hiệu quả kho di sản này. 

Với ý nghĩa đó, bản thư mục và bài viết của chúng tôi là một cố gắng ban đầu, góp vào nỗ lực chung của tất cả chúng ta. Chúng tôi vẫn hy vọng trong thời gian gần nhất, sẽ có một bộ thư mục đầy đủ nhất, khoa học nhất và tiện ích nhất về Nho giáo và Nho học được biên soạn, làm công cụ cho tất cả những ai quan tâm đến vấn đề này. Để làm được việc đó, chúng tôi cho rằng phải có sự cộng tác của các chuyên gia các lĩnh vực khác nhau, sự hợp tác của bạn bè quốc tế tại các cơ quan nghiên cứu, lưu trữ trên khắp thế giới, sự giúp đỡ về tài chính và phương tiện kỹ thuật của các tổ chức và cá nhân ở trong và ngoài Việt Nam. 

4.3. Tài liệu về Nho giáo và Nho học đã là một di sản tinh thần của cha ông chúng ta để lại, việc nghiên cứu toàn diện về di sản này sẽ cho chúng ta những kinh nghiệm từ lịch sử, cũng như các biện pháp rất cụ thể trong việc phát huy tinh hoa Nho giáo và Nho học trong xã hội hiện đại hôm nay.
N.X.D



CHÚ THÍCH:
(1) Trước khi biên soạn thư mục, chúng tôi đã tham khảo ý kiến một số học giả về vấn đề này: ý kiến của ông Mai Quốc Liên trên tờ Hồn Việt số 1, tham vấn trực tiếp ý kiến của ông Đinh Thanh Hiếu (Đại học KHXH và Nhân văn Hà Nội), ông Trần Đoàn Lâm (Nhà xuất bản Thế Giới), ông Trần Nghĩa, ông Ngô Đức Thọ (Viện Nghiên cứu Hán Nôm). Nhân đây chúng tôi xin trân trọng cảm ơn. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu. Ba tập, Nxb. KHXH. H, 1993.
2. Nhìn lại Hán Nôm học thế kỷ XX. Nxb. KHXH, H. 2003.
3. Bản sắc văn hóa Việt Nam. Phan Ngọc. Nxb. VH - TT. H. 1998.
4. Viện Nghiên cứu Hán Nôm 30 năm xây dựng và phát triển, H. 2000.
5. Tạp chí Hán Nôm 100 bài tuyển chọn. Viện Nghiên cứu Hán Nôm xuất bản. H. 2000.
6. Các nhà khoa bảng Việt Nam, Ngô Đức Thọ chủ biên. Nxb. Văn học, H. 1993.
7. Bùi Duy Tân: Khảo luận một số thể loại tác gia tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia, H. 2004.
8. Cùng các bài trên các tạp chí: Hồn Việt, Hán Nôm, Nghiên cứu Lịch sử, ...

Nguồn: Bài tham luận Hội thảo về Nho giáo Việt Nam. Đã in trên Tạp chí Hán Nôm số 1 (68), 2005.  

TRÍ THỨC NHO GIÁO VỚI VIỆC NHO GIÁO HÓA XÃ HỘI

TRÍ THỨC NHO GIÁO VỚI VIỆC NHO GIÁO HÓA XÃ HỘI
(làng xã: từ góc nhìn tư liệu học - foklore)
TS. Nguyễn Xuân Diện
Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Trải qua cả ngàn năm, theo chân các nhà cai trị để có mặt ở Việt Nam rồi trở thành một nền tảng tư tưởng của các triều đại phong kiến, Nho giáo khẳng định được địa vị của mình, và đi tới các vùng quê khắp nơi, để lại dấu ấn thông qua văn tự và các sinh hoạt văn hóa tinh thần của người dân nông thôn Việt Nam. Từ sự xâm nhập lúc ban đầu, Nho giáo đã được khúc xạ và được bảo lưu trong văn nghệ dân gian. Tham gia vào các sinh hoạt văn hóa dân gian, trí thức Nho giáo luôn gắn bó với các sinh hoạt làng xã, trong đó có việc soạn thảo thư tịch để phục vụ sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng. Đây có thể xem là một nét riêng của trí thức Nho giáo Việt Nam so với các nước trong khu vực Đông Á cùng chịu ảnh hưởng của Nho giáo.
Bài tham luận này dựa trên những tài liệu do các nhà Nho tham gia biên soạn, chỉnh lý đang lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, từ cách tiếp cận liên ngành tư liệu học và foklore, để điểm lại những cố gắng của trí thức Nho giáo trong quá trình Nho giáo hóa xã hội.
Phổ biến truyền bá biên dịch kinh điển Nho giáo:
Trong quá khứ đội ngũ các nhà trí thức đều đọc được chữ Hán Nôm. Các hình thức dịch Nôm như diễn âm, giải âm, diễn ca, diễn nghĩa các tác phẩm chữ Hán cũng chỉ nhằm chủ yếu cho 2 đối tượng là người còn đang đi học (học các tác phẩm kinh điển qua bản diễn Nôm) và tầng lớp bình dân (diễn Nôm các tích truyện, hoặc kinh Phật, diễn ca các bài thuốc). Kinh điển Nho gia cũng đã từng được chú ý dịch sang chữ Nôm - tiếng Việt. Hiện ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm có 25 tên tài liệu là bản dịch kinh điển sang quốc âm (chữ Nôm), dịch Nôm hầu hết Tứ thư, Ngũ kinh trong đó chủ yếu là Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Trung Dung(1). Riêng việc dịch Nôm Kinh Thi đã thấy có hai khuynh hướng là Thi học và Kinh học. Xu hướng Thi học đã tước bỏ những chú giải của Tống Nho, để trả lại vẻ đẹp ban đầu của Kinh Thi. “Các bản dịch Nôm khá đa dạng về thể loại (văn xuôi, thơ lục bát, thơ song thất lục bát, thơ đan xen không đều đặn giữa song thất với lục bát), và cũng đa dạng về hướng tiếp nhận, đan xen cả việc tiếp nhận theo hướng kinh học và văn học, trong đó các bản dịch xuôi có thiên hướng tiếp nhận kinh học hơn, còn với các bản dịch thơ, đặc trưng thể loại đã giúp cho dịch giả phần nào thoát khỏi sự chi phối của yêu cầu “kinh học hóa” để chuyển hướng dần sang cách tiếp nhận Kinh Thi với tư cách một tác phẩm văn học” (2).
Việc phổ biến và truyền bá kinh điển Nho gia đến với xã hội còn được thể hiện ở những lời dẫn dụng Nho điển trong khi các nhà Nho soạn văn bia, câu đối, hoành phi cho các địa phương. Các sưu tập hoành phi, câu đối và văn bia mà chúng ta đã sưu tầm được đầy rẫy những chữ nghĩa rút ra từ kinh điển Nho gia. Đáng tiếc là cho đến hiện nay, chưa có khảo sát nào về vấn đề này, để từ đó có thể rút ra những kết luận bổ ích về sự xâm nhập của Nho điển trong làng xã cổ truyền Việt Nam.
Tham gia vào tín ngưỡng dân gian
Trí thức Nho giáo ở Việt Nam luôn sống giữa cộng đồng làng xã. Con đường vào đời của họ là dùi mài kinh sử, theo nghiệp bút nghiên, trải qua các kỳ thi, và “tiến vi quan, thoái vi sư”. Nếu đỗ đạt, họ ra làm quan theo sự điều động của nhà vua, nếu không đỗ đạt, họ suốt đời ở lại chốn hương thôn, trở thành những trí thức của làng quê. Họ trở thành thầy đồ dạy học, thầy lang bốc thuốc, họ như những lãnh tụ tinh thần của cộng đồng, trở thành chỗ dựa của xóm làng. Họ tham gia vào các sinh hoạt tín ngưỡng của dân làng bằng việc văn bản hóa các truyền thuyết, sự tích ở địa phương. Kết quả là cho đến nay, sưu tập về thần tích, sự tích, huyền tích dân gian, tín ngưỡng dân gian có thể coi là một sưu tập có trữ lượng rất lớn.
         Trong số đó sưu tập thần tích có quy mô nhất, ghi chép lai lịch, hành trạng thần kỳ và công đức lớn lao của hàng nghìn vị thần linh, các vị thành hoàng được thờ ở khắp nơi, mang ký hiệu AE với 568 cuốn chép thần tích của các vị thần của 2821 làng xã (thôn, trang, ấp) thuộc 22 tỉnh từ Nghệ An trở ra Bắc.

         Tiến hành nghiên cứu văn bản học mảng thư tịch này, có thể bóc tách các lớp văn hóa được lưu lại. Trường hợp thần tích Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đồng Tử là những ví dụ(3). Đáng chú ý nhất là chúng ta sẽ thấy được sự can thiệp của nhà Nho vào văn bản tín ngưỡng, cũng như áp đặt tư tưởng Nho giáo vào trong hệ thống bách thần; nói cách khác, người ta thấy được
các thần linh được dân gian thờ cúng đã hiện lên như thế nào qua lăng kính nhà Nho(4).
         Ngoài thần tích trong kho AE, còn một sưu tập khác ghi lại các câu chuyện linh dị, các sự tích thần kỳ, thiêng liêng lưu truyền trong các làng quê Việt Nam. Các nhà nghiên cứu thường đưa các sưu tập này vào mục tiểu thuyết chữ Hán (Trần Nghĩa), văn xuôi tự sự (Nguyễn Đăng Na), truyện truyền kỳ (Nguyễn Huệ Chi) (5).
Các khảo cứu về văn bản học của Nguyễn Văn Hoài (đối với Nam thiên trân di tập Công dư tiệp ký)(6), Nguyễn Thị Oanh (đối với Lĩnh Nam chích quái) (7), Đào Phương Chi (đối với Việt điện u linh)(8) cho thấy trong suốt nhiều thế kỷ, các nhà Nho đã dành cho các tác phẩm này sự quan tâm đặc biệt, thể hiện ở việc sao chép, thêm bớt, bình luận, tăng bổ, chú giải… theo những quan điểm riêng của mình, mà kết quả là làm cho chúng trở nên rất phức tạp về văn bản học, biến những tác phẩm từ loại hình văn học chức năng sang loại văn học hình tượng và ngược lại.
Thần sắc (kho AD) với 411 cuốn là các bản sách chép các sắc phong của triều đình phong cho các vị thần thành hoàng qua các thời kỳ lịch sử. Tài liệu này nói lên sự đánh giá của nhà nước phong kiến đối với các vị thần trong cả nước qua từng thời kỳ, từng triều đại cũng như hệ thống thần linh phong phú và phức tạp của thần điện Việt Nam.
Khổng Tử không nói đến “quái, lực, loạn, thần”, không tin quỷ thần, hoặc đối với thần linh thì “kính nhi viễn chi”. Nhưng ở Việt Nam, thần quyền có một vị trí quan trọng trong đời sống quá khứ. Các triều đại phong kiến Việt Nam đều rất coi trọng đến việc tế lễ, thờ phụng các vị thần, đời nào cũng có ban tặng sắc phong cho các vị thần, đưa vào điển lễ. Vương quyền và thần quyền đi song song với nhau trong tâm thức dân gian. Các cuộc tế lễ ở đình làng luôn có sự tham gia của các nhà Nho ở hầu hết các nghi thức: soạn văn tế, soạn bài hát thờ, soạn tục lệ thờ cúng, sưu tầm chỉnh lý thần tích.
Ghi lại sinh hoạt làng xã:
Cho đến nay, những Cổ chỉ, Xã chí, Tục lệ, Hương ước, Địa chí địa phương có thể xem là những sưu tập tư liệu hết sức đặc sắc mà các nhà Nho đã ghi lại và đang trở thành nơi lưu giữ những ký ức về mọi mặt đời sống quá khứ.
Kho Cổ chỉ ký hiệu AH, có 21 cuốn, bao gồm nhiều loại hình tư liệu khác nhau, trong đó có cả các gia phả, thần tích, ngọc phả...Sưu tập cổ chỉ được tập hợp theo từng xã, có ghi tên, chức tước và chữ ký của người thừa lệnh sao chép, nhận thực. Có những bản còn ghi rõ nơi tàng trữ và đóng dấu của địa phương ở phần cuối văn bản. Sưu tập này được sưu tầm được tại một số xã thuộc 5 tỉnh Hưng Yên, Ninh Bình, Sơn Tây, Lạng Sơn, Phúc Yên.
Xã chí có ký hiệu kho AJ, gồm 107 cuốn sưu tập các bản điều tra về địa chí một số thôn xã thuộc 27 tỉnh, từ Khánh Hòa trở ra Bắc, do các nhà Nho thực hiện theo yêu cầu của Viện Viễn Đông bác cổ Pháp tại Hà Nội.
Tục lệ có ký hiệu kho AF, gồm 732 cuốn, ghi chép về tục lệ, khoán ước của 74 huyện, phủ, châu, thuộc 18 tỉnh từ Nghệ An trở ra Bắc. Các bản tục lệ cũng được đóng theo từng xã, thôn; trang đầu hoặc trang cuối văn bản thường ghi năm tháng lập hoặc sao chép tục lệ, nhiều bản còn ghi được đầy đủ cả tên người lập khoán lệ, tên những người ký tên xác nhận (9).
Biên soạn địa chí là một việc rất được các nhà Nho quan tâm. Địa chí hiện thống kê được khoảng 113 cuốn. Nghiên cứu địa chí ngoài việc quan tâm đến bản thân cuốn địa chí, còn góp phần nghiên cứu về sự đánh giá và hiểu biết, cũng như sự gắn bó, tâm trạng và cảm quan của người viết đối với vùng đất mà họ quan tâm biên chép. Các ghi chép của Dương Văn An, Lê Quý Đôn, Trịnh Hoài Đức, Bùi Dương Lịch, Vũ Phạm Khải, Phan Huy Chú…đã thể hiện rất rõ điều này. Cuốn địa chí xưa nhất là Dư địa chí của Nguyễn Trãi được viết trong niềm tự hào về non sông gấm vóc Đại Việt có chủ quyền, có văn hiến, có nhân dân anh hùng và sáng tạo.
Ngoài những sưu tập kể trên, hiện ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm cũng còn có nhiều thác bản văn bia khoán ước, điều lệ được sưu tầm từ nhiều địa phương trong nước. Trong đó, đặc biệt phải kể đến các văn bia có nội dung khuyến học, khuyến tài. Thống kê cho biết có đến 780 văn bia thuộc loại khuyến học được tìm thấy trong kho thác bản của Viện Nghiên cứu Hán Nôm (10).
Làng xã cổ truyền rất coi trọng người có học hành và người đỗ đạt. Hệ thống khoa cử để cho tất cả mọi người trong xã hội, bất kể sang hèn, giàu nghèo đều có cơ hội thể hiện tài năng và trình độ học vấn là một trong những lý do để các làng xã coi trọng việc học hành. Và hình ảnh “võng anh đi trước võng nàng đi sau” luôn là giấc mơ cao sang của các thôn nữ, vợ của các khóa sinh. “Một người làm quan cả họ được nhờ” cũng là kỳ vọng của các dòng họ đối với con đường nghiên bút của các sĩ tử trong họ. Những người đi thi, đều có khát vọng được ghi tên tuổi, quê quán trên bảng vàng bia đá, lưu mãi tiếng thơm, đều có khát vọng cống hiến cho triều đình và đất nước. Dưới sự sắp đặt của những người có chữ hoặc đã đỗ đạt trong làng, một số thiết chế văn hóa đã được thiết lập như các văn chỉ được xây dựng để thờ Đức Khổng Tử và các vị tiên hiền, tiên nho trong làng; ruộng học điền được lập; các hương ước có thêm phần khuyến học, miễn lính, miễn phu cho các khóa sinh; v.v. Đặc biệt nhất phải kể đến các hội Tư văn ở các làng xã, được xem là một tổ chức bao gồm những người có học trong làng.
Đây là mảng tài liệu tổng hợp về mọi mặt đời sống nông thôn Việt Nam trong lịch sử như phong tục, tập quán, lề thói, thổ ngơi, diên cách, di tích, lễ hội của các làng quê.
Xây dựng gia đình truyền thống:
Ý thức về dòng họ đi liền với việc xây dựng và duy trì nền nếp gia phong rất được các nhà Nho quan tâm. Với quan niệm “Quốc hữu sử, Gia hữu phả” thường là câu mở đầu của các gia phả, các nhà Nho đã biên soạn những bộ gia phả cho dòng họ mình và thậm chí còn viết gia phả cho các dòng họ khác. Gia phả không chỉ cho biết việc của một dòng họ, quá trình thiên di phát tán, phát triển của một dòng họ mà còn cho chúng ta biết về sự hình thành một vùng đất, những cư dân đầu tiên đến sinh cơ lập nghiệp, và sự đóng góp của các dòng họ cụ thể đối với một làng quê, một vùng đất cụ thể...Nhiều gia phả dòng họ lớn đã ghi được nhiều sự kiện mà chính sử đã không thể ghi chi tiết, từ đó đã bổ sung cho chính sử. Thống kê cho biết Viện Nghiên cứu Hán Nôm có 264 cuốn gia phả (11).
Về tài liệu gia huấn hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, thống kê được 51 tên sách (12). Gia huấn góp phần xây dựng tiêu chuẩn, lối sống cho mọi người theo đạo đức Nho giáo.
Nói đến gia huấn, người ta vẫn nghĩ đến một cuốn sách giấy dó, trên viết chữ Hán Nôm, ít người biết gia huấn còn được khắc trên đá. Chọn hình thức lưu giữ trên bia đá, hẳn các nhà Nho mong muốn những lời giáo huấn này sẽ lưu truyền mãi mãi và vững bền như cùng các giá trị truyền thống của các bản gia huấn. Đó là những quyển sách đá ghi những lời vàng ngọc của tổ tiên truyền dạy lại cho con cháu. Chúng tôi đã tìm được một số gia huấn được khắc trên bia đá, trong đó có một số văn bia tiêu biểu cho loại này như sau:
Văn bia Tích thiện gia huấn bi ký (13) do Tiến sĩ Nguyễn Nghiễm soạn năm 1765, khi ông đang giữ chức Binh bộ thị lang, hiện còn tại miếu làng Tiên Điền, xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Văn bia ghi lại lời dạy của ông đối với con cháu trong gia tộc, khuyên giữ gìn gia phong, tu dưỡng đạo đức, dốc sức làm việc thiện để vun trồng cội phúc, làm gương cho hậu thế.
Văn bia Tân san gia huấn bi (14)tại nhà thờ họ Nguyễn ở xã Phú Đa, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc khắc bài văn bia do Phạm Vĩ Khiêm soạn năm 1767, khắc rõ 10 điều gia huấn, khuyên con cháu: Giữ lòng ngay thẳng, chăm chỉ học hành, hiếu thuận nhân từ, ăn ở kính nhường, vợ chồng hòa thuận, cung kính đôn hậu, bạn bè tin cậy, hòa mục với láng giềng, phụng dưỡng cha mẹ, chăm chỉ nghề nghiệp.
Nhà thờ họ Vũ, xã Phù Ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên có tấm bia Miễn tử tôn cần học thi (16), tạc năm 1660, khắc bài thơ Đường luật và đôi câu đối khuyên con cháu cần cù học hành giữ nghiệp tổ tiên cày bừa trên ruộng sách, sau này được hiển vinh nơi khoa giáp rồi ra giúp vua giúp nước.
Nhà thờ họ Vũ, xã Mộ Trạch, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, có tấm bia Tu cấu đường châm (16) do Tiến sĩ Vũ Đăng Long soạn năm 1675, khắc bài châm nói về việc tu dưỡng lòng trung tín, dốc sức học hành.
Một võ quan cao cấp dưới triều Lê Cảnh Hưng là Nguyễn Sỹ Trung vào năm 1766 cũng tự tay soạn văn bia Từ huấn bảo minh (17) khắc một bài văn vần 50 câu căn dặn con cháu phải giữ gìn đạo đức, cần kiệm, trung hiếu, không rượu chè bê tha, không làm điều phi nghĩa, để giữ lấy truyền thống của tổ tiên, đặt tại nhà thờ họ Nguyễn của mình ở xã Đặng Xá, huyện Gia Lâm, Hà Nội.
Đặc biệt nhất, phải kể đến bia Vũ Vu thiển thuyết khắc hẳn cả một cuốn sách của Ninh Ngạn (1715 - 1781) được con trai là Ninh Tốn dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 42 (1781), hiện đặt tại nhà thờ họ Ninh ở xã Yên Mỹ, huyện Tam Điệp tỉnh Ninh Bình. Văn bia gồm 2 phần. Phần 1 là lời dẫn ghi lại sự nghiệp của Ninh Ngạn và tác phẩm của ông. Phần 2 khắc toàn văn bộ sách gồm 2 quyển thượng, hạ, gồm 45 chương sách. Trong đó có các chương 1 và 2 bàn về chữ hiếu, cách đánh giá về hiếu và bất hiếu; chương 3 bàn về quan hệ giữa nuôi và dạy con cái trong gia đình; chương 6 và 7 bàn về quan hệ vợ chồng; chương 8 và 9 bàn về Nhân và Tín; chương 10 bàn về đạo làm người; chương 12 bàn về ba loại “tâm bệnh” là giầu, sang và thọ; chương 13 bàn về việc phải coi điều thiện làm thầy, thấy ai có điều thiện, dù là kẻ dưới đều nên coi là thầy mà học; chương 29 và 30 bàn về việc làm điều tốt không cốt ở tiếng khen, đánh giá người phải xét ở lời nói và việc làm; chương 31 và 32 bàn về việc lập đức, lập thân và lập danh; chương 33 và 34 chuyên bàn về những điều cần tránh như rượu chè, cờ bạc, sắc dục, lười biếng, nói năng khinh xuất; chương 39 và 40 bàn về sống - chết, vinh - nhục ở đời (18).

Sưu tập văn học dân gian và sáng tác thơ ca

Nhà Nho Việt Nam sống giữa làng xã, tham gia vào các sinh hoạt làng xã. Không chỉ soạn thảo các văn bản ghi chép về phong tục tập quán hay phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của cộng đồng, hoặc sưu tầm, ghi chép lại các câu chuyện thần kỳ linh dị trong dân gian mà còn sưu tập thơ ca dân gian. Một trong những kết quả đó là kho tàng truyện thơ Nôm.
Kho tàng truyện thơ Nôm có một khối lượng tác phẩm đáng kể với 106 tên tác phẩm truyện Nôm và 47 tác phẩm truyện thơ của các dân tộc ít người, được viết bằng chữ Nôm của dân tộc họ (19). Truyện thơ Nôm khuyết danh do các nhà Nho hoặc ghi lại được, hoặc sáng tác dựa trên các tích truyện lưu truyền trong dân gian, và có mục đích là dành cho đông đảo công chúng rộng rãi ở tầng lớp bình dân (có người gọi mảng văn học này là truyện Nôm bình dân).
Theo các soạn giả của bộ sách Kho tàng ca dao người Việt thì chúng ta có 12 sưu tập ca dao được ghi chép bằng chữ Nôm (20). Đó là các tập Nam phong giải trào, Thanh Hóa quan phong, Nam giao cổ kim lý hạng ca dao chú giải, Đại Nam quốc túy, Quốc phong thi tập hợp thái, Việt Nam phong sử, Nam âm sự loại, Nam phong nữ ngạn thi, Khẩu sử ký, An Nam phong thổ thoại, Phỏng Thi kinh Quốc phong, Lý hạng ca dao. Các sưu tập ca dao này cũng đã được sử dụng trong quá trình tuyển chọn đưa vào bộ sách.
Gần đây, Nguyễn Thúy Loan cho biết có 7 cuốn sách Hán Nôm sưu tập tục ngữ của người Việt (21) và giới thiệu trong tập sách Tục ngữ trong sách Hán Nôm (22). Những sưu tập này đều do các nhà Nho thực hiện.
Ngoài ca dao, tục ngữ chúng ta còn thấy có các sưu tập thơ ca dân gian. Đáng chú ý về mảng này là các tác phẩm thơ văn giáng bút, theo thống kê của Nguyễn Xuân Diện riêng ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã có 254 cuốn sách, trong đó có 226 bản là bản in(23). Các tập thơ văn này được sưu tập từ 98 Thiện đàn nằm ở hầu hết các tỉnh ở châu thổ Bắc bộ. Nghi lễ giáng bút là một hoạt động mang đậm tín ngưỡng dân gian dưới ảnh hưởng của Đạo giáo. Nhưng nội dung thơ văn giáng bút cũng chính là nội dung, mục đích hoạt động của các thiện đàn lại do các nhà nho chủ trương. Đó là một chương trình tuyên truyền rộng khắp suốt thời gian nửa cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX tập trung vào hai vấn đề: Kêu gọi lòng yêu nước thương nòi và Chấn hưng văn hóa dân tộc.
- Kêu gọi lòng yêu nước thương nòi: Giáng bút lời các vị anh hùng liệt nữ của dân tộc như: Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão, Hai Bà Trưng, Bà Triệu...; Giáng bút lời các vị thần tiên trong thần điện Việt Nam như: Tản Viên Sơn Thánh, Phù Đổng Thiên Vương, Liễu Hạnh Công chúa, Từ Đạo Hạnh...; Giáng bút lời các tiên nho, các nhà văn hóa như: Tô Hiến Thành, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan...Thơ văn giáng bút còn nhắc nhớ, thúc giục lòng yêu nước, thương yêu giống nòi, thấy được nỗi nhục của dân mất nước.
- Chấn hưng văn hóa dân tộc, xây dựng nếp sống mới: Đề cao việc nâng cao dân trí; Bài bác hủ tục; Đề cao phụ nữ (giáng bút lời Thánh Mẫu cho phụ nữ); Khuyên sống lương thiện, thương yêu đùm bọc nhau; In ấn kinh sách về tôn giáo, lịch sử, văn học, ngôn ngữ.
Thơ ca giáng bút chủ yếu viết bằng chữ Nôm rất thuận lợi cho việc truyền miệng và không gặp trở ngại về mặt văn tự đối với người bình dân không biết chữ .
Một giá trị rất đặc biệt của thơ văn giáng bút cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, là dưới ảnh hưởng của các phong trào yêu nước, nó đã làm phát khởi những biểu tượng mới trong văn hóa Việt Nam. Đó là những biểu tượng về Quốc Hồn, Quốc Túy, Quốc Dân, Nòi Giống, Yêu Nước Thương Nòi, Giống Lạc Hồng, Con Rồng Cháu Tiên được nhắc đến rất nhiều, rất khẩn thiết và nhằm đến đối tượng là các tầng lớp nhân dân lao động.
Một mảng nữa, nằm ở gạch nối giữa văn học và sử học là các bộ sử ca, diễn ca lịch sử bằng chữ Nôm, theo thể thơ lục bát như: Thiên Nam ngữ lục, Việt sử diễn âm, Đại Nam quốc sử diễn ca,...Là các tác phẩm sử học, nhưng các tác phẩm này lại chứa đựng ít nhiều cảm quan, tâm thức dân gian trong việc xây dựng các hình tượng anh hùng dân tộc. Hình ảnh Bà Triệu vú dài ba thước chẳng hạn, đấy là một hình ảnh phóng đại của lối nói dân gian. Đấy là chưa kể đến cách sử dụng ngôn từ, hình ảnh, lối nói ví von của dân gian trong miêu tả, xây dựng nhân vật.
Sáng tác và sưu tầm nghệ thuật sân khấu, ca nhạc dân gian:
Sân khấu dân gian:
Hai loại hình ca vũ để lại nhiều văn bản thư tịch nhất là tuồng và ca trù. Điều này hoàn toàn không khó hiểu, vì đây là hai loại hình ca vũ nhạc gắn liền với sinh hoạt của cung đình và trí thức.
Tuồng luôn đề cao tư tưởng quân quốc, kịch bản đa số bắt nguồn từ các tích truyện của Trung Hoa.
Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện có 23 pho tuồng, và 49 pho tuồng là các bản photocopy do thư viện Hoàng gia Anh trao tặng (24. Tác giả Phan Ngọc cho biết, khi ông cùng với ông Lê Ngọc Cầu viết quyển Nội dung xã hội và mỹ học Tuồng đồ thì đã có trong tay trên 100 vở tuồng đã phiên chuyển quốc ngữ (25).
Về chèo, hiện chúng ta có 7 kịch bản chèo cổ (Hà Ô Lôi, Nhị Độ Mai, Kiều, Hoa Vân, Lưu Bình - Dương Lễ, Trương Viên...). Việc trình diễn các tích chèo được diễn ra tại làng (địa điểm là giữa đình - một nơi công cộng), trong hội làng (thời điểm có đông nhất các thành viên, thành phần tham dự: chức sắc, quan viên, dân làng). Các kịch bản chèo Nôm còn lại đến nay cho thấy các nhà nho đã trực tiếp văn bản hóa các tích chèo, góp phần gìn giữ di sản sân khấu dân gian.
Ca nhạc dân gian:
Vốn ca nhạc dân tộc được ghi chép rất tản mạn, có thể hình dung như chúng ta đang có các sổ tay của những người yêu nghệ thuật ca hát. Ca trù tạp lục (VHv.2940) có chép các bản đàn Giao duyên, Cổ bản, Nam bằng, Kim tiền, Nam ai, Nam thương, Tứ đại cảnh...Ca trù thể cách (AB.160) có chép ca từ của một số làn điệu Hát lý, Hát bội, Hát sắc bùa. Đại Nam quốc âm ca khúc (AB.146) có ca từ các điệu Nam bằng, Nam ai, Tứ đại cảnh; các bản đàn Kê Khang, Tư Mã Phượng Cầu, Tam Thiên tụng, Phú lục (26).
Về Ca trù hiện chúng ta có 49 cuốn sách, 70 văn bia có liên quan đến ca trù (27). Nguồn tài liệu này đóng một vị trí đặc biệt và vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu về ca trù một bộ môn nghệ thuật kết hợp giữa thơ - nhạc - vũ đạo vốn có mặt trong hầu hết sinh hoạt văn hóa tinh thần của ngưòi Việt qua nửa thiên niên kỷ. Ca trù được ghi chép khá đầy đủ và toàn diện trước hết là vì ca trù gắn liền với sinh hoạt của giới nho sĩ có học vấn nhất định. Các tư liệu thư tịch và bi ký này đã cho phép khẳng định một số vấn đề sau: lịch sử và sự phát triển của bộ môn nghệ thuật ca trù trong không gian trình diễn nghệ thuật riêng của nó; về sinh hoạt và tổ chức giáo phường ca trù; về các làn điệu ca trù, đặc biệt là thể thơ hát nói. Các văn bản Hán Nôm về ca trù ghi rõ lề lối hát ca trù tại các đình làng, ca quán, tại buổi lễ tế tổ, hoặc tại tư gia, thậm chí là quy cách và nội dung các vòng thi ca trù. Nhờ những ghi chép của các nhà nho xưa mà chúng ta biết họ đã quan tâm đến nghệ thuật ca trù như thế nào, và để nghiên cứu về lịch sử và nghệ thuật ca trù.

KẾT LUẬN

1. Nghiên cứu về Nho giáo và ảnh hưởng của Nho giáo tại Việt Nam ngoài các các vấn đề mang tính chính thống như quá trình truyền bá kinh điển; ảnh hưởng của Nho giáo đối với văn học, sử học, giáo dục và khoa cử, đạo đức và luật pháp, chính trị v.v. thì một vấn đề không kém phần quan trọng đó là nghiên cứu ảnh hưởng và tác động của Nho giáo, Nho học đối với văn hóa dân gian. Với thao tác tiếp cận liên ngành, đa ngành những dấu ấn hay biểu tượng cũng như sự khúc xạ của Nho giáo trong những tầng sâu của văn hóa dân gian sẽ được phát hiện và bổ sung cho những hiểu biết về một xã hội Việt Nam đã được đặt dưới ảnh hưởng của Nho giáo như thế nào.
2. Trí thức Nho giáo Việt Nam đã tham gia soạn thảo thư tịch để phục vụ sinh hoạt của đời sống xã hội vào sinh hoạt của cộng đồng làng xã và để lại một khối lượng thư tịch lớn. Những thư tịch này cho thấy trí thức Nho giáo đã tích cực xây dựng một xã hội theo Nho giáo, từ cấp trung ương đến cấp địa phương, tới đơn vị nhỏ nhất là làng xã.
3. Việc tham gia vào sinh hoạt làng xã đã góp phần vào việc Nho giáo hóa xã hội Việt Nam dưới thời quân chủ. Quyết tâm ấy thể hiện không chỉ ở việc ra sức truyền bá kinh điển Nho gia mà họ còn trực tiếp tham gia vào mọi mặt của đời sống văn hóa, tín ngưỡng của làng xã; xây dựng gia đình theo truyền thống Nho giáo; ghi lại sáng tác dân gian và tự sáng tác các tác phẩm mang đậm chất foklore.
4. Để có một cái nhìn toàn diện, đầy đủ về vai trò của trí thức Nho giáo trong việc Nho giáo hóa xã hội từ góc nhìn foklore còn cần bổ sung bằng các cứ liệu của các ngành nhỏ của văn hóa dân gian như: Lễ hội, Tín ngưỡng, Phong tục, Nghệ thuật tạo hình (mỹ thuật, kiến trúc và điêu khắc dân gian), Nghệ thuật biểu diễn (âm nhạc, múa, trò diễn). Bài này chỉ giới hạn khảo sát về những nỗ lực của trí thức Nho giáo để Nho giáo hóa xã hội nhìn từ góc nhìn liên ngành tư liệu học - folklore.
CHÚ THÍCH

1. Xem thêm bài Tổng quan tài liệu Nho giáo và Nho học ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm (khảo sát và đánh giá về trữ lượng và giá trị của Nguyễn Xuân Diện, tạp chí Hán Nôm số 1- 2005.

2. Nguyễn Tuấn Cường Tiếp nhận Kinh Thi tại Việt Nam thời Trung đại - Từ góc nhìn phiên dịch Hán Nôm. Bài tham gia Hội thảo quốc tế tại Viện Văn học.
3.3 Xem bài của Nguyễn Xuân Diện trong kỷ yếu hội thảo khoa học Sơn Tinh và vùng văn hóa cổ Ba Vì. Sở VHTT Hà Tây, 1997; và bài của Đỗ Lan Phương trên tạp chí Văn hóa dân gian số 1 năm 2004.
4. Xem thêm bài của Trần Ngọc Vương trong kỷ yếu hội thảo khoa học Sơn Tinh và vùng văn hóa cổ Ba Vì. Sở VHTT Hà Tây, 1997
5. Xem: Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam gồm 4 tập (Trần Nghĩa chủ biên). Nxb. Thế Giới, Hà Nội 1997. Văn Xuôi tự sự Việt Nam. Truyện truyền kỳ Việt Nam. Nguyễn Huệ Chi chủ biên. Nxb. Giáo dục, Hà Nội 1999; Nguyễn Đăng Na chủ biên. Nxb. Giáo Dục. Hà Nội 2001.
6. Nguyễn Văn Hoài: Sơ bộ đối chiếu những mục truyện tương đồng giữa Nam Thiên Trân Di Tập và Công Dư Tiệp Ký Tiền Biên. Luận văn Thạc sĩ đã bảo vệ thành công năm 1998. Bản lưu tại Thư viện Hán Nôm, ký hiệu La.89.
7. Nguyễn Thị Oanh: Nghiên cứu văn bản Lĩnh Nam Chích Quái. Luận án Tiến sĩ đã bảo vệ thành công năm 2005.
8. Đào Phương Chi: Nghiên cứu văn bản Việt Điện U Linh và quá trình dịch chuyển của văn bản. Luận án Tiến sĩ đã bảo vệ thành công năm 2007. Bản lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
9. Xem bài của Đinh Khắc Thuân trong Nho giáo ở Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế. Nxb. KHXH. Hà Nội, 2006.
10. Nguyễn Hữu Mùi: Nghiên cứu Văn bia khuyến học Việt Nam (Từ thế kỷ XV đến những năm đầu thế kỷ XX). Luận án Tiến sĩ đã bảo vệ thành công năm 2006. Bản lưu tại Thư viện Hán Nôm.
11. Nguyễn Thị Oanh, bài tham gia Hội thảo khoa học Quốc tế về Gia phả tại Thư viện Thượng Hải, ngày 7 đến 12 tháng 5 năm 2000.
12. Nho giáo ở Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế. Nxb. KHXH. Hà Nội, 2006. Trang 226 và 154.
13. Bia có ký hiệu số M.96, thư viện Hán Nôm.
14. Bia có ký hiệu số 14534, thư viện Hán Nôm.
15. Bia có ký hiệu số 4914, thư viện Hán Nôm
16. Bia có ký hiệu số 19828 - 29, thư viện Hán Nôm.
17. Bia có ký hiệu số 3375, thư viện Hán Nôm.
18. Xem bài của Hoàng Lê Hai tấm bia về Ninh Ngạn và cuốn Vũ Vu thiển thuyết của ông. Tạp chí Hán Nôm số 1 năm 1986. tr. 62-64.
19. Kiều Thu Hoạch: Truyện Nôm, nguồn gốc và bản chất thể loại. Nxb. KHXH. Hà Nội, 1993.
20. Nguyễn Xuân Kính và Phan Đăng Nhật đồng chủ biên: Kho tàng Ca dao người Việt. Nxb Văn hoá Thông tin. Hà Nội, 1995.
21. Bảy cuốn sách đó là: Nam quốc phương ngôn tục ngữ bị lục, Nhân sự thường đàm ngạn ngữ tập, Phương ngôn tục ngữ, Tục ngạn tập biên, Đại Nam quốc túy, Khẩu sử ký, Nam âm sự loại. Trong đó có 5 cuốn lưu tại thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
22. Tục ngữ trong sách Hán Nôm. Nguyễn Thúy Loan. Nxb. Văn học. Hà Nội, 2007. 589 tr.
23. Nguyễn Xuân Diện: Văn thơ Nôm giáng bút với việc kêu gọi lòng yêu nước và chấn hưng văn hóa dân tộc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. In trong sách Nghiên cứu Chữ Nôm. Nxb. KHXH. Hà Nội, 2006.
24. Nguyễn Thị Trang: Phông sách tuồng Nôm trong kho sách Hán Nôm. In trong Thông báo Hán Nôm học năm 1995. Nxb. KHXH. Hà Nội, 1996. Trang 408 - 413.
25. Phan Ngọc: Bản sắc văn hoá Việt Nam. Nxb Văn hoá Thông tin, H, 1998, tr. 305.
26. Nguyễn Xuân Diện: Tư liệu Hán Nôm về ca trù, trữ lượng và giá trị. Tạp chí Hán Nôm số 1- 1999, tr.18.
27. Nguyễn Xuân Diện: Nguồn tư liệu Hán Nôm với việc nghiên cứu ca trù. Luận án Tiến sĩ Ngữ văn đã bảo vệ thành công năm 2007. Bản lưu tại thư viện Hán Nôm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu. Ba tập. Gs. Trần Nghĩa và Gs. Francois Gros đồng chủ biên. Nxb. Khoa học xã hội. Hà Nội, 1993.
2. Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu. Bổ Di. Tập Thượng và Hạ. Trần Nghĩa chủ biên. Nxb. Khoa học xã hội. Hà Nội, 2002.
3. Văn khắc Hán Nôm Việt Nam. Nguyễn Quang Hồng chủ biên. Nxb. Khoa học xã hội. Hà Nội, 1993.
4. Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 - 1919. Ngô Đức Thọ chủ biên. Nxb. Văn học. Hà Nội, 1993.
5. 50 năm Sưu tầm Nghiên cứu Phổ biến Văn hóa - Văn nghệ dân gian. Nhiều tác giả. Hội Văn Nghệ Dân gian Việt Nam. Nxb. Khoa học xã hội. Hà Nội, 1997.
6. Một thế kỷ sưu tầm nghiên cứu văn hóa văn nghệ dân gian Việt Nam. Nhiều tác giả. Hội Văn Nghệ Dân gian Việt Nam. Nxb. Văn hóa - Thông tin. Hà Nội, 2001.
7. Nghiên cứu Chữ Nôm. Kỷ yếu Hội nghi Quốc tế về Chữ Nôm. Nhiều tác giả. Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Hội Bảo tồn chữ Nôm Hoa Kỳ đồng tổ chức. Nxb. KHXH. Hà Nội, 2006.
8. Nho giáo ở Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế. Nhiều tác giả. Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Viện Harvard-YenChing tổ chức.Nxb. KHXH. Hà Nội, 2006.
 
[Tóm tắt]
         Văn nghệ dân gian bao gồm các lĩnh vực sinh hoạt văn hóa tinh thần của nhân dân lao động sống một đời sống khép kín sau lũy tre làng – một biểu tượng của một xã hội đóng kín cả về nghĩa đen và nghĩa bóng. Tìm hiểu về dấu ấn của Nho giáo trong văn nghệ dân gian cũng chính là tìm hiểu con đường thâm nhập của Nho giáo vào cơ tầng làng xã vốn được xem như những ốc đảo biệt lập. Trải qua cả ngàn năm, theo chân các nhà cai trị để có mặt ở Việt Nam rồi trở thành một nền tảng tư tưởng của các triều đại, Nho giáo khẳng định được địa vị của mình, và đi tới các vùng quê khắp nơi, để lại dấu ấn thông qua văn tự và các sinh hoạt văn hóa tinh thần của người dân nông thôn Việt Nam. Từ sự xâm nhập lúc ban đầu, Nho giáo đã được khúc xạ và được bảo lưutrong văn nghệ dân gian. Tham gia vào các sinh hoạt văn hóa dân gian, văn nhân trí thức xưa luôn gắn bó với các sinh hoạt làng xã, trong đó có việc soạn thảo các thư tịch để phục vụ sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng. Kết quả là họ đã để lại trong kho tàng thư tịch cổ Việt Nam một khối lượng thư tịch lớn các văn bản phản ánh nhiều mặt của cuộc sống trong quá khứ.
Tham luận này đi sâu phân tích khối lượng tư liệu đồ sộ này dưới ánh sáng của khoa học liên ngành, đa ngành, góp phần nghiên cứu các vấn đề sau: Trí thức Nho giáo và quá trình Nho giáo hóa xã hội Việt Nam; Trí thức Nho giáo với các thư tịch Hán Nôm được soạn thảo phục vụ sinh hoạt của đời sống xã hội; Quá trình bảo lưu và khúc xạ của Nho giáo trong lòng xã hội Việt Nam.
***

Confucian Scholars and the Influence 
of Confucianism on Society
Nguyen Xuan Dien, PhD
Folklore includes many spiritual and cultural realms of people who have a close life inside the “bamboo rampart”- the symbol of a closed society in both a literal and figurative sense. To study the impact of Confucianism in folklore requires studying Confucianism’s penetration of the village’s community structure which was considered to be an “isolated oasis”. Through thousands of years, Confucianism appeared in Vietnam as a guide for rulers and as a foundation of dynasties.  Confucianism’s influence pervaded all aspects of life in Vietnam, particularly the spiritual culture of people in the rural villages in Vietnam. From the beginning the values and ideals of Confucianism was reflected and maintained in Folklore at certain levels.  Participating in folkloric activities, Confucian scholars developed an interest in the community activities of the village chronicling the religious ceremonies and customs and traditional practices and beliefs of the community. In doing this they created and maintained a large number of documents incorporating details of the traditional culture. These materials serve as an invaluable source of information about the past.
Applying interdisciplinary methodologies and a review of this body of materials, this study focuses on studying two points:
1. The role of Confucian scholars and the process by which Confucianism influenced Vietnamese society;
2. The role of Confucian scholars and their work, the body of Sino-Vietnamese documents, in chronicling the traditional social activities, and helping preserve and perpetuating them.  

Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo Nghiên cứu tư tưởng Nho gia Việt Nam từ hướng tiếp cận liên ngành, do Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Harvard-YenChing (Hoa Kỳ) đồng tổ chức, Hà Nội, 2008.