Thứ Ba, 20 tháng 12, 2011

MẤY ĐIỀU HỎI LẠI GIÁO SƯ TRẦN NGỌC VƯƠNG

 

MẤY ĐIỀU HỎI LẠI GIÁO SƯ TRẦN NGỌC VƯƠNG
Đào Tiến Thi

Tôi từng đọc một vài công trình của PGS.TS Trần Ngọc Vương, từng tiếp thu được một số tư liệu và nhận định; về con người, tôi cũng từng gặp đôi lần và vẫn kính cẩn gọi bằng thầy, coi ông như một người thầy đáng kính.

Nhưng tôi thấy trong bài viết Giới trí thức tinh hoa trong lịch sử Việt Nam trên tạp chí Tia sáng ngày 9-9-2010, được blog Nguyễn Xuân Diện đăng lại ngày 17-12-2011, thì có nhiều điều nghe khó lọt.
Bài của PGS.TS Trần Ngọc Vương có 3 phần:
- Trí thức Nho học Việt Nam, hay trí thức Việt Nam thời phong kiến
-  Trí thức Tây học Việt Nam, hay trí thức Việt Nam thời Pháp thuộc
- Trí thức mới Việt Nam, hay trí thức Việt Nam thời XHCN
Tôi xin chỉ nói về hai vấn đề đầu.
1. Phần thứ nhất, theo tác giả thì trí thức Nho giáo ở ta có một lịch sử lâu đời nhưng đóng góp cho tư tưởng học thuật thì không đáng kể, thua hẳn trí thức Nho giáo Trung Hoa và thua trí thức Phật giáo Việt Nam. Theo cảm nhận của tôi, điều này có lẽ đúng và hình như cũng có người nói rồi. Tuy nhiên chỗ này cũng nên tìm rõ cội nguồn. Không nên vội kết luận Không có ai có hứng thú đi vào những tư tưởng triết học”. Nói như thế thì hóa ra trí thức Nho giáo Việt Nam hoặc lười biếng hoặc mang căn tính nô lệ, chỉ biết học của Tàu hay sao?
Theo tôi có hai nguyên nhân khiến trí thức Nho giáo Việt Nam khó có thể chuyên tâm đi vào học thuật.
Thứ nhất, với nền sản xuất tiểu nông là chủ đạo, con người phải vật lộn với nhu cầu mưu sinh đầy khó khăn, chúng ta khó mà có được những nhà tư tưởng thuần túy, chỉ biết có học thuật. Trí thức Nho học luôn gắn sự tồn tại bản thân với nghiệp làm quan, nếu có lui về ẩn dật thì lại gắn với ruộng vườn. Trước dư luận xã hội, cả hai trạng thái trên đều cần có danh phận (đỗ đạt, chức tước, bổng lộc của triều đình). Dư luận xã hội không khuyến khích những người “tử vì đạo” (theo nghĩa say mê một học thuyết, không quan tâm nhu cầu mưu sinh cũng như dư luận xã hội). Trong bối cảnh ấy khó có cá nhân nào đủ bản lĩnh đi ngược đám đông. Hoài Thanh từng cay đắng thốt lên điều này:
“Quang cảnh học giới nước ta tiêu điều làm sao! Dễ thường thế giới không có nước nào mà những người tự nhận là học giả lại lạnh lùng với việc học như ở nước mình. Người mình vẫn được tiếng là hiếu học nhưng đúng ra chỉ hiếu lợi và hiếu danh. Khi sự học không đưa đến cho mình lợi và danh thì ít ai còn màng đến nó nữa”[i]
Thứ hai, cũng có những lúc có tài năng lớn xuất thiện, nhưng lại gặp lúc vận nước nghiêng ngả nên họ phải đặt việc cứu nước cứu đời lên trên hết. Đấy là trường hợp của Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu và nhiều sỹ phu cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Nếu cho phép đặt ra chữ “nếu”, vâng, nếu không phải bôn ba cứu nước thì thiết nghĩ thay vì nhà cách mạng Phan Bội Châu, chúng ta có sẽ có nhà tư tưởng Phan Bội Châu. Tôi dám “nếu” điều này vì đọc thấy ngay trong thơ văn tuyên truyền cách mạng của Cụ, thứ trước tác vốn phải làm gấp, không trau chuốt, lại phải đại chúng hóa, mà luôn chứa những tư tưởng lớn của thời đại. Và chỉ trong 15 năm cuối đời bị an trí ở Huế, với tuổi già sức yếu, sự bó buộc, và đặc biệt là nỗi đau buồn về đất nước, Cụ  vẫn còn viết được hai tác phẩm triết học đồ sộ: Chu dịch diễn giảiKhổng học đăng (hai tác phẩm nay in ở Phan Bội Châu toàn tập, tập 9 và 10, khoảng 1500 trang khổ 16 x 24). Trong lời giới thiệu Chu dịch diễn giải, nhà sử học Chương Thâu viết: “Như là một học giả uyên bác, Cụ đã dồn hết sức lực và tâm huyết để nghiên cứu thêm, giải thích lại một số thành tựu vĩ đại của văn hóa Phương Đông dành cho các thế hệ con cháu mai sau”[ii].Khổng học đăng, tư tưởng chủ quan của người khảo cứu càng lớn hơn. Chương Thâu đánh giá: “Bộ sách này đủ cho ta thấy rõ tư tưởng học thuật và đời sống tinh thần của cụ Sào Nam. Cụ không viết theo lối nghiên cứu khách quan của học giả, mà Cụ viết theo sự tâm đắc của bản thân mình. Bởi thế nên Cụ có rất nhiều tư tưởng chủ quan của mình. Nhưng cũng vì thế mà ta thấy rõ được những ý kiến để bồi bổ cho linh hồn và để nuôi dưỡng cái hoài bão cao đẹp của mình”[iii].
2. Phần thứ hai của bài, nói về trí thức thời Pháp cai trị, PGS.TS. Trần Ngọc Vương  càng có xu hướng hạ thấp một cách phi lịch sử:
“Gia nhập xã hội hiện đại theo con đường bị cưỡng bức, không hề được chuẩn bị đầy đủ về mọi phương diện để thích nghi, thiếu nghiêm trọng những kinh nghiệm và thực tế tương ứng được với xã hội hiện đại từ truyền thống, tóm lại, với tính nhược tiểu thể hiện khá “hoàn hảo”, giới trí thức Việt Nam khi trở thành “tầng lớp trí thức bản xứ” thêm một lần nữa bị chủ nghĩa thực dân vày vò, ép ướp hoàn toàn có chủ đích chỉ nhằm biến đổi họ thành đám vong quốc nô có chữ nghĩa. Lịch sử còn lưu lại vô số bằng chứng cả trực tiếp cả gián tiếp chứng minh cho đường lối chính trị, chính sách trí thức thuộc địa này của thực dân Pháp”.
Ở đây có hai khía cạnh đáng nói:
- Tác giả sai lầm về phương pháp.
- Tác giả bất chấp sự thật lịch sử.
Tác giả viết: Lịch sử còn lưu lại vô số bằng chứng…” thế nhưng lại không đưa ra bằng chứng nào mà chỉ gói gọn trong một câu ở chú thích:  
“Các bộ lịch sử, lịch sử tư tưởng Việt Nam của cả các tác giả người Việt lẫn người Pháp đều cung cấp nhiều tài liệu liên quan đến điều này”.
Trong khoa học không cho phép lối chứng minh như thế, bởi vì:
Thứ nhất, luận điểm mà không có luận chứng (dẫn chứng, lý lẽ) thì luận điểm ấy là áp đặt, không có sức thuyết phục; còn nếu bỏ lửng, bắt người đọc tìm đọc thì có khác nào đánh đố, và còn thể hiện không tôn trọng người đọc.
Thứ hai, quan trọng hơn điều thứ nhất, sự thật lịch sử không chỉ tìm ở mỗi trong các bộ sử, lại càng không thể ở trong các sách lịch sử tư tưởng, bởi ở đấy rất có thể lịch sử đã bị cắt xén, giải thích theo ý người viết. Thực ra tìm sự thật lịch sử trong trường hợp này không khó, vì nó là trước tác, hãy còn rành rành trên giấy trắng mực đen. Sao PGS.TS. Trần Ngọc Vương không tìm ở trong chính trước tác của các nhà trí thức thời bấy giờ cùng không khí học thuật của thời đó để từ đó phán xét tư tưởng của họ mà lại tìm qua sự phán xét của người khác?
Và thực tế như mọi người đã biết, biết bao nhận định sai lầm, oan uổng kéo dài mấy chục năm đối với rất nhiều học giả, nhà văn lớn, như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Trọng Kim,... Nhận định của các học giả Pháp cũng không phải bao giờ cũng khách quan, chính xác. (Mà cũng lạ, biết bao lời ca ngợi của các học giả Pháp dành cho Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Mạnh Tường,… thì PGS.TS. Trần Ngọc Vương lại không biết?)
Đi xa hơn, PGS.TS. Trần Ngọc Vương còn muốn xóa sổ tầng lớp trí thức Tây học trước Cách mạng tháng Tám:
“Hệ quả cuối cùng của chính sách thực dân, dù những chính sách cụ thể trong từng thời kỳ nhất định có đổi thay theo hướng xoa dịu sự phản ứng của một cư dân bản địa dù sao cũng có hàng nghìn năm lịch sử đồng thời trên từng bình diện nhất định phải đáp ứng những đòi hỏi của tình hình khó khăn mà “mẫu quốc” lâm vào, vẫn cứ là một tầng lớp trí thức bản xứ với rất ít cá nhân thực sự đạt tới trình độ tinh hoa, đội ngũ chuyên gia tuy có số lượng khá hơn nhưng không toàn diện, gắn bó quá trực tiếp với sự điều tiết từ chính quốc chứ không phải gắn bó với xã hội và nền kinh tế tại chỗ, và một lượng đông đảo nhất những trí thức cấp thấp. Chất lượng của một tầng lớp trí thức như vậy, xét trên tương quan của một sự so sánh lịch đại, nghĩa là so sánh về khả năng đáp ứng những nhu cầu phát triển từng thời điểm lịch sử khác nhau, chắn chắn là còn kém hơn thời kỳ tiền thực dân”. 
Gộp cả ý của hai đoạn ta thấy, PGS.TS. Trần Ngọc Vương gần như phủ định hoàn toàn tầng lớp trí thức Tây học trước Cách mạng:
Một, họ là con đẻ của chủ nghĩa thực dân.
Hai, họ không đáp ứng được nhu cầu lịch sử.
Ba, kết luận lại, lớp trí thức Tây học còn kém hơn thời kỳ tiền thực dân” (tức trí thức Nho học nửa sau thế kỷ XIX – ĐTT).
1. Nhận định thứ nhất thực ra không mới. Nó là một định kiến đã lâu. Tuy nhiên, trong vài thập niên gần đây, dư luận xã hội đã phải nghĩ lại, đã phải cải chính rất nhiều, không hiểu sao PGS.TS. Trần Ngọc Vương vẫn bám lấy định kiến đó. Một phép suy luận đơn giản cũng cho thấy: với âm mưu của thực dân “nhằm biến đổi họ (trí thức bản xứ - ĐTT) thành đám vong quốc nô có chữ nghĩa” hay âm mưuxoa dịu sự phản ứng của một cư dân bản địa” không bao giờ lại có thể đẻ ra một lớp trí thức tài năng, có lòng yêu nước, tự tôn dân tộc cao. Còn thực tế thì đã quá rõ ràng. Nguyễn Khánh Toàn, Đặng Thai Mai, Đào Duy Anh, Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Thái Học, Trần Huy Liệu, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Xuân Hãn, Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Tôn Thất Tùng, Trần Hữu Tước, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tuân, Phạm Ngọc Thạch, Đặng Văn Ngữ, Lương Định Của, Nguyễn Xiển,… toàn những trí thức do trường Tây đào tạo, những trí thức này hoặc đã tham gia các  phong trào cách mạng trước năm 1945, hoặc từ năm 1945 một lòng đi theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tham gia suốt hai cuộc kháng chiến, chính họ là lực lượng rường cột cho nền văn hóa, khoa học mới, và cả rường cột cho giai đoạn non trẻ của chế độ mới.   
Ở đây cần nói thêm để không đến quá “oán” cũng như không quá “ơn” chính sách khai thác thuộc địa của chủ nghĩa thực dân. Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, ngoài ý muốn của họ, đã khách quan mang lại những điều kiện thuận lợi cho sự tiến bộ của xã hội Việt Nam nói chung, của đời sống học thuật nói riêng. Thực dân Pháp (cũng như bất cứ thứ thực dân nào) không có mục đích “khai hóa” nhưng để khai thác được thuộc địa, họ buộc phải đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật và khoa học. Người Pháp ngay khi chưa chinh phục xong Việt Nam, họ đã làm đường sắt, xây cầu, trạm bưu điện, khí tượng, rồi sau đó mở trường đại học, viện nghiên cứu, bảo tàng,… Tầng lớp trí thức ra đời một cách “vô tư” như thế. Mặt khác, do lòng yêu nước, tự tôn dân tộc, lớp trí thức mới nắm ngay lấy công cụ tri thức mà nhà trường thực dân trang bị để làm vũ khí đấu tranh, để xúc tiến công cuộc tiến bộ cho xứ sở mình. Nhiều nhà Nho chủ trương cho con đi học trường Tây để sau này đánh lại Tây là như vậy. Ngoài ra cũng phải kể đến một số quan toàn quyền, một số chính khách, nhà khoa học Pháp có đầu óc tiến bộ, họ đã có những chính sách tích cực nhất định, góp phần thúc đẩy xã hội Việt Nam theo chiều hướng tích cực.
2. Về nhận định thứ hai, chúng tôi không hiểu thế nào mới là “đáp ứng những nhu cầu phát triển từng thời điểm lịch sử khác nhau”?
Thử hỏi, làm thế nào để đưa chữ Quốc ngữ trở thành văn tự quốc gia ngay từ cuối những năm hai mươi, để từ đó tiếp thu văn hóa nhân loại, giúp đất nước nhanh chóng thoát khỏi “đêm trường trung cổ”, nếu không phải là những hoạt động đầy hăng hái bắt đầu từ lớp sỹ phu đầu thế kỷ XX, tiếp theo là các nhà báo, nhà văn chuyên về hoạt động văn hóa như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Hữu Đang và các trí thức trong nhóm Tri tân, Thanh nghị,…? Ai đã làm nên cuộc cách mạng trong văn học những năm ba mươi, bốn mươi nếu không phải là những nhà văn xuất thân trường Tây (Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Nam Cao,…) để trong vòng chưa đầy mười lăm năm, văn học Việt Nam tiến những bước khổng lồ, bắt kịp vào thế giới hiện đại? Ai đã dấy lên rầm rộ phong trào đòi thả cụ Phan Bội Châu và để tang cụ Phan Châu Trinh những năm 1925 – 1926, rồi phong trào Dân chủ những năm ba mươi, và cả Văn hóa cứu quốc những năm chuẩn bị Tổng khởi nghĩa? Nếu không có lớp trí thức ra đời ngay trong lòng chế độ thuộc địa sẽ không có gì cả.
3. Không biết PGS.TS. Trần Ngọc Vương đặt ra tiêu chí nào của giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX để kết luận tầng lớp trí thức giai đoạn này không đáp ứng được vai trò lịch sử, lại còn “chắn chắn là còn kém hơn thời kỳ tiền thực dân”?
Tôi không hiểu lớp trí thức nửa đầu thế kỷ XX kém cái gì so với lớp tiền bối của họ (lớp nhà Nho nửa sau thế kỷ XIX). Tài năng? Nhân cách, Sự đóng góp vào sự phát triển của lịch sử? Hay là tất cả?
Những nhà Nho tích cực nhất của nửa sau thế kỷ XIX có hai loại: loại chỉ bằng ngòi bút với những kiến nghị, điều trần như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch; loại trực tiếp đánh giặc theo tư tưởng tôn quân với đường lối chiến lược, chiến thuật cũ kĩ như Thủ khoa Huân, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Quang Bích, Phan Đình Phùng,… Cả hai loại nhà Nho đó, tuy ta kính phục họ về nhiệt tình yêu nước, về tài đánh giặc nhưng phải nói, so với yêu cầu lịch sử, họ là lạc hậu. Chính họ nhiều khi cũng nhận ra điều đó. Nhiều người đánh giặc biết chắc thất bại, đánh giặc chỉ vì cái nghĩa đáng làm mà thôi. Còn lớp trí thức đầu thế kỷ XX (xuất thân Nho học nhưng tiếp thu Tân học) tìm đường giải phóng dân tộc theo xu hướng cách mạng tư sản dân quyền thì đã thực sự tiến kịp thời đại. Chỉ riêng về văn hóa, họ đề cao khoa học, kỹ nghệ, đề cao thực học, đề cao nếp sống văn minh, phê phán kịch liệt lối hư văn, bài trừ óc mê tín, thói hủ lậu,… cũng là bước tiến kịp thời đại đáng nể, thậm chí còn hơn chúng ta ngày nay với bao trò mê tín, đồng bóng cùng lối sống thực dụng đến thảm hại. Các lớp trí thức sau lớp sỹ phu, tuy không làm cách mạng giải phóng dân tộc mạnh mẽ nhưng tiếp tục hoạt động rất tích cực về văn hóa, văn học, đã đưa văn hóa, văn học nước nhà phát triển theo chiều sâu, nhờ thế nước ta bắt đầu thoát khỏi “đêm trường trung cổ, hội nhập vào thế giới hiện đại từ cuối những năm hai mươi của thế kỷ XX. Giả sử lớp trí thức nửa đầu thế kỷ XX vẫn tiếp tục con đường của Nguyễn Trường Tộ, Phan Đình Phùng,… thì lịch sử nước ta đi lên hay tụt lùi?
Mặt khác, theo quan điểm duy vật lịch sử, đánh giá mỗi nhân vật lịch sử không phải là xem họ làm được gì so với yêu cầu của thời đại mà là họ đã làm gì so với người đi trước đó. Ở đây chúng ta dễ dàng nhận thấy lớp trí thức đầu tiên của thế kỷ XX mà tiêu biểu là hai cụ Phan tuy vẫn là trí thức Nho học nhưng họ đã vượt rất xa những trí thức Nho học cuối thế kỷ XIX, cả về tầm vóc tư tưởng, tri thức văn hóa lẫn tinh thần dấn thân. Còn lớp trí thức những năm ba mươi trở đi thì thì thực sự đã là những trí thức hiện đại, ngang hàng các trí thức Phương Tây. Đọc những sự kiện hội đàm giữa phái đoàn ta với phái  đoàn Pháp những năm 1945 – 1946, các trí thức của ta có tư thế thật đáng tự hào. Trong khoảng vài thập kỷ, lịch sử dân tộc tăng tốc một cách đáng ngạc nhiên nhờ sự đóng góp quan trọng của tầng lớp trí thức này.
Cũng cần nói thêm rằng lớp trí thức khoa học lẫn trí thức văn nghệ sỹ Tây học cho đến 1945 còn rất trẻ, thường chỉ trên dưới ba mươi hoặc chỉ ngoài hai mươi, cứ như bây giờ thì nhiều người hãy còn ở tuổi ăn bám gia đình, thế mà họ đã làm được khối việc như ta đã biết. Nhưng sự nghiệp của họ không nên chỉ tính mấy năm trước Cách mạng, mà còn phải tính giai đoạn sau Cách mạng nữa. Tuy nhiên sau 1945, do dân tộc phải lao vào hai cuộc chiến, rồi do những sai lầm, phiến diện trong quan niệm, mà giới trí thức Tây học trước 1945 (thường gọi là trí thức cũ) người thì được phát huy, người thì bị thui chột, nhiều người còn mắc nạn. Cùng theo Bác Hồ từ Pháp về, tài chế tạo vũ khí của ông Trần Đại Nghĩa có đất dụng võ, danh tiếng ông trở nên lẫy lừng, trong khi đó tài triết học của ông Trần Đức Thảo trở thành tai họa cho chính ông, khiến ông bị đặt ra ngoài lề cuộc sống, suốt đời sống trong nghèo khổ và sợ hãi, đến mức gần như bị bệnh hoang tưởng, tâm thần. Trong số nhà văn, cũng có người sở trường còn phù hợp, cũng có người không. Không ít nhà văn Tiến chiến (Phan Khôi, Trương Tửu, Văn Cao,…) dính vào vụ Nhân văn giai phẩm đầy nghiệt ngã.
Tóm lại, dù đứng ở góc độ nào để đánh giá thì lớp trí thức Tây học trước Cách mạng đã có những cống hiến xuất sắc. Nhiều người gọi đây là “thế hệ vàng”, quả là không ngoa. Không biết bao giờ nước nhà mới lại có một thế hệ như thế.
Bài viết này chưa phải là bài tranh luận, càng chưa phải là bài nghiên cứu. Nếu tranh luận hay nghiên cứu cần bàn một cách toàn diện và có cứ liệu đầy đủ hơn. Mà chỉ vì thấy những nhận định của PGS.TS. Trần Ngọc Vương có nhiều “gợn” quá nên tôi mạn phép đặt ra một số câu hỏi và nêu một số cảm nhận như trên. 



[i] Hoài Thanh: Vấn đề học thuật ở nước ta chỉ là một vấn đề tâm lý và luân lý, Sông Hương, Huế, 1936, in lại trong Hoài Thanh toàn tập, tập 4, NXB Văn học, 1999).
[ii] Phan Bội Châu toàn tập, tập 9, NXB Thuận Hóa, 2000.
[iii] Phan Bội Châu toàn tập, tập 10, NXB Thuận Hóa, 2000.

*Bài do tác giả gửi trực tiếp cho NXD-Blog.
Xin chân thành cám ơn!

Thứ Hai, 19 tháng 12, 2011

LUẬT SƯ CỦA BÀ BÙI THỊ MINH HẰNG CHÍNH THỨC GỬI ĐƠN KHIẾU NẠI

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
________________________
Hà Nội, ngày 18  tháng 12 năm 2011

ĐƠN KHIẾU NẠI
Về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đối với bà
 Bùi Thị Minh Hằng

       Kính gửi: Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội Nguyễn Thế Thảo

I. Người khiếu nại:
Bà Bùi Thị Minh Hằng, sinh ngày 20/07/1964, hộ khẩu thường trú tại số 106 Lê Hồng Phong, phường 4, Tp.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Hiện bà Bùi Thị Minh Hằng đang bị cưỡng bức giáo dục tại Cơ sở giáo dục Thanh Hà, địa chỉ xã Gia Khánh, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc thuộc quản lý của Tổng cục Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp – Bộ Công an.
Liên hệ gia đình: Bùi Trung Nhân, con trai bà Bùi Thị Minh Hằng trú tại số 90 C5 Lê Hồng Phong, phường 7, Tp.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, điện thoại 0165.5535.606.
Căn cứ điểm a, khoản 1, điều 17 của Luật khiếu nại, tố cáo, quy định:
“Người khiếu nại có các quyền:… vì lý do khách quan khác mà không thể tự mình khiếu nại thì được uỷ quyền cho cha, mẹ, vợ, chồng, anh, chị, em ruột, con đã thành niên hoặc người khác để khiếu nại;”
Người được ủy quyền khiếu nại: Luật sư Hà Huy Sơn, Văn phòng luật sư Trần Vũ Hải địa chỉ 81 phố Chùa Láng, quận Đống Đa, Hà Nội thuộc Đoàn luật sư Hà Nội theo Giấy ủy quyền ngày 15/12/2011 – kèm theo. 
II.  Người bị khiếu nại:
Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội Nguyễn Thế Thảo vì đã ban hành Quyết định số 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 do Phó Chủ tịch Vũ Hồng Khanh ký thay về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đối với bà Bùi Thị Minh Hằng. (QĐ 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 – kèm theo) 
III. Nội dung:
Khoảng trưa ngày 27/11/2011, nghe tin ở Hà Nội công an bắt một số người tại khu vực Bờ Hồ Hoàn Kiếm vì cho rằng họ có hành vi tự phát biểu thị thái độ ủng hộ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị Quốc hội đưa vào chương trình làm việc khóa 13 của Quốc hội ban hành Luật biểu tình, bà Bùi Thị Minh Hằng cùng 03 người khác đã đứng giơ trên tay mảnh giấy ghi “Phản đối đàn áp người ủng hộ Quốc hội ra luật biểu tình” ở cạnh khu vực Nhà thờ Đức Bà. Sau đó bà Hằng bị bắt đưa vào Công an phường Bến Nghé, quận I, Tp.Hồ Chí Minh. Ngày 28/11/2011 bà Hằng được đưa đến Cơ sở giáo dục Thanh Hà, tỉnh Vĩnh Phúc và được giao Quyết định số 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.
Việc Chủ tịch ban hành Quyết định 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 nêu trên đã vi phạm các quy định của pháp luật như sau:
Thứ nhất:
Căn cứ điều 87 “Nội dung quyết định đưa vào cơ sở giáo dục” của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, quy định:
Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, chức vụ của người ra quyết định; họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị đưa vào cơ sở giáo dục; hành vi vi phạm pháp luật của người đó; điều, khoản của văn bản pháp luật được áp dụng; thời hạn và nơi thi hành quyết định; quyền khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định đưa vào cơ sở giáo dục theo quy định của pháp luật.”
Thế nhưng, Quyết định 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 không ghi “điều, khoản của văn bản pháp luật được áp dụng;”.
Thứ hai:
Căn cứ điều 87 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 thì Quyết định phải ghi rõ “nơi cư trú của người bị đưa vào cơ sở giáo dụcnhưng Quyết định 5225/QĐ-UBND lại ghi:
“Chỗ ở hiện nay: Không có nơi cư trú nhất định”
Để xác định nơi cư trú của bà Bùi Thị Minh Hằng thì phải căn cứ vào quy định của Luật cư trú năm 2006.
Khoản 1, điều 12 của Luật cư trú năm 2006, quy định:
Nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú.
Chỗ ở hợp pháp là nhà ở, phương tiện hoặc nhà khác mà công dân sử dụng để cư trú. Chỗ ở hợp pháp có thể thuộc quyền sở hữu của công dân hoặc được cơ quan, tổ chức, cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật.
Nơi thường trú là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn định, không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký thường trú.”
Và khoản 1, điều 24 của Luật cư trú năm 2006, quy định:
"Sổ hộ khẩu được cấp cho hộ gia đình hoặc cá nhân đã đăng ký thường trú và có giá trị xác định nơi thường trú của công dân.”
Bà Bùi Thị Minh Hằng có chỗ ở hợp pháp và thường xuyên sinh sống được Giấy chứng nhận QSDĐ và quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BB558764 do UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cấp 07/09/1999 là ở số 106 Lê Hồng Phong, phường 4, Tp.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (Bìa GCN – kèm theo).
Mặt khác, Sổ hộ khẩu do Công an thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cấp và CMND số 273278857 do công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cấp ngày 25/11/2004 và ngay tại điều 1 của Quyết định 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 của Chủ tịch UBND Tp.Hà Nội đều xác định nơi thường trú của bà Bùi Thị Minh Hằng là số 106 Lê Hồng Phong, phường 4, Tp.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Như vậy nơi cư trú của bà Bùi Thị Minh Hằng là 106 Lê Hồng Phong, phường 4, Tp.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

Như vậy, với các bằng chứng và các căn cứ pháp luật nêu trên cho thấy việc Quyết định 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 của Chủ tịch UBND Tp.Hà Nội cho rằng bà Hằng “Không có nơi cư trú nhất định” là không đúng.
Thứ ba:
Căn cứ khoản 1, điều 3 của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27/06/2003 và Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 sửa đổi, bổ sung, quy định:
“Đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục
Người có một trong các hành vi vi phạm pháp luật sau đây có tính chất thường xuyên (có từ hai lần vi phạm trở lên trong thời hạn 12 tháng), nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng không có nơi cư trú nhất định:”
Bà Bùi Thị Minh Hằng không phải là người không có nơi cư trú nhất định vì vậy bà Hằng không phải là đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục như quy định tại các Nghị định nêu trên và điều 25 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002.
Thứ tư:
Căn cứ khoản 2, điều 86 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, quy định:
“Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký và phải được gửi ngay cho người bị đưa vào cơ sở giáo dục, cơ quan Công an cấp tỉnh, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú.”
Quyết định 5225/QĐ-UBND ký ngày 08/11/2011 thế nhưng đến ngày 28/11/2011 (tức 20 ngày sau) sau khi bị bắt bà Bùi Thị Minh Hằng mới được nhận, trong khi bà Hằng có địa chỉ nhà ở tại số 106 Lê Hồng Phong, Tp. Vũng Tàu nơi bà Hằng ở cùng với con trai là Bùi Trung Nhân 18 tuổi.
Kết luận: Quyết định số 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đối với bà Bùi Thị Minh Hằng có nơi cư trú tại số 106 Lê Hồng Phong, phường 4, Tp. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu là hoàn toàn trái pháp luật.
Căn cứ điều 71, Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001, quy định:
Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm.
Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật.
Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân.”
Căn cứ khoản 1, 2, 4, 5 điều 9 của Công ước quốc tế về những quyền dân sự và chính trị năm 1966, Việt Nam tham gia năm 1982, quy định:
“Điều 9:  
1. Ai cũng có quyền tự do thân thể và an ninh thân thể. Không ai có thể bị bắt giữ hay giam cầm độc đoán. Không ai có thể bị tước đoạt tự do thân thể ngoại trừ những trường hợp và theo những thủ tục luật định.
2. Khi bị bắt giữ, bị cáo phải được tức thì thông báo về lý do bắt giữ, và phải được thông báo không chậm trễ về tội trạng bị cáo buộc.
4. Những người bị bắt giữ hay giam cầm đều có quyền yêu cầu toà án thụ lý không chậm trễ về tính hợp pháp của sự giam giữ, và phải được phóng thích nếu sự giam giữ được xét là bất hợp pháp.
5. Các nạn nhân trong những vụ bắt giữ hay giam cầm bất hợp pháp có quyền khiếu tố đòi bồi thường thiệt hại.”

YÊU CẦU:

1- Ông Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội hủy ngay Quyết định số 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đối với bà Bùi Thị Minh Hằng;
2-  Trả tự do ngay và bồi thường danh dự cùng các thiệt hại về tinh thần, vật chất cho bà Bùi Thị Minh Hằng do việc ban hành Quyết định số 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 của Chủ tịch gây ra.
Hy vọng Ông Chủ tịch thực hiện đúng quy định của pháp luật và xứng danh là Chủ tịch của Thành phố vì hòa bình và Thăng Long 1000 năm văn hiến.
Trân trọng,
Nơi nhận:                                                                               Người làm đơn 
-   Như trên;
-   Bà Bùi Thị Minh Hằng;
-   Ông Bùi Trung Nhân;
-   Lưu VP, 04b.
                                                                                           Luật sư Hà Huy Sơn

Phụ lục
- QĐ 5225/QĐ-UBND
- Giấy ủy quyền cho luật sư 




REUTERS: LÃNH TỤ BẮC HÀN KIM JONG IL QUA ĐỜI Ở TUỔI 69

North Korea state TV says Kim Jong il has died

(Reuters) - North Korean leader Kim Jong-il died Saturday on a train trip, a tearful state television announcer, dressed in black, reported Monday.
The announcer said that the 69-year old had died of physical and mental over-work on his way to give "field guidance." He had suffered a stroke in 2008, but appeared to have recovered. The reclusive state had begun the process of transferring power to his son Kim Jong-un, believed to be in his late 20s.


(Created by David Chance; Editing by Jack Kim)

BBC đưa tin:
Lãnh tụ Bắc Hàn Kim Jong-il qua đời
Cập nhật: 03:24 GMT - thứ hai, 19 tháng 12, 2011
.
Truyền hình nhà nước Bắc Triều Tiên loan báo lãnh đạo Kim Jong-il vừa qua đời, gây chấn động cho toàn dân.

Thông tin về cái chết của ông được thông báo trên truyền hình quốc gia trong một bản tin đầy xúc động.

Phát thanh viên truyền hình mặc đồ tang nói ông Kim chết hôm thứ Bảy 17/12, vì làm việc quá sức về cả tinh thần và thể chất.

Ông Kim Jong-il năm nay 69 và sức khỏe đã kém nhiều năm nay.

Thông báo trên tryền hình cũng nói lãnh tụ Kim, ngơười dẫn dắt dân tộc từ khi cha ông, Kim Il-sung, chết năm 1994, đã qua đời trên tàu hỏa khi đang đi thăm một khu vực bên ngoài thủ đô.

Cái chết của ông khiến cho toàn dân Bắc Triều Tiên vô cùng bàng hoàng.

Con trai thứ ba Kim Jong-un của ông, người mới hơn 20 tuổi, từng được trông đợi sẽ lên kế nhiệm ông, nhưng chưa có thông tin chính thức nào được công bố trong quốc gia bí mật này.

Năm 2008, được tin ông Kim bị đột quỵ nhưng năm nay ông đã có chuyến thăm Trung Quốc và Nga, trong đó các bức hình và video chụp ông khi công bố cho thấy ông khỏe mạnh và nhanh nhẹn.

Cũng có tin nói ông Kim, người thích hút xì gà, ưa rượu cô nhắc và món ăn ngon, bị tiểu đường và bệnh tim mạch.

Hãng thông tấn Nam Hàn Yonhap đưa tin quân đội nước này đã được lệnh báo động sau khi nghe tin lãnh tụ Bắc Hàn qua đời; và Hội đồng An ninh Quốc gia triệu tập ngay một cuộc họp khẩn.
Nguồn: BBC Tiếng Việt.

Báo chí Việt Nam đưa tin:
- VietNamnet: Chủ tịch CHDCND Triều tiên Kim Jong Il qua đời
- VNExpress: Chủ tịch Triều Tiên Kim Jong il qua đời
- Dân trí: Nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-il qua đời
- Bee:Nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Il qua đời

15h12: Tổng hợp tin tức do trang Ba Sàm thực hiện:

- Lãnh tụ Bắc Hàn Kim Jong-il qua đời(BBC). – Chủ tịch Bắc Hàn Kim Jong Il qua đời(NV). – Lãnh tụ Bắc Triều Tiên Kim Jong Il qua đời(VOA). – Nhà lãnh đạo Kim Jong Il qua đời (TT). – Chủ tịch CHDCND Triều Tiên Kim Jong Il qua đời (VNN). - Nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Il qua đời (Bee). – Hàn Quốc báo động khẩn khi lãnh đạo Triều Tiên qua đời (VNN). – Hàn Quốc họp khẩn cấp Ủy ban An ninh Quốc gia (TTXVN). – Phản ứng các nước về cái chết của Chủ tịch Triều Tiên (VNE). – Nhật, Mỹ sát sao dõi theo Triều Tiên (VNN). – Điểm mặt những nhà lãnh đạo chết ‘bất đắc kỳ tử’ (Đất Việt). – Mỹ cam kết vì sự ổn định trên bán đảo Triều Tiên (TTXVN). – Triều Tiên bắn đại bác tưởng niệm ông Kim Jong Il (Bee). – Những hoạt động ngoại giao gần đây của ông Kim Jong il (Bee).

- Video báo tang của Đài truyền hình quốc gia: North Korean State TV announces Kim Jong Il’s death (14sJakeB190):




PHẢN HỒI BÀI VIẾT CỦA TRẦN NGỌC VƯƠNG VỀ "GIỚI TRÍ THỨC TINH HOA"

Một số suy nghĩ sau khi đọc "Giới trí thức tinh hoa trong lịch sử Việt Nam"
của Trần Ngọc Vương
Nguyễn Vinh Anh

Xin kính chào tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện và các quý vị,

Bài viết vừa lên rất đáng chú ý, nhưng vì chủ đề quá lớn, nên tôi  chỉ dám lạm bàn một vài điểm, mà tôi thấy ngay là rất đáng suy nghĩ. 

Tiếp nối một số luận điểm ở phần đầu bài, chủ yếu dựa trên các đúc kết của học giả Trần Đình Hượu về những giới hạn của giới Nho sĩ, tác giả đi đến nhiều nhận định tổng quát về giới chuyên gia, trí thức thời thuộc Pháp, và giai đoạn sau Cách mạng, trước và sau "các đấu tố" 1960-1970. 

Các nhận xét về sự bất lực của giới nhà nho cựu học trong việc hiện đại hóa đất nước là điều có lẽ không còn cần phải bàn cãi, vì điều này đã được nhà cải cách Phan Chu Trinh phê phán một cách rất triệt để, và nhiều học giả trước 1945 cũng đã tiếp tục hướng này.

Về trí thức, giới chuyên môn trước 1945:

Vấn đề vẫn đang còn dở dang chính là  nhóm những người mà tác giả gọi là “tầng lớp trí thức bản xứ”. Đây là tầng lớp mà di sản để lại rất đa dạng, mà hiện nay sự hiểu biểu về họ chắc chắn còn rất thiếu, trong tình trạng tư liệu tản mát và các nghiên cứu về giai đoạn này nhìn chung chưa thực sự phát triển.

Chính ở đây, khái quát mà tác giả đưa ra rất cần phải được xem xét lại, cả trên phương diện tư liệu, cũng như về các thao tác nhận thức. Khi tác giả viết: "Chất lượng của một tầng lớp trí thức như vậy (tức tầng lớp trí thức bản xứ), xét trên tương quan của một sự so sánh lịch đại, nghĩa là so sánh về khả năng đáp ứng những nhu cầu phát triển từng thời điểm lịch sử khác nhau, chắn chắn là còn kém hơn thời kỳ tiền thực dân.", thì chắc chắn cần phải làm rõ xem, dựa trên những thao tác so sánh nào mà tác giả rút ra nhận định xác quyết này?

Về trí thức, giới chuyên môn sau 1945:

Từ chỗ phê phán toàn bộ giới nhà nho, lướt qua giai đoạn trước 1945 coi như không có gì thực sự đáng nói, tác giả đi thắng đến kết luận dưới đây (kết luận này tạm hiểu ngầm là dành cho giai đoạn hiện tại, nếu không phải là cho toàn bộ lịch sử Việt Nam): 

"Có thể nói, ở ta mới có những người trí thức lớn,- không đông lắm mà nói thực thì cũng chưa được “lớn” lắm - nhưng chưa thể nói rằng đã có giới trí thức tinh hoa. Mà chừng nào trí thức tinh hoa chưa thành một giới, nôm na là núi không có đỉnh, thì khó lòng bàn đến “tầm” trí tuệ Việt Nam, tuy đó là điều không hiếm người thành tâm khao khát khẳng định".

Đây là một nhận định, nghe vẻ ngoài thì rất có vẻ có lý, vì nó được suy ra từ những cái không đáng kể của những giai đoạn trước (mà tác giả vừa trình bày), để luận về hiện tại, hoặc về toàn thể. Điểm tích cực của quan điểm này là nó dội một gáo nước lạnh vào những người vẫn còn sống trong trạng thái hoang tưởng của chủ nghĩa tự tôn dân tộc mù quáng. Tuy nhiên, tôi thiết nghĩ, những kẻ đã bị rơi vào hoang tưởng rồi thì khó có gì có thể đưa họ ra nổi, ngoại trừ thực tế phũ phàng.

Còn đối với độc giả bình thường thì sao?

Những người mà tác giả gọi là “thành tâm khao khát” thì thuộc loại nào đây, hoang tưởng hay bình thường?

Có lẽ bài viết này sẽ dễ dàng thuyết phục được những ai chỉ biết đến có một loại "núi", một loại "đỉnh". Từ chỗ nói rằng "núi" ở Việt Nam không có đỉnh , tác giả kết luận không thể bàn đến "tầm" (cao của) trí tuệ Việt Nam.

Cá nhân tôi, khi đọc đến đến đây, tôi có cảm giác tác giả đã đẩy lô gíc của sự ngụy biện đi đến một cái "đỉnh". Vậy mục đích của sự ngụy biện này là gì?

Theo tôi, thực tế mà nói, đã có "núi" là ít nhiều có "đỉnh", đỉnh thấp hay cao mà thôi. Và, không thể vì cho rằng, những trí thức lớn không đông, mà không đủ tạo thành một giới. Phủ nhận những cái đỉnh cao tương đối đó, phủ nhận một giới trí thức tinh hoa nhất định, dù số lượng hết sức ít ỏi ấy, chính là phủ nhận một cách hết sức tinh vi khả năng vượt lên của "trí tuệ Việt Nam", của văn hóa Việt Nam (bao gồm cả những người gốc Việt, sống ở khắp nơi trên thế giới, vẫn tự coi là người Việt Nam).

Phải chăng bản chất của thái độ, một mặt, tích cực đối thoại với những kẻ hoang tưởng, tin tưởng một cách thành tâm vào một tầm trí tuệ Việt Nam siêu việt không có thật (những kẻ này thường thuộc nhóm nắm quyền lực), và mặt khác, phủ nhận sự tồn tại của những đỉnh cao trí tuệ tương đối dù còn rất ít ỏi trong xã hội Việt Nam (thường thuộc vào nhóm mang tư tưởng cải cách), không gì khác hơn chính là để biện minh một cách tinh vi cho sự khoanh tay ngoảnh mặt của nhiều nhóm người, ngầm hoặc công khai tự coi là "trí thức", trước các vấn đề trọng yếu của xã hội, mà người trí thức đích thực phải coi như là các thách thức đối với chính bản thân mình ?

Phải chăng một thái độ như vậy chính là để biện minh cho sự vắng mặt của những khát vọng vượt lên bản thân, vươn lên tầm nhân loại ở trong chính con người họ? một thái độ như thế chính là để củng cố một tâm lý "hòa cả làng"? một tâm lý khuất phục cúi đầu? …  

Còn nhiều câu hỏi đặt ra từ đây, nhưng theo tôi hiểu, các bài viết mà tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện đưa ra cùng lúc với bài viết này, có thể đã chính là những phản biện gián tiếp trước thái độ ngụy biện đáng sợ trong bài viết này.  

N.V.A
*Bài do tác giả gửi trực tiếp cho NXD-Blog.
Xin chân thành cám ơn tác giả!

Ý NGHĨA CHUYẾN THĂM VIỆT NAM CỦA ÔNG TẬP CẬN BÌNH

Ý nghĩa chuyến thăm VN của Phó chủ tịch TQ Tập Cận Bình 

Gia Minh, biên tập viên RFA (2011-12-18)

Phó chủ tịch Trung Quốc, Tập Cận Bình, vào ngày 20 tới đây sẽ có chuyến thăm chính thức Việt Nam.
AFP Photo/Feng Li

Phó chủ tịch TQ Tập Cận Bình trong buổi lễ đón tiếp PTT Nam Phi Kgalema Motlanthe
tại Đại Sảnh Đường Nhân Dân ở Bắc Kinh hôm 28/09/2011.
Chuyến đi này mang ý nghĩa gì trong bối cảnh quan hệ Việt - Trung có một số trở ngại về tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông, cũng như hoạt động lấn lướt của Trung Quốc tại vùng biển đó?

Gia Minh hỏi chuyện giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, khoa Bang giao Quốc tế, Đại học George Mason tại bang Virginia, Hoa Kỳ. Trước hết ông đưa ra nhận định về chuyến đi Việt Nam sắp đến của ông Tập Cận Bình. 

Thủ tục ngoại giao 

GS Nguyễn Mạnh Hùng: Một số nhà bình luận đã cho biết việc đưa ông Tập Cận Bình sang Việt Nam là để ‘đánh bóng’ cho ông ta. Lý do vì sang năm ông Tập Cận Bình trở thành chủ tịch nước Trung Quốc. Họ để ông đi Việt Nam, Thái Lan và sau đó chuẩn bị cho ông đi Mỹ nữa nhằm vừa thử thách vừa nêu cao ông lên.

Theo tôi chuyến đi của ông Tập Cận Bình còn liên quan đến thủ tục ngoại giao nữa. Tôi nhớ sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam (hồi tháng giêng năm rồi), Việt Nam có cử một người sang Trung Quốc và đưa lời mời chủ tịch và tổng bí thư Trung Quốc sang thăm Việt Nam. Phía Trung Quốc chờ ông tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sang thăm để rồi họ đáp lễ; nhưng ông Trọng chỉ là tổng bí thư đảng thôi; còn tổng bí thư Đảng CS Trung Quốc còn là chủ tịch nước nữa. Trong khi đó chủ tịch nước Việt Nam lại thăm Ấn Độ chứ chưa sang thăm Trung Quốc. Nên họ cử ông phó chủ tịch nước Tập Cận Bình sang, và cũng theo lời mời của bà phó chủ tịch nước Việt Nam, và của Trung ương Đảng VN.

obama-australia-16nov2011-250.jpg
Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama duyệt hàng quân danh dự khi đến Úc. 16/11/2011. AFP photo. 

Theo tôi nghĩ điều quan trọng nhất là Trung Quốc cũng muốn phản ứng lại trước một loạt những cuộc viếng thăm của các nhà lãnh đạo Mỹ sang Châu Á như của bà ngoại trưởng Hillary Clinton, rồi tổng trưởng quốc phòng Leon Panetta, và của cả tổng thống Barack Obama.

Lần này Trung Quốc đưa ông Tập Cận Bình sang thăm Việt Nam, Thái Lan và đồng thời ông Đới Bỉnh Quốc sang thăm Miến Điện. Đặc biệt trong tháng này ông Đới Bỉnh Quốc lại đi gặp bà Aung San Suu Kyi nữa. Điều đó cho thấy Trung Quốc liệu theo chiều phát triển ở Á Châu mà đi theo họ chứ không còn cưỡng lại như xưa nữa.

Gia Minh: Có ý kiến cho rằng Việt Nam là nước nhỏ bên Trung Quốc, và lâu nay Trung Quốc có chính sách bành trướng xuống phía nam, ‘nam dụ’. Giáo sư thấy ý kiến đó chính xác thế nào?

GS Nguyễn Mạnh Hùng: Khuynh hướng bành trướng ảnh hưởng, không phải chiếm đất, quốc gia lớn nào cũng có. Trung Quốc là nước lớn ở Á Châu nên họ muốn đóng vai trò chủ yếu, không nói là vai trò độc tôn tại Á Châu. Việt Nam ở sát nách Trung Quốc mà lại là nước cộng sản nữa; cho nên Trung Quốc tập trung rất nhiều vào Việt Nam. Việt Nam ở vị trí chiến lược rất quan trọng giữa Trung Quốc và Đông Nam Á.

Theo tôi nghĩ điều quan trọng nhất là Trung Quốc cũng muốn phản ứng lại trước một loạt những cuộc viếng thăm của các nhà lãnh đạo Mỹ sang Châu Á.
GS Nguyễn Mạnh Hùng
Nếu họ khống chế được Việt Nam họ sẽ khống chế được Đông Nam Á. Dĩ nhiên họ không hy vọng khống chế được Việt Nam; nên họ tìm cách ảnh hưởng rất nhiều đến Việt Nam. Do đó làm các nước Đông Nam Á phải đi theo, đó là mục tiêu, vì thế các quốc gia Đông Nam Á muốn Việt Nam cứng rắn hơn, tức độc lập hơn với Trung Quốc.

Những tuyên bố gần đây của những nhà lãnh đạo Việt Nam cho thấy họ khó có thể nhượng bộ hơn được nữa. Nhất là trong chuyến thăm của ông thứ trưởng quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh để tham gia hội nghị đối tác chiến lược lần thứ hai với Trung Quốc, ông cũng nói rõ khi đến thăm trường đại học Quốc Phòng tại Trung Quốc rằng hai đảng phải liên hệ và khác biệt giữa hai phía là biển đảo. Căn cứ để giải quyết khác biệt đặt trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và độc lập của nhau dựa trên luật quốc tế, dù hai nước có cùng lý tưởng.

Tại Việt Nam trong mùa hè rồi có những cuộc biểu tình chống Trung Quốc, thì tôi nghĩ Việt Nam không thể có những nhượng bộ hơn nữa với phía Trung Quốc. 

Tận dụng cơ hội 

Gia Minh: Sau những phát biểu của giới lãnh đạo Việt Nam như thế, và nay có cuộc viếng thăm của nhân vật sắp trở thành chủ tịch nước và tổng bí thư đảng Trung Quốc như thế, Việt Nam có thể tận dụng cơ hội này để đạt được những điều mong muốn ra sao? 

GS Nguyễn Mạnh Hùng: Tất nhiên Trung Quốc muốn xoa dịu Việt Nam vì sợ Việt Nam đi gần với Mỹ. Vấn đề là họ xoa dịu bằng cách nào và Việt Nam đòi gì? Gần đây chúng ta thấy có người như ông Jerome Cohen tuyên bố tại Hong Kong rằng Trung Quốc có thể nhượng bộ về vấn đề Hoàng Sa vì ông Tập Cận Bình biết luật.

submarine-kilo-636-250.jpg
Tàu ngầm loại kilo 636 Việt Nam mua của Nga. RFA-Screen cap/ hoangsa.org. 

Quan hệ về vấn đề Hoàng Sa là quan hệ về pháp lý, về chủ quyền của Việt Nam và Trung Quốc. Tôi nghĩ, trừ khi ông này có tin tức đặc biệt trong Trung Quốc, đây chỉ là một mơ ước viễn vông mà thôi. Bởi vì nếu chúng ta nhìn vào những chuyện xảy ra trên thế giới thì ta thấy chuyện khó xảy ra.

Như chuyện vào năm 1967 Do Thái chiếm cao điểm Golan của Syria, mà cao điểm này thuộc Syria rõ ràng, họ vẫn không trả lại. Rồi trong trường hợp hồi Đệ nhị Thế chiến Mỹ ‘dụ’ Nga tham dự vào đánh Nhật, Mỹ để cho Nga chiến bốn đảo phía bắc của Nhật. Nhật đòi hoài Nga không trả, chỉ có một lần khi ông Yeltsin định sang Nhật hứa trả hai đảo, đổi lại sự viện trợ rất lớn của Nhật. Nhưng rồi ông Yeltsin cũng không sang thăm được, vì có chống đối, rồi chẳng có gì xảy ra.

Giữa Trung Quốc và Việt Nam, trong cuộc chiến tranh năm 1979, sau đó năm 1984 Trung Quốc chiếm núi Lão Sơn mà đến bây giờ Trung Quốc đâu trả; huống chi Hoàng Sa Trung Quốc cho thuộc chủ quyền của họ. Cái thuộc chủ quyền của mình mà họ không trả thì nói gì đến cái mà họ cho là chủ quyền của họ. Đó là nói về vấn đề lý mà chúng ta thấy trên thế giới. Còn về tình, trong tình trạng dân tộc chủ nghĩa đang lên ở Trung Quốc, còn ông Tập Cận Bình sắp làm chủ tịch rồi, thì ông không có khả năng chính trị để làm chuyện ấy.

Vấn đề đặt ra nếu Việt Nam đòi, thì đòi được gì? Tôi nghĩ nếu Trung Quốc bằng lòng nhượng bộ, thì có một số chuyện mà họ có thể làm.

Việt Nam có thể yêu cầu Trung Quốc điều thứ nhất là ra lệnh cho tờ Hoàn Cầu Thời Báo chấm dứt những luận điệu và đe dọa đánh Việt Nam. Thứ hai, trong điều đình họ có thể định lại một cách bán chính thức vùng đánh cá gần đảo Hoàng Sa.
GS Nguyễn Mạnh Hùng
Thứ nhất trong cuộc gặp giữa ông Nguyễn Phú Trọng và Hồ Cẩm Đào, họ ký thông cáo chung nói để làm giảm căng thẳng - dân chúng không còn tạo căng thẳng hơn, Việt Nam đã dẹp biểu tình rồi, báo chí Việt Nam không chỉ trích Trung Quốc nhiều nữa. Nếu có thể được, Việt Nam có thể yêu cầu Trung Quốc điều thứ nhất là ra lệnh cho tờ Hoàn Cầu Thời Báo chấm dứt những luận điệu và đe dọa đánh Việt Nam. Ít nhất đây là chỉ dấu có thể làm được.

Thứ hai, trong điều đình họ có thể định lại một cách bán chính thức vùng đánh cá gần đảo Hoàng Sa; bớt đòi hỏi của Trung Quốc kéo dài ra, để cho ngư dân Việt Nam có thể đánh cá, kiếm sống gần Hoàng Sa hơn, khỏi bị bắt bớ. Đó là hai điều mà Trung Quốc nếu có thiện chí thì có thể làm được.

Gia Minh: Điều gì có thể thúc đẩy để họ có thiện chí khác với thái độ và hành động mà họ làm lâu nay?

GS Nguyễn Mạnh Hùng: Tại vì Việt Nam đã cứng rắn hơn rồi. Ít nhất Việt Nam cũng làm được ba bốn việc. Thứ nhất Trung Quốc không muốn Việt Nam công khai hóa, thì Việt Nam công khai hóa; Trung Quốc không muốn Việt Nam đa phương hóa, thì Việt Nam đa phương hóa, chỉ có bảo Hoàng sa là vấn đề riêng giữa hai nước nên ‘nói’ song phương, còn Trường Sa là nhiều nước nên phải đa phương. Trung Quốc không muốn Việt Nam đi gần với Mỹ, thì Việt Nam đi gần với Mỹ. Việt Nam còn đi mua vũ khí để củng cố khả năng quốc phòng của mình.

Đối với việc biểu tình chống Trung Quốc nếu Việt Nam nhất định đàn áp cũng được, nhưng họ cũng để cho biểu tình. Trung Quốc thấy nhu cầu của chính phủ Việt Nam hiện nay không thể nào làm nhiều nhượng bộ hơn được. Nếu họ muốn có cảm tình của Việt Nam, muốn Việt Nam còn thân hữu với Trung Quốc, dĩ nhiên họ phải mềm dẻo lại. Chúng ta thấy Trung Quốc rất giỏi, họ tính chuyện rất lâu dài, ‘mềm nắn, rắn buông’. Nếu Việt Nam ‘rắn’, họ có thể hòa hoãn lại, có thể làm một số nhượng bộ nhỏ thôi.

Gia Minh: Cám ơn Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng về những phân tích đối với chuyến đi Việt Nam sắp đến của ông Tập Cận Bình.
Nguồn: RFA.  
 

TRUNG QUỐC SẼ ĐƯA TÀU THĂM DÒ BIỂN SÂU XUỐNG BIỂN ĐÔNG

Trung Quốc sẽ đưa tàu thăm dò biển sâu xuống Biển Đông 

Tàu lặn Giao Long (video truyền hình Trung Quốc). Ảnh minh họa
Tàu lặn Giao Long (video truyền hình Trung Quốc). Ảnh minh họa

Trọng Nghĩa
 
Chủ trương khống chế tài nguyên dầu khí dưới lòng Biển Đông của Bắc Kinh ngày càng rõ nét. Sau khi quyết định đưa giàn khoan nước sâu khổng lồ CNOOC 981 xuống Biển Đông trong một hai tuần lễ sắp tới đây, ngày 15/12/2011 vừa qua, Trung Quốc đã cho xuất xưởng một chiếc tàu thăm dò biển sâu tối tân cũng sẽ hoạt động tại vùng Biển Đông.

Theo hãng tin Trung Quốc Tân Hoa Xã, con tàu thăm dò mang ký hiệu HYSY708 đã được xưởng đóng tàu Hoàng Phố ở Quảng Châu, thủ phủ tỉnh Quảng Đông (miền Nam Trung Quốc) bàn giao cho khách hàng là Công ty Dịch vụ Dầu khí Trung Quốc COSL. Đây là một tàu thăm dò thuộc loại hiện đại nhất do chính Trung Quốc chế tạo.

Dài 105 m, rộng 23,4m, trọng tải 11.600 tấn, con tàu có khả năng thăm dò ở độ sâu 3.000m dưới mặt biển, và khoan sâu 600 m dưới lòng biển. Tàu đã được thiết kế và trang bị bằng công nghệ tối tân để thực hiện việc thăm dò địa chất và địa chấn ở các vùng biển nước sâu.

Theo các nguồn tin từ tập đoàn chế tạo ra chiếc tàu này, sản phẩm của họ đã bổ khuyết một lỗ hổng của Trung Quốc trong lãnh vực thăm dò các vùng biển nước sâu. Các nguồn tin trên xác định rằng con tàu này sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc thăm dò và khai thác nguồn tài nguyên dầu khí tại vùng Biển Đông.

Việc cho chiếc tàu thăm dò hiện đại này xuống hoạt động ở vùng Biển Đông là một bước mới của Trung Quốc trong chiến lược khống chế tài nguyên dầu khí tại vùng Biển Đông, nơi mà Bắc Kinh tự nhận chủ quyền trên 80% diện tích, bất chấp phản đối của các láng giềng, từ Việt Nam, Philippines, Malaysia cho đến Brunei và Đài Loan.

Bước này đã tiếp nối theo quyết định đưa giàn khoan nước sâu đầu tiên của Trung Quốc xuống hoạt động tại Biển Đông.

Như RFI đã loan tin, một viên chức tập đoàn dầu hỏa Trung Quốc CNOOC, hôm thứ Ba 06/12/2011 vừa qua, đã tiết lộ là giàn khoan mang ký hiệu 981 của họ sẽ khoan mũi đầu tiên ở vùng phía Bắc Biển Đông « vào cuối tháng này hay đầu tháng Giêng ».

Điểm giống nhau giữa giàn khoan CNOOC 981 và tàu thăm dò HYSY708 là cả hai đều do Trung Quốc tự chế tạo, giúp cho nước này khỏi bị lệ thuộc vào nước ngoài, khi tiến hành hoạt động tại những vùng có tranh chấp.

Một bài viết trên Hoàn Cầu Thời Báo Global Times hồi tháng Năm vừa qua đã công khai khẳng định ý đồ của Trung Quốc, khi nói rõ là giàn khoan nước sâu sẽ giúp Bắc Kinh hiện diện mạnh mẽ tại vùng phía nam Biển Đông. Một chuyên gia Trung Quốc khi trả lời tờ báo, đã không ngần ngại tuyên bố : « Bây giờ khi đã có công nghệ để khai thác nguồn tài nguyên ở Biển Đông, Trung Quốc cần nỗ lực bảo vệ hoạt động của mình và răn đe các nước khác, không cho họ khai thác trái phép ».