Thứ Ba, 13 tháng 12, 2011

MỘT CÚ TÁT TRỜI GIÁNG VÀO MẶT CÁC "HỌC GIẢ LƯỠI BÒ" TRUNG QUỐC

Tri thức Việt ‘tát’ một cú trời giáng vào mặt các ‘học giả lưỡi bò’ của Trung Quốc thông qua tạp chí Science

 

Như chúng ta đã biết, trong thời gian qua tri thức Việt đã nhiều lần lên tiếng cảnh báo và yêu cầu các tạp chí khoa học quốc tế phải có hành động bảo vệ sự liêm chính của môi trường khoa học quốc tế trước việc các học giả Trung Quốc (TQ) lấp liếm chèn đường lưỡi bò phi pháp vào các ấn phẩm khoa học của họ khi gửi công bố trên các tạp chí quốc tế.

Tri thức Việt đã thu được những thắng lợi quan trọng. Một thắng lợi chấn động cả cộng đồng khoa học quốc tế là tạp chí lừng danh Nature đã lên án hành động lấp liếm và phản khoa học cuả các học giả TQ về vấn đề trên, và cũng tuyên bố “sẽ không có chổ cho đường lưỡi bò” trên tạp chí này.

Một tạp chí lừng danh khác là tạp chí Science bị phản đối và cũng đã nhận thức được tính phi pháp của đường lưỡi bò. Tạp chí này cũng đã ra tuyên bố về vấn đề này. Tuy nhiên tạp chí này có phần hơi lấp liếm, kiểu như “có thể đã có sự hiểu nhầm”, “Science không đứng về bên nào” hay “chúng tôi sẽ xem lại quy trình … để tránh lặp lại …”. Theo người viết, dù Science không nói rõ nhưng họ sẽ không đăng bài có đường lưỡi bò phi pháp của các học giả TQ.

Trước sự lấp liếm của Science, nhiều nhà khoa học đã tiếp tục phản đối và yêu cầu Science phải giải thích rõ ràng hơn về lập trường của họ đối với đường lưỡi bò.

Mới đây, một bức thư phản đối của GS Phạm Quang Tuấn (Úc) và một số tri thức Việt đã được Science công bố sau nhiều lần trì hoãn. Bức thư giải thích tính phi pháp của đường lưỡi bò bị chèn vào các ấn phẩm khoa học từ TQ, cũng như lên án hành động phản khoa học, nghi ngờ mưu đồ chính trị của các học giả TQ.


Đây có thể nói là một thắng lợi cực kỳ quan trọng nữa của tri thức Việt trong quá trình đấu tranh xóa đường lưỡi bò của TQ trên phạm vi toàn cầu. Và cũng là một cú ‘tát’ trời giáng của tri thức Việt vào mặt các ‘học giả lưỡi bò’, tác giả của các bài báo khoa học có chèn đường lưỡi bò phi pháp, của Trung Quốc thông qua tạp chí Science.

Xin điểm qua những chi tiết quan trọng trong bức thư của tri thức Việt được đăng trên Science – Phản hồi bài “Lịch sử nhân khẩu học của Trung Quốc và thách thức trong tương lai” của X. Peng, đăng trên Science vào ngày 29 tháng 7 năm 2011, số trang 1581-587 (xem file pdf):
  1. Các bản đồ của Trung Quốc có một đường cong hình chữ U hay còn gọi là đường lưỡi bò kèm theo gần như ôm trọn Biển Đông và các đảo trong đó (quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa), rõ ràng ngụ ý rằng các khu vực được tô màu trong đường cong này thuộc về TQ. Tuy nhiên, các quần đảo này thuộc các vùng lãnh thổ đang bị tranh chấp giữa TQ, Việt Nam, Philippines, Malaysia, và Đài Loan. Vì thế việc cho rằng các quần đảo này là lãnh thổ TQ một cách không thể chối cãi là có vấn đề, đặc biệt là khi chúng gần như không có người ở và không liên quan đến nghiên cứu dân số trong bài báo.
  2. Đường cong hình chữ U trong bản đồ thì thực sự ít thuyết phục. Nó chỉ xuất hiện trong các bản đồ TQ và chỉ được tuyên bố bởi các tác giả TQ để biểu thị đường ranh giới hàng hải truyền thống của TQ. Nó được sử dụng chính thức bởi TQ để khẳng định “quyền chủ quyền và quyền tài phán” đối với các nguồn tài nguyên của biển Nam Trung Hoa hay Biển Đông. Bất cứ nơi nào nó xuất hiện, đường cong này ngang nhiên vi phạm vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý (EEZ) các nước khác được công nhận bởi luật pháp quốc tế. Nó mở rộng vượt ra ngoài đường trung tâm giữa các đảo đang bị tranh chấp và bờ biển của các quốc gia khác, và do đó hình thành một yêu sách rộng lớn hơn nhiều so với các vùng nước liên quan đến các quần đảo này.
  3. Tuyên bố đơn phương của TQ đối với các vùng biển mở rộng là chưa từng có trong lịch sử thế giới và vi phạm Luật Biển của Liên Hợp Quốc, mà tất cả các quốc gia xung quanh Biển Đông, bao gồm TQ, đã phê chuẩn. Việc TQ đẩy tuyên bố này một cách cương quyết là không nghi ngờ, bằng chứng là các sự cố gần đây trong đó các tàu TQ quấy rối tàu thăm dò dầu Việt Nam bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
  4. Không một quốc gia nào công nhận biên giới biển hình chữ U của TQ. Indonesia và Việt Nam đã chính thức bày tỏ mối quan ngại. Thượng viện Mỹ đã thông qua một nghị quyết nhất trí lên án hành động của TQ. Không có sự biện minh nào cho một chi tiết gây tranh cãi và phi pháp (trong điều khoản của luật pháp quốc tế) trong một bài báo mang tính học thuật. Người ta chỉ có thể hy vọng rằng sự hiện diện của chi tiết này không phải do áp lực chính trị.
Science đã giật tít “Concern over the South China Sea” tức “Quan ngại về Biển Nam Trung Hoa” chứng tỏ họ đã không nhẫn tâm xem nhẹ sự liêm khiết trong môi trường học thuật. Động thái này chứng tỏ rằng Science đã bị khuất phục bởi các tri thức Việt, buộc họ phải tôn trọng tính chân thật trong khoa học và phải giữ cho môi trường xuất bản các ấn phẩm khoa học không bị hoen ố bởi những mục tiêu chính trị.

Việc Science cho đăng bức thư trên ngay sau bài báo của Peng trên Science càng làm cho các học giả lưỡi bò của TQ thêm nhục nhã. Họ sẽ phải tự suy nghĩ lại: tiếp tục ôm mộng đường lưỡi bò phi pháp và chịu sự khinh bỉ của cộng đồng khoa học quốc tế, hay từ bỏ hành động chèn đường lưỡi bò vào các ấn phẩm khoa học.


Như vậy đến thời điểm này, hai tạp chí vào hàng bậc nhất trong khoa học, Nature và Science, đã tỏ rõ thái độ không chấp nhận đối với đường lưỡi bò phi pháp của TQ trong các ẩn phẩm khoa học. Đây sẽ là lí do để các tạp chí khác có quyền tẩy chay các bài báo có đường lưỡi bò từ TQ, bởi một tạp chí khoa học nghiêm túc không bao giờ chấp nhận bị lợi dụng bởi những mục tiêu chính trị và không bao giờ muốn những ấn phẩm của họ bị phản đối.

Xin chúc mừng các tri thức Việt về thắng lợi quan trọng này. Xin chân thành cảm ơn GS. Phạm Quang Tuấn đã kiên trì trong quá trình thuyết phục Science tôn trọng sự liêm khiết trong môi trường khoa học.

Trong bài tới, người viết sẽ tường thuật lại quá trình “tranh luận” giữa GS. Phạm Quang Tuấn và Jennifer Sills, phó biên tập trang thư của Science. Đây sẽ là những kinh nghiệm quí báu cho những người có quan tâm đến việc đấu tranh xóa đường lưỡi bò phi pháp.

Vài nét về Science:
Tạp chí Science do Hiệp hội Mỹ vì sự tiến bộ của Khoa học xuất bản. Có thể nói đây là một tạp chí khoa học đa ngành hàng đầu, sau Nature. Chỉ số trích dẫn, impact factor, năm 2010 của tạp chí này là 31.377, xếp thứ 2 sau Nature trong danh sách các tạp chí đa ngành. Giống như Nature, Science nhận công bố những phát minh lớn trong hầu hết các lĩnh vực. Tác giả có công trình trên Science thường rất dễ thăng tiến trong sự nghiệp khoa học hoặc thường được trao các giải thưởng lớn trong khoa học.

 
Viết xong bài thì đã 4 giờ sáng, nhưng người viết vẫn chưa thấy mệt. Có lẽ cái vui đã át cái mệt.
***
TS. Lê Văn Út, ĐH Oulu, Phần Lan,

***
Bổ sung: Tài liệu tham khảo cho thư phản đối Science
1. J. Li, D. Li, Ocean Dev. Int. Law 34, 287 (2003).
2. China’s Communication to the Commission on the Limits of the Continental Shelf (CLCS), 7 May 2009; www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/chn_2009re_mys_vnm_e.pdf.
3. United Nations Convention on the Law of the Sea (UNCLOS); www.un.org/Depts/los/convention_agreements/texts/unclos/closindx.htm.
4. “Vietnam says China fishing boat rams research ship,” The Straights Times, 9 June 2011; www.straitstimes.com/BreakingNews/SEAsia/Story/STIStory_678024.html.
5. Indonesia’s Communication to the Commission on the Limits of the Continental Shelf (CLCS), 8 July 2010; www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/idn_2010re_mys_vnm_e.pdf.
6. The Philippines’s Communication to the Commission on the Limits of the Continental Shelf (CLCS), 5 April 2011; www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/phl_re_chn_2011.pdf.
7. Sen. J. Webb, “U.S. Senate unanimously ‘deplores’ China’s use of force in South China Sea,” 27 June 2011; http://webb.senate.gov/newsroom/pressreleases/06-27-2011.cfm.
.
BÁO CHÍ  ĐƯA TIN

Tạp chí Science đăng tải “Quan ngại về đường lưỡi bò”

TTO – Tạp chí Science (Khoa Học) đã đăng tải bức thư phản đối của giáo sư Phạm Quang Tuấn, Trường ĐH New South Wales (Úc), phản đối bài viết của các học giả Trung Quốc đề cập “đường lưỡi bò”.

Đây là một trong những tạp chí khoa học đa ngành uy tín nhất thế giới do Hiệp hội Mỹ vì sự tiến bộ của khoa học xuất bản.

Trong mục thư điện tử của tạp chí, bức thư của giáo sư Phạm Quang Tuấn cùng một số trí thức Việt Nam và Việt kiều, giải thích tính phi pháp của “đường lưỡi bò” bị chèn vào các ấn phẩm khoa học từ Trung Quốc.

>> Xem bài tiếng Anh tại đây
.
Bài của giáo sư Phạm Quang Tuấn trên Science

Nhóm tác giả cho rằng việc tác giả Trung Quốc đưa bản đồ có “đường lưới bò” vào bài viết, với hàm ý khẳng định các quần đảo này là lãnh thổ Trung Quốc “là điều đáng phải đặt câu hỏi, đặc biệt là khi các quần đảo gần như không có người ở và không liên quan đến nghiên cứu dân số trong bài báo”.


Bức thư tiếp: “Tuyên bố đơn phương của Trung Quốc đối với các vùng biển mở rộng là chưa từng có trong lịch sử thế giới và vi phạm Luật biển của Liên Hiệp Quốc vốn đã được tất cả quốc gia xung quanh biển Đông, kể cả Trung Quốc, phê chuẩn”.

Giới trí thức Việt Nam nhận định đây là một kết quả đáng khích lệ trong quá trình khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông.

Tiến sĩ Lê Văn Út từ ĐH Oulu (Phần Lan) nhận định các trí thức Việt Nam đã buộc tạp chí Khoa Học phải giữ môi trường xuất bản các ấn phẩm khoa học không bị hoen ố bởi những mục tiêu chính trị.
K.L.
******************
*

Thắng lợi mới: Tạp chí Science “lật tẩy” đường lưỡi bò

12/12/2011 11:32:26

Bee.net.vn - Mới đây, một bức thư phản đối về đường lưỡi bò phi lý của GS Phạm Quang Tuấn (Úc) và một số tri thức Việt đã được Tạp chí Science công bố sau nhiều lần trì hoãn. Bức thư giải thích tính phi pháp của đường lưỡi bò bị chèn vào các ấn phẩm khoa học từ Trung Quốc, cũng như lên án hành động phản khoa học, nghi ngờ mưu đồ chính trị của các học giả Trung Quốc.
TIN LIÊN QUAN
Xin điểm qua những chi tiết quan trọng trong bức thư của tri thức Việt được đăng trên Science – Phản hồi bài “Lịch sử nhân khẩu học của Trung Quốc và thách thức trong tương lai” của X. Peng, đăng trên Science vào ngày 29 tháng 7 năm 2011, số trang 1581-587:

1. Các bản đồ của Trung Quốc có một đường cong hình chữ U hay còn gọi là đường lưỡi bò kèm theo gần như ôm trọn Biển Đông và các đảo trong đó (quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa), rõ ràng ngụ ý rằng các khu vực được tô màu trong đường cong này thuộc về Trung Quốc. Tuy nhiên, các quần đảo này thuộc các vùng lãnh thổ đang bị tranh chấp giữa Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Malaysia, và Đài Loan (Trung Quốc). Vì thế việc cho rằng các quần đảo này là lãnh thổ Trung Quốc một cách không thể chối cãi là có vấn đề, đặc biệt là khi chúng gần như không có người ở và không liên quan đến nghiên cứu dân số trong bài báo.
.
Bài báo Quan ngại về
Bài báo Quan ngại về Biển Đông trên Science.

2. Đường cong hình chữ U trong bản đồ thì thực sự ít thuyết phục. Nó chỉ xuất hiện trong các bản đồ Trung Quốc và chỉ được tuyên bố bởi các tác giả Trung Quốc để biểu thị đường ranh giới hàng hải truyền thống của Trung Quốc. Nó được sử dụng chính thức bởi Trung Quốc để khẳng định “quyền chủ quyền và quyền tài phán” đối với các nguồn tài nguyên của biển Biển Đông. Bất cứ nơi nào nó xuất hiện, đường cong này ngang nhiên vi phạm vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý (EEZ) các nước khác được công nhận bởi luật pháp quốc tế. Nó mở rộng vượt ra ngoài đường trung tâm giữa các đảo đang bị tranh chấp và bờ biển của các quốc gia khác, và do đó hình thành một yêu sách rộng lớn hơn nhiều so với các vùng nước liên quan đến các quần đảo này.

3. Tuyên bố đơn phương của Trung Quốc đối với các vùng biển mở rộng là chưa từng có trong lịch sử thế giới và vi phạm Luật Biển của Liên Hợp Quốc, mà tất cả các quốc gia xung quanh Biển Đông, bao gồm Trung Quốc, đã phê chuẩn. Việc Trung Quốc đẩy tuyên bố này một cách cương quyết là không nghi ngờ, bằng chứng là các sự cố gần đây trong đó các tàu Trung Quốc quấy rối tàu thăm dò dầu Việt Nam bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

4. Không một quốc gia nào công nhận biên giới biển hình chữ U của TQ. Indonesia và Việt Nam đã chính thức bày tỏ mối quan ngại. Thượng viện Mỹ đã thông qua một nghị quyết nhất trí lên án hành động của TQ. Không có sự biện minh nào cho một chi tiết gây tranh cãi và phi pháp (trong điều khoản của luật pháp quốc tế) trong một bài báo mang tính học thuật. Người ta chỉ có thể hy vọng rằng sự hiện diện của chi tiết này không phải do áp lực chính trị.

Science đã giật tít “Concern over the South China Sea” tức “Quan ngại về Biển Đông” chứng tỏ họ đã không nhẫn tâm xem nhẹ sự liêm khiết trong môi trường học thuật. Động thái này chứng tỏ rằng Science đã bị khuất phục bởi các tri thức Việt, tôn trọng tính chân thật trong khoa học và phải giữ cho môi trường xuất bản các ấn phẩm khoa học không bị hoen ố bởi những mục tiêu chính trị.

Như vậy đến thời điểm này, hai tạp chí vào hàng bậc nhất trong khoa học, Nature và Science, đã tỏ rõ thái độ không chấp nhận đường lưỡi bò phi pháp của Trung Quốc trong các ẩn phẩm khoa học. Đây sẽ là lí do để các tạp chí khác có quyền tẩy chay các bài báo có đường lưỡi bò từ Trung Quốc, bởi một tạp chí khoa học nghiêm túc không bao giờ chấp nhận bị lợi dụng bởi những mục tiêu chính trị và không bao giờ muốn những ấn phẩm của họ bị phản đối.

Như chúng ta đã biết, trong thời gian qua tri thức Việt đã nhiều lần lên tiếng cảnh báo và yêu cầu các tạp chí khoa học quốc tế phải có hành động bảo vệ sự liêm chính của môi trường khoa học quốc tế trước việc các học giả Trung Quốc lấp liếm chèn đường lưỡi bò phi pháp vào các ấn phẩm khoa học của họ khi gửi công bố trên các tạp chí quốc tế.

Tri thức Việt đã thu được những thắng lợi quan trọng. Một thắng lợi chấn động cả cộng đồng khoa học quốc tế là tạp chí lừng danh Nature đã lên án hành động lấp liếm và phản khoa học cuả các học giả TQ về vấn đề trên, và cũng tuyên bố “sẽ không có chổ cho đường lưỡi bò” trên tạp chí này.

Tạp chí Science bị phản đối và cũng đã nhận thức được tính phi pháp của đường lưỡi bò. Tạp chí này cũng đã ra tuyên bố về vấn đề này. Tuy nhiên tạp chí này có phần hơi lấp liếm, kiểu như “có thể đã có sự hiểu nhầm”, “Science không đứng về bên nào” hay “chúng tôi sẽ xem lại quy trình … để tránh lặp lại …”.

Theo người viết, dù Science không nói rõ nhưng họ sẽ không đăng bài có đường lưỡi bò phi pháp của các học giả Trung Quốc. Nhưng nhiều nhà khoa học đã tiếp tục phản đối và yêu cầu Science phải giải thích rõ ràng hơn về lập trường của họ đối với đường lưỡi bò và đến nay đã đạt được kết quả nói trên.

Đây có thể nói là một thắng lợi cực kỳ quan trọng nữa của tri thức Việt trong quá trình đấu tranh xóa đường lưỡi bò của Trung Quốc trên phạm vi toàn cầu.
Kỳ tới: Tường thuật lại quá trình “tranh luận” giữa GS. Phạm Quang Tuấn và biên tập viên của Science
TS Lê Văn Út, ĐH Oulu, Phần Lan

Related articles

Thứ Hai, 12 tháng 12, 2011

KHẢO CỔ HỌC: CHIẾC THẠP ĐỒNG ĐÔNG SƠN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN TRIỆU ĐÀ

Chiếc thạp đồng Đông Sơn có liên quan đến Triệu Đà


(Tamnhin.net) - Chúng tôi đã theo đuổi chiếc thạp đẹp này từ gần chục năm nay. Người sưu tầm được chúng là một nhà sưu tầm Việt kiều Pháp. Hiện tại chiếc thạp thuộc về Bảo tàng Barbier-Mueller (Geneva - Thuỵ Sĩ).

Tôi được mời sang thăm Bảo tàng năm 2001 và hân hạnh được ông Jean-Paul Barbier-Mueller, một nhà nhân học đồng thời là chủ nhân Bảo tàng trực tiếp giới thiệu sưu tập thạp đồng quý giá của ông. Xin mở ngoặc để giới thiệu, chính ông cũng là người đã sưu tầm chiếc trống Đông Sơn vào loại lớn nhất (đường kính mặt 158 cm) tại Indonesia và khi Bảo tàng Nhân học ở Quai Branly (Paris) thành lập, ông đã tặng nó cho Bảo tàng này, và hiện nó được trưng bầy ở vị trí trang trọng nhất mở đầu cho phần trưng bày về Đông Nam Á. 

Chiếc thạp tôi muốn nói tới mang ký hiệu BMM-2505-29, cao 42cm, nặng 11,500 kg (không kể phần nắp đã mất), thuộc loại thạp có vành gờ miệng đậy nắp đồng. Thạp có đôi quai hình chữ U ngược trang trí bện thừng và hoa văn nổi hình chữ S rất tinh tế. Ở giữa mỗi quai hình chữ U ngược là một quai vành khuyên bốn ngấn. Cụm quai này tạo bởi khuôn rời nên đã làm hỏng phần băng hoa văn phức hợp gồm hai băng chấm rải, hai băng răng cưa bọc lấy đồ án chính là băng hình chữ S nằm biến thể thành dạng ô trám.

 
Thạp đồng Đông Sơn mang ký hiệu BMM-2505-29

Chính giữa thân thạp là băng gồm 4 hình thuyền chiến với kiểu tạo hoa văn in chìm rất giống thạp Hợp Minh (Yên Bái) và mộ Việt Vương (Văn Đế Triệu Muội) ở Quảng Châu. Đây là những thuyền chiến chở chiến binh mang rìu chiến kiểu gót hài, có lầu với người đứng bắn cung nỏ ở trên và đồ đồng lớn bên dưới, có trống trụ ở giữa thuyền, nơi thường trói một tù binh quay mặt ngược với chiến binh. Điều đáng nói nhất là sự thể hiện rất rõ nét hình tượng tù binh bị trói gập cánh khuỷu và chiến binh Đông Sơn tay cầm đầu lâu cũng như đầu lâu treo trước mũi thuyền – cái mà một số nhà nghiên cứu đã từng lầm tưởng là mái chèo mũi thuyền trên một số trống đồng. Gần sát đáy là băng phức hợp được tạo bởi năm băng gồm hai chấm rải, hai vòng tròn tiếp tuyến có chấm giữa bọc lấy băng rộng trơn không có hình. 

Giá trị nhất của chiếc thạp còn là một dòng gồm 22 chữ Hán chạy song song ở phần trống gần sát gờ miệng. Chính đây là cơ sở để chúng tôi nêu giả thuyết về chủ nhân chiếc thạp có thể là Triệu Đà, người sáng lập triều đình Nam Việt vào cuối thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên. Những dòng chữ này đã được tôi dịch và giới thiệu trên tạp chí Khảo cổ học (số 5-2007), khi đó chữ thứ hai trong số 22 chữ này vẫn còn để trống. Gần đây, trong khi tiếp tục theo đuổi giải nghĩa chữ này, tôi đã nhận thấy tự dạng chữ này khá gần với chữ „Xoang“, và hai chữ đầu chỉ địa danh của 22 chữ trên miệng thạp có thể đọc là „Long Xoang“. 

          Toàn bộ 22 chữ trên thạp BMM2505-29 có thể phục hồi như sau: 

龍 xoang  重 六 (衡)  名 曰 果  第 未 五 十 二  容 一 廿 一 斗 七 升 半 升

(Phiên âm Hán Việt : Long Xoang trọng lục hoành danh viết quả đề vị ngũ thập nhị dung nhất trấp nhất đấu thất thăng bán thăng. Dịch nghĩa : Thạp Long Xuyên, nặng sáu hoành, tên gọi là “Quả”, là đồ vật thứ 52,  chứa được 21 đấu bảy thăng rưỡi)

 

Chi tiết một số minh văn khắc trên vành miệng thạp “Long Xoang” 

Dưới đây, tôi trình bày một số cơ sở làm chỗ dựa cho việc dự đoán mối quan hệ giữa chiếc thạp này với Triệu Đà. 

Thứ nhất là sự gần gũi giữa chiếc thạp này với chiếc thạp trong mộ Việt vương Văn đế Triệu Muội ở Quảng Châu. Triệu Muội là con của Thái tử Thủy (Trọng Thủy), tức là cháu ruột của Triệu Đà, lên ngôi khi Triệu Đà mất năm 138 tr.Cn. Triệu Muội mất vào năm 122 tr.Cn. Vì lý do nào đó, hai tai quai hình chữ U lộn ngược của thạp Triệu Muội bị cắt cụt một nửa đều nhau. Về kích thước, trang trí và cấu trúc có thể thấy hai thạp này như hai anh em sinh đôi (chiều cao chỉ chênh nhau 1 cm). Sự giống nhau ở cả những chi tiết cấu trúc các vành hoa văn và nhất là ở nội dung và kiểu thể hiện băng thuyền người ở giữa thân thạp. So sánh chi tiết hai thạp đã cho phép nghĩ rằng chúng được làm ra từ hai khuôn đúc khác nhau nhưng cùng một lúc trong cùng một xưởng bởi cùng một người thợ cả.

Thứ hai, chữ Long Xoang trên thạp BMM-2505-29 có thể là cách ghi âm bằng chữ Hán tên huyện Long Xuyên, nơi Triệu Đà làm huyện lệnh  trước khi thay Nhâm Ngao làm Hiệu Uý quản Nam Hải rồi lập nước Nam Việt. Nhiều khả năng chiếc thạp này (cũng như thạp Triệu Muội) được đúc trong những năm khi Triệu Đà mới cùng quân Tần xuống cai quản vùng huyện Long Xuyên của quận Nam Hải (trong khoảng từ năm 214 trước Công nguyên, khi nhà Tần bình xong Dương Việt đến năm 209 trước Công nguyên, khi Triệu Đà rời Long Xuyên về Phiên Ngung thay Nhâm Ngao). Khoảng thời gian này Triệu Đà là người Hoa Hạ vừa mới xuống vùng Bách Việt nên mới có dòng chữ :“Danh Viết Quả“ ( 名 曰 果 ). – Tên (thạp) gọi là Quả nhằm ghi tiếng địa phương dùng để gọi chiếc thạp.Chiếc thạp trong mộ Triệu Muội có thể là do Triệu Đà ban tặng.

Đơn vị đo lường thạch, thăng, đấu ... trên thạp BMM 2505-29 hoàn toàn giống đơn vị đo lường Nam Việt thể hiện trên minh văn đồ đồng khai quật trong các mộ đương thời. 

Chủ nhân chiếc thạp BMM 2505-29 phải là người rất giàu có. Chiếc thạp này có dòng ghi số hiệu :“Đệ vị ngũ thập nhị“( 第 未 五 十 二 ), tức là đồ vật đứng thứ 52. Cách ghi này tương tự cách thống kê đồ vật tuỳ táng trong mộ một huyện lệnh người Hán khác đương thời ở Quý Huyện – La Bạc Loan và mộ Nam Việt Văn Đế Triệu Muội.

Triệu Đà và quan lại người Hán ở nước Nam Việt chịu rất nhiều ảnh hưởng của văn hoá Việt. Bản thân ông lấy vợ người Việt (hiện có đền thờ phu nhân người Việt của Triệu Vũ Đế ở Đồng Xâm, Kiến Xương, Thái Bình). Các con, cháu, chắt của ông cũng đa phần lấy vợ người Việt. Trống đồng, thạp đồng là những báu vật Đông Sơn được chôn theo trong mộ vua quan nước Nam Việt.

 
Hoa văn thuyền chiến trang trí trên thạp “Long Xoang”

Có một vấn đề thú vị đặt ra là nơi phát hiện chiếc thạp này. Theo thông tin từ những người sưu tầm, thạp này đào được ở vùng Thanh Hóa. Không có lý gì mộ táng Triệu Đà lại ở Thanh Hóa. Theo sử cũ thì khi chết Triệu Đà được chôn ở Phiên Ngung (Quảng Châu hiện nay). Nhờ sự chỉ dẫn của những người sưu tầm, tháng 11 năm 2010, tôi đã đến tận nơi đã khai quật được chiếc thạp này, đó là vùng Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Tại đây đã từng phát hiện được khá nhiều thạp đồng, trong đó có chiếc thạp lớn, trang trí đẹp, tương tự như chiếc thạp của Triệu Đà, hiện đang bày tại Bảo tàng Thanh Hóa. Xuân Lập nổi tiếng là vùng đất lưu giữ rất nhiều đồ đồng Đông Sơn quý giá. Theo chúng tôi, đây là một căn cứ của các thủ lĩnh Âu Lạc trên đường rút khỏi lưu vực sông Hồng do sức ép của quân Nam Việt. 

Nhưng tại sao thạp Triệu Đà lại lọt vào tay các thủ lĩnh Âu Lạc.  Quan hệ giữa Triệu Đà và nước Âu Lạc đã được sử gia Tư Mã Thiên, người được sinh ra gần như cùng thời với đoạn cuối của nước Nam Việt, ghi chép trong cuốn Sử Ký nổi tiếng của ông. Trong đó, đoạn nói về việc Triệu Đà thu phục Âu Lạc có câu : Triệu Đà dùng của cải áp phục Tây Âu Lạc. Như vậy, rất có thể để mở rộng đế chế Nam Việt nhằm đối phó với Lữ Hậu nhà Tây Hán, Triệu Đà đã phải đem một số tài sản, của cải để thu phục các thủ lĩnh Âu Lạc. Chiếc thạp “Long Xoang” nói trên có thể là một trong số đồ vật quý giá đã được Triệu Đà sử dụng cho mục đích đó. Sự kiện này phải diễn ra trước năm 179 trước Công nguyên là thời điểm được coi như Triệu Đà đã sáp nhập Âu Lạc vào Nam Việt. Sau này, khi phải rút khỏi thành Cổ Loa, chiếc thạp này  đã theo chân các thủ lĩnh Âu Lạc chạy về phía Nam và nằm lại ở đất Xuân Lập.    

 Lan Việt
Nguồn: Tầm Nhìn.net.

"ĐẠO" SÁCH CỦA ĐỒNG NGHIỆP CŨ ĐỂ LÀM LUẬN ÁN TIẾN SĨ?

“Đạo” sách làm luận án tiến sĩ?

Chủ Nhật, 11/12/2011 23:34 

Nghiên cứu sinh Võ Văn Lý cho rằng việc giống nhau từng chữ ở một số đoạn trong luận án là sự trùng hợp ngẫu nhiên (?!)

Ông Lê Minh Phước khẳng định nghiên cứu sinh Võ Văn Lý đã lấy nhiều đoạn trong cuốn sách của ông để đưa nguyên xi vào luận án. Ảnh: Huy Lân
Mới đây, ông Lê Minh Phước, giáo viên Khoa Thể dục - Nhạc - Họa Trường ĐH Đồng Nai, phản ánh với Báo Người Lao Động việc ông Võ Văn Lý, một đồng nghiệp dạy cùng trường, đã sao chép sách của ông để làm luận án tiến sĩ.
Theo đó, tình cờ ông vào website của Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam thì phát hiện trong rất nhiều trang của luận án tiến sĩ “Phát âm tiếng Việt trong nghệ thuật ca hát” của tác giả Võ Văn Lý đã sao chép hầu hết từ cuốn sách Ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy âm nhạc ở trường cao đẳng sư phạm, do ông viết theo yêu cầu dự án đào tạo giáo viên THCS của Bộ GD-ĐT. Cuốn sách này đã đoạt giải nhất Hội thi Sáng tạo kỹ thuật tỉnh Đồng Nai năm 2008. Thậm chí, một số trang cóp lại gần như nguyên bản.
Để chứng minh thêm, ông Phước dẫn ra những đoạn giống nhau đến từng chữ. Chẳng hạn sách của ông có những đoạn như “… Người học không những phải học để phát âm cho đúng cao độ, trường độ, sắc thái… mà còn phải học cách cảm thụ âm nhạc thông qua những bài học theo trình tự có chủ đích. Những giải pháp công nghệ thông tin có thể giúp người học rút ngắn được quá trình đó” thì trong luận án của ông Lý đăng lại không khác một chữ. Thậm chí, nhiều đoạn giống y nguyên cả các ký hiệu hoặc một số câu lệnh lưu tập tin trong phần ứng dụng phần mềm Encore để giảng dạy.
Trước những tố cáo của ông Lê Minh Phước, phóng viên Báo Người Lao Động đã gặp ông Võ Văn Lý. Ông Lý cho rằng những vấn đề ông Phước nêu ra thuộc về kiến thức nên giáo viên ai cũng biết. Việc vì sao lại giống nhau từng chữ ở một số đoạn thì ông Lý cho đó là sự trùng hợp ngẫu nhiên (?!). Ông Lý nói ông không hề biết có cuốn sách của tác giả Lê Minh Phước, nếu biết và sử dụng thì ông đã dẫn nguồn.
Trao đổi với phóng viên, ông Vũ Chí Nguyện, Phó Giám đốc Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, cho biết nguyên tắc bảo vệ luận án phải qua những chu trình hết sức phức tạp và được công khai. Theo yêu cầu của Bộ GD-ĐT, trước khi nghiên cứu sinh bảo vệ luận án một tháng, học viện đã đưa toàn văn cũng như tóm tắt luận án của nghiên cứu sinh Võ Văn Lý lên trang web của trường để mọi người cùng biết và đóng góp ý kiến. Khi bảo vệ, hội đồng có thể thông qua luận án nhưng nghiên cứu sinh phải chỉnh sửa theo yêu cầu của hội đồng trước khi hoàn thiện, nộp lên thư viện quốc gia. Không phải thí sinh cứ bảo vệ xong là được cấp bằng mà phải chờ tối thiểu 3 tháng, nếu không có chuyện gì xảy ra thì mới được cấp bằng. Ông Nguyện cũng cho biết học viện đã nhận được khiếu nại của ông Phước. Đây là thông tin ban đầu nên đúng, sai thế nào chưa thể kết luận được. Học viện đã yêu cầu nghiên cứu sinh Võ Văn Lý giải trình và việc giải trình phải tiến hành khẩn trương.
Huy Lân - Lan Anh
Nguồn: Người lao động

Chân dung tiến sĩ thời nay - tranh của Nguyễn Trung
(Triển lãm Phòng cấp cứu - ĐH Mỹ thuật VN)

THẤT BẠI TẠI BIỂN ĐÔNG, TQ VẪN CHÌM TRONG GIẤC MỘNG

Thất bại tại Biển Đông, TQ vẫn chìm trong giấc mộng

12/12/2011 07:12

(VTC News) - "Dường như không một quốc gia nào ủng hộ lập trường cũng như lối hành xử của Trung Quốc." Bài viết của Viện trưởng Viện Nghiên cứu Đông Á, Đại học Quốc gia Singapore, Trịnh Vĩnh Niên trên Liên hợp Buổi sáng phân tích về nguyên nhân thất bại cũng như đối sách cho Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông.

Bài viết do Nghiên cứu Biển Đông thực hiện.

Thời gian gần đây, mọi người đều vô cùng ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng, đã bao nhiêu năm nay, song song với sự trỗi dậy của Trung Quốc là chuỗi "liên hoàn bại trận" của chính nước này trong các vấn đề về Biển. Đặc biệt bắt đầu từ năm ngoái, xu hướng này ngày càng hiện ra rõ ràng hơn.

Trung Quốc đã nỗ lực theo đuổi chiến lược "Trỗi dậy hòa bình" (Phát triển hòa bình) ngay sau công cuộc cải cách mở cửa. Trên rất nhiều phương diện, Trung Quốc đã từ bỏ chính sách chủ nghĩa đơn phương vốn đã tuân thủ từ rất lâu trước đó, đồng thời phát triển quan hệ hữu nghị đa phương với các nước ASEAN. Khu vực tự do thương mại Trung Quốc-ASEAN cũng đã bắt đầu có hiệu lực. Trong vấn đề tranh chấp Biển Đông, Trung Quốc đã đề xuất chủ trương "Gác tranh chấp chủ quyền, cùng khai thác chung".

Những biện pháp này xét từ góc độ lý thuyết đến thực tiễn áp dụng đã hình thành nên sách lược và kim chỉ nam ngoại giao "Giấu mình chờ thời" của Trung Quốc suốt từ thời Đặng Tiểu Bình đến nay. Thế nhưng, rất nhiều người đã cảm nhận ra rằng, trên rất nhiều vấn đề có liên quan, nếu như Trung Quốc không thể trực diện đối mặt thì sẽ góp phần đẩy chính sách của họ đi theo hướng ngược hẳn lại.

Sự quan tâm chú ý của toàn bộ khu vực Châu Á và cộng đồng quốc tế cho tới thời điểm này đều tập trung vào vấn đề Biển Đông, Biển Đông đột nhiên lại thêm một lần nữa trở thành điểm nóng của thế giới. Chính quyền Trung Quốc dường như lại không hiểu rõ tình trạng hiện nay. Đối với Trung Quốc mà nói, chính sách Biển Đông về bản chất không hề có bất cứ một thay đổi nào, chỉ là các nước có liên quan tiến hành một loạt các hành động không có lợi cho Trung Quốc, và phản ứng của Trung Quốc theo đó cũng chỉ tương đương với hình thức "cứu hỏa" mà thôi.

Trên thực tế, từ rất nhiều năm trở lại đây, chính bởi vì nguyên do Trung Quốc luôn áp dụng các biện pháp bị động đối phó lại khiến cho vấn đề Biển Đông ngày một tích tụ chồng chất lại, và rồi dẫn đến cục diện như ngày hôm nay. Không quan tâm Trung Quốc có muốn hay không, có nắm rõ tình hình hay không, thì Trung Quốc phải đối mặt với những thách thức chưa từng có trong vấn đề Biển Đông này.

Thứ nhất, Trung Quốc sớm đã hoàn toàn thất bại tại cuộc chiến công luận quốc tế

Thất bại tại Biển Đông, TQ vẫn chìm trong giấc mộng
Trong nhiều năm qua, khi Trung Quốc vẫn còn đắm chìm trong thuyết "Trỗi dậy hòa bình" do chính họ tạo dựng nên, thì các quốc gia có liên quan đã nỗ lực với tinh thần cao nhất và chuẩn bị đầy đủ trên trường quốc tế để chờ đợi vấn đề Biển Đông sẽ nổi lên như trong dự tính đã có sẵn. Xét trên hệ thống kiến thức (luật pháp), Trung Quốc hiện nay thật khó khăn để tìm ra được bất kỳ một lực lượng hỗ trợ có hiệu quả nào cho họ.

Về xu hướng các giới truyền thông báo chí không đứng về phía Trung Quốc đã hình thành như hiện nay thì Trung Quốc cũng không có quyền phát biểu tại đây. Các nhà bình luận cho rằng dùng "Chính sách cứng rắn" để mô tả thái độ của Trung Quốc trong tranh chấp Biển Đông là chưa đầy đủ, chính xác phải gọi đó là "mang tính chất tranh cướp" mới đúng.

Trên thực tế, cách nhận thức tương tự như vậy của Trung Quốc đã trở nên khá phổ biến trong cộng đồng quốc tế. Bản thân Trung Quốc lại quả quyết cho rằng họ không làm gì mà lại bị đối xử "oan uổng" như vậy, đây chính là căn nguyên khiến Trung Quốc bị mất quyền phát biểu trong cuộc chiến công luận quốc tế này.

Thứ hai, Trung Quốc cũng thua trận trong cuộc chiến chiến lược

Các nước liên quan đều có những chiến lược khá rõ ràng trong vấn đề tranh chấp Biển Đông, cụ thể bao gồm các chiến lược như chủ nghĩa đa phương tại khu vực, quốc tế hóa, chính trị hóa đại quốc. Thế nhưng chiến lược của Trung Quốc nếu không dám đối mặt với sự thực thì sẽ là nhập nhằng không rõ ràng.

Trung Quốc từ chối chi tiết hóa vấn đề, sử dụng khái niệm "phản đối quốc tế hóa" vô cùng vĩ mô này nhằm che lấp vấn đề cụ thể. Trên thực tế, tranh chấp Biển Đông đã được đa phương hóa, quốc tế hóa từ rất lâu rồi, hơn nữa sẽ rất nhanh tiến đến giai đoạn "chính trị hóa đại quốc" trong thời gian tới. Trung Quốc chỉ là không dám thừa nhận sự thực hiển hiện ra trước mắt này mà thôi.

Thứ ba, nếu tình hình vẫn tiếp diễn như vậy, Trung Quốc sẽ bị ràng buộc để cuối cùng rơi vào tình trạng mất chủ quyền trong cuộc chiến

Như đã đề cập ở phần trên, từ năm ngoái cho đến năm nay, chính sách Biển Đông của Trung Quốc về bản chất không hề có bất cứ một thay đổi nào, mà chủ yếu chỉ là một số hành động mang tính chất phản ứng lại. Thế nhưng cho đến thời điểm này, bất cứ nước nào cũng đều cho rằng Trung Quốc chính là nguyên nhân phát sinh của mọi vấn đề. Tình hình thực tế là, các nước khác có liên quan vẫn đang xúc tiến các hoạt động và hành động trong khu vực tranh chấp Biển Đông, đặc biệt là trong việc phát triển nguồn năng lượng.

Trung Quốc chìm đắm trong "giấc mộng"

Thất bại tại Biển Đông, TQ vẫn chìm trong giấc mộng
Đã nhiều năm nay, trong vấn đề tranh chấp Biển Đông (cũng như trong nhiều vấn đề khác), Trung Quốc dường như luôn sống trong "giấc mộng" mà chính bản thân họ tự vạch ra.
Vậy thì, kết quả cuối cùng sẽ như thế nào đây? Trung Quốc liệu sẽ từ bỏ chăng? Trong giới báo chí truyền thông vô cùng phát triển như ngày hôm nay, phạm vi xu hướng thỏa hiệp mà các nhà cầm quyền có thể áp dụng được ngày một nhỏ, càng không cần nói đến chuyện từ bỏ. Nếu tình hình này vẫn cứ tiếp diễn thì cuối cùng chắc chắn sẽ dẫn đến các cuộc xung đột xảy ra. Tuy nhiên xung đột trong thời gian này sẽ vô cùng bất lợi đối với Trung Quốc.

Vấn đề đã xuất hiện rồi, thì phái có cách đối phó. Nhiệm vụ đầu tiên cần phải làm là tìm hiểu rõ tại sao lại xuất hiện tình trạng như vậy? Ngoài các vấn đề xuất phát từ chính bản thân Trung Quốc thì còn có một số nguyên nhân quan trọng khác nữa. Đối với các nước có liên quan mà nói thì đây là sản phẩm phát sinh từ "môi trường quốc tế" và "môi trường nội bộ".

Đầu tiên đề cập đến môi trường quốc tế. Đối với các quốc gia có liên quan thì nhân tố quan trọng nhất trong môi trường quốc tế không thể không nhắc đến sự trỗi dậy kinh tế của Trung Quốc và kéo théo sau đó là hiện đại hóa nền quốc phòng, quân sự cũng như từ đó tác động đến cục diện địa chính trị của toàn bộ khu vực Châu Á.

Các quốc gia có liên quan đã bắt đầu cảm thấy rằng thời gian không còn đứng về phía họ nữa. Mặc dù Trung Quốc luôn nhấn mạnh về sự "trỗi dậy hòa bình" của mình, thế nhưng họ lại bị coi là đã áp dụng chính sách chậm trễ kéo dài thời gian trong vấn đề Biển Đông nhằm chờ thời cơ cho đến khi tình hình quốc tế thuận lợi sẽ ra tay giải quyết tranh chấp.

Thất bại tại Biển Đông, TQ vẫn chìm trong giấc mộng

Do vậy, đối với các quốc gia có liên quan thì vấn đề Biển Đông bắt buộc phải được giải quyết theo hướng có lợi cho họ trước khi Trung Quốc thực sự trỗi dậy, nếu không, đợi cho đến khi Trung Quốc đã trỗi dậy rồi, tia hy vọng sẽ trở nên vô cùng mong manh. Cũng chính vì thế, bắt buộc phải thông qua bất cứ biện pháp nào để đẩy mạnh hành động, hối thúc phát triển theo khuynh hướng có lợi cho bản thân họ.

Đối với Trung Quốc mà nói, môi trường các nước lớn chủ yếu đề cập đến những biến đổi chính trị trong phạm vi giữa các nước này, đặc biệt là biến đổi trong mối quan hệ với các nước lớn như Mỹ. Trong vấn đề Biển Đông, không quản có muốn hay không thì Trung Quốc chắc chắn vẫn phải đối mặt với Mỹ. Thế nhưng trong quan hệ hai nước Trung - Mỹ thì dù Trung Quốc đã hao tâm tổn trí rất nhiều nhưng vẫn không biết nên làm như thế nào để có thể hòa nhập được cùng Mỹ, đặc biệt là mối quan hệ với Mỹ trong khu vực Châu Á.

Rất nhiều người đã từng nghĩ rằng mục tiêu chủ yếu của Mỹ trong sự hiện diện tại Châu Á này là nhằm đối phó với Trung Quốc, thế nhưng trên thực tế lại không hề đơn giản như vậy. Lý do Mỹ tồn tại ở khu vực Châu Á không chỉ để đối phó với riêng một Trung Quốc, mà còn liên quan đến vấn đề địa chính trị khác. Ví dụ, nếu không có nhân tố Trung Quốc thì Mỹ vẫn đương nhiên tìm ra được lý do để tạo ra không gian sinh tồn tại Châu Á.

Bất luận là khu vực Đông Bắc Á, Đông Nam Á hay Nam Á, mối quan hệ phức tạp đan xen giữa các nước đều cần có sự hỗ trợ sức mạnh của Mỹ để cân bằng lực lượng.

(Còn tiếp)
Đinh Thị Thu (dịch)
Nguồn: Liên hợp Buổi sáng
Nguồn: VTC New.


NGƯ DÂN LÀ CỘT MỐC SỐNG CHỦ QUYỀN LÃNH HẢI TRÊN BIỂN

'Ngư dân là cột mốc sống chủ quyền lãnh hải trên biển'

 

VNE - Làm việc với lãnh đạo tỉnh Quảng Ngãi hôm 11/12, trung tướng Tô Lâm, Thứ trưởng Bộ Công an nhấn mạnh: "Ngư dân là cột mốc sống chủ quyền lãnh hải, nhà nước cần có chính sách bảo đảm an ninh, an toàn trên biển".


Sáng 11/12, đoàn công tác do Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc dẫn đầu đã về Quảng Ngãi kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện nghị quyết số 39 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ. Lãnh đạo các bộ, ngành trung ương và địa phương khẳng định vai trò quan trọng của ngư dân trên biển Đông và đề xuất chiến lược phát triển biển đảo trong thời gian tới. 
.
Tàu thuyền xa bờ đang neo đậu ở gần khu vực ngọn Hải đăng, xã An Hải, huyện đảo Lý Sơn(Quảng Ngãi). Ảnh: Trí Tín
Tàu thuyền xa bờ đang neo đậu ở gần khu vực ngọn hải đăng, xã An Hải, huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi). Ảnh: Trí Tín.

Trung tướng Tô Lâm, Thứ trưởng Bộ Công an, khẳng định: "An ninh kinh tế biển là đặc biệt quan trọng. Chủ quyền lãnh hải quốc gia thật sự trên biển phải là ngư dân, bởi lẽ họ là cột mốc sống. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, đầu tư để đảm bảo an ninh, an toàn cho họ yên tâm bám biển, làm ăn lâu dài". 

Đặc thù của vùng duyên hải miền Trung là kinh tế biển gắn liền với chủ quyền an ninh quốc gia. Tỉnh Quảng Ngãi hiện có 5.680 tàu thuyền với gần 60.000 lao động hành nghề đánh bắt thủy sản trên biển, 1/3 trong số này hoạt động ở vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa. 

Để có đội tàu mạnh vừa vươn ra khơi xa đánh bắt đạt hiệu quả vừa góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo quốc gia, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi Võ Văn Thưởng đề xuất Nhà nước cần quan tâm giúp đỡ ngư dân hiện đại hóa phương tiện để đảm bảo an toàn.

Ngư dân chuyển cá đánh bắt từ vùng biển Hoàng Sa lên cảng Sa Kỳ, xã Bình Châu, huyện Bình Sơn(Quảng Ngãi) tiêu thụ. Ảnh: Trí Tín
Ngư dân chuyển cá đánh bắt từ vùng biển Hoàng Sa lên cảng Sa Kỳ, xã Bình Châu (Bình Sơn, Quảng Ngãi) tiêu thụ. Ảnh: Trí Tín.

Quảng Ngãi có 28 xã ven biển, đời sống ngư dân còn gặp khó khăn, thiếu thốn. Để cải thiện cuộc sống người dân ở vùng ven biển, hải đảo, ông Lê Viết Chữ, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi đề xuất: "Chính phủ cần có chương trình riêng, có chính sách để tạo điều kiện phát triển bền vững cho các xã ven biển, đảo. Một khi dân biển có giàu lên thì nền kinh tế biển của nước nhà mới có thể vững chãi được”.
Trí Tín
Nguồn: VNE.

VUA TỰ ĐỨC VỚI VIỆC BẢO VỆ AN NINH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC

Vua Tự Đức với việc bảo vệ an ninh biên giới phía Bắc

TẠP CHÍ XƯA & NAY SỐ 391 THÁNG 11-2011
Mai Thị Huyền

Thời Nguyễn, Việt Nam đã trở thành một quốc gia thống nhất về mặt lãnh thổ. Triều Nguyễn trong quá trình xây dựng và củng cố chính quyền luôn đặt vấn đề duy trì và bảo vệ vững chắc cương giới làm nhiệm vụ hàng đầu. Tuy nhiên, trên thực tế rất nhiều vấn đề nảy sinh khiến triều đình gặp khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ quan trọng đó. Trong khoảng thời gian 1848-1883, thời trị vì của Tự Đức, tình trạng mất ổn định về an ninh quốc phòng đã diễn ra một số tỉnh biên giới phía Bắc: Cao Bằng, Lạng Sơn, Hưng Hoá(1), Tuyên Quang và Quảng Yên(2).

Các tỉnh biên giới phía Bắc của nước ta đều nằm ở vị trí có đường biên giới giáp với phía nam Trung Quốc. Qua biên giới các tỉnh này, việc thông thương với Trung Quốc tương đối thuận tiện, song những vùng này có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, dân cư thưa thớt; là địa bàn quan trọng trong việc xây dựng hệ thống phòng thủ về quân sự, nhưng do địa hình hiểm trở nên cũng hạn chế tầm nhìn, tầm bao quát của nhà nước phong kiến trung ương, các nhóm phản loạn vì vậy dễ có điều kiện trú ẩn lâu dài.

Tỉnh Quảng Yên vừa có đường biên giới phía Bắc giáp Trung Quốc, lại có bộ phận phía Đông nam giáp biển Đông. Nơi hội tụ nhiều dạng địa hình khác nhau, đồng bằng, đồi núi và hệ thống hải đảo, được coi là địa bàn điển hình nhất về dạng địa hình của các tỉnh biên giới phía Bắc.

Sau khi kế vị năm 1847, Tự Đức đã dành sự quan tâm đặc biệt đến các tỉnh biên giới phía Bắc. Kế thừa kinh nghiệm xây dựng hệ thống quân sự ở thời Minh Mạng, ông tiếp tục củng cố ở tỉnh Quảng Yên nhiều ải và bảo lớn. Mặt khác, Tự Đức còn bổ nhiệm các chức quan từ Kinh thành làm tổng đốc ở các tỉnh Hưng Hoá, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Cao Bằng để giữ yên biên cương phía Bắc.

Giai đoạn 1848-1878 cũng là thời điểm xảy ra nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân ở Trung Quốc. Phổ biến là phong trào ở các tỉnh Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu. Song điển hình nhất vẫn là những tổ chức lấy danh nghĩa tôn giáo để tập hợp nông dân chống lại triều đình. Sau một thời gian, triều đình Mãn Thanh tập trung quân đội đàn áp, các nhóm quân rơi vào thế đường cùng buộc phải tràn sang biên giới Việt Nam tìm nơi trú ẩn.

Hoạt động của nhóm Tam Đường

Tiền thân của nhóm Tam Đường là tổ chức Thiên Địa hội ở Trung Quốc. Trong những năm 1807-1851, Thiên Địa hội là một tổ chức lớn tiêu biểu cho các nhóm quân nổi dậy chống triều đình Mãn Thanh. Sau nhiều lần tập trung quân truy quét lực lượng này, nhà Thanh về cơ bản đã loại bỏ được những hạt nhân quan trọng của Hội Thiên Địa. Những tướng lĩnh cầm đầu của tổ chức này đã bàn kế hoạch sang Việt Nam: Quảng Nghĩa Đường Lý Đại Xương, Đức Thắng Lưu Sỹ Anh, Lục Thắng Đường Hoàng Nhị Vãn(3).

Nhóm Tam Đường tiến hành gây rối ở các tỉnh biên giới phía bắc nước ta bắt đầu bởi sự kiện tháng 11-1858, quân của Lục Thắng Đường quấy nhiễu ở Thất Khê (tỉnh Lạng Sơn). Sau đó cánh quân của Hoàng Nhị Vãn nhân cơ hội tiến nhanh sang tỉnh Cao Bằng. Với hai nghìn quân, Hoàng Nhị Vãn đã chiếm giữ được các châu Thạch An, Thượng Hạ Pha, Bình Quân. Triều đình nhiều lần tập trung binh lực và điều động các lãnh binh thay phiên nhau truy quét cánh quân của Hoàng Nhị Vãn song vẫn chưa có hiệu quả. Phải mất 7 năm sau, vào tháng 5-1865 triều Nguyễn mới loại bỏ hoàn toàn các cánh quân này ra khỏi tỉnh Cao Bằng.

Hoạt động của các nhóm giặc Cờ

Các nhóm giặc Cờ cũng đều có nguồn gốc từ tàn quân của tổ chức Thiên Địa hội ở Trung Quốc(4). Nhóm Cờ vàng với đại diện là Hoàng Sùng Anh, Bàn Văn Nhị là thủ lĩnh quân Cờ trắng, Lưu Vĩnh Phúc đứng đầu giặc Cờ đen. Tuy nhiên khi dạt sang Việt Nam, sự phân hoá của các nhóm giặc cờ thành nhiều khuynh hướng khác nhau đã gây ra sự căng thẳng ở các tỉnh biên giới. Năm 1868, quân Cờ trắng tập trung cướp bóc ở châu Lục Yên, tỉnh Tuyên Quang. Sau trận này, vì xung đột về quyền lợi và phạm vi chiếm đóng, quân Cờ trắng đã bị quân Cờ đen loại bỏ.

Đứng đầu quân Cờ vàng là Hoàng Sùng Anh, hay còn gọi là Hoàng Anh. Trong năm 1862, quân Cờ vàng của Hoàng Sùng Anh hoạt động mạnh ở tỉnh Tuyên Quang. Sau 4 tháng, nhận thấy tình hình cướp bóc ở Tuyên Quang không đem lại kết quả, đến tháng 4-1862, Hoàng Anh vờ đưa ra kế hoạch đầu hàng triều Nguyễn. Nhưng đến tháng 6-1868, quân của Hoàng Sùng Anh lại hợp sức với quân Cờ đen tấn công thành Lào Cai. Hoàng Sùng Anh tạo phản, bị triều đình truy đuổi, năm 1869 buộc phải rút hết quân về tỉnh Cao Bằng. Liên tiếp bị quân và dân địa phương Cao Bằng đánh đuổi, cánh quân Cờ vàng buộc phải trú ẩn ở Bảo Thắng (tỉnh Hưng Hoá). Sau 5 năm, triều đình vẫn chưa thể truy quét tận gốc cánh quân cướp bóc này. Đến tháng 8-1874, không chịu nổi sự truy kích của triều Nguyễn, Hoàng Anh lại xin hàng. Nhưng sang năm 1875, nhóm quân của Hoàng Anh lại tạo phản. Tháng 6-1875, triều Nguyễn tập trung lực lượng tấn công nhiều phía, kết hợp với nhóm người Thổ ở địa phương, điều động Tuần phủ tỉnh Hưng Hoá là Nguyễn Huy Kỷ cùng quan sở tại Nguyễn Văn Giáo nhằm tiêu diệt hoàn toàn tên đầu sỏ này. Đến tháng 8-1875, Hoàng Sùng Anh bị tiêu diệt.

Quân Cờ đen bắt đầu gây sự ở Lào Cai vào tháng 6/1868. Tuy nhiên, như trên đã khẳng định, quân Cờ đen không phải một mình làm chủ vùng đất này mà ở Lào Cai cũng có sự có mặt của quân Cờ vàng. Quân Cờ đen đã loại bỏ quân Cờ trắng của Hoàng Nhị Vãn và không thôi hi vọng làm bá chủ. Sự tồn tại của quân Cờ vàng đã cản trở mục tiêu chiếm đóng của quân Cờ đen, vì vậy quân Cờ vàng nhanh chóng bị quân Cờ đen gây áp lực phải chuyển địa bàn sang nơi khác. Mâu thuẫn giữa hai cánh quân diễn ra gay gắt, đặc biệt là sau năm 1870, quân Cờ đen công khai chống đối các nhóm quân khác nhằm tranh giành quyền lợi ở các tỉnh biên giới phía Bắc.

Quân Cờ đen được coi là nhóm quân hoạt động mạnh nhất ở khu vực biên giới phía bắc. Thủ lĩnh quân Cờ đen là Lưu Vĩnh Phúc(5). Năm 1868, ông chỉ huy quân Cờ đen tràn sang các tỉnh biên giới phía bắc nước ta. Đương thời, những hoạt động của quân Cờ đen đã được miêu tả lại trong một số câu thơ:

Bao giờ cho hết khoá này
Cho dân khỏi phải khổ lây vì giời (vì vua)
Bao giờ sắt nặng biết bay (có máy bay)
Cờ đen hoạ có đến ngày phải tan(6).

Để loại bỏ tận gốc cánh quân Cờ vàng, điều cần thiết cho quân Cờ đen là phai có một địa bàn an toàn hoạt động lâu dài. Vì vậy, nhân cơ hội triều Nguyễn dụ hàng, Lưu Vĩnh Phúc đã chấp nhận. Tự Đức ban cho Lưu Vĩnh Phúc làm Đề đốc trấn hạt Thập Lục Châu, cho tự do thu thuế. Trong quá trình hoạt động, quân Cờ đen đã tạo những bước chuẩn bị cần thiết về lực lượng, căn cứ, nhanh chóng loại bỏ quân Cờ vàng. Năm 1875, quân Cờ vàng bị quân Cờ đen tiêu diệt hoàn toàn.
Địa bàn hoạt động của quân Cờ đen ngày càng rộng lớn và sức ảnh hưởng của nhóm quân ngày càng mạnh. Năm 1829, quân Cờ đen đánh bại Hà Quân Xương, một tên cầm đầu các nhóm cướp bóc ở Bảo Thắng (Hưng Hóa), chiếm lấy thị xã Lào Cai làm căn cứ(7). Quân Cờ đen làm chủ hoàn toàn vùng biên giới, tự thu thuế của cư dân các vùng xung quanh. Sau này, Lưu Vĩnh Phúc đã phối hợp với quân của Hoàng Thủ Trung, Phùng Tử Tài và Hoàng Kế Viêm đánh dẹp các nhóm cướp bóc ở các tỉnh biên giới phía Bắc. Đội quân Cờ đen trở thành lực lượng đắc lực chống Pháp và đã giành thắng lợi ở hai trận Cầu Giấy (1874, 1883). Năm 1877, Lưu Vĩnh Phúc đã xin triều Nguyễn ở lại Bảo Thắng (tỉnh Hưng Hoá) sinh sống. Sang năm 1878, quân Cờ đen buộc phải rút hết về Trung Quốc theo yêu cầu của Pháp(8).

Các thủ lĩnh quân sự khác

Cùng thời điểm với các hoạt động của nhóm Tam Đường, Tạ Văn Phụng cũng gây rối tại tỉnh Quảng Yên. Tạ Văn Phụng trước đó là lính mộ của Pháp, năm 1861 mạo danh là dòng dõi nhà Lê và tự xưng là minh chủ. Tạ Văn Phụng lợi dụng sự bất mãn của dân nghèo vùng biển đối với triều Nguyễn lôi kéo họ nổi dậy ở phía Bắc, tạo điều kiện cho Pháp xâm lược nước ta ở phía Nam. Cuối năm 1863, Tạ Văn Phụng đã tập hợp hơn 500 chiếc thuyền ở đảo Cát Bà, vùng núi Đồ Sơn, chủ trương tiến đánh kinh thành Huế nhưng không thành. Tán tương Trần Huy Sách đem quân chặn đánh quân của Tạ Văn Phụng ở La Khê (tỉnh Quảng Yên) bị thua nặng, tất cả đều hi sinh. Tháng 5-1865, Tạ Văn Phụng bị Tán lý Đặng Trần Chuyên, Đốc đinh Ông Ích Khiêm đem quân truy đuổi. Trên đường trốn thoát, Tạ Văn Phụng bị bắt về Kinh xử tử.

Năm 1867, tàn quân cũ của khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc là Ngô Côn đã tràn sang biên giới phía Bắc nước ta. Ngô Côn tập hợp quân tấn công và chiếm được tỉnh thành Cao Bằng. Với 2000 quân, trên đà thắng thế Ngô Côn chia quân cướp bóc ở tỉnh Lạng Sơn. Đối phó với tình hình này, Tự Đức đã đưa ra nhận định: “Trẫm liệu tính thì lũ Ngô Côn gian giảo lắm, nhưng chúng cũng ngại chết, đã bị quan quân nước Thanh bức bách không có lối về, cho nên tràn sang nước ta, cũng là cầu một chỗ dung thân, việc xin hàng của hắn cũng là một cái thật ở trong cái dối, mà sự thế hiện này của ta bất đắc dĩ mới phải dùng quân… Cho Phan Khắc Thận đeo ấn Hữu Tướng quân đi ngay xem xét tình trạng của chúng ra sao? Nên xử trí thế nào để tâu về xét định”(9). Đồng thời ông lập bổ nhiệm các chức quan ở địa phương: Phạm Chi Hương làm Tổng đốc Lạng Bằng quân vụ đại thần, Tiễu phủ sứ Ông Ích Khiêm làm Tán lý quân thứ; yêu cầu quan lại ở Bắc kỳ tập hợp quân địa phương để dự trữ phòng bị.

Các tướng lĩnh chỉ huy quân sự cũng gặp khó khăn trong việc đối phó với Ngô Côn. Đoàn Thọ, Vũ Trọng Bình và Lê Bá Thận nhận thấy với địa thế hiểm trở ở các tỉnh biên giới, lại thêm khí hậu khắc nghiệt, binh lính không hợp với địa hình, nên rất khó có thể tiêu diệt hoàn toàn Ngô Côn. Tháng 3-1869, Ngô Côn đã chiếm giữ Đồng Đăng, Kỳ Lừa (tỉnh Lạng Sơn) nhằm phục vụ âm mưu chặn đường vận lương của quân doanh Lạng Sơn, Thái Nguyên. Triều đình buộc phải lập tức điều động nhiều cánh quân từ Kinh thành và địa phương, kết hợp với sự trợ giúp của Phùng Tử Tài – thống lĩnh quân nhà Thanh để đối phó. Đến năm 1870, tướng giặc Ngô Côn bị tiêu diệt hoàn toàn.

Những tháng cuối năm 1862, thủ lĩnh Tô Tứ bắt đầu hoạt động ở Tiên Yên (tỉnh Quảng Yên). Tỉnh thần Đặng Xuân Bảng đã cấp 500 phương gạo và 500 quan tiền cùng thuốc đạn, ống phun lửa, tập hợp nhân dân chống lại. Song đến năm 1866, Tô Tứ lại chuyển hướng sang hoạt động ở tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn. Tự Đức lo ngại lập tức sai Thống quản thị vệ đại thần Đoàn Thọ ra Bắc kỳ làm Tổng thống quân Bình kiêm chức Tuyên Thái Lạng quân thứ dẹp giặc. Nhưng Đoàn Thọ vừa tới Lạng Sơn thì bị quân của Tô Tứ vây thành vào ban đêm. Vũ Trọng Bình chạy thoát, quan quân triều đình ở Lạng Sơn bị thương rất nhiều. Tự Đức xuống dụ: “Bọn giặc Tô Tứ không có mấy, mà đã bao lâu chưa bình được cũng đáng quái lạ. Xét bản đồ thì nơi ấy núi khe hiểm cao, quân ta chỉ đi đằng trước và bên tả hữu xa ngăn chặn, bọn giặc giữ chỗ hiểm chống cự, con đường sau có nhiều ngả, không đoái hoài lo đến. Nay nên sức cho hào lý sở tại mộ lính Thổ dõng, tìm con đường tắt, chia ra ngăn chặn hoặc sức người Thổ trước đến đấy mượn hộ lính dõng người nước Thanh, thẳng đánh vào con đường sau, quân ta ở mặt nước đánh giáp lại, có thể một trận đánh dẹp tắt được”(10). Mặt khác, Tự Đức cử thêm Thượng thư Lê Tuấn làm khâm sai Thị sứ đem quân truy quét. Tháng 10-1871, Tô Tứ âm mưu chạy về trấn Đông Hưng (Trung Quốc) bị quan quân triều đình chặn đánh và tiêu diệt.

Tháng 9-1878, Lý Tương Tài thuộc quân của Phùng Tử Tài, người Quảng Đông (Trung Quốc), đổi tên là Lý Đạt Đình, phao tin Việt Nam là đất tổ, đem hơn một vạn quân tấn công tỉnh Lạng Sơn, sau đó mở rộng phạm vi sang phố Đồng Bộc, Kỳ Lừa. Tự Đức đưa ra biện pháp bổ nhiệm Nguyễn Đình Nhuận làm Bố chính tỉnh Lạng Sơn; điều động quân tại Kinh thành phối hợp với 500 quân Thanh Nghệ và nhờ Triệu Ốc (Trung Quốc) hỗ trợ đánh dẹp. Phùng Tử Tài theo lệnh nhà Thanh một lần nữa mang quân sang nước ta. Sau khi Lý Tương Tài bị quân Thanh bắt sống, giải về nước chặt đầu, toàn bộ quân của Phùng Tử Tài đã rút quân khỏi các tỉnh biên giới phía Bắc nước ta. Như vậy, năm 1878 là mốc đánh dấu sự chấm dứt hoàn toàn những hoạt động của các nhóm cướp bóc ở các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam.

Quyết tâm của triều đình Huế

Hiện trạng xung đột vũ trang giữa quan quân triều đình và các nhóm cướp bóc ở các tỉnh biên giới phía bắc nước ta (1848-1878) diễn ra khá  mạnh mẽ. Giai đoạn từ 1862-1868, là thời điểm cuộc khởi nghĩa nông dân Thái Bình Thiên quốc và các phong trào nông dân ở Trung Quốc bị triều đình nhà Thanh đàn áp. Các tàn quân bị đẩy xuống phía nam và tiến sang biên giới phía bắc Việt Nam. Một mặt chúng kiếm kế sinh nhai, mặt khác cũng thể hiện mong muốn chiếm đóng và thể hiện phạm vi ảnh hưởng của chúng ở địa bàn này.

Nhìn chung, những hoạt động của các nhóm cướp bóc mang tính chu kỳ, thường tập trung vào những tháng cuối năm là thời điểm tình trạng đói kém xảy ra. Mục đích chính vẫn là cướp bóc để bù đắp tình hình đói kém, vì vậy khi bị quan quân triều đình truy quét, chúng nhanh chóng dạt sang các vùng lân cận. Tuy nhiên, có rất nhiều các nhóm quân khác nhau cùng tranh giành ảnh hưởng và quyền lợi trên địa bàn ở các tỉnh biên giới nên không thể tránh khỏi tình trạng tự bản thân chúng thanh toán, loại bỏ lẫn nhau. Đây cũng là một điểm thuận lợi cho triều đình sử dụng chính sách “dĩ di trị di” nhằm hạn chế bớt thương vong của binh lính.

Thực tế, những hoạt động quân sự ở các tỉnh biên giới đã có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống người dân và gây ra nguy cơ mất ổn định về mặt an ninh quốc phòng. Hiện tượng cướp bóc của các nhóm quân đã khiến triều đình tiêu tốn một khoản chi phí không nhỏ nhằm chẩn cấp cho người dân sau khi các toán quân đã rút lui. Mặt khác, việc điều động quan quân triều đình ở Kinh thành đến các địa phương cũng gây xáo trộn về mặt chính trị ở chính các địa phương đó do bản thân những người được bổ nhiệm còn chưa quen với các vùng biên giới. Triều Nguyễn đã điều khá nhiều tướng lĩnh tài giỏi như Nguyễn Đăng Giai, Lê Tuấn, Nguyễn Tri Phương để đối phó với tình hình hỗn loạn ở biên giới phía bắc, làm phân tán lực lượng chủ lực chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp ở phía nam.

Triều Nguyễn có vai trò chủ đạo trong việc đưa ra chính sách đối phó với các nhóm cướp bóc. Cơ bản nhất vẫn là việc bổ sung binh lính từ Kinh thành đến các địa phương; xây dựng hệ thống đồn bốt phòng thủ; phát huy sức mạnh của nhân dân ở các địa phương. Đặc biệt, bắt đầu từ năm 1868, Tự Đức đã gửi thư cầu viện nhà Thanh mang quân sang nước ta giúp việc đánh dẹp các nhóm cướp bóc. Năm 1878, trong một bức thư gửi tuần phủ Quảng Tây, Tự Đức viết: “Hiện nay quan binh của thượng quốc đã chia ra đóng đồn khắp tỉnh Lạng Sơn, tướng thần cùng binh dũng của hạ quốc cũng đã được phái đi khắp mạn bắc để án ngữ. Nhưng ngặt vì bọn giặc rất đông, lại đều là những quân thuộc đường, đánh giỏi. Đến nay như quan binh thượng quốc xưa nay có tiếng là hùng mạnh, lại đã từng quen thuộc mà bao ngày hết sức đánh dẹp mới có thể đuổi được chúng chạy trốn”(11). Trên thực tế, biện pháp đó đã mang lại những hậu quả bước đầu, có thể dẹp trừ các nhóm cướp bóc. Nhưng sâu xa, biện pháp cầu viện nhà Thanh sẽ gây nên những yếu tố bất lợi cho tình hình nước ta. Thời điểm nửa đầu thế kỷ XIX, Việt Nam là đối tượng tranh giành phạm vi ảnh hưởng và quyền lợi của rất nhiều thế lực. Sự cầu viện của nhà Nguyễn góp phần tăng thêm mâu thuẫn Phap-Thanh vốn đã ươm mầm từ nhiều năm trước về vấn đề Việt Nam.

Qua việc tìm hiểu những xung đột vũ trang chủ yếu ở giai đoạn 1848-1878, có thể thấy rõ ý thức của triều đình mà đứng đầu là Tự Đức trong việc bảo vệ biên cương. Mỗi khi có sự tấn công của các nhóm phản loạn hay cướp bóc, Tự Đức luôn họp bàn với các quan quân để tìm phương pháp đối phó. Ông luôn tìm ra những biện pháp cấp bách để có thể đẩy lùi tình trạng bất ổn về an ninh, quốc phòng ở các tỉnh biên giới phía Bắc. Thái độ của Tự Đức cũng như quan quân triều đình và địa phương trước sau đều kiên quyết bảo vệ vững chắc cương giới đất nước.

Chú thích
1. Hưng Hoá: gồm Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Yên Bái, Sơn La và một phần Phú Thọ ngày nay.
2. Quảng Yên: là tỉnh Quảng Ninh ngày nay.
3. Ba nhân vật này được coi là lãnh đạo chủ chốt của Thiên Địa hội. Thiên Địa hội cũng hoạt động cùng thời với Hội Thượng Đế (do Hồng Tú Toàn sáng lập) nhưng mang màu sắc tôn giáo thần bí hơn. Xem Bạch Thọ Di, Trung Quốc thông sử, tập 19, tr. 221, Sở Tiêu Kinh, Thượng Hải ấn hành, 1999.
4. Giặc Cờ bị phân hoá thành nhiều phe phái thủ lĩnh của đội quân nào thì lấy màu cờ làm tên của cánh quân đó. Quân Cờ đen thì có cờ hiệu màu đen, quân Cờ vàng có cờ hiệu màu vàng, quân Cờ trắng có cờ hiệu màu trắng.
5. Lưu Vĩnh Phúc sinh năm 1837, tại Cổ Sâm, châu Khâm, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Trước khi làm thủ lĩnh quân Cờ đen, ông đã tham gia vào tổ chức Thiên Địa hội của Ngô Á Chung, sau khi bị triều đình Mãn Thanh truy quét phải chạy sang nước ta.
6. Chế Tuyết, Chiến mưu Lưu Vĩnh Phúc giặc Cờ đen, Vĩnh Yên, 1937, tr. 20.
7. Lưu Chính Lạc, Lưu Vĩnh Phúc tại Thượng Tư, Uỷ viên Hội văn sử Chính Hiệp, huyện Thượng Tư, tỉnh Quảng Tây, Nxb Nguyên Lưu, Nam Ninh, 2002.
8. Văn Tân, Lưu Vĩnh Phúc tướng Cờ đen và các hành động của ông ở Việt Nam, tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 94, 1962.
9. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 7, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 2000, tr. 1124.
10. Đại Nam thực lục, Sđd, tr. 997.
11. Thơ văn Tự Đức, Nxb Thuận Hoá, Huế, 1996, tr. 348.
Nguồn: Ba Sàm.