Thứ Hai, 5 tháng 9, 2011

TOÀN VĂN ĐƠN KHỞI KIỆN ĐÀI PTTH HÀ NỘI


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh Phúc
_______________________

Hà Nội, ngày 05  tháng 9 năm 2011

ĐƠN KHỞI KIỆN
(V/v Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội đã phát sóng truyền hình có nội dung vu khống, xuyên tạc, xúc phạm những người biểu tình phản đối Trung Quốc gây hấn, vi phạm Luật báo chí và Bộ Luật dân sự)
                      
 Kính gửi: Tòa án nhân dân Quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội

I. Nguyên đơn, gồm:
STT
Họ tên
Địa chỉ
1
Nguyên Ngọc
Nhà E7, khu tập thể số 8, Lý Nam Đế, Hà Nội
2
Nguyễn Huệ Chi
10 C3, Khu TT Viện KHXH, Cống Vị, Ba Đình, Hà Nội
3
Nguyễn Văn Khải
42 Thợ Nhuộm, Hoàn Kiếm, Hà Nội
4
Ngô Đức Thọ
50, ngõ 210/41/11 Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội
5
Vũ Ngọc Tiến
P.1106, nhà N5A, Hoàng Đạo Thúy, Cầu Giấy, Hà Nội
6
Phạm Xuân Nguyên
P.503, nhà H1, ngõ 37, Kim Mã Thượng, Ba Đình, Hà Nội.
7
Nguyễn Quang A
19 Đoàn Nhữ Hài, Hà Nội
8
Nguyễn Đăng Quang
Số 7, Đường Sông Tô Lịch, Quang Hoa, Cầu giấy, Hà Nội
9
Lê Dũng
54B, Hà Trì 3, Hà Cầu, Hà Đông, Hà Nội.
10
Nguyễn Xuân Diện
P.201, B8, Tập thể Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội.

II. Bị Đơn:
Đài Phát thanh và truyền hình Hà nội (Viết tắt Đài PT-TH Hà Nội)
Trụ sở: Số 3 và số 5 Huỳnh Thúc Kháng, Q. Đống Đa, Hà Nội.

Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
a/ Những người biểu tình tại Hà nội phản đối Trung Quốc gây hấn (ngoài những người trong danh sách Nguyên đơn, có nguyện vọng tham gia vụ kiện)
b/ Những phóng viên thực hiện những chương trình truyền hình liên quan (đề nghị Đài PT-TH Hà Nội cung cấp tên)
III.  Tóm tắt nội dung vụ kiện:
Gần đây, nhà cầm quyền Trung Quốc liên tục có hành vi gây hấn ở Biển Đông, xâm phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam, gây thiệt hại và uy hiếp nhiều hoạt động kinh tế của các tổ chức, công dân Việt Nam tại Biển Đông. Bức xúc trước những hành vi gây hấn, xâm hại này, từ ngày 5/6/2011 đến ngày 21/8/2011 đã có 11 cuộc biểu tình tự phát của người Việt Nam tại Hà Nội. Chúng tôi (những Nguyên đơn) đã tham gia những cuộc biểu tình này, để thể hiện lòng yêu nước, ủng hộ việc bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam, bảo vệ ngư dân Việt Nam, phản đối những hành vi xâm hại Việt Nam từ phía Trung Quốc.

Tuy nhiên, Đài PT-TH Hà Nội trong hai buổi phát sóng ngày 21/8 và ngày 22/8/2011 (Tài liệu 1 và tài liệu 2, 02 Clip đính kèm) đã có nội dung vu khống, xuyên tạc, xúc phạm những người biểu tình trong đó có chúng tôi, vi phạm Luật báo chí và Bộ Luật dân sự. Chúng tôi xin nêu một số nội dung vi phạm sau:

Trong hai buổi phát sóng này, HTV1 có đưa hình ảnh của nhiều người biểu        tình, trong đó có ảnh của các ông Nguyên Ngọc, Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Văn Khải. Chương trình này có những lời bình của HTV1 và ý kiến của một số người như sau:

1-  Lời bình của HTV1, 18:41:25 ngày 21/8: "... việc tham gia biểu tình lại trở thành tấm bia che chắn cho các thế lực thù địch phản động đằng sau đang ráo riết chia rẽ khối đại đoàn kết, kích động tư tưởng hằn thù dân tộc..."
2-  Lời bình của HTV1, 18:42:37 ngày 22/8: “Thời gian gần đây lợi dụng vỏ bọc yêu nước một nhóm người bị các thế lực phản động trong nước và nước ngoài kích động đã tụ tập biểu tình hòng lôi kéo những người nhẹ dạ cả tin không nắm bắt thông tin đầy đủ gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, cản trở và chống đối lực lượng chức năng làm nhiệm vụ.” ….
3-  18:43:14, ngày 22/8: Ông Nguyễn Đức Thành, một cựu chiến binh phát biểu: về những người biểu tình “…dâng khẩu hiệu và nói bậy nói bạ… ”
4-     Lời bình của HTV1: 18:44:03, ngày 22/8: “là những người con của Hà Nội đã từng cầm súng ra trận bảo vệ tổ quốc các cựu chiến binh như ông Khoa ông Thành vô cùng bức xúc trước những hành động tự phát của một số kẻ xấu đã chà đạp lên tình cảm yêu nước chân chính của người dân Thủ Đô. Để có được cuộc sống thanh bình hạnh phúc hơn bao giờ hết lúc này mỗi người dân Hà Nội đang chúng sức chung lòng nỗ lực phấn đấu lao động sản xuất và chiến đấu quyên mình, chính vì vậy trước hành vi của một nhóm người tập trung trái phép mang theo băng rôn biểu ngữ và hô khẩu hiệu gây mất an ninh trật tự khiến cho nhân dân trong khu vực hết sức bất bình.”
5-  18:44:57, ngày 22/8: Bà Nguyễn Thị Đài: “theo tôi nghĩ thì ở đây có một sự kích động nào đấy của các thế lực phản động chứ không phải là yêu nước. … chính quyền bây giờ phải dẹp mà kiên quyết với những phần tử phản động ấy chứ không nếu không cứ lan tràn ra những lớp thanh niên trẻ là họ không có nhận thức đúng đắn được thì nói chung là nhiều khi là nguy hiểm”.

Ngày 26/8/2011, chúng tôi có Thư yêu cầu Đài PT-TH Hà Nội đăng phát biểu của chúng tôi về một số nội dung đã phát sóng của Đài Đài PT-TH Hà Nội liên quan đến những người biểu tình và yêu cầu Đài này xin lỗi, cải chính (Tài liệu 3).
Ngày 31/8/2011, ông Trần Gia Thái, Tổng Giám đốc Đài PT-TH Hà Nội đã có thư trả lời (Tài liệu 4), phản hồi Thư yêu cầu trên của chúng tôi, nhưng không thể hiện sẽ đăng bài phát biểu của chúng tôi trên Đài truyền hình theo Luật báo chí, không xin lỗi, cải chính về những nội dung đã phát vu khống, xuyên tạc, xúc phạm những người biểu tình. Vì vậy, chúng tôi làm Đơn khởi kiện này để yêu cầu Đài PT-TH Hà Nội và nhóm phóng viên liên quan phải chịu trách nhiệm trước Pháp luật về những hành vi vi phạm Luật báo chí và Bộ Luật dân sự do họ gây ra.
IV. Những căn cứ pháp lý cho việc Khởi kiện:
A/ Luật báo chí (ban hành năm 1989 và được sửa đổi bổ sung năm 1999)
Điều 9. Cải chính trên báo chí
1- “Báo chí khi thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân thì phải đăng, phát sóng lời cải chính, xin lỗi của cơ quan báo chí, của tác giả….
2- Tổ chức, cá nhân có quyền phát biểu bằng văn bản về những nội dung đề cập trên báo chí khi có căn cứ cho rằng báo chí đã thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm đến mình. Cơ quan báo chí phải đăng, phát sóng lời phát biểu của tổ chức, cá nhân đối với thông tin đã được đăng, phát sóng trên báo chí của mình.
Lời phát biểu của tổ chức, cá nhân không được xúc phạm cơ quan báo chí, danh dự, nhân phẩm của tác giả.
Kể từ khi nhận được lời phát biểu của tổ chức, cá nhân thì trong thời hạn năm ngày đối với báo ngày, đài phát thanh, đài truyền hình, mười ngày đối với báo tuần, trong số ra gần nhất đối với tạp chí, cơ quan báo chí phải đăng, phát sóng lời phát biểu đó.
3- Lời cải chính, xin lỗi của cơ quan báo chí, của tác giả và lời phát biểu của tổ chức, cá nhân quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này phải được đăng, phát sóng tương xứng với thông tin do báo chí đã đưa ra theo quy định của Chính phủ.
4- Trong trường hợp cơ quan báo chí không cải chính, xin lỗi hoặc cải chính, xin lỗi không đúng các quy định của Luật này, không đăng, phát sóng lời phát biểu của tổ chức, cá nhân thì tổ chức, cá nhân đó có quyền khiếu nại với cơ quan chủ quản báo chí, cơ quan quản lý nhà nước về báo chí hoặc khởi kiện tại Tòa án".
Điều 10. Những điều không được thông tin trên báo chí
“Để quyền tự do ngôn luận trên báo chí được sử dụng đúng đắn, báo chí phải tuân theo những điều sau đây :
Không được kích động nhân dân chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phá hoại khối đoàn kết toàn dân ;
……..
4- Không được đưa tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống nhằm xúc phạm danh dự của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của công dân.”
B/ Nghị định số 51/2002/NĐ-CP Quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí
Điều 4. Cải chính trên báo chí
……..
“3. Cơ quan báo chí nhận được lời phát biểu bằng văn bản của tổ chức, cá nhân về những nội dung đềcập trên báo chí của mình khi có căn cứ cho rằng báo chí đã thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm đến họ thì phải đăng, phát lời phát biểu đó đúng vị trí, chuyên mục mà báo chí đã đăng, phát thông tin. Lời phát biểu không được vượt quá diện tích, thời lượng đã đăng, phát nội dung thông tin nói trên.
Trường hợp không nhất trí với lời phát biểu của tổ chức, cá nhân, cơ quan báo chí có quyền thông tin tiếp làm rõ quan điểm của mình. Sau ba (3) lần đăng, phát ý kiến phát biểu của tổ chức, cá nhân và cơ quan báo chí mà không có sự nhất trí giữa hai bên thì cơ quan quản lý nhà nước về báo chí có quyền yêu cầu ngừng đăng, phát các thông tin của đương sự. Tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại đến cơ quan chủ quản của báo chí đó, cơ quan quản lý nhà nước về báo chí hoặc khởi kiện tại Tòa án theo quy định của pháp luật.
……
Cơ quan báo chí có quyền không đăng, phát lời phát biểu của tổ chức, cá nhân nếu lời phát biểu của tổ chức, cá nhân đó vi phạm pháp luật, xúc phạm đến uy tín, danh dự của cơ quan báo chí, tác giả. Trong trường hợp đó cơ quan báo chí phải gửi văn bản báo cho tổ chức, cá nhân biết, nói rõ lý do, đồng thời phải gửi báo cáo bằng văn bản tới cơ quan quản lý nhà nước về báo chí.”
Điều 5. Những điều không được thông tin trên báo chí
……..
“3. Không được đăng, phát ảnh của cá nhân mà không có chú thích rõ ràng hoặc làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của cá nhân đó (trừ ảnh thông tin các buổi họp công khai, sinh hoạt tập thể, các buổi lao động, biểu diễn nghệ thuật, thể dục thể thao, những người có lệnh truy nã, các cuộc xét xử công khai của Tòa án, những người phạm tội trong các vụ trọng án đã bị tuyên án).”
C/ Bộ Luật dân sự 2005:
Điều 31. Quyền của cá nhân đối với hình ảnh
“1. Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình.
2. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng hoặc pháp luật có quy định khác.
3. Nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh.”
Điều 37. Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín
“Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.”
Điều 604. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
“Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.”
Điều 611. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
1. “Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị xâm phạm, thiệt hại do danh dự, uy tín của pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.
2. Người xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.”
D/ Bộ Luật tố tụng dân sự 2005:
Điều 25. Những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
…..
“6. Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
.....
8. Tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy định của pháp luật.
9. Các tranh chấp khác về dân sự mà pháp luật có quy định.”
Điều 56. Đương sự trong vụ án dân sự
…..
“4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan….”
Điều 163. Phạm vi khởi kiện
……
“2. Nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể cùng khởi kiện một cá nhân, một cơ quan, một tổ chức khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án.”
V.  Những yêu cầu của Nguyên Đơn đề nghị Tòa án xem xét giải quyết:
1. Xác định Đài PT-TH Hà Nội đã vu khống, xuyên tạc, xúc phạm nghiêm trọng đến những người biểu tình phản đối Trung Quốc gây hấn, trong đó có chúng tôi, thông qua việc Đài này vào các ngày 21/8 và 22/8/2011 đã đăng những ngôn từ được trích dẫn nêu trên. Đặc biệt trong những chương trình phát sóng này có những ngôn từ không thể chấp nhận được để nói về những người biểu tình, như: “tấm bia che chắn cho thế lực thù địch phản động”, “bị các thế lực phản động trong nước và nước ngoài kích động”,”nói bậy nói bạ”, “một số kẻ xấu đã chà đạp lên tình cảm yêu nước chân chính của người dân Thủ Đô”, “một sự kích động nào đấy của các thế lực phản động chứ không phải là yêu nước”, “kiên quyết với những phần tử phản động ấy”. Với những ngôn từ này, Đài PT-TH Hà Nội đã coi chúng tôi là những kẻ xấu, phản động và có mối liên hệ trực tiếp với những thế lực thù địch phản động. Chúng tôi, những người trong danh sách Nguyên đơn, hầu hết đã hoặc đang làm trong các cơ quan, đơn vị Nhà nước, nhiều người đã tham gia các lực lượng vũ trang, đã hoặc đang là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, là những công dân chấp hành tốt pháp luật Việt Nam. Việc chúng tôi biểu tình thể hiện lòng yêu nước là thực hiện quyền biểu tình đã được Hiến pháp năm 1992 của Việt Nam tôn trọng và bảo đảm (Điều 69 Hiến pháp 1992). Đề nghị Tòa án xác định việc Đài PT-TH Hà Nội coi biểu tình yêu nước là phản động hoặc do thế lực phản động kích động là thông tin phá hoại khối đoàn kết toàn dân (vi phạm Điều 5 khoản 1 Luật báo chí).
2. Xác định Đài PT-TH Hà Nội không đăng tải Thư yêu cầu đề ngày 26/8/2011 (Tài liệu 1) là vi phạm Điều 9 khoản 2 Luật báo chí và Điều 4 khoản 3 Nghị định 51/2002/NĐ-CP.
3. Xác định Đài PT-TH Hà Nội đăng ảnh những người biểu tình, trong đó có các ông Nguyên Ngọc, Nguyễn Văn Khải, Nguyễn Huệ Chi mà không được sự đồng ý của những người này là vi phạm Điều 31 khoản 2 và khoản 3 Bộ Luật dân sự, và Điều 5 khoản 3 Nghị định 51/2002/NĐ-CP.
4. Buộc Đài PT-TH Hà Nội phải bồi thường thiệt hại cho các nguyên đơn và những người biểu tình khác. Cụ thể như sau:
4.1. Do có hai chương trình phát sóng vào 2 ngày khác nhau (ngày 21/8 và 22/8/2011) có nội dung vu khống xuyên tạc, xúc phạm người biểu tình, nên xác định có 2 hành vi vi phạm của Đài PT-TH Hà Nội. Tương ứng mỗi hành vi vi phạm, Đài PT-TH Hà Nội phải bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần cho mỗi nguyên đơn và mỗi người biểu tình khác 10 tháng lương tối thiểu tức 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng), phù hợp với Điều 611 khoản 2 Bộ Luật dân sự. Như vậy, Đài PT-TH Hà Nội phải bồi thường cho mỗi nguyên đơn và mỗi người biểu tình khác 40.000.000 đồng (bốn mươi triệu đồng) cho 2 lần vi phạm.
4.2. Do đăng ảnh những người biểu tình không được sự đồng ý của họ, làm tổn thương đến uy tín và nhân phẩm của họ, nên Đài PT-TH Hà Nội phải bồi thường cho mỗi người bị đăng ảnh mỗi lần đăng là 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng), phù hợp Điều 611 khoản 2 Bộ Luật dân sự. Trước mắt các ông Nguyên Ngọc, Nguyễn Văn Khải và Nguyễn Huệ Chi yêu cầu Đài PT-TH Hà Nội bồi thường cho mỗi ông 40.000.000 đồng (bốn mươi triệu đồng) cho việc đăng ảnh 2 lần.
Những nguyên đơn ký Đơn khởi kiện này tuyên bố toàn bộ số tiền do Đài PT-TH Hà Nội bồi thường cho họ sau khi trừ các chi phí kiện tụng sẽ chuyển cho một số Quĩ trợ giúp những ngư dân Việt Nam bị thiệt hại bởi những hành vi xâm hại từ phía Trung Quốc. 
4.3. Buộc Đài PT-TH Hà Nội phải đăng lời phát biểu của những người biểu tình (trong đó có chúng tôi) về nội dung phát sóng của Đài này trong các ngày 21/8 và 22/8/2011. Lời phát biểu này phải được phát sóng 2 lần trong 2 ngày từ khoảng 18h30 - 19h trong ngày.
4.4. Buộc Đài PT-TH Hà Nội phải đăng lời xin lỗi và cải chính do đã phát nội dung vu khống, xuyên tạc, xúc phạm nghiêm trọng đến những Nguyên Đơn và những người biểu tình khác theo đúng Luật báo chí.
4.5. Buộc Đài PT-TH Hà Nội xin lỗi các ông Nguyên Ngọc, Nguyễn Văn Khải và Nguyễn Huệ Chi và những người biểu tình khác vì đã đăng ảnh họ mà không xin phép họ trước.
Trên đây là nội dung Đơn Khởi kiện của chúng tôi đối với Đài PT-TH Hà Nội. Chúng tôi sẽ bổ sung yêu cầu, tài liệu, chứng cứ sau khi Tòa án thụ lý Đơn Khởi kiện theo yêu cầu hoặc sự cho phép của Tòa án. Kèm theo Đơn Khởi kiện này là những tài liệu 1 và 2 (02 Clip về buổi phát sóng 21/8/2011 và 22/8/2011), tài liệu 3, 4 (Thư yêu cầu đề ngày 26/8/2011 của những người biểu tình gửi Đài PT-TH Hà Nội và Thư trả lời đề ngày 31/8/2011 của ông Tổng giám đốc Đài này). 
Trong quá trình giải quyết Đơn Khởi kiện này, chúng tôi những nguyên đơn ủy quyền cho các ông Hà Huy Sơn, địa chỉ 50/106/79 Cầu Giấy, phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội, Điện thoại 0903.222.888, ông Nguyễn Đăng Quang, địa chỉ sô 07, tổ 1, đường Bờ Sông Tô Lịch, phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy, Hà Nội, Điện thoại: 0903.209.626 thay mặt cho chúng tôi nhận và gửi những đơn từ liên quan đến vụ kiện này.

NHỮNG NGƯỜI KHỞI KIỆN KÝ TÊN VÀO ĐƠN KHỞI KIỆN (Kiện  Đài Phát thanh và truyền hình Hà Nội đã phát sóng truyền hình có nội dung vu khống, xuyên tạc, xúc phạm những người biểu tình phản đối Trung Quốc gây hấn, vi phạm Luật báo chí và Bộ Luật dân sự):
Nguyễn Văn Khải
Nguyên Ngọc
Nguyễn Huệ Chi
Nguyễn Quang A
Nguyễn Đăng Quang,
Ngô Đức Thọ
Vũ Ngọc Tiến
Phạm Xuân Nguyên
Nguyễn Xuân Diện
Lê Dũng



TRẦN ĐĂNG KHOA: TỐT VÀ TÀI ĐẾN NHƯ NGUYÊN NGỌC

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trần Đăng Khoa: Tốt và tài đến như Nguyên Ngọc! 

05/09/2011 10:03:15


"Một người chuyên viết về người tốt, việc tốt, tài đến như Nguyên Ngọc, tốt đến như Nguyên Ngọc, không hiểu sao, lại có những người rất tốt, cứ nghi ngờ và thậm chí khăng khăng khẳng định Nguyên Ngọc là một người không tốt hoặc rất ...không tốt" - Trần Đăng Khoa.

Cũng như Nguyễn Thi, Nguyên Ngọc vào chiến trường khi đã là một nhà văn nổi tiếng. Tác phẩm đầu tiên của ông là cuốn tiểu thuyết Đất nước đứng lên, viết về anh hùng Núp. Cuốn sách vừa ra đời đã có tiếng vang lớn. Và cũng từ đấy hình thành một lối viết của Nguyên Ngọc theo kiểu Nguyên Ngọc. Lối viết này quán xuyến suốt một đời cầm bút của ông và có ảnh hưởng tới nhiều nhà văn sau ông. Đó là viết về người thật việc thật và người tốt việc tốt. Nhân vật của Nguyên Ngọc đều bắt nguồn từ những nguyên mẫu có thật trong cuộc sống chiến đấu của nhân dân mà ông từng tham dự.
Sau tiểu thuyết Đất nước đứng lên, là tập truyện ngắn Rẻo cao. Đây mới thật sự là kiệt tác của Nguyên Ngọc. Tập sách rất mỏng, chỉ phong phanh chừng một trăm trang, gồm có sáu truyện ngắn, mà truyện nào cũng đặc sắc. Bây giờ đọc lại vẫn còn thấy rất hay, vẫn không cũ. Văn Nguyên Ngọc là thứ văn trong, sánh như mật ong, lại đượm ướp một làn hương rất đặc biệt. Đọc cứ bàng hoàng váng vất mãi. Nguyên Ngọc hơn người ở tài văn. Không có thực tài, không thể viết được thế.

Lần giở những trang sách của Nguyên Ngọc, không hiểu sao, tôi cứ nghĩ đến Tố Hữu và Phạm Tuyên. Cũng như thơ Tố Hữu, ca khúc Phạm Tuyên, Nguyên Ngọc viết văn bằng hồn mình và cái hồn ấy thuộc về cách mạng. Ông bám sát các vấn đề lớn của chính trị, phục vụ trực tiếp các nhiêm vụ chính trị mà tác phẩm vẫn vượt qua được sự minh hoạ, vẫn thành tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh. Không ít tác phẩm có giá trị lâu dài. Những vấn đề lớn mà Tố Hữu
quan tâm cũng là những vấn đề Nguyên Ngọc đề cập đến trong hầu hết các sáng tác của mình..

Có thể nói Nguyên Ngọc là một Tố Hữu trong văn xuôi, cũng như Phạm Tuyên là Tố Hữu trong âm nhạc. Cùng có tài, cùng dâng hiến trọn vện tài năng của mình cho đất nước, cho Đảng, vậy mà số phận của mỗi người khác nhau biết bao. Âu đó cũng là lẽ đời. Tố Hữu viết:


Lớp cha trước, lớp con sau


Đã thành đồng chí chung câu quân hành


Ta cũng gặp ý tưởng đó trong Rừng xà nu, một truyện ngắn rất hay của Nguyên Ngọc thời chống Mỹ. Bao lớp cha con nối nhau đánh giặc, bảo vệ cán bộ của Đảng. Nói như cụ Mết: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn”. Mỹ Diệm treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng. Anh Xút chết, anh Quyết thay. Nối tiếp anh Quyết là Tnú. Cũng như Mai chết thì có Dít lớn dậy.


Đúng là Lớp cha trước, lớp con sau, mấy thế hệ nối tiếp nhau đánh giặc, bảo vệ buôn làng, bảo vệ Đảng. Nguyên Ngọc còn trung thành với ý tưởng này ngay cả trong từng đoạn văn tả cảnh rừng xà nu: “Trong rừng ít có loại cây nào sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”...


Truyện của Nguyên Ngọc hầu hết là thế. Ông ca tụng chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Ông rất gần với Tố Hữu và Phạm Tuyên. Và cũng như Tố Hữu và Phạm Tuyên, bút pháp ông nhất quán, trước sau như một, không thay đổi, không quay quắt. Trong khi đó, có không ít cây bút chuyển hướng, hoặc thay đổi cách tiếp cận hiện thực để thu hút sự chú ý của bạn đọc. Trước viết người tốt việc tốt thì sau viết người xấu việc xấu. Nguyên Ngọc không thế. Suốt đời dường như ông chỉ viết truyện người tốt việc tốt. Ngay cả khi dựng nhân vật tiểu thuyết, ông cũng tựa trên những con người có thật, những sự kiện có thật ở ngoài đời.


Còn nhớ năm 1969, Nguyên Ngọc cho ra cuốn Đất Quảng tập I. Cuốn sách được bạn đọc đón nhận rất nồng nhiệt. Nguyên Ngọc kể về cuộc chiến đấu của những người bám trụ ở vùng ven thành phố Đà Nẵng. Đó cũng là vùng đất hoạt động của ông. Nguyên Ngọc xuống đó không phải để làm một nhà văn đi thực tế mà ông là một người lính chiến, bám trụ thật sự. Đó là một địa bàn khốc liệt.


Để bảo vệ khu sân bay và thành phố Đà Nẵng, địch ủi trắng cả một vùng xung quanh. Chúng lùa dân vào ấp chiến lược. Chúng nã pháo vào vành đai trắng, chỉ một rảnh lá khô bất thường, chúng cũng cho trực thăng tới bắn. Người dân phải tìm mọi cách trụ lại. Họ rải lá khô cho địch bắn. Bắn mãi cũng chẳng thấy có gì. Họ cắm lá xanh rồi trồng cây xanh. Giặc bắn mãi, hoá quen, quen đến phát nản.


Cứ thế, bằng chính máu xương mình, dân lấn dần từng bước. Rồi họ đào hầm. Dựng lều bám trụ. Dân có trụ được thì cách mạng mới có đất mà trở về. Ngày nào cũng có người chết. Nhưng dân vẫn trụ vững.


Nguyên Ngọc nằm ở đây hai năm. Ông cùng dân chống càn, rồi chỉ huy dân đánh địch. Khi đồng chí Bí thư Đảng uỷ hy sinh, Nguyên Ngọc thay luôn làm Bí thư. Ông chiến đấu, bám trụ như một người lính kiên cường. Rồi ông ghi lại cuộc chiến đấu ấy. Đó là tiểu thuyết Đất Quảng tập I.


Trong số những người bám trụ ở vành đai này, Nguyên Ngọc rất quý Phan Văn Giả, Phó Bí thư đảng uỷ. Anh cùng nằm hầm bí mật với ông, cùng kề vai chiến đấu với ông. Khi Nguyên Ngọc phải rút về quân khu, chuyển sang vùng hoạt động khác, anh thay ông làm Bí thư. Đó là một người lính dũng cảm, mưu trí, chiến đấu rất kiên cường.


Anh là một trong những nhân vật chính của tiểu thuyết Đất Quảng. Khi vào tiểu thuyết, Nguyên Ngọc đổi tên anh là Thiệt. Bí thư Thiệt. Khi ở tập I tiểu thuyết Đất Quảng, Thiệt mới chỉ lấp ló xuất hiện. Anh sẽ là nhân vật trung tâm, là linh hồn của Đất Quảng tập II. Cuốn sách ấy Nguyên Ngọc đã viết xong. Ông cũng đã cho in một số chương trên báo Văn nghệ thời ấy.


Nhưng điều đau xót là sau đó, tổ chức Đảng tắm trong biển máu, tưởng không thể vực lên được. Địch nhổ hết cơ sở cách mạng. Bí thư Giả bị địch bắt và anh đã đầu hàng. Tất nhiên, anh là người còn lại cuối cùng. Anh chỉ khai những cơ sở đã bị xoá sổ, những con người đã bị địch giết. Bởi thế, việc đầu hàng, khai báo của Giả cũng không gây thiệt hại gì thêm cho cách mạng, nhưng đối với Nguyên Ngọc, thì đó lại là một tổn thất không gì bù được.


Tại sao một con người quả cảm mà ông yêu mến, tin tưởng như thế lại đầu hàng địch? Nguyên Ngọc đau xót lắm. Phản bội Cách mạng, phản bội Đảng là một tội lỗi không thể tha thứ được. Và như thế trong ông, bí thư Thiệt thực sự đã chết. Anh ta chẳng còn lý do gì để có thể tồn tại. Nguyên Ngọc đốt luôn cả cuốn sách đã viết xong. Bây giờ ông cũng không có ý định viết lại tập II nữa. Nhân vật của ông đã chết trong ông thì cuốn sách coi như cũng đã chết. Vì vậy mà Đất Quảng thành cuốn sách dang dở.


Nhưng Nguyên Ngọc vẫn đau đáu với đề tài chiến tranh Cách mạng ấy. Ông vẫn trung thành với lối viết đã có của mình. Nghĩa là vẫn viết người thật việc thật, người tốt việc tốt. Những tác phẩm gần đây nhất của ông, ông còn để nguyên cả đống tư liệu mà chả cần phải hư cấu hay dàn dựng thêm gì. Khi hiện thực tự nó đã đủ là một vẻ đẹp thì người viết không cần phải tô vẽ thêm nữa.


Đó là tập Đường mòn trên biển, kể về những người lính cảm tử của lữ đoàn 125 Hải quân, bí mật chuyên chở vũ khí vào Nam trong những năm chiến tranh, và tập Cát cháy, cũng lại viết về cuộc chiến đấu của những người bám trụ ở vùng Đất Quảng khốc liệt. Một đống tư liệu ngổn ngang bề bộn mà đọc lại rất hấp dẫn. Đấy là sức hấp dẫn của sự thật trần trụi, cũng là sự hấp dẫn của một tài năng. Phải nói đó là những tập sách hay của văn học ta hiện nay. Hai bút ký đặc sắc của ông vừa in trên báo Văn nghệ: ABôc ở Mường Hon và Lửa nguyên thuỷ cũng vẫn một bút pháp như vậy.


Bấy lâu nay, không ít người cứ dị ứng với loại truyện người tốt việc tốt. Thậm chí có người còn cực đoan cho đó không phải là văn chương thứ thiệt. Nguyên Ngọc là một trường hợp thú vị cho thấy sự thật lại không phải như vậy. Mới hay, văn chương thật bí hiểm. Nó đâu có như một số người vẫn nghĩ. Thực tình, cách viết của Nguyên Ngọc đâu có mới mẻ gì. Ông cũng chẳng phải là người cách tân hay cấp tiến gì gì. Ông vẫn viết như chúng ta đã từng viết trong những năm Sáu mươi của...thế kỷ trước.


Có đến hàng trăm nhà văn viết như ông. Nhưng rồi cũng có đến hàng trăm nhà văn sẽ bị thời gian đào thải. Có chăng chỉ còn lại một đôi người. Trong số rất ít người còn lại ấy, chắc chắn có Nguyên Ngọc. Nguyên Ngọc tồn tại được là nhờ tài văn. Mới hay tài văn và sự chân thành của tấm lòng người viết là vô hạn quan trọng. Vấn đề không phải viết về cái gì mà là viết như thế nào.


Điều đáng sợ nhất của văn chương ta là căn bệnh nhạt. Đó là căn bệnh trầm kha, nguy hiểm vì rất khó chữa. Nó không phải là cái xấu để người ta có thể dễ nhận biết và loại bỏ. Nó chỉ nhạt nhèo, không có sắc thái và cá tính. Nhưng nó lại được nhiều nhà quản lý, lãnh đạo ủng hộ vì nó luôn bảo đảm sự ổn định và an toàn. Nó yếu đuối, không có sinh khí, nhưng lại có sức mạnh trong việc làm băng hoại mọi sự sáng tạo.


Nguyên Ngọc luôn dị ứng với căn bệnh ấy. Ông bộc lộ thái độ của mình qua hàng loạt những bài viết và cả các bài trả lời phỏng vấn. Còn sáng tác, ông vẫn viết theo lối cũ. Văn Nguyên Ngọc là một dạng văn có ma lực. Giản dị, chắt lọc và trong veo. Đó cũng là dòng văn chủ đạo rất cần có trong đời sống của chúng ta hiện nay.


Tuy nhiên nếu cả nền văn học mà nhìn đâu cũng chỉ thấy một kiểu Nguyên Ngọc thì cũng thật đáng sợ. Vì nó lại có gì như là không bình thừơng. Trong khi đó chúng ta lại rất cần sự đa dạng phong phú trong các giọng điệu cũng như bút pháp và cách tiếp cận hiện thực. Bởi hiện thực vốn như thế. Nó bao giờ cũng phong phú, đa dạng và phức tạp. Hình như Nguyên Ngọc hiểu điều này thấm thía hơn bất cứ ai.


Bởi thế, mà ông yêu mến, ủng hộ Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Khắc Trường, Tạ Duy Anh... Đó là những tài văn hoàn toàn khác ông, thậm chí phong cách sáng tác ngược hẳn với ông. Chấp nhận và ủng hộ những tài năng hoàn toàn khác mình, tôi nghĩ đấy cũng là một cái tài của Nguyên Ngọc. Không phải ai cũng có được cái tài ấy.


Một người chuyên viết về người tốt, việc tốt, tài đến như Nguyên Ngọc, tốt đến như Nguyên Ngọc, không hiểu sao, lại có những người rất tốt, cứ nghi ngờ và thậm chí khăng khăng khẳng định Nguyên Ngọc là một người không tốt hoặc rất ...không tốt. Nghiệt ngã thay, có người còn nhìn ông như một kẻ nổi loạn… Đó là điều làm tôi rất đỗi kinh ngạc và có lúc tôi đã coi đó như là một nỗi bi kịch của cả cuộc đời ông... 


Trần Đăng Khoa (Báo Văn nghệ số 44 ra ngày 3/11/2007) 
Nguồn: Bee.net.vn

TRẦN ĐĂNG KHOA: THẬT OAN CHO NGUYÊN NGỌC

Trần Đăng Khoa: “Thật oan cho Nguyên Ngọc”


04/09/2011 11:05:19
 

Vì không đến dự lễ Trao tặng Huân chương Độc lập cho mình năm 2000, có người nói “cái ông Nguyên Ngọc này buồn cười thật”. Nhưng Trần Đăng Khoa biết ông Nguyên Ngọc bị oan. Bài viết từng đăng trên báo Văn nghệ số 44 ra ngày 3/11/2007. 


Tôi vẫn còn nhớ buổi sáng ngày 1/9/2000. Tại Trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam, đã diễn ra một nghi lễ long trọng: Trao tặng Huân chương Độc lập vì những cống hiến to lớn trong lĩnh vực văn học nghệ thuật cho 5 nhà văn xuất sắc: Hải Triều, Thanh Tịnh, Nguyễn Trọng Oánh, Nguyễn Thi và Nguyên Ngọc.

Trong số 5 nhà văn rất nổi tiếng này, chỉ có mỗi Nguyên Ngọc là còn sống. Nhưng ông lại không có mặt. Nhiều người tỏ ra băn khoăn. Một nhà văn bảo tôi: “Cái ông Nguyên Ngọc này buồn cười thật. Cứ khụng khà khụng khiệng. Khó chịu quá”. “Hình như anh Ngọc đi vắng.”. “Vắng đâu. Về rồi. Về mà vẫn không chịu đến! Cha này xem ra không được!”.


Thật oan cho Nguyên Ngọc.


Khi Hội Nhà văn tổ chức đón nhận Huân chương Độc lập cho ông thì ông vẫn còn lặn lội ở cơ sở cách mạng vùng ngoại ô thành phố Đà Nẵng. Ông hoàn toàn không biết có sự kiện này. Báo tin cho ông ngay trong buổi chiều hôm ấy lại là những độc giả của ông ở Đà Nẵng. Họ tíu tít đến chúc mừng ông. Anh Giám đốc khách sạn Non Nước còn mang lẵng hoa đến tặng ông. Nguyên Ngọc rất cảm động vì tấm lòng thương yêu quý trọng của độc giả giành cho mình. Xem chừng họ còn vui hơn cả ông khi ông được Nhà nước ghi nhận về sự cống hiến to lớn trong cả một đời cầm súng và cầm bút.


a
Ở Hội Nhà văn hiện nay, chỉ có mỗi Nguyên Ngọc là chưa nhận tiền tài trợ lần nào. Ảnh sưu tầm

Chiều 7/9/2000, Nguyên Ngọc về đến Hà Nội thì sáng ngày 8/9, nhà văn Nguyễn Trí Huân, Phó Tổng thư ký cùng nhà thơ Nguyễn Hoa, cán bộ Tổ chức Hội, thay mặt Ban Chấp hành đã đến tận nhà trao ông Huân chương Độc lập hạng nhì của Nhà nước cùng với lẵng hoa của Hội nhà văn. Phó Tổng thư ký Nguyễn Trí Huân còn thông báo cho ông biết, ông có 7 triệu đồng tiền đầu tư sáng tác.

- Ồ, cái đó thì mình không nhận đâu.


Nguyên Ngọc lắc đầu. Nhà văn Nguyễn Trí Huân cười điềm đạm:


- Đây là lộc chung thôi anh ạ. Lộc của Nhà nước mà!


- Lộc nào của Nhà nước. Tiền đóng thuế của dân đấy. Mình không nhận đâu!


- Mọi người đều nhận cả bác ạ - Tôi chen vào - Nhà văn mình khổ quá. Nhà nước tạo điều kiện thêm để ngồi làm tác phẩm. Em cũng đã nhận mấy triệu. Mọi người cũng đều nhận cả. Bác không nhận, thế bằng bác bỉ chúng em à?


- Không! không! - Nguyên Ngọc vội vã xua tay - Cái này là tuỳ quan niệm của mỗi người thôi. Mình viết được cái gì thì “bán” cho Nhà xuất bản lấy tiền rồi. Sao bây giờ lại còn lấy tiền của dân nữa? Số tiền ấy mình không nhận đâu. Huân đừng mang đến nhé!


Nguyên Ngọc lại từ chối. Như mấy lần đầu tư trước đây, ông cũng kiên quyết từ chối.


Ở Hội Nhà văn hiện nay, chỉ có mỗi Nguyên Ngọc là chưa nhận tiền tài trợ lần nào. Mà ông “gàn” lắm! Cực đoan lắm. Có người bảo, Nguyên Ngọc đã quyết cái gì thì không ai có thể ngăn cản nổi. Có túm tay ông kéo lại thì lập tức ông hoá thành anh La Văn Cầu, rút mã tấu chặt phéng ngay cái cánh tay bị níu giữ ấy mà xông lên. Việc từ chối tiền đầu tư cũng thế.


Tôi biết Nguyên Ngọc rất nghèo. Số lương hưu của hai vợ chồng ông có đáng là bao. Nguyên Ngọc lại đi thực tế liên miên, mà đi xa, đi tự túc. Tính ông lại khảnh. Đã thế ông lại không chịu viết tạp. Thế thì làm sao mà có được tiền.


Một lần nhà văn Nguyễn Thị Như Trang đến thăm ông, thấy trên mâm chỏng trơ hai cái xoong. Một xoong cơm, một xoong canh. Thức ăn không cho ra bát. Người ăn cứ múc thẳng từ nồi. Đấy là lối ăn theo kiểu thời chiến của lính trận. Chiến tranh đã kết thúc cách đây hơn một phần tư thế kỷ rồi, vậy mà Nguyên Ngọc vẫn chưa ra khỏi cuộc chiến. Cho đến tận bây giờ, ông vẫn không biết đi xe máy, cũng không biết đi cả xe đạp. Cứ túc tắc cuốc bộ. Và ông bước phăm phắp như lính cắt rừng.


- Sao tôi được nhận Huân chương Độc lập hạng nhì mà Nguyễn Thi lại chỉ hạng ba. Nguyễn Thi phải hơn tôi chứ. Tôi so với anh Thi sao được?


Nguyên Ngọc tỏ ra rất băn khoăn. Nguyễn Trí Huân chỉ còn biết nở nụ cười của Phật bà Quan âm. Bởi điều ấy nằm ngoài tầm tay Hội Nhà văn rồi. Có lẽ Ban Thi đua Khen thưởng Nhà nước cứ chiểu theo Quy chế, căn cứ vào độ dài của thời gian phục vụ trong chiến trường. Nguyễn Trọng Oánh và Nguyên Ngọc lặn lội trong lửa đạn suốt hơn chục năm trời, hết chiến tranh mới ra Bắc. Còn Nguyễn Thi thì ngay từ năm 1968, ông đã hy sinh rồi. Nguyễn Thi ở chiến trường mới được có bốn năm. Còn cả một đời, Nguyễn Thi nằm trong lòng đất và đến nay vẫn không tìm thấy hài cốt ở đâu…


Nguyên Ngọc ngồi lặng. Gương mặt đượm buồn. Ông và Nguyễn Thi cùng đi B một ngày. Bấy giờ, Nguyên Ngọc đi nhẹ nhàng lắm, vì ông chưa có vợ con. Còn Nguyễn Thi thì đã có vợ. Người vợ trẻ của ông lại vừa sinh con trai đầu lòng. Nhà thơ Vũ Cao còn nhớ buổi chia tay Nguyễn Thi. Bữa đó, ông rủ Nguyễn Thi ra phố. Ông muốn mời bạn ăn một bát phở bò. Nhà văn thời đó nghèo xơ xác. Trong túi Vũ Cao cũng chỉ đủ số tiền cho một bát phở thôi. Chả lẽ chỉ bạn ăn, còn mình thì ngồi suông ngắm bạn? Hình như cũng hiểu được nỗi băn khoăn của Vũ Cao, Nguyễn Thi bảo ông chỉ thèm khoai lang luộc thôi. Trời, tưởng gì, chứ khoai lang thì rẻ lắm. Số tiền trong túi Vũ Cao đủ để hai ông ăn no khoai lang. Thế là họ ngồi sụp xuống bên đường, làm một đĩa khoai mật.


Tối ấy, Nguyễn Thi về nhà từ biệt vợ con. Vợ ông chỉ lặng lẽ lau nước mắt còn thằng bé mới đẻ thì khóc ré lên. Nguyễn Thi đùng đùng quay ra rồi phăm phăm bước thẳng, không ngoái đầu lại, mặt tái ngắt, trông rất ghê sợ, cứ như sắp sửa chém giết ai đó. Vũ Cao biết nếu chỉ quay nhìn lại vợ con, cửa nhà, chắc Nguyễn Thi sẽ không thể đi nổi.
Đêm ấy, Nguyên Ngọc và Nguyễn Thi lên tàu ở ga Thường Tín. Rồi họ vượt rừng, lội suối, luồn dọc Trường Sơn hàng mấy tháng trời. Đến A Sầu, A Lưới thì chia tay nhau. Đêm chia tay, họ còn giăng võng, nằm bên nhau trong một khu rừng xà nu. Khu rừng này đã thành nỗi ám ảnh đối với Nguyên Ngọc. Đêm ấy, mọi người còn mời một đồng chí ở cơ sở đến nói cho anh em mới vào nghe chuyện chiến trường.
Đồng chí cán bộ đó không thể nói được gì, vì suốt mấy năm ở đây, ông chưa bao giờ được đứng trước một đám đông như thế. Trời ơi! Chỉ có 5 người thôi mà đã thành một đám đông. Nguyễn Thi bảo: “Tình hình thế này là ác liệt đấy. Chúng mình vào đây mà làm nhà văn thì vô duyên quá! Kỳ cục quá! Phải sống đã. Cầm súng đánh giặc đã rồi làm nhà văn sau. Chúng mình chỉ trở lại Hà Nội bằng con đường số Một.”

Câu nói như một lời nguyền. Và rồi họ đã thực hiện đúng như thế. Nguyễn Thi xuôi về Nam Bộ. Nguyên Ngọc xuống khu Năm. Đấy là những vùng chiến trường rất đỗi khốc liệt. Năm 1968, Nguyễn Thi hy sinh trong một trận chiến đấu . Ông ngã xuống như một người anh hùng. Còn Nguyên Ngọc thì sau chiến tranh, ông mới trở lại Hà Nội bằng đúng con đường số Một.
Kỳ tới: Tốt và tài đến như Nguyên Ngọc

Trần Đăng Khoa
(Báo Văn nghệ số 44 ra ngày 3/11/2007) 
Nguồn: Bee.net.vn.

AI QUY KẾT NGƯỜI BIỂU TÌNH YÊU NƯỚC LÀ PHẢN ĐỘNG?


Trong lời dẫn khi công bố toàn văn bức thư gửi Ông Phạm Quang Nghị, Bí thư thành ủy Hà Nội, nhà văn Nguyên Ngọc viết: 
Định là thư ngỏ, nhưng tôi chưa công bố ngay, mà gửi trước cho vài người bạn qua email để tham khảo ý kiến.
Không biết qua đường nào, ông Phạm Quang Nghị đã biết được thư này và tối 25-8 đã đến nhà tôi, trong khi tôi đi vắng. Sáng 26-8 ông ấy đã gọi điện thoại cho tôi, nói rằng có thể Đài Phát thanh-Truyền hình Hà Nội “đã non nớt” trong khi phát phóng sự này.
Trong cuộc gặp mặt với các nhân sĩ trí thức hôm 27 tháng 8 vừa qua, một lần nữa, Ông Phạm Quang Nghị đã khẳng định lại điều này. 

Ông nói: "Hôm qua tôi gọi điện cho anh Nguyên Ngọc. Không có bất cứ một ai [quan chức lãnh đạo] ở Tp HN quy kết những người biểu tình là phản động. Không có ai chỉ đạo các cơ quan báo chí ở Hà Nội quy kết những người biểu tình các anh là phản động".

Như vậy đã rõ, Thành ủy và UBND TP không quy kết người biểu tình là phản động. Thành ủy và UBND TP HN cũng không chỉ đạo các cơ quan báo chí quy kết những người biểu tình là phản động.

Giám đốc Công an TP Hà Nội Nguyễn Đức Nhanh cũng một lần nữa, khẳng định trong cuộc gặp gỡ nói trên rằng: Không có chủ trương đàn áp người biểu tình yêu nước và "trong tất cả các cuộc biểu tình ở HN trong thời gian qua đều xuất phát từ lòng yêu nước, là tự phát, thể hiện sự bức xúc [trước sự gây hấn của TQ].

Vậy thì bây giờ, chắc là thành ủy Hà Nội, đứng đầu là Bí thư thành ủy Phạm Quang Nghị đang chỉ đạo để làm rõ việc này. Nếu Thành ủy không chỉ đạo báo chí "quy kết người biểu tình yêu nước là phản động" thì chắc chắn ông TGĐ Đài PTTH Hà Nội Trần Gia Thái, và có thể cả ông Tô Phán (TBT báo Hà Nội Mới), ông Đào Lê Bình (TBT báo An Ninh Thủ đô) sẽ mất chức, rơi sao! Dân chúng đang chờ mong một quyết định sáng suốt, hợp lòng dân và thượng tôn pháp luật, tôn trọng trí thức của Ông Phạm Quang Nghị! Cá nhân tôi, tôi tin tưởng và kính trọng ông Phạm Quang Nghị.

Tại cuộc gặp nói trên, Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh cũng đề nghị: "Nhân dân tuân thủ pháp luật. Các nhà chức trách cũng phải làm đúng pháp luật, không được làm gì trái luật".

Và việc khởi kiện TGĐ Đài PTTH Hà Nội Trần Gia Thái chắc chắn đang được hoàn tất!
Nguyễn Xuân Diện

Ghi thêm: 
Những người tham gia cuộc gặp với lãnh đạo Tp HN sáng 27.8.2011 (Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, GS. Chu Hảo, TS Nguyễn Quang A và Nguyễn Xuân Diện), không phải là đại diện của những người ký Kiến nghị. Tuy nhiên, đây là một cuộc gặp công khai, về một vấn đề chung, nên nội dung cuộc gặp gỡ cũng đã được thông báo tới 21 vị cùng ký tên trong bản Kiến nghị.

BBC: NHÌN LẠI PHONG TRÀO BIỂU TÌNH HÈ 2011

BBC Tiếng Việt 
Nhìn lại Phong trào Biểu tình Hè 2011 
Quốc PhươngBBC Việt ngữ
Cập nhật: 08:50 GMT – chủ nhật, 4 tháng 9, 2011
.
 
Phong trào biểu tình mùa Hè 2011 thu hút sự tham gia của nhiều giới 
và tầng lớp nhân dân, trong đó có thanh niên. 

Theo dõi 11 cuộc biểu tình diễn ra ở Hà Nội, trung tâm của cả nước trong vòng gần ba tháng Hè liền, từ Chủ Nhật 5/6 tới Chủ Nhật 21/8/2011, có thể đánh giá đây là một trong những phong trào chính trị – xã hội nổi bật ở Việt Nam trong thời gian gần đây. 
Phong trào biểu tình Mùa Hè 2011 có những sắc thái mới, mà việc nhìn nhận có lẽ không nên chỉ giới hạn ở gọi đó là chuỗi các cuộc biểu tình, dù như thế không hẳn là sai, hay đó là sự tụ tập đông người, như cách gọi có phần làm giảm giá trị và có thể có dụng ý của Chính quyền.

Phong trào chính trị – xã hội mùa Hè năm 2011 được châm ngòi bởi cuộc biểu tình, phản đối Trung Quốc có hành vi xâm phạm toàn vẹn lãnh lãnh thổ của Việt Nam, trên biển Đông, sau các sự kiện tàu Trung Quốc cắt cáp, tấn công và đe dọa tàu dân sự Việt Nam hôm 20/6/2011 tại vùng biển mà Việt Nam tuyên bố thực thi chủ quyền và quyền chủ quyền lâu nay của mình.

Cuộc biểu tình kép vốn nổ ra ngày Chủ Nhật, 05/6/2011 ở hai trung tâm chính trị và kinh tế hàng đầu của cả nước là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, đã trở thành điểm khởi phát mà lúc đầu khó ai có thể hình dung về quy mô cuối cùng của nó.

Từ sau Chủ Nhật của tuần lễ xuống đường đầu tiên, phong trào biểu tình đã chủ yếu diễn ra với các cuộc tuần hành có số đông tham gia tại các khu phố trung tâm Thủ đô Hà Nội, nơi tọa lạc của nhiều cơ quan bộ máy đầu não trung ương của Đảng và Nhà nước Việt Nam.

Qua hơn 11 tuần biểu tình của phong trào, có thể tạm rút ra một số nhận xét về tính chất, đặc điểm của các cuộc biểu tình và cách thức, thái độ, ứng xử của các bên trong cuộc liên quan là người biểu tình và chính quyền như sau.

Kỷ lục hy hữu

 
Người biểu tình có nhiều cách thức sáng tạo để diễn đạt các thông điệp của mình.

Trước hết, các cuộc biểu tình có vẻ đã lập một kỷ lục đặc biệt hy hữu khi diễn ra liên tục trong suốt hơn 11 tuần lễ (nếu tính cả một lần tập hợp giao lưu tại một địa điểm được hẹn trước mà có thể coi là “biểu tình ngồi”) mà hầu như không hề gián đoạn, dù gặp can thiệp của Chính quyền.

Địa điểm xuống đường của đa số các cuộc biểu tình, tuần hành là hết sức đắc địa hay nhạy cảm, khi công khai diễn ra ở ngay trái tim của cả nước, Thủ đô Hà Nội, nơi tọa lạc của các cơ quan đầu não của Chính quyền, do đó dễ dàng thu hút sự chú ý của dư luận trong nước và quốc tế.

Thời điểm Phong trào biểu tình diễn ra trùng với lúc một số cơ quan quyền lực của Chính quyền đang trên đường hình thành hoặc chuẩn bị vận hành như ngay trước khi Chính phủ thông qua danh sách đề cử nội các và Quốc hội khóa 13 bước vào kỳ họp đầu tiên. 
“Dạng thức không tổ chức như vậy có thể chính lại là một hình thức cao cấp của tổ chức, tổ chức mà không tổ chức, không có cơ cấu mà thành cơ cấu.”
Đây là thời điểm, nhiều vị trí quyền lực của các nhóm trong chính quyền, đảng, và quốc hội, được cho là có thể phải chờ tới phút cuối mới chính thức ổn định, định vị, và nhiều quyết định chính sách, chiến lược đối nội, đối ngoại có thể phải chờ thống nhất thêm, kể cả trong quan hệ với Trung Quốc hoặc theo dõi tình hình phong trào Mùa Xuân Ả-rập

Phong trào biểu tình diễn ra có tính tổ chức khá cao, mặc dù luôn được một số người trong cuộc tự nhận là các sự kiện riêng lẻ, tự phát, tự động tập hợp, không có sự dẫn dắt, định hướng, không có sự tổ chức , kết nối của bất cứ ai.

Dạng thức không tổ chức như vậy có thể chính lại là một hình thức cao cấp của tổ chức (tổ chức mà không tổ chức, không có cơ cấu mà thành cơ cấu).

Nhưng nhìn sâu hơn, có thể thấy các thành viên tham gia được tập hợp từ dạng các cá nhân đơn lẻ, cho tới các nhóm nhỏ, và vừa trở lên, với những thông điệp khá thống nhất trong sự đa dạng của các thông điệp dùng để thể hiện ý chí, nguyện vọng của người biểu tình.

Vai trò dẫn dắt

 
Các thông điệp của nhiều cuộc biểu tình phản ánh khá rõ ràng những gì 
mà những người tham gia muốn thể hiện.

Dù được thừa nhận hay không, có thể dễ dàng thấy, phong trào có sự ‘dẫn dắt’ ít nhiều về mặt tinh thần của giới trí thức, nhân sỹ và đặc biệt là sự tham gia tích cực của các công dân thuộc thế hệ cộng đồng mạng Internet, mạng điện thoại di động, nhắn tin, bên cạnh các hình thức truyền thống khác như truyền miệng, giao tiếp nhóm nhỏ, giao tiếp cộng đồng, gia đình, liên thế hệ, đồng đẳng v.v…

Sự tham gia của các trí thức, nhân sỹ ở Hà Nội, lúc đầu cũng có ở TP Hồ Chí Minh, càng về sau càng ghi nhiều dấu ấn, với sự xuất hiện cả ở trên đường phố, hay các trang mạng, trang blog cá nhân, phi chính thức, hoặc qua các thông điệp dưới dạng các thư kiến nghị, phản đối, khiếu nại v.v… mà họ thường đứng tên.

Diện tham gia của các trí thức, nhân sỹ cũng rất đa dạng và đáng chú ý. Đa số họ là các nhân sỹ, trí thức có tên tuổi. 
“Chính thông tin được giao lưu trên mạng có thể đã đóng vai trò nhà tổ chức của các cuộc biểu tình tuần hành” 
Một số là những nhà cách mạng lão thành, các tướng lĩnh, sỹ quan trung, cao cấp hưu trí, các cựu quan chức, viên chức chính phủ trung, cao, cho tới những trí thức có học vị, chức danh giảng dạy cao cấp, như các Giáo sư, Viện sỹ, Tiến sỹ,… đã, đang làm việc trong các ngành giáo dục, nghiên cứu, chính sách v.v… hoặc các cơ quan công quyền trong chính hệ thống quyền lực của Chính quyền, Đảng cộng sản.

Do đó, họ được cho là vẫn còn tầm ảnh hưởng và uy tín nhất định với những người đương chức trong bộ máy nhà nước ở Trung ương và Hà Nội hiện nay, mà đa số là lớp con, cháu của họ. Ngoài ra, không thể không kể đến các gương mặt có ảnh hưởng quan trọng khác là giới văn nghệ sỹ, giới chuyên gia, phản biện xã hội độc lập, các nhà hoạt động xã hội, các blogger có tên tuổi, cùng nhiều nhà bất đồng chính kiến, cựu tù nhân chính trị, lương tâm v.v…

Các vị này thường xuyên xuất hiện tại các cuộc biểu tình, hoặc tham gia bình luận, quan sát, đưa tin, bài, nhận định, phát biểu… về các hoạt động và các sự kiện.

Đặc biệt còn có sự tham gia của nhiều quần chúng và các chủ thể xã hội khác, thuộc nhiều tầng lớp dân, đến từ các địa phương, hoàn cảnh, lứa tuổi, nghề nghiệp… khác nhau.

Chẳng hạn như thanh thiếu nhi, học sinh, sinh viên, tiểu thương, doanh nhân, công nhân, nông dân, cựu chiến binh, cán bộ hưu trí, thường dân, dân oan, phụ nữ, phụ lão, cá nhân hay gia đình, đồng nghiệp hay bạn bè v.v…

Một số thành phần là cán bộ đương chức nhà nước cũng được cho là tham gia hoặc theo dõi, quan sát các sự kiện.

Điển hình hiện đại

 
Nhiều người biểu tình cho biết họ sẵn sàng xuống đường vì Tổ Quốc 
bất cứ khi nào Trung Quốc đe dọa Việt Nam.

Phong trào chính trị – xã hội mùa Hè 2011 tại Việt Nam có thể được xem là một điển hình của các trào lưu chính trị của quần chúng trong thời đại hậu công nghiệp và mạng Internet, khi các thông tin mạng được giao tiếp liên cá nhân, giữa các nhóm tham dự, quan sát biểu tình, trở thành một thành tố hữu cơ tạo nên cấu kết đặc trưng của cuộc biểu tình.

Chính thông tin được giao lưu trên mạng có thể đã đóng vai trò nhà tổ chức của các cuộc biểu tình tuần hành.

Nó cho người ta biết biểu tình ở đâu, lúc nào, tại sao, người tham gia có thể làm gì, không làm gì, cần lưu ý gì, thông điệp gì, cách thức ra thông điệp thế nào, gặp trở ngại phải ứng xử ra sao, cần tự giúp đỡ hoặc giúp đỡ thế nào, ai, cái gì là trọng tâm của sự kiện biểu tình v.v…

Chính mạng thông tin và thông tin mạng, dù dưới dạng các bài blog, các diễn từ, các diễn đàn, các bản scan, các email, thư ngỏ, kiến nghị, danh sách chữ ký, các bình luận, hình ảnh clips video, hoặc âm thanh, hay hình chụp hay tranh vẽ, thậm chí thơ, ca, hò, vè, câu đối v.v… đặc biệt là các tin nhắn dưới đủ các dạng, qua Internet, qua điện thoại di động, truyền miệng… đã có thể biến thành nội dung, mà không dừng lại là công cụ giao tiếp, của các hoạt động biểu tình, phản đối. 
“Các điểm nút có thể thấy như biểu tình làm bộc lộ tính thiếu thống nhất, nhất quán trong xử lý của Chính quyền Trung ương và địa phương. Đã ít nhất ba lần, các cuộc biểu tình của Phong Trào bị chính quyền can thiệp, nhưng không thực dứt khoát” 
Phong trào Biểu tình Hè 2011 có thể đã đồng tâm hóa, nhất thể hóa, thu hút trúng nhiều tâm tư, nguyện vọng, tình cảm, quan tâm, lý tưởng và chí hướng của những người tham gia, ủng hộ, hoặc cảm tình viên, quan sát biểu tình từ xa.

Các nguyên nhân đưa những người biểu tình, dù xuống đường, hoặc liên kết trên mạng, trong các nhóm tự hình thành, có thể là các nhu cầu được biểu hiện, thể hiện lòng yêu nước, sự quan tâm tới vận mạng tổ quốc, lòng mong muốn được thực hiện các quyền cơ bản (như quyền yêu nước, biểu tình, quyền thể hiện ý chí, nguyện vọng, quyền tự do ngôn luận, quyền làm chủ đất nước…).

Hoặc đó là nhu cầu giải tỏa các bức xúc trước các vấn nạn, tệ nạn xã hội như thiếu dân chủ, tham nhũng, bất công, bất bình với các chính sách, đối sách của chính quyền, kể cả về ngoại giao, quốc phòng, nhập cư nước ngoài, kinh tế suy giảm, thất nghiệp, đói kém, các oan khiên, bất an, muốn được quyền tự do nhiều hơn, muốn được lắng nghe nhiều hơn, muốn thủ đắc các quyền dân chủ của mình, và thậm chí có thể muốn thách thức ôn hòa trước quyền lực độc tôn của chính quyền, đảng cầm quyền, v.v…

Tất cả, và có lẽ nhiều hơn thế, có thể đã cùng tìm được các sự kiện của Phong trào Hè 2011 là nơi gặp gỡ, giao lưu, thể hiện của mình.

Cuộc chiến trong cuộc

 
Xe buýt dân sự được chính quyền sử dụng trong một số cuộc can thiệp giải tán biểu tình.

Một trong điểm đáng lưu ý khác của Phong trào Biểu tình Hè 2011, dưới hình thức tự nhóm và ôn hòa của nó, chính là tạo ra các tình huống mang tính thể nghiệm có lúc lên ngưỡng cao trào, đỉnh điểm và mang đặc thù riêng.

Các điểm nút có thể thấy như biểu tình làm bộc lộ tính thiếu thống nhất, nhất quán trong xử lý của Chính quyền Trung ương và địa phương. Đã ít nhất ba lần, các cuộc biểu tình của Phong Trào bị chính quyền can thiệp.

Dù các cuộc can thiệp được cho là thô bạo, tới mức một số dư luận cho là khó có thể chấp nhận, vi phạm pháp luật, vi hiến, các cuộc biểu tình vẫn diễn ra. Chính quyền có lúc tỏ ra muốn dập tắt nó, nhưng lại không thể hoặc không dám dập tắt nó một cách dứt điểm.

Lãnh đạo ngành này, cấp này của Chính quyền có vẻ chấp nhận các cuộc biểu tình và có phát ngôn “mềm hóa” về nó (như phát ngôn của Bộ Ngoại giao, của giám đốc Công An Hà Nội,) trong khi lãnh đạo ngành khác, hoặc cấp khác cùng một Chính quyền ấy lại phản đối biểu tình, và tỏ ra cứng rắn, ngăn cấm hoặc sẵn sàng ra tay với nó.

Các loại vũ khí, chiến thuật mà chính quyền mang ra để đối phó với Phong trào Biểu tình có vẻ cũng rất đa dạng, quyết liệt. Chúng đi từ nhẹ tới nặng, từ lỏng tới chặt, từ ít quyết liệt đến hết sức quyết liệt, như một số công dân mạng đã liệt kê như: theo dõi, chia cắt, bao vây, can thiệp, giải tán, bắt bớ, khủng bố, tống giam.
Bên cạnh đó là các công cụ cứng, mềm hỗ trợ khác, vẫn theo một số bình luận mạng, như vận động, tuyên truyền, xâm nhập mạng, phản tuyên truyền, phản biểu tình.

Lực lượng áp đảo

 
Lực lượng an ninh, trật tự can thiệp giải tán một cuộc biểu tình.

Chính quyền còn được cho là đã sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng áp đảo ở trung ương, cả nước và địa phương và huy động quần chúng phản biểu tình, cũng như chỉ đạo sản xuất các chương trình, kế hoạch chi tiết để phản biểu tình và chống biểu tình.

Hàng loạt các cơ quan, đoàn thể, ngành, ngạch của chính quyền được cho là đã được huy động một cách tổng thể, có kế hoạch, bài bản.

Chẳng hạn đó là như các ngành công an, an ninh, nội chính, đảng – đoàn, tuyên giáo, truyền thông, mặt trận tổ quốc, phụ nữ, cựu chiến binh, đoàn thanh niên, hội sinh viên, hội phụ lão, hưu trí, các cơ quan, đoàn thể chuyên môn khác của chính quyền ở các cấp từ thành phố, quận, huyện, xã, phường.

Nhiều đoàn thể quần chúng, nhân dân địa phương nơi diễn ra các sự kiện hoặc có người tham gia các sự kiện của phong trào v.v… và chưa kể tới các cơ quan bộ ngành ở Trung ương, đã được huy động tạo hiệu quả tổng thể. 
“Lo lắng đó có thể có căn nguyên, nhất là trong tình hình trong nước, cũng như khu vực và quốc tế đang rất “nhạy cảm và nóng” như hiện nay, sau kinh nghiệm của Mùa Xuân Ả-rập với Tunisia, Ai Cập, Bahrain, đã lan tới Lybia, cũng như có thể sắp đi tới Syria” 
Bên phía người biểu tình, các cuộc biểu tình và người tuần hành đối lại bằng việc các thành viên tham gia, cổ vũ, hay quan sát tuần hành… cố gắng luôn giữ đúng trong phạm vi hiến pháp, pháp luật.

Họ tỏ ra luôn bám vào các quy định, văn bản pháp quy, kể cả các phát ngôn của các quan chức lãnh đạo; để trên cơ sở đó, thực hiện các quyền cơ bản, trong đó có quyền được biểu tình, quyền tự do ngôn luận và các quyền khác như phản biện xã hội, quyền khiếu nại, kiến nghị công dân và tập thể.

Họ cũng sử dụng các phương tiện truyền thông mạng với tầm bao phủ vượt ra khỏi địa điểm các cuộc biểu tình tuần hành, để tới với cấp độ toàn quốc và vượt ra khỏi biên giới Việt Nam, tới với môi trường thông tin quốc tế, và toàn cầu.

Các thông điệp của họ sử dụng có vẻ được tự kiểm duyệt sao cho vẫn nêu được những thông tin thể hiện ý chí, nhu cầu, nguyện vọng biểu tình, mà vẫn không vi phạm hành lang pháp luật, do đó trở nên khó bắt bẻ, khó đàn áp hay trấn áp hơn.

Quan trọng ra sao

 
Nhiều bậc phụ huynh đã coi các cuộc biểu tình có ý nghĩa giáo dục với con cháu của họ.

Chính sự tham gia, vào cuộc của ngành tuyên giáo, truyền thông và hàng loạt các hoạt động của các ngành, các cấp, các đoàn thể của trung ương và địa phương nơi diễn ra các sự kiện biểu tình, tuần hành, đã phần nào cho thấy dù đôi lúc được Chính quyền và truyền thông nhà nước mô tả chỉ là hoạt động có tình thiểu số, thiếu điển hình, đại diện của “một nhóm người”, “một số phần từ”, các sự kiện đã tỏ ra quan trọng thực sự ra sao với Chính quyền.

Nhiều lực lượng an ninh, công an, trật tự, dân phòng, quần chúng đã được huy động để giải tán, cản trở các cuộc biểu tình, chưa kể các cuộc tổ chức người dân, cán bộ địa phương can thiệp tại gốc nơi cư trú, tạm trú của người tham gia các phong trào.

Nhiều bài báo, chương trình phát thanh, truyền hình, truyền thông mạng của Nhà nước ở Trung ương và Địa phương đã được tổ chức để vừa công kích biểu tình, vừa phản tuyên truyền và phản biểu tình. Cho tới nay, chưa có dấu hiệu chắc chắn nào cho thấy liệu các chiến dịch này Chính quyền hoàn toàn chấm dứt hay là không.

Nhưng nếu các cuộc biểu tình là không quan trọng, thì làm sao Chính quyền lại phải chú ý và huy động lực lượng sâu rộng đến như vậy, nếu như không phải là họ có thể đã có những lo lắng về quy mô lan rộng của Phong trào.

Lo lắng đó có thể có căn nguyên, nhất là trong tình hình trong nước, cũng như khu vực và quốc tế đang rất “nhạy cảm và nóng” như hiện nay, sau kinh nghiệm của Mùa Xuân Ả-rập với Tunisia, Ai Cập, Bahrain, đã lan tới Lybia, cũng như có thể sắp đi tới Syria.

Cách thức kết thúc

 
Hai trí thức, nhân sỹ có mặt tại cuộc ‘đối thoại’ giữa Chính quyền Hà Nội với công dân (Hình minh họa).

Phong trào Biểu tình Mùa hè năm 2011 được cho là đã kết thúc, sau nhiều va chạm, đụng độ, đối đầu giữa hai bên là Chính quyền và người biểu tình, từ các mặt ý chí, quyền lợi, nhận thức, cho đến các hành xử cụ thể như trấn áp bằng sức mạnh của chính quyền và xu hướng bất bạo động của những người tham gia Biểu tình.

Có vẻ như Chính quyền Thành phố Hà Nội đã chịu một số sức ép của Chính quyền Trung ương, đặc biệt khi trong lãnh đạo Đảng, Chính quyền được cho là có thể đã so sánh việc phong trào biểu tình không diễn ra hoặc không thể diễn ra ở một số địa phương khác, trong khi tại chính Thủ đô lại để “tình trạng biểu tình” diễn ra quá lâu dài.

Trong tình thế ngăn cản, cấm đoán, đàn áp, trấn áp, như đã thử nghiệm tới ít nhất ba lần trong các tháng Bảy và Tám, không xong, Hà Nội cuối cùng quyết định nên có sự nhượng bộ và đối thoại với những người biểu tình, hơn là tiếp tục đối đầu cứng rắn với họ, ít ra là về mặt công khai và hình thức trong thời điểm hiện tại.
“Và họ thấy đã tới lúc có thể tạm khép lại một giai đoạn, một trang sử và tỏ ra sẵn sàng chủ động đối thoại với Chính quyền, nhất là người đối thoại cao nhất phía bên kia lại trong cương vị Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Thành ủy, một điều hiếm thấy trong giải quyết tranh chấp chính quyền và dân ở Việt Nam lâu nay.”. 
Và có người cho rằng, Hà Nội có thể tính toán rằng nếu làm quá cứng rắn, có thể lợi bất cập hại, các bức xúc chính trị – xã hội có thể trở nên khó lường, nếu bùng phát ở quy mô không thể kiểm soát được.

Và chắc Chính quyền Hà Nội cũng như có thể cả Chính quyền Trung ương đều không muốn Thủ Đô trở thành địa điểm bùng phát ấy, vào thời điểm ở kỷ nguyên toàn cầu hóa, dân chủ hóa và thông tin giao tiếp mạng toàn cầu tính bằng phần tử giây.

Bên phía người biểu tình, Phong trào Chính trị – Xã hội có vẻ như đã tạm hoàn tất một mô hình, một cách thức, thử nghiệm, hay một bước đi… mà dưới hình thức lần này là các cuộc biểu tình tuần hành xuống đường và trên mạng Internet đòi các quyền cơ bản như quyền yêu nước và bảo vệ tổ quốc, cùng các quyền dân sự khác.

Và có vẻ họ thấy đã tới lúc có thể tạm khép lại một giai đoạn, một trang sử và tỏ ra sẵn sàng chủ động đối thoại với Chính quyền, nhất là người đối thoại cao nhất phía bên kia lại trong cương vị Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Thành ủy, một điều hiếm thấy trong giải quyết tranh chấp chính quyền và dân ở Việt Nam lâu nay. 

Nguồn: BBC Việt ngữ
Nguồn: Ba Sàm.

Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2011

ĐÀI PTTH HÀ NỘI VI PHẠM ĐIỀU KHOẢN NÀO CỦA LUẬT BÁO CHÍ VÀ NĐ 02?

ĐÀI TRUYỀN HÌNH HÀ NỘI VI PHẠM ĐIỀU KHOẢN NÀO CỦA LUẬT BÁO CHÍ, NGHỊ ĐỊNH 02/2011/ NĐ-CP?

Phạm Viết Đào


Căn cứ vào khoản 4  Điều 10 của Luật Báo chí quy định về Những điều không được thông tin trên báo chí:Không được đưa tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống nhằm xúc phạm danh dự của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của công dân”; Bản tin của Đài truyền hình Hà Nội tối 22/8 đã đưa tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm danh dự của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của các tổ chức và cá nhân sau đây:

1/ Cơ quan Công an Hà Nội và các cơ quan an ninh Việt Nam

- Nếu đúng có các thế lực thù địch có âm mưu lật đổ chính quyền, giật giây những hoạt động biểu tình vừa qua tại Hà Nội; thế mà các cơ quan chức năng của Hà Nội và của Việt Nam không phát hiện ra được, điều này có nghĩa là năng lực chuyên môn của các cơ quan này có vấn đề; hoặc phát hiện ra mà lại không nghiêm trị tức là can tội bao che, dung túng…Nếu quả có điều đó thì thật sự đó là một vấn đề hệ trọng liên quan tới an ninh quốc gia?

- Nếu các hoạt động biểu tình vừa qua tại Hà Nội không do thế lực thù địch, phản động nào giật giây, đây chỉ là hành động tự phát, bột phát của một số trí thức, thanh niên; nếu đúng như vậy, ( bản thân Giám đốc Công an Hà Nội Nguyễn Đức Nhanh trước đó 1 tuần đã từng tuyên bố: biểu tình ở Hà Nội là hành động biểu thị lòng yêu nước nên công an Hà Nội không tiến hành trấn áp, bắt giữ mà chỉ theo dõi để giữ trật tự) ; Trong thực tế, các bộ phận chức năng của Công an Hà Nội cũng đã tiến hành các biện pháp nghiệp vụ cần thiết như: theo dõi, giám sát, điều tra, tạm giữ để điều tra, khoanh vùng đối tượng để theo dõi…nhưng cho đến khi Đài truyền hình Hà Nội đưa lên sóng thông tin tối 22/8, phía cơ quan công an chưa hề đưa ra bất kỳ lệnh khởi tố điều tra, khởi tố bị can nào đối với những người tham gia biểu tình?

Do đó, việc đưa tin như Đài truyền hình Hà Nội trong bản tin 22/8 là một việc hoang báo, gây hoang mang dư luận không cần thiết và nguy hiểm, làm ảnh hưởng đến các hoạt động đầu tư, du lịch, sinh hoạt bình thường tại Thủ đô…

2/ Căn cứ vào Nghị định 02/2011/ NĐ-CP thì TBT-TGĐ Đài truyền hình Hà Nội đã vi phạm Khoản e, Mục 1 Điều 7: “Đăng phát ảnh của cá nhân mà không được sự đồng ý của người đó hoặc thân nhân của người đó…”

Trong chương trình tối ngày 22/8 Đài truyền hình Hà Nội đã đưa lên sóng hình ảnh của một số người khá rõ nét mặt, đó là các ông: Nguyên Ngọc, Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Văn Khải và một số người mà người viết bài này không biết tên…

Hành vi này là hành vi vừa vi phạm Nghị định 02, là Nghị định cụ thể và cá thể hóa các hành vi vi phạm Luật báo chí và các hình thức xử phạt tương đương…Mặt khác hình ảnh của các cá nhân này đã được Đài sử dụng để minh họa một cách lập lờ của một số thông tin mà Đài đã đưa; đó là việc đưa ra thong tin: một số thế lực phản động đã kích động người biểu biểu tình…Đây là “ đưa tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống xúc phạm danh dự của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của công dân…” của những người có hình ảnh được đưa kèm vào bản tin…

Hành vi này của TBT Đài truyền hình Hà Nội đã bị một số vị lên tiếng, gửi đơn khiếu nại và Đài đã có công văn giải trình về việc này nhưng không hề nhận ra sai phạm: TBT Đài truyền hình Hà Nội đã vi phạm Luật Báo chí như đã phân tích ở trên. Bởi theo Khoản 3 Điều 13 của Luật Báo chí định: “Người đứng đầu cơ quan báo chí lãnh đạo và quản lý cơ quan báo chí về mọi mặt, bảo đảm thực hiện tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí và chịu trách nhiệm trước thủ trưởng quy cơ quan chủ quản và trước pháp luật về mọi hoạt động của cơ quan báo chí…”

Theo quy định này, TBT có sử dụng tin bài, ý kiến của bất kỳ ai thì đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc đưa các tin bài này !

Trong công văn số 1111 ký ngày 31/8/2011 của Tổng Giám đốc-Tổng Biên tập Đài truyền hình Hà Nội gửi các ông Nguyễn Xuân Diện, Nguyễn Huệ Chi,Nguyễn Quang A và một số người gửi đơn khiếu nại về bản tin tối 22/8/2011; TBT Đài truyền hình có giải trình một số nội dung nhưng không thừa nhận việc vi phạm Luật Báo chí của Đài, không cải chính xin lỗi những thông tin đã phát sai là một vi phạm mới của TBT-TGĐ Đài truyền hình Hà Nội…

Điều 9 của Luật Báo chí quy định về việc Cải chính trên báo chí:
  1. Báo chí khi thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân thì phải đăng, phát sóng lời cải chính, xin lỗi của cơ quan báo chí, của tác giả. Trong trường hợp có kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì cơ quan báo chí phải đăng, phát sóng kết luận đó.
  2. Tổ chức, cá nhân có quyền phát biểu bằng văn bản về những nội dung đề cập trên báo chí khi có căn cứ cho rằng báo chí đã thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm đến mình. Cơ quan báo chí phải đăng, phát sóng lời phát biểu của tổ chức, cá nhân đối với thông tin đã được đăng, phát sóng trên báo chí của mình.
Lời phát biểu của tổ chức, cá nhân không được xúc phạm cơ quan báo chí, danh dự, nhân phẩm của tác giả.
Kể từ khi nhận được lời phát biểu của tổ chức, cá nhân thì trong thời hạn năm ngày đối với báo ngày, đài phát thanh, đài truyền hình, mười ngày đối với báo tuần, trong số ra gần nhất đối với tạp chí, cơ quan báo chí phải đăng, phát sóng lời phát biểu đó.
  1. Lời cải chính, xin lỗi của cơ quan báo chí, của tác giả và lời phát biểu của tổ chức, cá nhân quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này phải được đăng, phát sóng tương xứng với thông tin do báo chí đã đưa ra theo quy định của Chính phủ.
  2. Trong trường hợp cơ quan báo chí không cải chính, xin lỗi hoặc cải chính, xin lỗi không đúng các quy định của Luật này, không đăng, phát sóng lời phát biểu của tổ chức, cá nhân thì tổ chức, cá nhân đó có quyền khiếu nại với cơ quan chủ quản báo chí, cơ quan quản lý nhà nước về báo chí hoặc khởi kiện tại Tòa án.
Như vậy, Tổng Giám đốc-TBT Đài truyền hình Hà Nội đã thiếu nghiêm túc, “ ngoan cố “ coi thường luật pháp và cửa quyền trong việc thực hiện các quy định của luật pháp về chế độ thông tin trên báo chí…

Trong khi đó thì theo Basam thông tin cho biết:” Không biết qua đường nào, ông Phạm Quang Nghị ( Bí thư Thành ủy Hà Nội ) đã biết được thư này và tối 25-8 đã đến nhà tôi, ( tức nhà văn Nguyên Ngọc ) trong khi tôi đi vắng. Sáng 26-8 ông ấy đã gọi điện thoại cho tôi, nói rằng có thể Đài Phát thanh-Truyền hình Hà Nội “đã non nớt” trong khi phát phóng sự (về những người biểu tình)”…
(Qua cử chỉ này cho thấy ông Phạm Quang Nghị đã có thái độ "cầu thị" theo kiểu "con dại cái mang"; Đáng tiếc TGĐ-TBT Đài truyền hình Hà Nội vẫn cứ  tỏ "đầu bò, đầu bướu" ???)


3/ Kết luận:

- TGĐ-TBT Đài truyền hình Hà Nội phải chịu trách nhiệm phát ý kiến cải chính, xin lỗi những thông tin sai sự thật, xúc phạm danh dự của các tổ chức và cá nhân: Công an thành phố Hà Nội, các ông Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Văn Khải, Nguyên Ngọc và những người nhìn rõ mặt trong bản tin tối 22/8/2011…

- Thanh tra Bộ Thông tin-Truyền thông tiến hành làm thủ tục xử phạt vi phạm hành chính đối với TGĐ –TBT Đài truyền hình Hà Nội theo các quy định tại Nghị định 02/NĐ-TTG/2011.

- TGĐ-TBT Đài truyền hình Hà Nội bố trí gặp mặt những người bị xúc phạm danh dự, nhân phẩm vì đã đưa hình ảnh của họ kèm vào bản tin 22/8, một bản tin đưa những thông tin chưa kiểm chứng, chưa được cơ quan chức năng xác nhận; TBT-TGĐ tiến hành thương lượng với những người bị hại mức bồi thường thiệt hại về danh dự, nhân phẩm theo các quy định của pháp luật hiện hành…

Nếu sự bồi thường thiệt hại này không được những người bị thiệt hại chấp nhận, họ có thể đưa vụ việc này ra tòa Hành chính để yêu cầu Tòa phân xử…( 1 ).
P.V.Đ.

1/ Cách đây 6 năm, một tờ báo điện tử đưa tin về vụ án Bùi Tiến Dũng có một chi tiết không đủ cơ sở: đó là chuyện Bùi Tiến Dũng tặng cho 1 cô bồ 1 chiếc ôtô...Cô này đã kiện lại cuối cùng tờ báo kia phải cải chính, xin lỗi, bồi thường danh dự nghe đâu 200 triệu...


Đưa tin sai liên quan tới danh dự của người ta liên quan tới vốn tự có không chính xác còn bị phạt 200 triệu, còn đây lại liên quan tới chuyện bán nước...Hậu quả chắc to...



VÀI KỶ NIỆM VỀ TẾT ĐỘC LẬP


TẾT ĐỘC LẬP
Nguyễn Duy Xuân

Chẳng biết cách gọi ngày Quốc khánh là tết Độc lập có tự lúc nào, nhưng ngày lễ đặc biệt này không chỉ dừng ở phạm vi một ngày kỉ niệm lịch sử. Nó còn là ngày hội, là dịp để tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí, sum họp gia đình. Nó trở thành một ngày tết kết hợp được cả hai yếu tố cổ truyền và hiện đại.

Còn nhớ thời chiến tranh và cả thời bao cấp sau này, cuộc sống dù rất gian khổ thiếu thốn, nhưng đến ngày Tết Độc lập, ai cũng có quà, gọi là tiêu chuẩn tết. Những món quà ấy so với thời nay thật bé mọn nhưng trong hoàn cảnh lúc bấy giờ nó ý nghĩa biết bao. Người nhà nước thì là gói trà, bao thuốc. Ở thôn quê, hợp tác xã cũng đã chuẩn bị cho dân ăn tết bằng việc mổ trâu, mổ bò. Chẳng nhiều nhặn gì đâu, cả đội sản xuất chỉ mổ có mỗi một con bò thì lấy đâu ra làm nhiều nên phải chia theo định suất, mỗi suất hai ba lạng gì đó. Thế là trưa mồng 2-9, nhà nào cũng đụng dao đụng  thớt, đầu làng cuối xóm râm ran, kể cũng vui thật. Trẻ con chơi ngoài đường, ngày thường thì mê mải quên hết tất cả nhưng hôm nay ở đâu cũng phảng phất  mùi thịt bò kho thơm nức cho nên vừa chơi, vừa ngóng đợi người lớn gọi về ăn cơm. Quanh năm nhút với cà, chỉ có ngày tết như thế này hay giỗ chạp mới biết đến tí thịt, nên không chỉ bọn trẻ mà cả người lớn cũng thấy háo hức.

Tết Độc lập bây giờ đã khác, không còn cảnh chia thịt, phân quà nữa. Có lẽ vì đời sống đã khá hơn chăng? Vì không còn cảnh quanh năm đợi tết để được ăn ngon, mặc đẹp? Người ta dành ngày nghỉ lễ cho gia đình, vui chơi giải trí hoặc đi du lịch. 

31-8-2011
Nguyễn Duy Xuân