Thứ Năm, 13 tháng 10, 2011

Đi tìm vẻ đẹp Ca trù - Bài 5: VĂN NHÂN VÀ Ả ĐÀO

Hát ả đào. Tranh sơn dầu của Phạm Công Thành (2005)
Văn nhân và ả đào
Nguyễn Xuân Diện

....Và trong những đêm hát, đào nương hiện ra như từ trong mộng: Mặt tròn thu nguyệt. Mắt sắc dao cau. Vào - duyên khuê các. Ra - vẻ hồng lâu. Lời ấy gấm - Miệng ấy thêu - Tài lỗi lạc chẳng thua nàng Ban - Tạ. Dịu như mai - Trong như tuyết - nét phong lưu chi kém bạn Vân - Kiều. Ta lại cùng nhớ đến chút duyên xưa giữa văn nhân và ả đào, mối quan hệ quan trọng nhất của lối thưởng thức ca trù. Bởi quá trình tham gia sinh hoạt ca trù là quá trình văn nhân sáng tạo, thưởng thức, thể nghiệm các tác phẩm của mình.

1.
Văn nhân, trí thức xưa luôn gắn bó với các sinh hoạt làng xã, trong đó có việc soạn thảo các thư tịch để phục vụ sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng. Những thư tịch ấy đã có một đời sống riêng trong dòng chảy của văn hóa Việt, trở thành thông điệp trao chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác mang tâm hồn và căn cước Việt Nam.

500 năm về trước, tại đình làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm (Hà Nội) đã diễn ra lễ hội đầu xuân cầu phúc trong không khí đại lễ trang nghiêm, hào hùng. Một văn nhân hay chữ trong làng là Lê Đức Mao (1462- 1529) thay mặt 8 giáp viết 9 bài thơ để các giáp đọc và khen thưởng cho các cô đào. Đó là bài Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn soạn trước năm 1505, tức là khoảng cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI. Đây chính là tư liệu sớm nhất mang hai chữ “ca trù”. Đây cũng là bài thơ cổ nhất hiện biết có hai chữ ‘ca trù’ lần đầu tiên có mặt trong văn học viết, là tư liệu sớm nhất để khẳng định ca trù đã có mặt trong văn hóa Việt Nam từ thế kỷ XV.


Trải qua nhiều thế kỷ, tục hát thờ thần ở đình Đông Ngạc vẫn được duy trì và tạo thêm nhiều yếu tố văn hóa đặc sắc, trong đó có lệ thưởng đào thị yến trở thành một nét đẹp về sự trân trọng của cộng đồng đối với nghệ thuật và nghệ sỹ.

Ngày hội làng, các ả đào đứng trước điện thờ, tay cầm lá phách hát các bài hát thờ như Thét nhạc, Bắc phản, Hát Giai, Độc phú... Giáo phường nhất định sẽ hỏi cho bằng được tên huý của các vị thành hoàng để khi hát đến những chữ ấy thì tránh đi. Các cô đầu hát đến những câu có chữ ấy thì hát thật nhỏ, và hát chệch đi. Nếu cô đầu không nhớ, cứ thế hát thẳng không kiêng thì người cầm chầu sẽ gõ liên hồi vào tang trống và cho ngừng cuộc hát. Khi ấy quản giáp của giáo phường phải đến nói khó với các cụ trong làng để xin cho làm lễ tạ với thánh và xin các cụ chiếu cố cho. Khi ấy, người đào nương sẽ biện cơi trầu, đến trước điện làm lễ tạ lỗi với Thánh và các quan viên.

Người được làng tín nhiệm cầm chầu phải là người am hiểu về văn chương và âm luật. Thưởng công minh làng mới phục, vì nếu thưởng “rộng” thì làng tốn tiền, thưởng “hẹp” thì đào nương chê là ky bo, không biết nghe hát nghe đàn. Có khi người cầm chầu mà không biết thưởng thức, gặp cô đào đanh đá hát một câu khiến người cầm chầu phải xấu hổ bỏ roi chầu mà về. Làng tôi năm xưa đã xảy ra chuyện ấy, khiến cho cô đào giễu rằng: “Nào những ông nghè ông cống ở đâu/ Để cho ông lão móm ngồi câu con trạch vàng”. Ông lão móm ấy đã phải bỏ cuộc. Vì thế dân gian vẫn bảo: “ở đời có bốn thứ ngu/ Làm mai, Lãnh nợ, Gác cu, Cầm chầu”.

 

2.
Ngày xưa, có cô đào họ Nguyễn đã có công giúp tiền của để chàng thư sinh nghèo Vũ Khâm Lân đỗ Tiến sĩ. Vũ Khâm Lân, quê xã Ngọc Lặc, huyện Tứ Kỳ (Hải Dương) là một anh học trò nghèo thông minh chăm chỉ, vì dì ghẻ độc ác hà hiếp nên phải bỏ nhà lang thang xin ăn độ nhật. Khi đến làng Dịch Vọng (Từ Liêm) xin ăn ở trường ông Hương cống thì được thương và chu cấp cho ăn học. Trong khoảng hai năm việc học đã ngày chàng tiến tới, trong trường không còn ai là đối thủ nữa.

Mùa xuân năm ấy, làng Dịch Vọng vào đám rước thần. Mấy người bạn học rủ ông đi xem hội. Trai gái cả làng đều ăn mặc đẹp, chen chúc nhau xem hát. Riêng ông thì mặc áo bông cũ bẩn, dựa cột lén xem như chỉ sợ người khác thấy mình.


Giáo phường đến hát có một cô đào hát tuổi chừng mười bảy, mười tám nhan sắc xinh đẹp, đoan trang; mỗi lần nàng cất tiếng hát thì tiền và lụa thưởng cho nàng ném đầy xuống mảnh chiếu hoa nàng ngồi hát. Lúc cô đang múa, ánh đuốc lớn ngoài sân chiếu qua góc đình, khiến cô nhìn thấy ông, chăm chú một hồi lâu, bần thần như đánh mất một vật gì, không sao hát được nữa. Người làng đang xem cho là cô bị trúng phong đột ngột, ai nấy đều không vui. Người cầm chầu phải xin dừng đêm hát. Vũ Khâm Lân cũng theo mọi người ra về. Hôm sau vào lúc xế trưa, thấy có người con gái đến thẳng chỗ ông, an ủi và tặng ông 10 quan tiền cùng các thứ đồ ăn mặc, rồi trân trọng từ biệt.


Từ đó, cứ dăm ba tháng một lần cô lại đến chỗ ông ở, may vá, nấu nướng cho ông. Lúc mới gặp cô gái, ông rất xúc động và kính trọng cô. Lâu ngày thành quen, biết cô gái yêu mình, ông bỗng dưng nảy sinh lòng tà vạy, lẻn tới chỗ cô con gái xin ngủ cùng. Cô gái nghiêm khắc cự tuyệt. Ông lấy làm hổ thẹn xin lỗi nàng, và từ đó càng thêm niềm kính yêu, trân trọng.


Hai năm sau, gặp kỳ thị Hội, ông sửa soạn về quê để đăng ký thi theo hộ tịch ở quê nhà. Cô gái đến tiễn, đưa tặng rất hậu. Lúc sắp chia tay, ông cầm tay cô gái xin được biết quê quán, họ tên để sau này biết chốn tìm nhau. Cô gái không cho ông biết gì về thân thế, gia cảnh. Mùa thu, ông về thi ở huyện ở phủ đều đỗ đầu. Thi Hương, thi tỉnh cũng nhất. Cha ông bàn việc chuyện hôn nhân, định hỏi con nhà thế gia cho ông. Ông cố chối từ và thành thực kể lại chuyện riêng, xin được lấy người con gái ấy. Cha ông nổi giận quyết không cho lấy cô đào kia và mắng ông rất nhiều. Ông buộc phải nghe lời cha dạy.


Kỳ thi Hội năm sau, cô gái đem lễ tặng rất hậu và tới đợi Vũ Khâm Lân ở chỗ trọ tại kinh đô. Lân ngượng ngập, không biết nói gì. Cô gái nói với Lân: “Thiếp biết cả rồi, chẳng cần chàng nói. Tiền trình của chàng còn xa muôn dặm, thiếp hèn hạ không xứng hầu hạ khăn lược cho chàng. Đó là số phận của thiếp”. Từ đó ông không gặp lại cô đào trẻ đó nữa. Vũ Khâm Lân đỗ Tiến sĩ khoa thi năm Bảo Thái thứ 8 (1727).


Sau ông thi đỗ, vào làm việc trong viện Hàn lâm, đi sứ phương Bắc, làm quan trong kinh ngoài trấn trải hơn mười mấy năm. Ông còn được triều đình cử đi dẹp giặc giã. Dẹp xong giặc, ông được phong là Quận công, làm việc ở Ngự sử đài, rồi thăng Tể tướng, vẻ vang hiển hách không ai bằng. Mỗi khi kể chuyện đã qua, ông lại than thở buồn rầu tự trách mình. Ông đã sai người đi tìm chỗ ở của cô gái nhưng vẫn không tìm được.


Trong một tiệc hát ở nhà người bạn đồng liêu họ Đặng, thấy có người con gái đang gieo phách giữa chiếu hoa trông giống với người con gái ngày xưa. Hỏi ra thì đúng là nàng. Dẫu cho phong trần dầu dãi mà nét kiêu sa đằm thắm cùng tiếng phách tuyệt kỹ vẫn còn như xưa. Ông hỏi thăm về những ngày tháng đã qua của cô, thì biết mười năm trước cô lấy một viên quan võ ở trấn Thái Nguyên. Khi võ quan này chết, hai người chưa có con cái gì, nàng không biết đi đâu, chỉ còn một ít tư trang, mới lần về quê cũ. Gặp đứa em chẳng ra gì, phá tán sạch cơ nghiệp, cô đành dắt mẹ già lưu lạc trong thành Tràng An, dựa vào các nhà quyền thế, đàn hát qua ngày kiếm miếng ăn. Nghe câu chuyện của nàng, ông không sao nén nổi xót thương, bèn đón cả hai mẹ con nàng về một nơi ở riêng, chu cấp đầy đủ. Hơn một năm sau, mẹ cô mất. Ông lo chôn cất chu đáo. Tang ma cho mẹ xong, cô gái lại từ biệt ra đi, có lẽ lại dấn thân vào chốn ca trường đầy bất trắc. Ông giữ lại không được, hậu tặng cô rất nhiều tiền bạc, cô cũng không nhận. Ông cố ép thì cô nói: “Thiếp không có phúc được làm vợ tướng công, thì những thứ tiền bạc này đâu có phúc để tiêu mà nhận. Rồi nàng lén bỏ ra đi. Ông cho người nhà đuổi theo mà không kịp, không rõ đi đâu. Về sau, biết nàng là người huyện Chương Đức xứ Sơn Nam (nay là huyện Chương Mỹ, Hà Tây).


3.

Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, người Pháp đã đặt xong nền đô hộ tại Đông Dương. Nhiều tỉnh lỵ, huyện lỵ được mọc lên bên cạnh những trục đường giao thông lớn nhỏ. Một số giáo phường ca trù ở nông thôn đã di chuyển ra tỉnh và bám theo dọc các trục đường giao thông để mở nhà hát (ca quán).

Trước kia người hát đến nhà người nghe hát. Kể từ khi có ca quán, người nghe hát đến ca quán để nghe hát. Từ đó nảy nở mối tình giữa văn nhân và đào nương. Đó là một mối quan hệ khá thắm thiết, gần gũi giữa Nguyễn Khuyến và cô đào Sen người làng Thi Liệu, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định; giữa Dương Khuê với cô Hồng, cô Tuyết, cô đầu Hai, cô đầu Phẩm, cô đầu Cúc, cô đầu Oanh, cô đầu Cần. Là Dương Tự Nhu với cô đầu Khanh, cô đầu Văn, cô đầu Phú, cô đầu Kim…Và nhà nho tài tử Nguyễn Danh Kế đã gặp gỡ đào nương tài sắc Nhữ Thị Nghiêm trong một ca quán ở phố Hàng Thao, thành Nam Định. Yêu vì tài, cảm vì tình rồi họ kết duyên chồng vợ. Cuộc hôn nhân này đã sinh ra Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu - một thi sĩ tài hoa đa tình. Ngay em gái của Tản Đà là cô Trang cũng là một đào nương: Có phải cô Trang em ấm Hiếu/ Người xinh xinh yểu điệu dáng con nhà (Tặng cô đầu Trang - Trần Tán Bình).


Khắp các nơi phố thị ca quán ca trù mọc lên như nấm sau mưa. ở miền Trung thì Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, tỉnh nào cũng có nhà hát cô đầu. ở miền Bắc những thành phố lớn đều có nhà hát, ở Nam Định trước cô đầu mở nhà hát ở phố Hàng Thao, sau thiên xuống Ngã Sáu. Theo phóng sự điều tra của ký giả Hồng Lam trên báo Trung Bắc chủ nhật số 129, năm 1942 thì riêng năm 1938, ngoại ô Hà Nội có 216 nhà hát và gần 2000 cô đầu tập trung trước thì ở Hàng Giấy, ấp Thái Hà, sau đến Khâm Thiên, Ngã Tư Sở, Vạn Thái, Chùa Mới, Cầu Giấy, Kim Mã, Văn Điển, Gia Quất.


Trong các khu phố có các ca quán ả đào, Khâm Thiên và Ngã Tư Sở là những địa chỉ nổi tiếng vì sự gắn bó với các nhà văn nhà thơ nổi tiếng: Tản Đà, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Hoài Điệp Thứ Lang, Vũ Hoàng Chương.


Khâm Thiên là nơi nhộn nhịp nhất của làng cầm ca thưở ấy. Nơi đây có nhà hát 24 gian, có những người quản lý giỏi giang, khiến cho cả khu phố quanh năm đỏ đèn. Nhà văn Vũ Bằng gọi xóm Khâm Thiên là “cái nôi văn nghệ của Hà Nội”. Ông cho biết: “tôi chưa thấy có nhà văn nhà báo đất Bắc nào mà lại không ra vào nhà hát cô đầu”, và các xóm cô đầu “quả là cái lò đúc ra văn nghệ sĩ”. Và ông kể về việc làm báo ở những tòa báo “lúc đó ở những con đường Nhà thương Phủ Doãn nhưng thật tình chỉ có một anh quản lý và một người tùy phái ở đây thường trực mà thôi. Còn bao nhiêu nhân viên tòa soạn thiết lập đại bản doanh ở Khâm Thiên, Vạn Thái ... Đại bản doanh lưu động, nay ở nhà này mai ở nhà khác. Chúng tôi viết bài, sửa bài ở nhà hát rồi gói tròn cả lại để vào một chỗ nhất định. Sáng ra người tùy phái đạp xe cọc cà, cọc cạch xuống lấy bài, đem về cho nhà in xếp chữ. Mỗi tuần lễ một lần, tôi lại hạ san từ xóm về nhà in để “mi” và vét tiền két chi nhà hát”.


Phải nói rằng văn hóa ả đào, văn hóa ca trù đã thấm đẫm trong sáng tạo của thi sĩ, văn sĩ trước 1945. Cũng tại Khâm Thiên, Nguyễn Tuân đã sống và tích lũy vốn liếng cho các tác phẩm về ca trù như Đới roi, Chùa Đàn. Trần Huyền Trân đã sống ở ngõ Cống Trắng, Khâm Thiên. Chàng thi sĩ tài hoa của xứ sở “Rau tần” này đã tặng danh ca Quách Thị Hồ những dòng thơ chứa chan niềm ưu tư: Tự cổ sầu chung kiếp xướng ca/ Mênh mông trời đất vẫn không nhà/ Người ơi mưa đấy ? Hay sênh phách/ Tay yếu gieo lòng xuống chiếu hoa. … Thôi khóc chi ai kiếp đọa đầy/ Tỳ bà tâm sự rót nhau say/ Thơ ta gửi tặng người ngâm nhé/ Cho vút giọng sầu tan bóng mây. Năm ấy Quách Thị Hồ tròn 30 tuổi.

Thế Lữ, Vũ Hoàng Chương, Xuân Diệu, Nguyễn Bính cũng có nhiều bài thơ gửi gắm tâm hồn đồng điệu với các đào nương đem tài sắc tuổi thanh xuân dâng tặng tri âm. Với Thế Lữ là “Bên sông đưa khách”, với Vũ Hoàng Chương là “Nghe hát” nắn nót câu chữ như ai nắn phím tơ: Phách ngọt, đàn say, nệm khói êm/ Tiếng ca buồn nổi giữa chừng đêm/ “Canh khuya đưa khách…”. Lời gieo ngọc/ Mơ gái Tầm Dương thoảng áo xiêm. Với Xuân Diệu là “Lời kỹ nữ”, mà theo Hoài Thanh thì “Người kỹ nữ của Xuân Diệu cũng bơ vơ như người Tỳ bà phụ. Nhưng nàng không lặng lẽ buồn mà ta thấy nàng run lên vì đau khổ: Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo;/ Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da”… 



Lại có câu chuyện rằng có một đào nương tài sắc vẹn toàn, từng làm mê mẩn bao quan viên và tao nhân mặc khách. Một đêm mưa gió, nàng đi hát ở làng bên trở về thì bị cảm lạnh và qua đời ngay bên cầu Trò (Sơn Tây). Dân làng và các quan viên thương cảm nàng đã chôn cất và lập miếu thờ nàng ngay bên cầu. Câu chuyện ấy khiến bao người xót thương cho thân phận tài hoa bạc mệnh, ‘nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương’ của người ca nữ nọ. Nhà thơ Vũ Đình Liên nghe chuyện, cảm động mà viết bài Cảm tạ với hai câu kết: Tạ lòng nào biết nên chi được/ Phách ngọc dồn thêm một nhịp vàng. Sau khi nghe chuyện và đọc bài thơ của Vũ Đình Liên, chung với mối đồng cảm ấy, họa sĩ Bùi Xuân Phái đã ký họa lại hình ảnh của người ca nữ qua tưởng tượng. Những nét vẽ gầy guộc mảnh mai của ông như thấu được cả cái thân phận tài hoa nhưng mệnh bạc.

4.

Thưởng thức ca trù gọi là “nghe hát”, chứ không phải là “xem hát”. Đào nương ca trù chỉ ngồi yên gần như bất động trong suốt cuộc hát trên một mảnh chiếu cạp điều, với vẻ mặt bình thản, đoan trang. Đào nương chỉ có một cỗ phách tre đặt trước mặt và “đối thoại” với khách nghe chỉ bằng giọng hát và tiếng phách của mình. ấy vậy mà nghệ thuật này đã góp cho văn chương hàng nghìn bài thơ viết bằng chữ Nôm chứa đựng rất nhiều tâm trạng, rất nhiều biến thái vi tế của tâm hồn Việt Nam qua nhiều thế kỷ với các tên tuổi tiêu biểu như: Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê, Dương Tự Nhu, Nguyễn Hàm Ninh, Chu Mạnh Trinh, Vũ Phạm Hàm, Nguyễn Thượng Hiền, Phan Bội Châu, Bùi Kỷ, Tản Đà ...

Trong kho tàng văn chương ca trù, các bài hay nhất vẫn là những bài ghi lại kỷ niệm giữa văn nhân và ả đào. Mỗi bài hát là một câu chuyện riêng tư thi vị, mà rất nhiều trong số này lại là những sáng tác ngẫu hứng, ngay trong chiếu hát, ngay trong tiệc rượu.


Xưa nay, đến với ca trù là những tâm hồn yêu tiếng hát, tiếng thơ, tiếng tơ, nhịp phách ca trù, để sẻ chia tâm sự, để hoà mình vào thế giới nội tâm sâu thẳm của những tri âm, để hào hứng dốc sạch túi tiền vào cuộc hát mà thưởng cho một ngón nghề tài hoa.


Và văn nhân và ca nữ vẫn là một mối quan hệ mà dường như chỉ có tạo hóa mới ban tặng được. Có phải vì thế mà mối tình giữa văn nhân và ca nữ luôn ở trong trí nhớ người đời? Có phải vì thế mà những mối tình này được lưu giữ trong văn chương rất thi vị cho dù nó hiện diện và tồn tại một cách rất mong manh? 

N.X.D 

Thứ Tư, 12 tháng 10, 2011

Đi tìm vẻ đẹp Ca trù - BÀI 4: GIÁO PHƯỜNG CA TRÙ


Giáo phường ca trù
Nguyễn Xuân Diện


Giáo phường ca trù được tổ chức quy củ, chặt chẽ. Quyền lợi lớn nhất của giáo phường được xác nhận trong một tấm bia đá dựng ngay trước cửa đình là được quyền giữ cửa đình này. Đào nương và kép đàn đều phải thuộc các giáo phường. Mỗi giáo phường là một họ, như: họ Xuân, họ Đông, họ Thịnh, họ Từ ... Người thuộc về họ nào, lấy chữ họ đó đặt lên trước tên mình. Ví dụ tên là Thuận mà thuộc về họ Thịnh thì gọi là Thịnh Thuận. Lối gọi này chỉ dùng trong giáo phường với nhau. Đó là hình thức nghệ danh độc đáo trong làng ca hát Việt Nam thời trước. 

Giáo phường ca trù được tổ chức quy củ, chặt chẽ. Quyền lợi lớn nhất của giáo phường được xác nhận trong một tấm bia đá dựng ngay trước cửa đình là được quyền giữ cửa đình này. Đào nương và kép đàn đều phải thuộc các giáo phường. Mỗi giáo phường là một họ, như: họ Xuân, họ Đông, họ Thịnh, họ Từ ... Người thuộc về họ nào, lấy chữ họ đó đặt lên trước tên mình. Ví dụ tên là Thuận mà thuộc về họ Thịnh thì gọi là Thịnh Thuận. Lối gọi này chỉ dùng trong giáo phường với nhau. Đó là hình thức nghệ danh độc đáo trong làng ca hát Việt Nam thời trước.

Một văn bia xác nhận quyền lợi của giáo phường
Cách tổ chức giáo phường

Hàng năm, xuân thu nhị kỳ, khi “thong thả nhân gian nghỉ việc đồng” thì cũng là lúc các làng vào đám. Khắp các làng quê thường mở hội để tế thần, tế thành hoàng, cầu mưa thuận gió hòa, nhân khang vật thịnh. Trong phần tế lễ không thể thiếu việc hát thờ thánh. Theo lệ, các giáo phường lại xách đàn, phách đến các đình đền để hát thờ trong suốt kỳ lễ hội.

Xưa, các đào kép được tổ chức thành các giáo phường. Nhiều giáo phường được đặt dưới sự quản lý của Ty giáo phường. Theo ghi chép của các văn bia thì Ty giáo phường là một tổ chức quản lý hoạt động ca xướng tương đương cấp huyện. Giáo phường các xã thuộc về Ty giáo phường của huyện. Ty giáo phường huyện quản lý hoạt động của các giáo phường các xã trong huyện. Mỗi huyện thường có một Ty giáo phường. Người đứng đầu Ty giáo phường là một ông trùm. Ty giáo phường phân chia việc giữ các cửa đình trong huyện cho các giáo phường. Việc giữ này được truyền từ đời này sang đời khác. Theo đó các giáo phường này được phép toàn quyền biểu diễn tại đình làng này, hoặc được phép tuỳ ý mời giáo phường khác đến hát giúp trong những ngày tiệc của làng và hưởng quyền lợi. Đặc biệt là giáo phường sẽ được hát trong lễ xông đình trong dịp hoàn thành công việc tu tạo sửa chữa đình làng. Ngược lại, giáo phường cũng phải có một số trách nhiệm đóng góp vào các nghi thức hát xướng tế lễ của làng, theo mức độ quy định giữa làng xã sở tại với giáo phường. Quyền lợi của giáo phường được xác định bằng một tấm bia đá đặt trang trọng ngay trước cửa đình làng mà giáo phường được quyền hưởng lợi.
.
Hát múa ca trù. Chạm gỗ thế kỷ 18. Đền Lê Khôi, Hà Tĩnh


Việc giữ cửa đình này được truyền từ đời này sang đời khác, tuy nhiên nếu cần tiền để lo việc quan hoặc để chi dùng các việc, giáo phường có thể sang nhượng lại quyền này cho quan viên trong chính làng xã có đình, từ đó làng xã này không phải trả tiền cho giáo phường như quy định trước đó nữa. Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện có bản rập của 64 văn bản mua bán này. Trong đó có 14 văn bản soạn vào thế kỷ XVII, có 39 văn bản soạn vào thế kỷ XVIII, có 9 văn bản soạn vào thế kỷ XIX và 2 văn bản không ghi rõ niên đại. Căn cứ vào niên đại của các văn khế mua bán quyền giữ cửa đình, chúng ta thấy việc mua bán xảy ra phổ biến nhất là vào thế kỷ XVIII. Và trong số các bia thuộc thế kỷ XVIII thì phần lớn là thuộc về nửa sau của thế kỷ này. Việc soạn văn bản sang nhượng, mua bán các lệ hát cửa đình phần lớn đều do các giáo phường và quan viên làng xã có đình thực hiện, không ghi rõ tên người soạn bia, nhưng có xác nhận của các bên với họ tên và chức vụ rõ ràng. Có 3 văn bia ghi rõ soạn giả soạn bản giao kèo về việc sang nhượng quyền giữ cửa đình do các Tiến sĩ soạn. Đó là TS. Phan Lê Phiên soạn 1 bia, TS. Đào Hoàng Thực soạn 2 bia. Những tư liệu văn bia về hát cửa đình với lượng thông tin phong phú cho thấy trong suốt thời gian lịch sử dài lâu (ít nhất là từ năm 1672) đông đảo nhân dân đã yêu thích ca trù, coi việc thưởng thức ca trù như một nhu cầu văn hóa, và quan trọng hơn, việc biểu diễn ca trù đã đem lại nguồn lợi kinh tế cho cả người nghệ sĩ dân gian lẫn các nhà tổ chức.
.
Những nét đẹp nhân văn của giáo phường xưa

Xã có thể có một hoặc nhiều giáo phường. Mỗi giáo phường là một họ riêng. Văn bia về việc các giáo phường được tập hợp theo “họ”, thể hiện trên bia 11 bia có bản rập lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Các họ thống kê được trên bia gồm 8 họ: họ Xuân (2 bia), họ Đông (4 bia), họ Thịnh (1 bia), họ Từ (1 bia), họ Hoàng (1 bia), họ Việt (1 bia), họ Kiều (1 bia), họ Khổng (1 bia). Đứng đầu họ là một ông trùm họ. Người thuộc về họ nào, lấy chữ họ đó đặt lên trước tên mình. Ví dụ tên là Thuận mà thuộc về họ Thịnh thì gọi là Thịnh Thuận. Lối gọi này chỉ dùng trong giáo phường với nhau. Những văn bia này đã cung cấp cho chúng ta một tư liệu quý về sinh hoạt và quan hệ giữa các cá nhân và có thể coi là một nét đẹp trong một giáo phường ca trù thời trước.
.
Gia đình nghệ nhân ca trù Nguyễn Văn Mùi, 27 Thuỵ Khuê, HN - Ảnh: tác giả cung cấp

Giáo phương ca trù xưa còn tôn vinh tri ân người có công truyền nghề. Bia Bản huyện giáo phường lập bi, tạo năm Vĩnh Trị 5 (1681), đặt tại đình xã Trung Việt, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang. Văn bia cho biết có vị trong Ty giáo phường xã Đông Lâm, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà, đạo Kinh Bắc, vì có ngoại tổ họ Hà là Phúc Đạo, ở xã Trung Trật trước có mở nghiệp giáo phường, sinh con gái Hà Thị Khánh lấy chồng họ Nguyễn ở Đông Lâm và tạo nên giáo phường ở đây. Nay các vị trong giáo phường xã Đông Lâm nhớ đến ân nghĩa sinh thành của ngoại tổ, tỏ lòng báo đáp, đặt ra lệ, hễ đình Trung Trật có mở tiệc thì các khoản tiền tiệc, tiền khao và tiền lễ xông đình, các khoản tiền làm cỗ, thảy đều do giáo phường Đông Lâm trang trải. Bia còn ghi tên các vị ngoại tổ họ Hà do dân xã Trung Trật cúng giỗ. Đây cũng là một nét đẹp nhân văn của một giáo phường ca trù, vừa tôn vinh nghề tổ, vừa thành kính tri ân người có công gây dựng nghề cho giáo phường.

Giáo phường ca trù ở nông thôn hoạt động bán chuyên nghiệp. Họ là những người nông dân vẫn phải lo việc đồng áng, chăn tằm dệt cửi. Họ được cha mẹ hoặc các đào kép lớn tuổi trong “họ” dạy dỗ về nghề. Người trong giáo phường đều phải tuân thủ các phong tục và luân lý trong làng trong họ. Họ không được phép làm những việc bất chính. Nếu vi phạm, họ bị các bậc cao niên và người Quản giáp luận tội và bắt phạt, thậm chí đến bị đuổi ra khỏi giáo phường và thông báo cho các giáo phường khác biết để không giáo phường nào cho vào nữa. Việc đi hát ở các đình miếu bao giờ cũng do người Quản giáp cắt đặt, và thường là chồng đàn vợ hát, anh đàn em hát, bố đàn con hát. 

Trong giáo phường xưa, việc thờ kính thầy dạy rất được xem trọng. Trò coi thầy như cha mẹ, “sống tết, chết giỗ”. Những ả đào già có tài thường dạy dỗ được nhiều học trò thành nghề và rất được kính trọng. Mỗi khi các học trò đi hát được trả tiền công vẫn thường trích ra một khoản tiền để góp với giáo phường cung dưỡng thầy. 

Đối với giáo phường, tất cả các công việc như lễ tế tổ hàng năm, các lệ kiêng tên tổ ca trù, việc thờ thầy, việc chia tiền hát, lệ mở xiêm áo để công nhận một cô đào bắt đầu được hành nghề đều được tổ chức và tuân thủ nghiêm ngặt và tự nguyện. Chính cách tổ chức giáo phường như thế đã tạo nên những nét đẹp nhân văn của giáo phường, khiến cho đào kép ngày xưa rất được cộng đồng làng xã trân trọng và kính nể. 

Ca trù còn lại được đến hôm nay chính là nhờ các đào kép xưa đã từng sống trong các giáo phường như thế truyền lại. 

N.X.D

Đi tìm vẻ đẹp Ca trù - BÀI 3: HÁT CỬA ĐÌNH

 
Hát cửa đình
Nguyễn Xuân Diện

500 năm về trước, tại đình làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm (Hà Nội) đã diễn ra lễ hội đầu xuân cầu phúc trong không khí đại lễ trang nghiêm, hào hùng. Trong ngày hội lớn đó 8 giáp trong làng cùng nhau thưởng đào ở đình làng. Các cô đào hát những bài thơ ca ngợi thành hoàng làng và cầu phúc cho dân làng. Lê Đức Mao đã thay mặt 8 giáp viết 9 bài văn để các giáp đọc và khen thưởng cho các cô đào. Đó là tư liệu sớm nhất để khẳng định ca trù đã có mặt trong văn hóa Việt Nam từ thế kỷ XV. Từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX, hát cửa đình là một sinh hoạt không thể thiếu trong mỗi dịp tế thần Thành hoàng làng, trở thành một nét đẹp của văn hóa Việt Nam. Những cuộc hát cửa đình này đều do các giáo phường đảm nhiệm. 
.
Bức chạm tiên gảy đàn Đáy ở đình Lỗ Hạnh, huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang

Ở thế kỷ XV ca trù đã là một bộ môn hoàn chỉnh về lối chơi
(qua phát hiện tư liệu sớm nhất về ca trù Việt Nam) 
 
Trước đây nhiều nhà nghiên cứu cho rằng ca trù có từ thời Lý - Trần -Hồ, thế kỷ XI, XII khi căn cứ vào các bức chạm khắc ở các chùa Phật Tích (Bắc Ninh), Thái Lạc (Hưng Yên) và mấy chữ ả đào, đào nương trong các sách cổ Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử tiêu án, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Công dư tiệp ký.

Gần đây với các tài liệu khảo cổ học, mỹ thuật học và nhất là tài liệu bằng chữ Hán Nôm xác thực và tin cậy, chúng ta chỉ mới có tài liệu về ca trù sớm nhất là khoảng thế kỷ XV. Căn cứ về khảo cổ học là các bức chạm khắc đàn đáy - một cây đàn 3 dây đặc biệt chỉ dùng riêng trong ca trù, tìm thấy ở các ngôi đình làng, chùa làng ở Bắc bộ thế kỷ XVI. Tư liệu chữ viết là bài Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn của Tiến sĩ Lê Đức Mao (1462- 1529) trong sách Lê tộc gia phả (A.1855) soạn trước năm 1505, tức là khoảng cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI. Đây chính là tư liệu sớm nhất mang hai chữ Ca trù. Đây cũng là Bài thơ cổ nhất hiện biết có hai chữ Ca trù lần đầu tiên có mặt trong văn học viết.

Bài thơ cho chúng ta thông tin quan trọng: ngôi đình Đông Ngạc, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội có trước năm 1500 và hát cửa đình đã có trước năm 1500. Bài thơ cho ta mường tượng ra không khí đại lễ trang nghiêm, hào hùng của lễ hội đầu xuân cầu phúc của làng Đông Ngạc hồi cuối thế kỷ XV. Trong ngày hội lớn của làng Đông Ngạc bấy giờ có ít nhất là 8 giáp, đã cùng nhau thưởng đào ở đình làng. Các cô đào hát những bài thơ ca ngợi thành hoàng làng và cầu phúc cho dân làng.

Đình làng Đông Ngạc. Ảnh: Nguyễn Xuân Diện
Trong bài thơ này, chữ “ca trù” xuất hiện hai lần: Thọ bôi kể chục, ca trù điểm trăm và Mừng nay tiệc ca trù thị yến. Ở câu thơ thứ nhất, chữ “ca trù” cho thấy đây là lối hát dùng thẻ (trù) để thưởng cho người hát người đàn (đào và kép). Mỗi khi thấy hay, người cầm chầu gõ một tiếng “chát” vào tang trống để thưởng và khi đó sẽ thả một thẻ tre (mỗi thẻ tương ứng một số tiền) vào chiếc chậu thau (để tiếng ném thẻ vào chậu thau sẽ báo cho đào kép biết là làng thưởng khiến cho họ hát càng hay hơn nữa). Ở câu thơ thứ hai cho thấy tiệc ca trù được mở để thờ thần. 

Hát thờ ở cửa đình Đông Ngạc cho thấy cái trống chầu đã có vai trò riêng: để thưởng và để phạt (để khen và để chê), điều này nói lên rằng việc thưởng thức ca nhạc đã đạt được đến một chuẩn mực, một trình độ đáng kể. Chính việc khen chê như vậy (khen gọi là thưởng đào, hoặc thướng đào) đã góp phần nâng cao các thành tố trong cuộc biểu diễn lên một trình độ mới. Tiếng hát, tiếng phách của đào nương, tiếng đàn đáy của kép và lời thơ đã có cái tiêu chuẩn để đánh giá. Trải qua nhiều thế kỷ, tục hát thờ thần ở đình Đông Ngạc vẫn được duy trì và tạo thêm nhiều yếu tố văn hóa đặc sắc, trong đó có lệ thưởng đào thị yến đã trở thành một nét đẹp về sự trân trọng của cộng đồng đối với nghệ thuật và nghệ sỹ.
.
Bức chạm nhạc công đàn Đáy ở đình Đại Phùng, huyện Đan Phượng, Hà Nội. Ảnh: NXD

Thế kỷ XVI - Ca trù gắn với ngôi đình làng ở Bắc bộ
 
Thế kỷ XVI sự phát triển và phổ biến của ca trù được ghi nhận bằng các bức chạm khắc dân gian tại các đình làng. Các bức chạm đình Lỗ Hạnh (huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang) và đình Tây Đằng (xã Tây Đằng, huyện Ba Vì, Hà Nội) đều có các bức chạm hoặc tượng hình người cầm đàn đáy. Đình Tây Đằng có tượng tròn hình người đứng cầm đàn đáy. Đình Lỗ Hạnh có bức chạm tiên nữ ngồi trên mình con hươu cầm đàn đáy và một bức chạm khác có cả đám nhạc công đang hòa nhạc trong đó có 1 người đàn ông ngồi cầm đàn đáy. Hình ảnh này cho thấy ca trù đã có mặt trong những sinh hoạt văn hóa dân gian tại các làng quê và có mặt trong điêu khắc đình làng. 

Ở chùa Cói (Thần Tiên tự), xã Hợp Thịnh, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc cũng có bức chạm người phụ nữ gảy đàn đáy. Tiếc rằng hiện vật đã bị cháy cùng với ngôi chùa, và chúng ta chỉ còn lại bức ảnh chụp bức chạm này. Đây là tư liệu mỹ thuật về đàn đáy duy nhất hiện biết tìm thấy ở một ngôi chùa. 

Qua những hình chạm người cầm đàn đáy ở các đình, đền, có thể thấy rằng: dàn đáy đã trở nên phổ biến ở thế kỷ XVI, ở đồng bằng Bắc bộ. Đàn đáy mới đầu được sử dụng trong các cuộc hoà nhạc, cùng với các nhạc khí khác trong một đám đông (có khi có cả người múa), mà người đàn có thể là nam, có thể là nữ với tư thế là đứng hoặc ngồi. Về sau ca quán thính phòng ra đời, đàn đáy là loại đàn duy nhất trong cuộc hát.

Thế kỷ XVII và XVIII nghi lễ hát cửa đình rất thịnh trong các làng quê
 
Tiếp tục dòng chảy của của điêu khắc đình làng từ thế kỷ trước, sang đến thế kỷ XVII và XVIII chúng ta vẫn bắt gặp sự ghi nhận của dân gian đối với cây đàn đáy. Điều này càng chứng tỏ cây đàn đáy đã có một chỗ đứng trong đời sống và phong tục dân gian, và hoạt động diễn xướng ca trù đã trở thành một nét sinh hoạt phổ biến tại các đình làng dân gian. 

Những ngôi đình có niên đại thế kỷ XVII như đình Đại Phùng (xã Đại Phùng, huyện Đan Phượng, Hà Nội), đình Hoàng Xá (xã Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, Hà Nội), đình Xốm (xã Hùng Lô, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ) hiện còn giữ các bức chạm những người đang sử dụng đàn đáy. Đặc biệt ở đình Đại Phùng đặc tả hộc đàn ở mặt sau hộp đàn đáy, còn bức chạm ở đình Xốm miêu tả cả đám nhạc công đang hòa nhạc.
Hai ngôi đền có niên đại thế kỷ XVIII là đền Tam Lang (xã Ích Hậu, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh) và đền Lê Khôi (huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh) cũng cho các cứ liệu rất cụ thể về đàn đáy, phách và sinh hoạt diễn xướng ca trù ở thế kỷ XVIII. Các bức chạm này có nét điêu khắc tinh tế hơn chứ không còn vẻ mộc mạc thô phác của các bức chạm trước đó. Điều này thể hiện rõ nhất là những đặc tả về trang phục và vũ điệu mềm mại của các nghệ sĩ dân gian. Các nghệ sĩ đã mang trang phục của nghi lễ hát thờ, với chiếc mũ trên đầu, hoặc búi tóc gọn ghẽ và khá kiểu cách, và những bộ trang phục của những vũ công chuyên nghiệp. Đây cũng là tư liệu rất quý, làm cơ sở cho việc phục hồi các nghi thức hát thờ tại các đình đền trong dân gian. 
 
Về các nhạc cụ và trình diễn các nhạc cụ, các bức chạm này không những miêu tả một cảnh hòa nhạc vui vẻ, với sự góp mặt của đàn đáy và cỗ phách, của sáo, trống cơm, chũm chọe. Điều này cho biết trong sinh hoạt ca trù tại các cuộc vui mang tính cộng đồng như thế, ngoài đàn đáy và phách, sự góp mặt của các nhạc cụ khác càng làm cho không khí thêm rộn ràng và ca trù trong lúc này không chỉ có ba thứ nhạc cụ là trống chầu, đàn đáy và phách như ca trù về sau.
 
Như vậy, qua các ngôi đình có các bức chạm các cảnh sinh hoạt ca trù và việc sử dụng cây đàn đáy, chúng ta biết ca trù có mặt ở các tỉnh Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hà Tây, Hà Tĩnh. 
 
Nguồn tư liệu văn bia cũng cho biết giáo phường ca trù đã phục vụ hát thờ ở khắp vùng đồng bằng châu thổ Bắc bộ. Đó là các tỉnh Hà Tây (cũ), Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Hải Dương, Nam Định. Tỉnh có nhiều bia nhất là Hà Tây cũ (33 bia), trong đó các huyện có nhiều bia là Quốc Oai (10 bia), Phúc Thọ (8 bia), Thạch Thất và Đan Phượng (mỗi huyện 6 bia). Trong các huyện của các tỉnh thì huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc có nhiều bia nhất, với 19 bia. Hà Nội có 11 bia, chủ yếu ở ngoại thành và đều thuộc thế kỷ XVIII. Các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Nam Định mỗi tỉnh 1 bia. Những tỉnh thành khác, tuy không có các văn bia ghi nhận nhưng thực tế, sinh hoạt ca trù đã có mặt ở hầu khắp các làng quê mỗi dịp tế thần. Các bản hương ước, tục lệ của các làng quê có ghi nhận về những ngày tiệc lớn trong làng đều có hát thờ ở cửa đình, nhiều khi là kéo dài vài ba ngày thậm chí cả nửa tháng trời. 
 
Hát cửa đình là hát thờ nên các bài bản đều có quy định khá thống nhất, trở thành một lệ tục. Mỗi giáo phường được quy định được phép hát ở các cửa đình mà mình được Ty giáo phường phân chia. Hàng năm, cứ đến ngày tế lễ ở các làng này là các giáo phường lại xách đàn phách đến hát hầu trước cửa đình theo lệ. Đi hát như vậy gọi là hát lệ. 
 
Các ả đào đứng trước điện, tay cầm lá phách hát các bài hát thờ như Thét nhạc, Bắc phản, Hát Giai, Độc phú...trong tiếng hòa âm của các nhạc khí. Giáo phường được mời đến hát nhất định sẽ hỏi cho bằng được tên huý của các Thánh thờ trong đình để khi hát đến những chữ ấy thì tránh đi. Các cô đầu hát đến những câu có chữ ấy thì hát thật nhỏ, và tránh đi; ví như chữ Hiển thì đọc là Hởn, chữ Lã thì đọc là Lữ. Nếu cô đầu không nhớ ra, cứ thế hát thẳng không kiêng thì người cầm chầu sẽ gõ liên hồi vào tang trống và cho ngừng cuộc hát. Bấy giờ người quản giáp của giáo phường phải đến nói khó với các cụ trong làng để xin cho làm lễ tạ với thánh và xin các cụ chiếu cố cho. Khi ấy, người đào nương sẽ biện cơi trầu , đến trước điện làm lễ tạ lỗi với Thánh và các quan viên.

Trong làng, người được làng tín nhiệm cầm chầu phải là người am hiểu về âm luật, biết thưởng thức ca trù và là đại diện cho cả làng để khen chê đào nương, bình luận và tán thưởng về các ngón đàn, các luyến láy của giọng ca. Thưởng phải công minh thì làng mới phục, vì nếu thưởng “rộng rãi” thì làng tốn tiền, thưởng mà “hẹp” thì đào nương chê là ky bo, chê là không biết nghe hát nghe đàn. Có khi, người cầm chầu mà không biết thưởng thức, không biết khen ngợi những câu hát công phu, những tiếng phách cao siêu, những tiếng đàn bén quyện mà đào kép công phu rèn tập, gặp phải cô đào đanh đá, cô ta sẽ hát một câu khiến người cầm chầu phải xấu hổ mà bỏ roi chầu không dám cầm chầu nữa. Làng tôi ở Đường Lâm, năm xưa đã xảy ra chuyện ấy, khiến cho cô đào phải hát rằng: “Nào những ông nghè ông cống ở đâu/ Để cho ông lão móm ngồi câu con trạch vàng”. Ông lão móm ấy đã phải bỏ cuộc. Vì thế dân gian vẫn bảo: “Ở đời có bốn thứ ngu/ Làm mai, Lãnh nợ, Gác cu, Cầm chầu”.

Lại có chuyện nực cười mà một đào nương già (hiện còn sống) đã kể lại với chúng tôi rằng: Bà đi hát ở một làng kia, khi hát, các thẻ tre thả xuống rất nhiều làm cho đào kép rất phấn chấn, bà đã nhẩm đếm được đến hàng trăm thẻ. Thế nhưng cuối cuộc hát, khi làng đếm thẻ để trả tiền cho giáo phường thì chỉ thấy có vài chục thẻ! Lại có chuyện khi người cầm chầu thưởng tiếng “chát” vào tang trống, nhưng chú nhỏ ngồi bên cạnh lại buồn ngủ quên cả việc ném thẻ khiến cho đào kép không vui, nên hát qua loa cho xong chuyện mà về.

Đã nửa thiên niên kỷ trôi qua, hát cửa đình là một sinh hoạt văn hóa tinh thần rất độc đáo của người Việt trên khắp châu thổ Bắc bộ và Bắc Trung bộ. Vẻ đẹp của ca trù là vẻ đẹp của sự hoà quyện giữa văn chương và âm nhạc vừa hoang sơ mộc mạc mà khúc triết tinh tế, dân gian mà bác học. Đó là “chút hương hỏa của tổ tiên” để lại cho cháu con hôm nay. 

N.X.D

Đi tìm vẻ đẹp Ca trù - BÀI 2: NHỮNG CHUYỆN LINH THIÊNG....

Những chuyện linh thiêng trong thế giới ca trù
Nguyễn Xuân Diện
Xung quanh lối chơi nghệ thuật ca trù cũng đã lưu truyền biết bao câu chuyện linh thiêng khiến cho nghệ thuật càng trở nên u hiển. Nào là nữ thần ở đền Hàng Trống vốn là một ca nữ tài danh trong phủ chúa Trịnh ứng vào bà đồng già mà khiển trách người ta đem ả đào đến hát trong ngôi đền của bà. Nào là chuyện những cô đào chết vào giờ thiêng trên đường đi hát mà mối tự đắp thành mộ, hiển linh khắp một vùng quê xứ Đoài...
Chuyện rằng vào thời Lê - Trịnh có rất nhiều ca nữ thanh sắc vẹn toàn từng phục vụ trong phủ. Đó là câu chuyện về nàng Nguyễn Thị Huệ ở giáo phường Cựu Lâu bên hồ Lục Thuỷ (nay gọi là hồ Hoàn Kiếm, hồ Gươm). Khi nàng 21 tuổi, trong một đêm hát ở phủ chúa nàng đã lọt vào mắt xanh của An Đô vương Trịnh Cương rồi được nhà chúa vời vào cung. Nàng rất được nhà chúa yêu vì ban cho nàng danh hiệu Ngọc Kiều phu nhân.

Vào một năm nọ, kinh thành Thăng Long bị một trận dịch lớn, nàng đã tự bỏ tiền cân thuốc cứu được rất nhiều người. Về già nàng xuống tóc đi tu ngay trong chùa làng Cựu Lâu, sống cuộc sống yên tĩnh như vậy cho đến khi qua đời, thọ 71 tuổi. Dân trong vùng đã xây một ngôi đền thờ nàng ở phố Hàng Trống, trên mảnh đất có ngôi nhà mà chúa Trịnh Cương xây tặng mẹ nàng khi bà còn sống. Nay đền toạ lạc ở số 82 phố Hàng Trống. Đền có bức hoành phi “Nghiễn thiên muội”(Em gái của trời), để tôn vinh và khẳng định ân đức và uy linh của vị nữ thần là đào nương được thờ phụng trong đền.

Tục ở phố Hàng Trống từ xưa đến nay không riêng ở đền mà ngay các tư gia có việc vui mừng cũng không tìm ả đào về hát. Vì một năm,nhân ngày tiệc,dân phố tìm ả đào về hát thờ, một cô đương hát tự nhiên ngã lăn ra, miệng sùi bọt mép mê man bất tỉnh. Dân làng sợ hãi kêu khấn. Nữ thần ứng vào bà đồng già mới bảo rằng: “Các ngươi đem ả đào về đây hát là làm điều vô lễ với ta, nếu lần sau còn như thế nữa ta sẽ vật chết ngay”. Một lúc ả đào dần dần tỉnh lại,khoẻ mạnh như thường. Từ đấy dân phố Hàng Trống không ai dám tìm ả đào về hát ở đền hoặc ở nhà nữa.

Nàng là Huệ - tên một loài hoa đẹp, trắng tinh khôi, thơm ngan ngát và thanh tịnh. Để tỏ lòng thành kính trước người ca nữ tài danh,nhân hậu và hào hiệp, những người đến lễ đền Hàng Trống từ xưa đến nay đều không mang hoa huệ vào đền, dù là để dâng lên nàng với tất cả sự thành tâm nhất.



Ca trù. Tranh sơn mài của Lý Anh Vũ. Ảnh: Nguyễn Xuân Diện


Nếu như Kinh Bắc là đất quan họ, thì xứ Đoài là một trong những cái nôi của ca trù cửa đình. Các giáo phường, các nơi có nhà hát cô đầu ở Xứ Đoài có thểt kể như: Phù Xa, Đông Tác (Sơn Tây), Gạch (Phúc Thọ), Thượng Mỗ (Đan Phượng), Sơn Đồng, Ngãi Cầu (Hoài Đức)... Dân gian vùng Kẻ Mía (làng cổ Đường Lâm) còn lưu truyền câu chuyện về cô đào nọ đã đẻ rơi và đứa bé đã chết vào giờ thiêng ngay trong đêm hát ở đình làng Mông Phụ. Còn dân Phố Gạch thì lưu truyền câu chuyện về người ca nữ bị cảm trên đường trở về nhà sau một đêm hát, đã chết vào giờ thiêng khiến cho ngôi mộ bị mối đùn thành ra một nấm mồ bên cây cầu nhỏ.


Người ca nữ cầu Trò. Tranh Bùi Xuân Phái.
Chuyện rằng: Trên con đường Kẻ Chợ - Xứ Đoài, gần thị trấn Gạch, có một cây cầu tên gọi cầu Trò, nằm trên địa phận thôn Gia Hòa, xã Phúc Hoà, Phúc Thọ. Xưa có một cô đào từng làm mê mẩn bao quan viên, bởi vẻ đẹp đoan trang và kiều diễm, bởi nhịp phách giòn tan và những luyến láy trác tuyệt. Một đêm mưa gió, tan cuộc hát, nàng trở về nhà; không may cho nàng, vừa đến cầu thì nàng cảm lạnh mà chết. Sáng hôm sau, đã thấy mối đắp lên thành nấm mồ nhỏ. Dân làng thương nàng, quan viên say mê tiếng hát của nàng đã lập miếu thờ nàng ở ngay bên cầu. Câu chuyện ấy, tình cảnh ấy đã làm bao người xót xa thân phận “nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương” của người ca nữ nọ. Nhà thơ Vũ Đình Liên nghe chuyện ấy, cảm động viết bài thơ Cảm tạ, với hai câu kết: 

Tạ lòng nào biết nên chi được
Phách ngọc dồn thêm một nhịp vàng!

Sau khi đọc bài Cảm tạ, chung với mối đồng cảm ấy, hoạ sĩ Bùi Xuân Phái còn vẽ cả một bức tranh ca nữ Cầu Trò. Người ta còn bảo rằng, sau khi nàng chết, cầu ấy gọi là cầu Trò (trò là nhà trò, trò là trù - ca trù). Thật là câu chuyện rất thi vị mà cũng rất thương tâm!



Bức chạm nhạc công ca trù đền Lê Khôi (Thạch Hà, Hà Tĩnh). Thế kỷ XVIII.
Ảnh Đặng Hoành Loan

Các câu chuyện linh thiêng trong thế giới ca trù không ai biết nhiều bằng các “quan viên” vốn là chỗ thâm giao với các nhà hát cô đầu ngày xưa. Một trong những người biết nhiều chuyện nhất chắc phải là nhà văn Nguyễn Tuân. Ngày nay, đọc lại Chùa Đàn của ông, những người yếu bóng vía không khỏi rùng mình bị ám ảnh bởi không khí huyền hoặc của nó. Đó là chuyện về một người vợ giữ gìn cây đàn Đáy của chồng quá cố để lại. Người vợ, cũng là một đào nương kể về cây đàn: “Tang đàn làm bằng nắp ván thôi cỗ quan tài một người con gái đồng trinh”. Và “cứ vào những đêm tối giời không tiếng gà gáy chó kêu và thứ nhất là vào những đêm áp giỗ nhà tôi, thường cây đàn vẫn dở giời, thành đổ mồ hôi cứ vã ra như tắm và thùng đàn phát lên những tiếng thở dài và vật mình vật mẩy với bức vách, cứ lủng củng suốt đêm”. Thế rồi có người khách mê tiếng hát của đào nương mà đến xin nghe bằng được, cho dù cô đào đã nhắc lại lời thề không bao giờ hát với ai khác nữa. Người khách cũng không ngại ngần chơi bằng cây đàn thờ treo ở gian thờ của nhà đào nương, cho dù biết là mình sẽ chết vì dám động vào cây đàn thiêng... 

Và còn biết bao câu chuyện khác nữa xung quanh cuộc đời của các đào nương tài danh mà bạc phận, không để cho nhân gian biết lúc bạc đầu, đem cả tiếng hát tuyệt kỹ xuống hoàng tuyền xa thẳm, không để lại tuổi tên.


N.X.D


Đi tìm vẻ đẹp Ca trù - BÀI 1: TRUYỀN THUYẾT TỔ CA TRÙ VÀ CÁC ĐỀN THỜ

Các vị tổ ca trù. Ảnh: Thái A
Truyền thuyết tổ ca trù và những đền thờ
Nguyễn Xuân Diện

Ca trù có một truyền thuyết rất đẹp và lung linh huyền thoại về sự ra đời. Trong đó, các vị tổ ca trù đã được chính các vị tiên xui khiến chế tác ra cây đàn đáy, mà tiếng đàn này có thể giải mọi phiền muộn, chữa được bệnh cho mọi người. Tiếng đàn ấy còn se duyên cho hai vị tổ ca trù thành đôi lứa ... Ngoài ra, rất nhiều câu chuyện được lưu truyền và lan tỏa tạo cho nghệ thuật ca trù nhuốm thêm màu huyền bí...
Câu chuyện lưu truyền như sau: Vào đời Lê, Đinh Lễ, tự Nguyên Sinh, người làng Cổ Đạm, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, con nhà gia thế, tính tình phóng khoáng. Một hôm, Nguyên Sinh đem đàn nguyệt và rượu vào rừng thông để tiêu khiển, gặp được hai ông cụ già. Đó chính là hai tiên ông Lý Thiết Quài và Lã Động Tân. Hai tiên ông đưa cho chàng khúc gỗ ngô đồng và tờ giấy vẽ kiểu mẫu đàn và dặn đóng đàn theo kiểu mẫu như trong giấy. Tiếng đàn ấy sẽ trừ được ma quỷ, giải được phiền muộn. Nguyên Sinh y theo lời. Nhờ tiếng đàn kỳ diệu, chàng chữa được bệnh cho rất nhiều người. Một lần, Nguyên Sinh đến châu Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa, chàng đã chữa bệnh cho người con gái tên Hoa, con của vị Quan châu Bạch Đình Sa khỏi bệnh câm. Sau Nguyên Sinh và Bạch Hoa nên vợ nên chồng, sống cùng nhau rất hòa hợp tương đắc ở bên nhà Bạch công. Nguyên Sinh đã đặt ra lối múa hát mới, rồi lấy hai thanh tre vót thực đẹp để cho nàng gõ lên trên mảnh gỗ theo với nhịp đàn mà hát. Sau hai vợ chồng từ biệt ông bà nhạc dẫn nhau về quê Nguyên Sinh ở Cổ Đạm để lập nghiệp. Ít lâu sau, chàng gặp lại các vị tiên ông và được ghi tên tuổi vào tiên phả rồi cùng nhau hóa. Vợ Nguyên Sinh biết chuyện, bèn phát tán hết gia tài rồi đóng cửa dạy cho đám con em trong làng hát múa. Sau nàng bệnh mà chết. Dân làng Cổ Đạm và đệ tử nhớ ơn lập đền thờ, gọi là đền Tổ Cô đầu, hay là đền bà Bạch Hoa Công chúa. Trải các triều đều phong tặng Đinh Lễ là Thanh Xà Đại vương, Bạch Hoa là Mãn Đào Hoa Công chúa

Nhiều nơi có giáo phường ca trù trong khắp châu thổ bắc bộ có đền thờ tổ ca trù. Trong đó gần kề Thăng Long - Hà Nội nhất phải kể đến làng Lỗ Khê thuộc xã Liên Hà, huyện Đông Anh ngoại thành Hà Nội. Làng có đình chùa riêng. Trong làng còn có một đền thờ tổ ca trù, mà dân địa phương gọi là đình ca công. Đình ca công xây dựng từ bao giờ không rõ. Về mặt kiến trúc, quy mô hiện nay gồm 5 gian, kiến trúc như nhà ở dân dụng bình thường. Đình còn giữ được một bức hoành phi Sinh từ tự điển (Thờ phụng và dựng đền lúc còn sống) và bức phù điêu các vị tổ ca trù. Bản gốc của thần tích tổ ca trù cũng còn lưu tại đình ca công. Ngày nay, hàng năm vào dịp ngày 6 tháng 4 (Ngày sinh của Đinh Lễ) hoặc ngày 13 tháng 11 (ngày hóa của Đinh Lễ), những nghệ sỹ ca trù ở Hà Nội và các vùng lân cận vẫn thường về “chốn tổ” Lỗ Khê để tỏ lòng sùng phụng và gặp gỡ bạn nghề. Năm 1984, Trung tâm Nghe Nhìn (nay là Hãng Phim truyền hình Việt Nam) đã tổ chức làm phim “Hát cửa đình” tại Lỗ Khê. Đây cũng là dịp tập trung nhiều nhất các danh ca, danh cầm nổi tiếng trong giới ca trù như: Quách Thị Hồ, Nguyễn Thị Phúc, Nguyễn Thị Hào, Chu Văn Du, Nguyễn Thế Tuất, Phó Đình Kỳ, Đinh Khắc Ban, Phó Thị Kim Đức, Phạm Thị Mùi...

Vùng ven đô Thăng Long cũng còn một làng quê còn giữ được đền ca công. Đó là Phú Đô là một làng thuộc xã Mễ Trì, huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội. Tại đây cũng có một đền Ca công ở xóm 1. Đền có ba chữ Ca công từ xác nhận tên gọi của đền. Trong đền có một sắc phong có nội dung: Sắc cho Mãn Đường Hoa Phương Phi Chân Thực Từ Hoà Công chúa và Thanh Xà Thuận Bình Hưng Linh Thông Tuy Hưu Tích Hỗ Đại vương. Niên đại của sắc là năm Chiêu Thống 1 (1787). Sắc này cũng chỉ là một bản sao, vì trên sắc không thấy có dấu ấn triện. Thần tích hiện còn giữ cũng là một bản sao, trên giấy sắc, nội dung cũng không có gì khác thần tích Lỗ Khê.
Làng Phượng Cách, xã Phượng Cách, huyện Quốc Oai, Hà Tây cũng là một nơi có di tích đền thờ tổ. Phượng Cách là tên làng cũng đồng thời là một xã, thuộc huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây. Trong lịch sử nơi đây là một vùng rất thịnh của ca trù. Ở trong khu nhà thờ họ Nguyễn Thế (do ông Nguyễn Thế Mạnh trông nom) có một gian điện thờ đức tổ ca trù với hai pho tượng tròn rất đẹp. Theo các vị cao tuổi trong dòng họ thì đây là nơi các giáo phường lớn nhỏ trong huyện Quốc Oai về dâng hương lễ tổ hàng năm. Phượng Cách cũng là quê hương của ông Tự So và bà Đào Nhu - một đào nương nổi tiếng đã từng chống Pháp. Gần đây nhất, dòng họ có Kép Tư Châu và cô Đào Phê (thường gọi là Bà Hương Phê), những danh ca, danh cầm ở ấp Thái Hà, Hà Nội trước 1945.
Nhắc đến các đền ca công, các nhà thờ tổ ca trù không thể không nhắc đến lễ tế tổ - một sinh hoạt quan trọng của các giáo phường, vừa mang ý nghĩa tâm linh là kính tổ, vừa là dịp để các đào nương già trình diễn các kỹ thuật cao siêu của nghệ thuật hát, như một sự báo cáo trước tổ rằng nghề của tổ truyền lại vẫn được giữ gìn, trau chuốt. Đây cũng là dịp để các giáo phường hiểu biết nhau thêm trong tình cảm đồng nghiệp. 

Vào ngày 13 tháng 11, các Giáo phường làm lễ tế tổ. Trước đó hàng tháng những giáo phường trong hai ba huyện họp lại chọn một người nhiều tuổi từng trải, đứng lên làm Trùm nhất để điều hành công việc. Ông Trùm nhất gửi giấy cho các phường biết nơi tế, vì ít phường có đền thờ tổ riêng biệt nên khi tế họ chọn một nhà nào rộng rãi ở trong phường, hoặc mượn đình sở của làng lân cận. Những phường ở xa góp tiền, còn phường sở tại lo sắm lễ vật và chuẩn bị đón tiếp khách khứa. Khi giáo phường tế tổ cũng cử hành nghi thức như lễ tế thần. Các phường đều tuyển những đào hay kép giỏi tới múa hát. Hát thờ tổ khác lối hát cửa đình ở chỗ có hai khúc hát Non mai, Hồng hạnh. 

Các nhà nghiên cứu trước đây cho biết khúc hát Non mai đã thất truyền. Nay chúng tôi đã tìm kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm được 2 văn bản chép hai khúc Non mai và Hồng hạnh. Đó là Ca trù thể cách (AB.564) và Ca trù tạp lục (VHv.2940). Non mai là lấy hai chữ đầu tiên trong khúc hát thờ tổ để đặt tên cho cả khúc hát. Theo Ca trù thể cách (AB.564) thì bài thơ có 4 đoạn, mỗi đoạn có một ý nghĩa riêng, lần lượt 3 đoạn đầu tả vẻ đẹp và ca ngợi “đức” của mai, trúc, tùng có tiết tháo của bậc quân tử đem tài cao chí lớn, giúp nước giúp vua; đoạn cuối cùng là mấy câu ca mừng làng và chúc phúc “tứ dân”. Bài thơ này gián tiếp có nội dung ca ngợi vị tổ ca trù là bậc quân tử thanh cao, đem tài giúp nước. Đoạn cuối cùng trong bài thơ chúc mừng dân làng được vinh hoa sang giầu; Sĩ thì chiếm bảng vàng khôi khoa, Nông thì thóc lúa đầy nhà, Công thì ngày càng thêm khéo léo, Thương thì thu nhiều vàng bạc. 

Tương truyền chính bà Bạch Hoa Công chúa đã làm ra hai khúc Non mai, Hồng hạnh nên ả đào chỉ dành khi hát thờ bà mới hát, ngoài ra không bao giờ hát khúc ấy ở đền miếu khác và cũng không dám hát cho ai nghe. Chính vì thế mà việc thất truyền càng dễ. Ngay cả Nghệ sỹ Nhân dân Quách Thị Hồ cũng không được mẹ dạy cho hai khúc Non mai và Hồng hạnh. Các nghệ nhân, nghệ sỹ ca trù hiện nay còn sống cũng không ai biết hát hai khúc hát này. Trong quá trình lần tìm về hai điệu hát cổ trong lễ tế tổ ca trù tôi được biết, vào khoảng thập kỷ 50 của thế kỷ XX các chuyên gia âm nhạc của Liên Xô đã ghi âm được hai khúc Non mai, Hồng hạnh do bà Châu Doanh Đinh Thị Hảo trình bày. Để ghi âm được 2 bài này, các chuyên gia âm nhạc đã tổ chức một lễ tế tổ, và rất tự nhiên, bà Châu Doanh tay cầm lá phách đã thành kính dâng trước điện thờ hai khúc hát thờ. Đây là tư liệu duy nhất về hai điệu hát thờ Non mai, Hồng hạnh. Tuy nhiên, do kỹ thuật thu âm lúc đó chưa tốt, phương tiện bảo quản chưa hiện đại nên băng ghi âm nghe không rõ lời. Nếu không kết hợp với các lời ghi trong sách cổ thì không thể học hát được bài hát này. 

Được biết, có một nữ nghệ sỹ ca trù con nhà nòi đã tập hát bài Non mai từ 6 năm nay, qua cuốn băng sao lại từ kho lưu trữ. Mong sao một ngày kia (có thể là đúng vào dịp UNESCO công nhận ca trù là Kiệt tác văn hóa của nhân loại) thì khúc hát này lại vang lên trong một dịp tế tổ ở Lỗ Khê, để tưởng nhớ đến các vị tổ đã đem khúc nhạc ca trù từ nơi tiên giới xuống giữa trần gian …

N.X.D

Thứ Ba, 11 tháng 10, 2011

GIẤY MỜI DỰ LIÊN HOAN CA TRÙ TOÀN QUỐC 2011

 

Nhân dịp này, Nguyễn Xuân Diện - Blog xin gửi đến chư vị chùm bài về Ca trù, để chúng ta cùng nhau tìm hiểu về một di sản văn hóa đặc sắc và thuần Việt của dân tộc, từ đó chung lòng gìn giữ bông hoa nghệ thuật quý báu này.

Trước hết là chùm thuật ngữ trong ca trù, được rút từ cuốn sách Lịch sử và Nghệ thuật Ca trù của Nguyễn Xuân Diện, xuất bản năm 2007, tái bản lần 1 năm 2010.

Một số thuật ngữ trong Ca trù:
Ả đào.Người ca nữ (có thể cũng đồng thời là vũ nữ) của nghệ thuật truyền thống của người Việt. Đây là từ chỉ chung cho các bộ môn nghệ thuật ca múa nhạc cổ của Việt Nam. Ả đào là chỉ người hát, khác với hát Ả đào là từ chỉ một bộ môn ca múa nhạc. Từ rất lâu nay trong giới nghiên cứu ca trù nhầm lẫn giữa hai thuật ngữ này. Và hệ quả là người ta căn cứ vào những chữ Ả đào xuất hiện trong các tài liệu Hán Nôm để cho rằng Hát Ả đào đã có từ thời Lý - Trần - Hồ.
Âm luật. Những quy luật tổ chức độ cao của âm thanh. Hiện nay đang có nhiều cách hiểu khác nhau về âm luật ca trù, và nhiều điều vẫn còn là ẩn số đối với giới nghiên cứu âm nhạc. Ngay như hệ thống ngũ cung trong âm luật ca trù như Nam, Bắc, Huỳnh, Pha, Nao cũng chưa được cắt nghĩa.
Ca công. Người làm nghề đàn hát.
Ca phả: Cuốn sách ghi chép về bài bản và lề lối của một bộ môn nghệ thuật.
Ca quán. Nhà hát mở riêng chỉ để làm nơi phục vụ khách nghe hát.
Ca trù. Từ chỉ một bộ môn hát trong đó việc thưởng thức phẩm bình tài nghệ của nghệ sỹ thông qua việc dùng thẻ tre, mỗi thẻ được quy ước bằng một số tiền. Cuối buổi sẽ căn cứ vào số lượng thẻ để tính tiền trả cho nghệ sĩ. Tư liệu sớm nhất nói về việc này là trong bài “Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn” của Lê Đức Mao, sáng tác trước năm 1500. Về sau, trở thành tên gọi riêng của bộ môn nghệ thuật hát ả đào.
Cầm chầu: Đánh trống trong hát ca trù. Trống ca trù có vai trò giục hát, ngắt câu và phẩm bình khen chê đối với nghệ sĩ (cả đào và kép).
Con hát: Từ chỉ người con gái làm nghề ca hát. Xem chữ Ả đào.
Đàn Đáy: Cây đàn dùng riêng để đệm cho ca trù. Thùng đàn hình vuông, cần dài, thường có ít nhất là 11 phím, có 3 dây (bằng tơ tằm hoặc sợi cước), khi đánh dùng móng và sử dụng một số kỹ thuật nhấn nhá riêng để tạo những âm thanh rất riêng đặc trưng của ca trù.
Đào nương: Xem chữ Ả đào.
Đình làng: Ngôi nhà công cộng trong làng (xã) của người Việt có nhiều chức năng: hội họp, thờ cúng thành hoàng, nơi biểu diễn nghệ thuật (hát ca trù, chèo, tuồng).
Dinh thự: Nhà để các quan làm việc và gia đình quan lại ở.
Giáo phường: Tổ chức hôi tụ những người làm nghề ca múa nhạc dân gian. Giáo phường do một người có chuyên môn và có uy tín đứng đầu, lo việc cắt cử nghệ sĩ đi hát phục vụ theo lời mời, lo việc quản lý nghệ sĩ và coi sóc việc truyền nghề, giữ gìn nghề. Giáo phường là từ chỉ riêng của nghề hát ca trù, không thấy cách gọi này ở các tổ chức của lối hát khác: ở chèo gọi là phường chèo, gánh chèo; ở vùng hát xoan gọi là phường xoan
Hát ả đào: Xem chữ ca trù.
Hát ca công: Cụm từ dùng để chỉ ca trù theo cách gọi ở Thanh Hóa. Theo Lê Huy Trâm thì hát ca công chính là ca trù.
Hát chơi: Hát phục vụ nhu cầu giải trí ở nhà dân.
Hát cửa đình: Từ chỉ việc trình diễn tại đình làng, phục vụ việc thờ Thành hoàng làng. Trước đây, hát cửa đình có thể không chỉ riêng ca trù mà còn các lối hát khác như hát xoan, hát chèo…Về sau, hát cửa đình chỉ riêng lối hát ca trù thờ Thành hoàng.
Hát cửa quyền: Hát ở nhà hoặc dinh thư của các quan lại, với mục đích giải trí.
Hát nhà tơ: Cách gọi khác của ca trù khi diễn ra ở các dinh thự của các quan lại (ty: dinh quan).
Hát nhà trò: Tên gọi khác của ca trù. Hát nhà trò là tên gọi ca trù rất phổ biến. Tên gọi này xuất phát từ việc ca trù, ngoài việc hát còn có các tiết mục múa và diễn trò.
Hát nói. Một thể cách ca trù ra đời khoảng đầu thế kỷ XIX. Thể cách này đặc biệt được văn nhân trí thức ưa chuộng vì phần lời của nó là một thể thơ đặc sắc. Thể thơ hát nói là một sáng tạo riêng của văn học chữ Nôm. Thể thơ thường có 11 câu nhưng có thêm phần mở đầu bằng 1 hoặc 2 cặp lục bát. Ở vị trí giữa bài thơ là hai câu thơ chữ Hán. Bài thơ hát nói có vần và vận chặt chẽ nhưng chấp nhận những biến cách, để làm tăng khả năng phô diễn thể hiện cảm xúc. Hát nói rất được các nhà nho tài tử ưa chuộng.
Hát thi: Hình thức cuộc thi được tổ chức để tìm người hát hay, hoặc đàn giỏi. Cuộc thi nếu do chức sắc của làng (xã) tổ chức để chọn người vào hát thờ trong ngày chính tiệc thờ Thành hoàng. Nếu cuộc thi do Ty giáo phường tổ chức thì để chọn người hát hay và người đàn giỏi để đưa vào Kinh, hát phục vụ nhà vua tại hoàng cung.
Hát thờ: Hình thức hát phục vụ nghi lễ tín ngưỡng, dâng lên thành hoàng làng hoặc các vị thần linh được thờ ở các đền miếu.
Họ. Theo Việt Nam ca trù biên khảo thì “Ngày xưa cô đầu và kép mỗi vùng có một tên riêng, như họ Tam, họ Ngàn, họ Thông, họ Thiên v.v…Người thuộc về họ nào, lấy chữ họ đó đặt lên trên, tên ở dưới. Ví dụ tên là Thuận mà thuộc về họ Thông thì gọi là Thông - Thuận. Họ này chỉ dùng riêng trong Giáo - phường, còn đối với chính - phủ vẫn theo tên họ cũ”(Sdd, tr. 54). Sách chỉ nêu ví dụ 3 “họ” kể trên và không đưa ra tư liệu xác thực để kiểm chứng. Nay, qua văn bia, ta biết được 8 “họ”: Xuân, Đông, Thịnh, Từ, Hoàng, Việt, Kiều, Khổng trên 11 bi ký Hán Nôm. Xã có thể có một hoặc nhiều giáo phường. Mỗi giáo phường là một họ riêng. Như vậy, “họ” chính là một hình thức đặt nghệ danh, để phân biệt giữa các giáo phường với nhau.
Hồng Hạnh. Tên một thể cách của ca trù. Theo Việt Nam ca trù biên khảo thì “Tương truyền chính bà Bạch - Hoa Công - chúa đã làm ra hai khúc Non - mai, Hồng - hạnh nên cô - đầu chỉ dành khi hát thờ bà mới hát, ngoài ra không bao giờ hát khúc ấy ở đền miếu khác và cũng không dám hát cho ai nghe”(Sdd, tr. 50).
Kép. Nhạc công nam, chơi đàn đáy trong ca trù. Nhạc công này có thể cũng là người hát trong một số tiết mục hát thờ ở cửa đình. Chữ Kép còn chỉ những người đàn ông làm nghề đàn, hát, diễn viên trong nghệ thuật ca hát truyền thống như tuồng, chèo.
Khổ. Một phần lời ca được quy định sẵn trong một bài ca trù”(Đặng Hoành Loan, Đặc khảo ca trù Việt Nam, tr. 573)
Làn điệu. Những lời thơ được hát lên với một giai điệu nhất định với chất liệu âm nhạc đặc thù. Mỗi làn điệu là một khúc hát độc lập có tên gọi riêng. Trong ca trù, thể thơ lục bát được sử dụng để cấu tạo nên nhiều làn điệu khác nhau, mỗi làn điệu có cấu trúc âm nhạc riêng.
Lễ tế tổ. Cuộc tế lễ do các giáo phường ca trù tổ chức để tưởng niệm các vị sáng lập ra ngành ca trù.
Lệnh tiền. Còn gọi la Tiền lệnh. Bi ký Hán Nôm không cho những thông tin rõ ràng để hiểu được một cách chính xác về lệnh tiền. Trần Thị Kim Anh cho rằng đây là tiền trả cho người cầm hiệu lệnh trong tế lễ - đánh chiêng trống là hiệu lệnh.(Đặc khảo ca trù Việt Nam, tr. 49).
Mua bán cửa đình.Quyền giữ cửa đình của các giáo phường được duy trì đời này qua đời khác. Giáo phường được giữ cửa đình có đặc quyền được ca hát và được hưởng một số quyền lợi. Tuy nhiên, nếu vì túng thiếu, cần tiền để chi dùng thì các giáo phường có thể bán lại quyền giữ cửa đình cho giáo phường khác, thậm chí cho quan viên chức sắc của chính làng sở tại. Việc mua bán sang nhượng và quyền lợi mỗi bên được ghi lại trên văn bia dựng tại đình. Cũng có khi giáo phường không bán hết các quyền lợi được ghi trong điều khoản của khoán ước mà chỉ bán một số khoản, hoặc lệ mà mình đang được hưởng mà thôi (ví dụ lệ như xông đình, , trù tiền, lệnh tiền, trù trùm). Trong số 62 văn bản mua bán được khắc trên bia đá có 28 văn bia ghi việc mua bán đứt đoạn; một số bia khác không ghi rõ việc mua bán đứt đoạn, hoặc chỉ ghi mua, bán một phần ba hoặc một phần của các quyền lợi.
Nhạc khí. Nhạc cụ dùng trong biểu diễn ca trù.
Non mai. Xem mục từ Hồng hạnh.
Phách. Nhạc cụ gõ do người hát ca trù gõ khi hát. Phách ca trù gồm bàn phách và lá phách. Lá phách gồm 1 dùi đơn và 1 dùi kép (do một dùi đơn chẻ làm đôi). Khi gõ phách đều phải ở trong khuôn khổ và tiếng hát đều phải nằm trong những khổ phách. Phách thường làm bằng tre hoặc gỗ.
Quản giáp. Người có tuổi hoặc có uy tín về nghề trong giáo phường. Người này do phường bầu ra để cắt đặt mọi việc trong giáo phường.
Quyền giữ cửa đình.Ty giáo phường chia việc giữ các cửa đình trong huyện cho các giáo phường. Các giáo phường này được phép toàn quyền biểu diễn tại đình làng này, hoặc được phép tuỳ ý mời giáo phường khác đến hát giúp trong một dịp nào đó. Đó chính là quyền giữ cửa đình của các giáo phường, được cam kết với dân làng có đình sở tại thông qua một văn bản khóan ước khắc trên bia đá, đặt tại đình làng. Quyền giữ cửa đình này được duy trì đời này qua đời khác.
Thần tích. Văn bản Hán Nôm ghi chép lai lịch, sự tích, sự nghiệp và nghi thức tể lễ, thờ phụng một hoặc một số vị thần linh được nhân dân thờ cúng tại các đình, đền, miếu. Văn bản thần tích do các quan chức hoặc chức sắc ở địa phương báo cáo về triều đình. Triều đình căn cứ vào lời khai đó để cho phép thờ phụng và ban tặng sắc phong.
Thẻ. Mảnh tre trên có ghi số tiền được quy định giữa làng và giáo phường, dùng để đại diện của làng (người cầm chầu trong cuộc hát) sẽ thả xuống chậu đồng để ghi nhận một sự tán thưởng, khen tặng của
Thể cách. Một thuật ngữ trong ca trù không thấy ở các bộ môn ca nhạc khác. Thuật ngữ “thể cách” chỉ các làn điệu hát, hoặc hình thức diễn xướng múa, diễn, nghi lễ, việc thi cử trong ca trù. Khi thể cách là làn điệu hát, thì “thể cách” hoàn toàn trùng hợp với “làn điệu”(ví dụ thể cách Hát nói, Bắc phản). Thể cách cũng chỉ một tiết mục múa, hoặc diễn xướng thậm chí một nghi lễ trong trình diễn ca trù, một trình diễn kỹ thuật về sử dụng trống hoặc đàn cũng gọi là thể cách.
Thơ ca trù. Phần lời của nghệ thuật ca trù. Đó là những bài thơ, chủ yếu là thơ lục bát, khi hát lên trong khuôn khổ của đàn, phách theo các thể cách khác nhau.
Thưởng. Hình thức biểu thị sự khen thưởng đối với giọng hát, tiếng phách của đào nương; tiếng đàn của kép đàn; hoặc đối với một chữ thơ, câu thơ hay của văn nhân dùng để hát ca trù. Việc thưởng do người cầm chầu thực hiện, thông qua việc gõ vào tang trống đồng thời với việc thả một thẻ tre xuống chậu đồng/ mâm đồng để báo cho nghệ sĩ biết. Xem thêm mục từ ca trù.
Tiếng lóng.Cách nói một ngôn ngữ riêng của đào kép ca trù và những người phục vụ trong các ca quán ca trù, cốt để trong nội bộ ca quán và khách quen của ca quán hiểu với nhau, không cho người lạ biết.
Trống chầu. Trống dùng trong ca trù. Nếu là hát thờ thì là trống lớn, điểm xen với chiêng. Còn khi nghe ca trù ở nhà riêng hoặc ca quán với mục đích giải trí thì chỉ dùng trống nhỏ.
Trù. Xem chữ Thẻ.
Trù tiền. Xem các mục từ Thẻ, Ca trù, Thưởng.
Trùm tiền. Còn gọi la Tiền trùm. Bi ký Hán Nôm không cho những thông tin rõ ràng để hiểu được một cách chính xác về trùm tiền. Trần Thị Kim Anh cho rằng đây là tiền trả cho người trùm.(Đặc khảo ca trù Việt Nam, tr. 49).
Truyền thuyết tổ nghề. Câu chuyện được thiêng hóa về sự tích của việc truyền dạy một nghề nghiệp nào đó. Đây là một truyền thống của các nước Phương Đông. Xunh quanh việc thờ tổ ca trù cũng bao trùm rất nhiều huyền thoại với nhiều câu chuyện ly kỳ, nhằm thiêng hóa truyền thống ca trù.
Ty giáo phường. Theo ghi nhận của bi ký Hán Nôm thì Ty giáo phường là một tổ chức quản lý hoạt động ca xướng tương đương cấp huyện. Giáo phường các xã thuộc về Ty giáo phường của huyện. Ty giáo phường gồm các giáo phường của các xã trong huyện họp lại. Người đứng đầu Ty giáo phường là một ông trùm. Ty giáo phường chia việc giữ các cửa đình trong huyện cho các giáo phường.
Xông đình. Lệ đặt ra, khi việc sửa chữa đình hoàn thành, làng tổ chức làm lễ, gọi là lễ xông đình, cáo yết với thành hoàng. Khi làm lễ xông đình, giáo phường sở hữu quyền giữ cửa đình đó có trách nhiệm vào hát thờ, tham gia các nghi thức tế lễ và hưởng lộc theo quy định tại văn bia khoán ước.


Nguyễn Xuân Diện