Thứ Ba, 2 tháng 5, 2017

BẢN YÊU SÁCH CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH ĐẤT ĐAI

Bình minh trên nông trang. Tranh sơn mài của Nguyễn Đức Nùng.
.
BẢN YÊU SÁCH CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH ĐẤT ĐAI

Hà Nội, ngày 26  tháng 4 năm 2017

Kính gửi:

- Toàn thể Nhân dân Việt Nam
- Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam
- Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam
- Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam
- Bộ Chính trị Đảng CSVN
- Các tổ chức nhân quyền trong nước và quốc tế
- Các cơ quan truyền thông

 Thực tế nhiều thập kỷ qua, chính sách đất đai của Nhà nước CHXHCNVN đã bộc lộ sự lạc hậu, bất cập, xa lạ với hầu hết các quốc gia văn minh, tiên tiến và hùng cường trên thế giới, là lực cản lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, gây bức xúc lớn trong Nhân dân, tạo ra tầng lớp “dân oan” ngày càng đông đảo ở mọi miền đất nước, gây bất ổn an sinh xã hội, gia tăng bất công, chênh lệch giàu – nghèo quá phi lý, xuất hiện nguy cơ bùng nổ xung đột, bạo lực xã hội không thể kiểm soát.

Chính sách “đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” (điều 53 – Hiến pháp 2013), Luật Đất đai và các quy định liên quan không những không tạo điều kiện sử dụng hiệu quả đất đai, phát triển kinh tế bền vững, mà lại là tấm bình phong, là cơ hội vàng cho giới chức quan liêu, tiêu cực, tham nhũng, vô cảm đi đêm với chủ dự án tước đoạt tàn bạo nhà ở, trang trại, ruộng đất – tư liệu sản xuất và là nguồn sống duy nhất của hàng chục triệu hộ nông dân trong một quốc gia đất hẹp, dân đông, nông nghiệp chiếm tỷ lệ quan trọng trong nền kinh tế. 

Chính sách ấy có nguồn gốc từ học thuyết đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác và thực tiễn CNXH ở Liên Xô, Trung Quốc: xóa bỏ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất quan trọng nông nghiệp cũng như mọi ngành nghề, lĩnh vực, mọi hoạt động và cơ sở kinh tế xã hội khác, áp đặt cơ chế kinh tế chỉ huy, duy ý chí, tập trung, quan liêu, bao cấp.

Từ giữa thập niên 1980, Đảng CS và Nhà nước Việt Nam nhận ra nhiều sai lầm căn bản và trầm trọng trong cơ chế kinh tế, nên đã dần tháo gỡ, xác định kinh tế thị trường. Do đó, đất nước phần nào thoát khỏi khủng hoảng toàn diện và sâu sắc, kinh tế có phần chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, chủ trương kinh tế thị trường buộc phải “định hướng XHCN” vốn tự mâu thuẫn, cùng duy trì công hữu toàn bộ đất đai dẫn đến khủng hoảng đất đai sâu rộng, kìm hãm đà phát triển kinh tế - xã hội, làm Việt Nam ngày càng tụt hậu so với khu vực và thế giới. Càng tụt hậu, càng bất lợi, thua thiệt trong buôn bán giao thương quốc tế. Một trong những yếu tố quan trọng cấu thành sai lầm trong chính sách kinh tế là chính sách quản lý đất đai hiện hành.

Nhiều năm qua, diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp đáng kể bởi Nhà nước thu hồi tùy tiện, đền bù rẻ mạt để lấy đất cho sân golf, du lịch sinh thái, dự án kinh doanh bất động sản, khu quy hoạch treo, các khu, dự án công nghiệp - kinh tế bỏ hoang, đình đốn… Hàng trăm nghìn nông hộ và dân thành thị mất nhà cửa, ruộng vườn, mồ mả… lâm hoàn cảnh bi đát khốn cùng, màn trời chiếu đất, không tấc đất cắm dùi. Điều đó đi ngược với chính sách thuở ban đầu: “người cày có ruộng”, trái tinh thần Hiến pháp 2013 (Điều 14: “Ở nhà nước CHXHCNVN, các quyền con người, quyền công dân về kinh tế được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm”, “quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh…”. Điều 15: “Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Điều 16: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”, “Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế…”. Điều 22: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở”), trái tinh thần Công ước Liên Hiệp Quốc về các quyền dân sự và chính trị (điều 17: “Không ai bị can thiệp tùy tiện hoặc bất hợp pháp vào đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở…”; điều 26: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào…”), mà Việt Nam là một quốc gia thành viên, và đặc biệt, đi ngược lòng dân, gây bất ổn xã hội, thêm khó khăn cho chính Nhà nước trong thực hiện chức năng quản lý xã hội. Những bất ổn, xáo trộn xã hội và hệ lụy trong thời kỳ hợp tác hóa nông nghiệp, và gần đây là những Tiên Lãng, Thái Bình, Văn Giang, Dương Nội, Vụ Bản, Kỳ Anh, Lai Châu, Phú Quốc, Đồng Tâm, Bắc Ninh… cho nhiều bài học đau xót.

Chính sách đất đai hiện hành gây bao tai ương cho Nhân dân, kìm hãm phát triển kinh tế - xã hội đất nước, và có lẽ Nhà nước cũng không mong muốn.

Vì những lẽ trên, chúng tôi, các tổ chức xã hội dân sự và cá nhân đứng tên trong bản yêu sách này, ở vị thế Nhân dân – chủ thể cao nhất của xã hội, chủ nhân đất nước (Điều 2 – Hiến pháp 2013: “Nhà nước CHXHCNVN là nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”; “Nước CHXHCNVN do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”), mạnh mẽ và khẩn cấp yêu cầu Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ và Đảng CSVN:

1.  Khẩn cấp cải cách chính sách đất đai. Công nhận và bảo hộ quyền tư hữu đất đai, nhà ở như mọi tài sản, tư liệu sản xuất - sinh hoạt khác.

2.  Việc lấy đất để xây dựng các cơ sở an ninh, quốc phòng, hạ tầng công cộng quan trọng, phải bồi thường đúng giá trị. Mọi tranh chấp, nếu không thỏa hiệp được, phải giải quyết bởi giám định độc lập, tòa án.

3.  Các dự án vì mục đích sinh lợi của bất kỳ doanh doanh nghiệp trong hay ngoài nước, thuộc mọi thành phần, đều phải thoả thuận với người dân có đất.

4.  Các dự án kinh tế xã hội vì lợi ích công cộng như trường học, bệnh viện, chợ, công viên, truyền tải điện, nước… phải thiết thực, cân nhắc lợi ích mang lại có đủ lớn hơn mức bù thỏa đáng cho dân phải di dời? Phải công khai minh bạch và được đa số dân đồng thuận.

5. Thu hồi khẩn trương đất đã giao cho các dự án quá thời hạn ấn định, chưa hoặc chậm triển khai, bỏ hoang hóa.

6.  Nghiêm cấm các lực lượng vũ trang nhân dân tham gia thu hồi đất.
7.  Xử lý nghiêm minh công chức vi phạm chính sách đất đai.

Chúng tôi khẩn thiết kêu gọi mọi tổ chức xã hội dân sự, mọi người dân ủng hộ bản yêu sách này bằng việc ký tên tiếp theo và các hoạt động phong phú khác.
Chúng tôi kêu gọi dư luận quốc tế và Chính phủ các nước, các tổ chức nhân quyền quốc tế lên tiếng và có biện pháp hữu hiệu hậu thuẫn yêu sách chính đáng này của người dân Việt Nam.

Trân trọng!


 Các tổ chức, cá nhân đứng tên:

A.     Tổ chức
1.  Diễn đàn Xã hội dân sự, ts Nguyễn Quang A đại diện.
2.  Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, ông Lê Thân đại diện.
3.  Ban Vận động Văn đoàn độc lập, nhà văn Nguyên Ngọc đại diện.
4.  Câu lạc bộ Phan Tây Hồ, ông Hà Sĩ Phu và ông Mai Thái Lĩnh đại diện
5.  Diễn đàn Bauxite Việt Nam, gs Phạm Xuân Yêm và gs Nguyễn Huệ Chi đại diện.
6.  Dân oan Dương Nội, ông Trịnh Bá Phương đại diện.
7.  Giáo xứ Phú Yên (Giáo phận Vinh), lm Đặng Hữu Nam đại diện.
8.  Người bảo vệ nhân quyền, ths Vũ Quốc Ngữ đại diện.
9.  Hội cựu Tù nhân lương tâm, bs Nguyễn Đan Quế và linh mục Phan Văn Lợi đại diện.
10.  Hội Dân oan 3 miền, bà Trần Thị Hài và ông Nguyễn Trường Chinh đại diện.
11.  Sài Gòn Báo, linh mục Lê Ngọc Thanh đại diện
12.  Tập hợp dân chủ đa nguyên, ông Nguyễn Vũ đại diện
13.  Khối 8406 Úc Châu, Tiến Sĩ Lê Kim Song đại diện

B.      Cá nhân:
ĐợtĐợt 1
1.  Nguyên Ngọc, nhà văn, Quảng Nam.
2.  Lê Xuân Khoa, cựu gs thỉnh giảng Đại học JHU Hoa Kỳ.
3.  Nguyễn Quang A, ts, Hà Nội.
4.  Võ Văn Tạo, nhà báo, Nha Trang.
5.  Nguyễn Sĩ Phương, ts, CHLB Đức.
6.  Nguyễn Đăng Hưng, gs danh dự Đại học Liège (Bỉ), TP HCM.
7.  Phạm Xuân Yêm, gs, Paris.
8.  Nguyễn Khắc Mai, nguyên vụ trưởng Vụ Nghiên cứu, Ban Dân vận trung ương, Hà Nội
9.  Nguyễn Huệ Chi, gs, Hà Nội.
10.  Nguyễn Thị Kim Chi, nsưt, đạo diễn, clb Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn.
11.  Trần Văn Thủy, nsnd, đạo diễn, Hà Nội.
12.  Tống Văn Công, cựu tbt báo Lao Động, TP HCM.
13.  Chu Hảo, ts, cựu thứ trưởng Bộ KHCN, Đà Nẵng.
14.  Tuấn Khanh, nhạc sĩ, Sài Gòn.
15.  Nguyễn Đan Quế, bs, chủ tịch Hội Cựu tù nhân lương tâm, Sài Gòn.
16.  Phan Văn Lợi, linh mục, chủ tịch Hội Cựu tù nhân lương tâm, Huế.
17.  Nguyễn Gia Kiểng, thường trực Tập hợp dân chủ đa nguyên, Paris.
18.  Huỳnh Sơn Phước, nhà báo, Quảng Nam
19.  Phạm Toàn, nhà giáo, Hà Nội.
20.  Bùi Minh Quốc, nhà thơ, nhà báo, Đà Lạt.
21.  Nguyễn Xuân Diện, ts Hán – Nôm, Hà Nội.
22.  Đặng Hữu Nam, linh mục Giáo xứ Phú Yên (Giáo phận Vinh), Quỳnh Lưu, Nghệ An.
23.  Lê Thân, cựu tù chính trị Côn Đảo, clb Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn.
24.  Kha Lương Ngãi, cựu phó tbt Báo SGGP, clb Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn.
25.  Võ Văn Thôn, cựu gđ Sở Tư Pháp TP HCM, cựu tù chính trị Côn Đảo, clb Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn.
26.  Ngô Kim Hoa (Sương Quỳnh), nhà báo, clb Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn.
27.  Lê Phú Khải, nhà báo, clb Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn.
28.  Tô Lê Sơn, kỹ sư, clb Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn.
29.  Lại Thị Ánh Hồng, nghệ sĩ, clb Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn.
30.  Nguyễn Đăng Quang, đại tá, cb Bộ C.A hưu trí, Hà Nội.
31.  Hà Sĩ Phu, ts, clb Phan Tây Hồ, Đà Lạt.
32.  Đoàn Nhật Hồng, cựu gđ Sở GDĐT Lâm Đồng, clb Phan Tây Hồ, Đà Lạt.
33.  Mai Thái Lĩnh, nhà nghiên cứu độc lập, clb Phan Tây Hồ, Đà Lạt.
34.  Huỳnh Nhật Hải, cựu pct UBND tp Đà Lạt, clb Phan Tây Hồ, Đà Lạt.
35.  Huỳnh Nhật Tấn, cựu pgđ Trường Đảng tỉnh Lâm Đồng, clb Phan Tây Hồ, Đà Lạt.
36.  Nguyễn Quang Nhàn, nhà báo, clb Phan Tây Hồ, Đà Lạt.
37.  Lê Công Định, ls, clb Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn.
38.  Phạm Đình Trọng, nhà văn, Sài Gòn.
39.  Hoàng Hưng, nhà thơ, Sài Gòn.
40.  Nguyễn Thế Hùng, gs, pct Hội Cơ học thủy – khí VN, Đà Nẵng
41.  Nguyễn Ngọc Giao, nhà giáo, Paris.
42.  Phạm Tư Thanh Thiện, nhà báo, Paris.
43.  Nguyễn Thu Giang, ls, cựu phó gđ Sở Tư pháp TP HCM, Sài Gòn.
44.  Trần Tiến Đức, đạo diễn, nhà báo độc lập, Hà Nội.
45.  Phạm Nguyên Trường (Phạm Duy Hiển), dịch giả, Vũng Tàu.
46.  Nguyễn Nguyên Bình, nhà văn, Hà Nội.
47.  Hoàng Dũng, pgs ts, TP HCM.
48.  Song Chi, nhà báo độc lập, Oslo, Na Uy.
49.  Doãn Mạnh Dũng, kỹ sư, Sài Gòn.
50.  Đặng Thị Hảo, TS, Hà Nội.
51.  Nguyễn Đình Nguyên, ts y khoa, Úc.
52.  Trần Ngọc Sơn, kỹ sư, Pháp.
53.  Nguyễn Thanh Hằng, dược sĩ, Pháp.
54.  Lã Việt Dũng, kỹ sư, clb NoU Hà Nội.
55.  Vũ Quốc Ngữ, ths, Hà Nội.
56.  Trần Đức Quế, chuyên viên, hưu trí, Hà Nội.
57.  Tiêu Dao Bảo Cự, nhà văn tự do, Đà Lạt.
58.  Bùi Hiền, nhà thơ, Canada.
59.  Phạm Gia Minh, ts, Hà Nội.
60.  Trần Minh Thảo, viết văn, clb Phan Tây Hồ, Đà Lạt.
61.  Nguyễn Phương Chi, biên tập viên chính, hưu trí, Hà Nội.
62.  Trần Bang, kỹ sư, Sài Gòn.
63.  Khổng Hy Thiêm, kỹ sư, Khánh Hòa.
64.  Nguyễn Thị Khánh Trâm, cb hưu trí, TP HCM.
65.  Phạm Văn Hải, biên kịch, đạo diễn (tự do), Vũng Tàu
66.  Lê Ngọc Thanh, linh mục DCCT, Sài Gòn
67.  Nguyễn Tuấn Hiệp, lao động tự do, tp Vinh, Nghệ An
68.  Hà Quang Vinh, hưu trí, ngụ tại Quận 11 , Tp HCM
69.  Ngô Minh Hiệp, nông dân, Cam Hải Đông, Cam Lâm, Khánh Hòa
70.  Đặng Đăng Phước, giáo viên, Đak Lak
71.  Pham Terry The, kci-medical, Canada.
72.  Bùi Văn Bồng, đại tá, nhà báo, nhà thơ, đang ở Thanh Hóa.
73.  Hồ Ngọc Nhuận, nhà báo, Dân biểu đối lập thời VNCH,  Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của thành phố Hồ Chí Minh, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
74.  Phan Đắc Lữ, nhà thơ, clb Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn

Đợt 2
75.  Tương Lai, nguyên viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam, nguyên thành viên Tổ Tư vấn Võ Văn Kiệt.
76.  Huỳnh Kim Báu, nguyên tổng thư ký Hội Trí thức yêu nước TP. HCM, thành viên, chủ tịch danh dự clb Lê Hiếu Đằng
77.  Phạm Hữu Danh, nghề nghiệp tự do, Sài gòn
78.  Bùi Nghệ, nghề nghiệp tự do, Tân Bình, Sài gòn
79.  Lê Tuấn, cử nhân, truyền thông viên, Quảng Nam
80.  Đỗ Đình Oai, thạc sĩ toán, giáo viên, Quảng Ngãi
81.  Hà Xuân Hải, nhà thơ, clb Văn nghệ sỹ Xứ Đoài Hà Nội sống ở TP Vũng Tàu
82.  Phạm Hồng Cẩn, kỹ sư, Hà Nội
83.  Phạm Văn Long, kỹ sư hàng hải,Thái Bình
84.  Nguyễn Đức Giang, Hoàn Kiếm, Hà nội
85.  Quan H. Nguyen, kỹ sư xây dựng, Fremont, California USA
86.  Hoàng Minh Đề, kỹ sư điện, Quảng Nam
87.  Nguyễn Văn Thạch, thiết kế thời trang, Huế
88.  Đặng Văn Tiến (fb Tien Dang), chuyên viên kỹ thuật điện ảnh, Sài Gòn
89.  Đào Tiến Thi, nhà nghiên cứu văn học và ngôn ngữ, nguyên ủy viên ban chấp hành Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội.
90.  Nguyễn Xuân Liên, 75 tuổi, Hưu trí, Đồng Hới, Quảng Bình
91.  Trần Song Hào, Nha Trang, Khánh Hoà
92.  Trần Thoại Nguyên, thi sĩ, Sài Gòn        
93.  Lê Đình Hoàng, hưu trí, Đà Nẵng
94.  Văn Hiền, lập trình viên, Bình Thuận
95.  Phan Tấn Hải, nhà văn, California, Hoa Kỳ
96.  Ngô Thị Kim Cúc, nhà văn- nhà báo, Sài Gòn
97.  Nguyễn Văn Trấn, Berlin, Germany 
98.  Phan Quốc Tuyên, kỹ sư tin học, Thụy Sĩ
99.  Ngụy Hữu tâm, dịch giả, ts, Hà Nội 
100.  Doãn Kiều Anh, kỹ sư, Sài Gòn
101.  Hà Dương Tường, nguyên giáo sư đại học, Compiègne, Pháp
102.  Kiều Việt Hùng, kiến trúc sư, Hoa Lư, Ninh Bình 
103.  Trần Công Khánh, kỹ sư điện đã về hưu, Lê Chân, Hải Phòng,
104.  Bùi Hồng Mạnh, biên dịch tự do, cử nhân hóa học, cựu sỹ quan "79" QĐNDVN, Munich, CHLB Đức
105.  Hòa Nguyễn, bác Sĩ, Sydney, Australia
106.  Quang Hà, phó giáo sư Đại học Công nghệ Sydney, Australia.
107.  Vũ Hồng Ánh, ns violoncelle, Sài Gòn
108.  Đinh Xuân Quân, ts kinh tế, chuyên gia phát triển quốc tế, Garden Grove, CA 92843, USA
109.  Nguyễn Văn Xuân, kỹ sư, Ba Đình, Hà Nội
110.  Trương Chí Tâm, cử nhân y khoa, Sài Gòn
111.  Nguyễn Lệ Uyên, nhà văn, Sài Gòn
112.  Tô Oanh, giáo viên đã nghỉ hưu, Bắc Giang
113.  Nguyễn Văn Hồng, gv đã nghỉ hưu, Từ Sơn, Bắc Ninh
114.  Nguyễn Văn Bảo, giáo viên đã nghỉ hưu, Bắc Ninh
115.  Đào Minh Châu, ts tư vấn hành chính công & chính sách công, Hà Nội
116.  Đinh Đức Long, ts-bs, Sài Gòn
117.  Mai Văn Rê, cử nhân, Sài Gòn
118.  Anhthenguyen, thường dân, California, USA 
119.  Nguyễn Tấn Lộc, Đại học Công nghệ hóa, nghề tự do, Khánh Hòa
120.  Nguyễn Đức Bình, kỹ sư, TP HCM
121.  Nguyễn Đình Cống, giáo sư, Hà Nội
122.  Vũ Ngọc Tiến, nhà văn, Hà Nội
123.  Đỗ Phong, kỹ Sư, Hoa Kỳ
124.  Chu Trí Thức, kỹ sư kinh tế xd, 55 tuổi Đảng CS, Viện khoa học Thủy lợi VN (nghỉ hưu)
125.  Nguyễn thị Phụng, dân oan quận 11, Sài Gòn
126.  Tăng Thị Nga, Hà Nội
127.  Triệu Sang, thương phế binh VNCH, Sóc Trăng
128.  Hoàng Thị Như Hoa, bộ đội đã xuất ngũ, Thanh Trì, Hà Nội
129.  Trần Văn Tân, sanh 1955, BSĐY, Phước Long b, quận 9, tp.HCM
130.  Lê Phước Sinh, dạy học, Sài Gòn
131.  Nguyễn Khánh Việt, cán bộ hưu trí, Ba Đình, Hà Nội
132.  Hồ minh Hiển, nghề nghiệp tự do, Cần Thơ
133.  Phạm Văn Minh, Đông Anh, Hà Nội
134.  Trần Văn Binh, ts, kiều bào CHLB Đức, chuyên viên tư vấn cao cấp năng lượng tái tạo và bảo vệ môi Trường, TP. HCM 
135.  Phay Van, blogger, Đồng Nai
136.  Hoàng Đức Doanh, cán bộ ngành văn hoá đã nghỉ hưu, Phủ Lý, Hà Nam
137.  Lê Phước Nhất Sang, kế toán, Sài Gòn
138.  Phạm Khiêm Ích, nghiên cứu khoa học tại Hà Nội
139.  Đoàn văn Tiêt, nhà giáo, Sài Gòn 
140.  Nguyễn Long Giang, kỹ sư đô thị, Vinh, Nghệ An
141.  Nguyễn Huy Dũng, thường dân, TP Vũng Tàu
142.  Đào Tấn Phần, lao công nhà bếp, Phú Hòa, Phú Yên
143.  Trần Đình Sử, gs, Hà Nội.
144.  Nguyễn Minh Tiến, Hải Phòng
145.  Ý Nhi, làm thơ, TP Hồ Chí Minh
146.  Lê Xuân Thiêm, ksxd, Sài Gòn
147.  Nguyễn Hữu Tuyến, kỹ sư hưu trí, Q10, Sài Gòn
148.  Lê Thu Hương, 41 tuổi, tiến sỹ nghiên cứu phát triển, tp Hồ Chí Minh
149.  Phạm Minh Đức, kỹ sư cơ khí, Hà Nội
150.  Nguyễn Thanh Ngọc, nhân viên văn phòng, quận 1, TPHCM
151.  Ngô Bá Tiết, dipl.phys, Viện KHVN, Đã nghỉ hưu, TP HCM
152.  Bửu Nam, pgs ts, Huế
153.  Chanh Nguyen, Electrical Engineer, Houston, TX, USA
154.  Nguyễn Đức Quỳ, cựu giáo chức, Hà Nội.
155.  Van Hien Nguyen, Commercial Sale Executive, Australia
156.  Nguyễn Hồng Cúc, nghiên cứu tự do, Sài Gòn
157.  Uông Đình Đức, kỹ sư cơ khí, Quận 1, tp HCM
158.  Nguyễn Phục Hưng, kỹ Sư, Sài Gòn
159.  Nguyễn Hồng Khoái, Chuyên viên Tư vấn Tài chính, Hà Nội
160.   Lưu Anh Tuấn, Lao động, Warsaw, Poland 
161.  Nguyễn Hàng, Giáo viên, Quận Tân Phú, Sàigòn
162.  Đào Công Hoà, cử nhân kinh tế, hiện đã nghỉ hưu, Ba Đình , Hà Nội
163.  Nguyễn Đăng Nghiệp, sinh năm 1954, nhà giáo, Bình Tân , tp HCM
164.  Lê Quang Huy, hành nghề tự do, sinh sống tại Sài Gòn,
165.  Nguyễn Thiện, tác giả Chương trình Dân ta biết sử ta, TPHCM,
166.  Nguyễn Tâm, kỹ sư điện cơ, Tp HCM
167.  Trần Khoản, hưu trí, trú tại Vũng Tàu
168.  Nguyễn Kế Quang, ks xây dựng, TP Quy Nhơn
169.  Nguyễn Xuân Thọ, kỹ sư, 50858 Cologne, CHLB Đức
170.  Nguyễn Hồng Kiên, ts sử học, Hà Nội
171.  Nguyễn Văn Trợ, Đại học Cần Thơ, TP HCM.
172.  Hoàng Kim, cử nhân, nông dân, Đồng Tháp.
173.  Hà Dương Tuấn, nguyên chuyên gia công nghệ thông tin, Antony, Pháp
174.  Lê Đình Anh, giáo chức, Melbourne, Australia
175.  Lê Thị Thu Hằng, kỹ sư điện toán, Melbourne, Australia
176.  Nguyễn Trần Hải, lao động về hưu, cựu sĩ quan hải quân nhân dân Việt Nam, Tp Hải Phòng.
177.  Văn Phú Mai, cựu giáo chức, Quảng Nam
178.  Dương Sanh, cựu giáo chức, Vạn Ninh,Khánh Hòa.
179.  Phạm Hồng Thắm, Nhà báo nghỉ hưu, Khu đô thị Đặng Xá, Hà Nội
180.  Phạm Vương Ánh, kỹ sư kinh tế, cựu Sỹ quan QĐNDVN , Vinh, Nghệ an 
181.  Bùi Công Dụng, nguyên phó văn phòng UBND tỉnh Quảng Nam, nhà văn, hiện sống tại Đà Nẵng.
182.  Thái Quang Sa, kĩ sư, đại tá, hưu trí , đang ở tại Hà Nội
183.  Lê Mạnh Tường, thành viên Tập hợp dân chủ đa nguyên, Paris, France.
184.  Nguyễn Văn Lịch, kỹ sư cơ khí, nghỉ hưu, Đống Đa, Hà Nội
185.  Nguyễn Hữu Việt Hưng, gs, tskh, ngnd, Hà Nội
186.  Hoàng Vũ Linh, sinh viên, giáo xứ Đông Yên, Kỳ Anh, Hà Tĩnh
187.  Nguyễn Minh Thiện, công chức về hưu, TP Tây Ninh
188.  Hồ Sỹ Hải, kỹ sư, cán bộ nghỉ hưu, Hà Nội
189.  Nguyễn Lương Thịnh, tư vấn đầu tư và quản trị doanh nghiệp, TP HCM
190.  Lê Đình Phương, bác sĩ, Sài gòn
191.  Đỗ Thịnh, 75 tuổi, tiến sĩ, hưu trí từ Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội
192.  Lưu Hồng Thắng, công nhân cơ khí, Morgan City, Louisiana, USA
193.  Lê Hoài Nguyên, nhà văn, Hà Nội
194.  Nguyễn Ngọc Xuân, sinh 1952, làm vườn, nhưng đã nghĩ hưu, Xuyên Mộc, Bà Rịa Vũng Tàu.
195.  Tống Hoàng Anh, hưu trí, Nha trang
196.  Thường Quán, Melbourne, Australia
197.  Hoàng Nhơn, kinh doanh, Sài Gòn.
198.  Trần Ngọc Tuấn, nhà văn, nhà báo, Praha, CH Czech
199.  Nguyễn Vũ, kinh doanh tự do, Sài Gòn
200.  Lý Đăng Thạnh, Người chép Sử, Sài Gòn
201.  Vũ Phong Phú. Kinh doanh. Trảng Bom, Đồng Nai
202.  Phạm Ngọc Luật, viết báo viết văn, Hà Nội


Danh sách tiếp tục cập nhật. Kính mời quý vị tiếp tục đứng tên ủng hộ Bản Yêu sách theo cách gửi email về hộp thư điện tử:  sualuatdatdai@gmail.com

Xin ghi rõ danh tính, nghề nghiệp, học hàm, học vị, danh vị xã hội (nếu có) và nơi cư trú.
Trân trọng cảm ơn!



3 nhận xét :

  1. Thứ nhất: đảng lãnh đạo tuyệt đối.
    Thứ hai: đất đai thuộc sở hữu toàn dân.
    Chỉ cần viết hai câu tốn chưa đến một đồng bạc mực là đảng có trong tay tất cả đất đai, vườn tược, khu phố, nhà máy. Tất cả những gì trên mặt đất, trong lòng đất đều thuộc sở hữu của đảng. Nông dân thì là nông nô. Người thành phố thì làm công cho đảng, ở nhà của mình nhưng trên đất của đảng. Đảng là một tên địa chủ đồng thời là một tên trùm tư bản lớn nhất trong lịch sử Việt Nam mà không kinh qua quá trình làm ăn cực khổ, lao tâm khổ trí từ đời này sang đời khác như những người giàu có khác!
    Vậy nên định nghĩa đảng là gì ở đây?

    Trả lờiXóa
  2. Nếu không có sức ép đủ mạnh thì chắc chắn đảng và nhà nước chẳng bao giờ từ bỏ cái lợi quyền béo bở đó.

    Trả lờiXóa