Luận về những loài chim
Anh Vũ
Trong hành trình của đời
sống và sáng tạo nghệ thuật, từ người bình thường cho tới người nghệ sĩ đôi khi
ước ao mình thành một tha nhân. Rồi lại có lúc chẳng muốn làm tha nhân mà muốn
làm một loài khác hẳn con người. Chẳng hạn Nguyễn Công Trứ từng ước kiếp sau
làm cây thông (bài Vịnh cây thông), Nguyễn Quang Thiều ước kiếp sau làm một con
chó nhỏ (bài Bài hát về cố hương). Và còn rất nhiều thi sĩ khác đã gửi lòng
mình theo những cánh chim, qua những loài chim mà bộc lộ bao tâm sự nỗi niềm,
hoặc giả cũng muốn hóa thân thành một đời sống tự do vút cao cùng mây trời
phiêu lãng. Bài viết này, vì thế, sẽ xin luận về những loài chim trong thi ca
nghệ thuật.
1. Văn học dân gian người
Việt có khá nhiều câu chuyện cổ tích về sự tích các loài chim. Trong bộ Kho
tàng truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi, ở phần thứ nhất mang tên Nguồn
gốc sự vật, có tới ít nhất 5 câu chuyện giải thích về nguồn gốc chim muông, đó
là các chuyện: Sự tích chim hít cô, Sự
tích chim tu hú, Sự tích chim cuốc, Sự tích chim năm trâu sáu cột và bắt cô
trói cột và Sự tích chim đa đa.
Việc giải thích về nguồn gốc các loài chim trên cũng đồng thời đưa hình ảnh mỗi
loài chim đó thành những hình tượng nghệ thuật mang tính biểu trưng, thể hiện
thái độ, tình cảm, quan niệm sống và ứng xử của người xưa. Nếu như ở chim hít
cô và chim đa đa, ta bắt gặp một cái nhìn thương cảm, xót xa cho những số phận
không may, vì đói khổ mà chết và rồi biến thành chim; thì ở những truyện còn lại,
có loài chim gắn với biểu tượng của sự trừng phạt như chim tu hú, có loài chim
lại như bằng chứng về sự thủy chung tình nghĩa với bạn hiền (chim cuốc) và có
những loài chim là kết quả của sự bất hòa khi cuộc tranh cãi đi vào bế tắc
(chim năm trâu sáu cột và bắt cô trói cột).
2. Đi vào thi ca, định
danh chim trước tiên có thể xuất hiện như một cách nói chung chung bởi không sở
chỉ rõ một loài cụ thể nào. Thế những ngay cả trong cách dùng chung chung này
ta vẫn thấy những tư duy ẩn dụ và liên tưởng khác hẳn nhau, tùy thuộc vào từng
hoàn cảnh. Chẳng hạn cũng là chim trong lồng nhưng trong lời cô gái ở bài ca
dao thì đó là một sự an bài, một nỗi ngậm ngùi buồn thương về một sự đã rồi,
không thể thay đổi: Bây giờ em đã có chồng/Như
chim vào lồng như cá mắc câu/Cá mắc câu biết đâu mã gỡ/Chim vào lồng biết thuở
nào ra. Nhưng cũng là chim trong lồng trong bài thơ của Nguyễn Hữu Cầu (thế
kỷ XVIII) thì lại là một khí thế hoàn toàn khác. Người anh hùng khi sa cơ vẫn
ngẩng cao đầu kiêu hãnh, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng: Mặc bay đông ngữ tây đàm/Chờ khi phong tiện dứt dàm vân lung/Bay thẳng
cánh muôn trùng Tiêu Hán/Phá vòng vây làm bạn kim ô/Giang sơn khách diệc tri hồ.
Thời trung đại, có những cánh chim xuất hiện trong sự mệt mỏi cô đơn, rợn
ngợp trong không gian rộng lớn và lòng người dường cũng nương theo nỗi buồn
mênh mang hoặc những âu lo dự cảm: Ngàn
mai gió cuốn chim bay mỏi (Chiều hôm nhớ nhà - Bà huyện Thanh Quan), Chử thanh sa bạch điểu phi hồi (Bến
trong cát trắng lượn chim cồn) (Đăng cao – Đỗ Phủ), Chim hôm thoi thót về rừng (Truyện Kiều – Nguyễn Du), Con chim bạt gió lạc loài kêu thương
(Chinh phụ ngâm – bản dịch Đoàn Thị Điểm). Những cánh chim cô đơn và rợn ngợp ấy
sẽ còn gặp lại nhiều trong thời kỳ 1932 - 1945 với nỗi buồn u uẩn của nhiều nghệ
sĩ lãng mạn: Chim nghe trời rộng giang
thêm cánh (Thơ duyên – Xuân Diệu), Chim
nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa (Tràng giang – Huy Cận), Đôi cánh chim bâng khuâng rã rời/Cùng mây
xám về ngang lưng trời (Đêm đông – Nguyễn Văn Thương) Dĩ nhiên, bên cạnh
cánh chim cô đơn, mỏi mệt và u buồn, chim cũng biểu hiện một tình yêu thiên
nhiên cuộc sống của người thi sĩ, chẳng hạn những câu trong Quốc âm thi tập của
Nguyễn Trãi: Trì tham nguyệt hiện chăng
buông cá/Rừng tiếc chim về ngại phát cây (Mạn thuật, bài 6), Núi láng giềng chim bầu bạn/Mây khách khứa
nguyệt anh tam (Thuật hứng, bài 19). Sau này, trong thời hiện đại, có nhiều
những cánh chim đi vào thi ca vởi những giá trị biểu cảm tích cực, thể hiện
tình yêu tự do, vẻ đẹp cuộc sống hoặc khát vọng cống hiến: Tôi như con chim đang bay trên đồi cao (Đi tìm lời ru nữ thần mặt
trời – Nhạc và lời: Y Phôn K’Sor), Ta làm
con chim hót/Ta làm một nhành hoa (Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải), Nếu là con chim chiêc lá/Thì con chim phải
hót chiếc lá phải xanh (Tố Hữu), Có
chú chim từ mờ sương hay hót véo von nghe véo von (Em nhớ Tây Nguyên – Nhạc
và lời: Trần Quang Huy). Có những câu thơ tài hoa, xuất sắc của một đời thơ gắn
với chim, điển hình nhất là trường hợp Khương Hữu Dụng trong trường ca Từ đêm mười chín: Một tiếng chim kêu sáng cả rừng.
3. Giờ đi vào trường hợp
những loài chim với tên gọi cụ thể xuất hiện trong thi ca. Theo các tài liệu
sinh học, trên toàn thế giới có tới hơn 10.000 loài chim còn ở Việt Nam cũng có
tới 848 loài chim thuộc 88 họ. Lẽ dĩ nhiên khi đi vào thơ ca, chỉ có một số loại
chim được lựa chọn. Sự lựa chọn ấy gắn với tư duy thẩm mỹ, thi pháp của từng thời
kỳ cũng như những đặc điểm về văn hóa truyền thống quy định và tạo nên. Theo khảo
sát của chúng tôi, những loài chim được đưa vào thi ca của người Việt nhiều nhất
là cò, họa mi, sơn ca, én (nhạn), sáo và bồ câu.
Cánh cò có thể nói đã có
mặt từ sớm trong những bài ca dao lâu đời, như một hình ảnh thân thuộc trên những
cánh đồng của nông thôn Bắc Bộ: Con cò
bay lả bay la/Bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng.Cánh cò thường được liên tưởng,
ví von với thân phận người phụ nữ mảnh mai vất vả, một nắng hai sương: Con cò lặn lội bờ sông/Gánh gạo đưa chồng tiếng
khóc nỉ non. Không chỉ là người phụ nữ, cánh cò còn gợi nên liên tưởng
chung về những thân phận bé mọn, vất vả, nhiều khi không thể tự quyết định số
phận của mình mà phải phó thuộc vào bàn tay kẻ khác. Bài ca dao nổi tiếng Con cò mà đi ăn đêm là một minh chứng
điển hình: Con cò mà đi ăn đêm/Đậu phải
cành mềm lộn cổ xuống ao/Ông ơi ông vớt tôi nao/Tôi có lòng nào ông hãy xáo
măng/Có xáo thì xáo nước trong/Đừng xáo nước đục đau lòng cò con. Sang thời
trung đại, con cò trong thơ Tú Xương vẫn được so sánh với hình ảnh vất vả sớm
khuya của bà Tú, người “nuôi đủ năm con với một chồng”: Lặn lội thân cò khi quãng vắng/Eo sèo mặt nước buổi đò đông (Thương
vợ). Nhưng đến thời kỳ hiện đại, cụ thể là từ nửa đầu thể kỷ XX, bắt đầu có những
chuyển biến về tư duy – cảm quan thẩm mỹ trong việc đưa cánh cò vào thi ca. Câu
thơ của Xuân Diệu trong bài Thơ duyên
được Hoài Thanh ca ngợi: Từ cánh cò của
Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều tới cánh cò của Xuân Diệu không bay mà
cánh phân vân có sự cách biệt của hơn một ngàn năm và của hai thế giới: Mây biếc về đâu bay gấp gấp/Con cò trên ruộng
cánh phân vân. Cho đến bài thơ Con
cò nổi tiếng của Chế Lan Viên, hình tượng này đã có bước phát triển qua nhiều
cung bậc ngữ nghĩa để từ cánh cò trong giấc mơ tuổi thơ đi đến cánh cò ước mơ
hoài bão và rồi cuối cùng là cánh cò của tình mẫu tử : Lên rừng xuống bể/Cò sẽ tìm con/Cò mãi yêu con/Con dù lớn vẫn là con của
mẹ/Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con.
Họa mi và sơn ca đều là
những loài chim có tiếng hót hay, dễ làm lòng người say đắm và xúc động. Họa mi
xuất hiện sớm nhất trong thi ca thành văn
của người Việt có lẽ là từ Tản Đà với bài Chim họa mi trong lồng. Ở đây, họa mi đã bị thi sĩ gán cho ý nghĩa
phản bội, lãng quên cội nguồn, ngụ ý đả kích phê phán những kẻ bán nước: Họa mi ai vẽ nên mi/Trông mi mi đẹp hót thì
mi hay/Ai đưa mi đến chốn này/Nước trong gạo trắng mi ngày ăn chơi/Lồng son cửa
đỏ thành thơi/Mi bay mi nhảy sướng đời nhà mi/Nghĩ cho mi cũng gặp thì/Rừng
xanh mi có nhớ gì nữa không? Nhưng cho đến Họa mi hót trong mưa (nhạc và lời Dương Thụ) thì cảm quan khác hẳn,
chỉ còn là sự buồn thương, gieo giắc vào lòng người những thanh âm của nỗi niềm
nhớ nhung trông ngóng: Tiếng mưa rơi
ngoài hiên gió mưa như lạnh thêm/Có con chim họa mi hót trong mưa buồn lắm(...)
Ôi trong mưa họa mi vẫn hót thật dịu dàng dịu dàng/Trên môi em tình yêu đã mất
còn nồng nàn nồng nàn...Khác với họa mi, sơn ca xuất hiện trong nhiều ca
khúc viết cho thiếu nhi và luôn gợi âm hưởng vui tươi trong sáng rộn rã. Có tới
ít nhất ba ca khúc nổi tiếng với sự xuất hiện của chim sơn ca, đó là các bài Như bầy sơn ca (Y Vân), Khúc hát chim sơn ca (Đỗ Hòa An) và Ước mơ hồng (Phạm Trọng Cầu): Như chim sơn ca hót trên cao xanh bao la, tiếng
chim ngân nga tiếng chim bay xa tiếng chim vui vào mọi nhà (Ước mơ hồng).
Còn với chim én, loài chim hiền lành này được coi là báo hiệu của mùa xuân,
luôn thể hiện tình đoàn kết và đi vào vô số các tác phẩm âm nhạc nổi tiếng
trong thế kỷ XX. Bắt đầu từ Mùa chim én
bay (thơ Diệp Minh Tuyền, nhạc Hoàng Hiệp), Tạm biệt chim én của Trần Tiến cho đến Cánh én tuổi thơ của Phạm Tuyên, các ca khúc đã làm say đắm bao thế
hệ người nghe. Một loài chim khác của mùa xuân là chiền chiện cũng đi vào thi
ca và những lời thơ tiếp tục được âm nhạc chắp cánh: Ôi con chim chiền chiện/Hót chi mà vang trời/Từng giọt long lanh
rơi/Tôi đưa tay hứng về (Mùa xuân nhỏ nhỏ - Thơ: Thanh Hải, Nhạc: Trần Hoàn),
Bay cao bay vút/Chim biến mất rồi/Chỉ còn
tiếng hót/Làm xanh da trời (Con chim chiền chiện – Huy Cận).
Một số loài chim đặc biệt
khác dù chỉ xuất hiện một lần trong thi ca nhưng đã nhanh chóng tạo được những
ám ảnh nghệ thuật, khắc sâu vào trí nhớ người đọc: Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản (Thôi Hiệu), Anh là chim bói cá/Em là ánh trăng ngà/Cách nhau một mặt hồ/Mà muôn
trùng chia xa (Du Tử Lê).
Xin được khép lại bài viết
bằng những cánh chim yêu thương trong ca khúc Cho con của cố nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu. Cánh chim xuất hiện ngay từ
câu đầu của bài hát trong tình cảm của người cha và cánh chim ấy cũng kết thúc
ca khúc khi gắn với hình ảnh người con khôn lớn trưởng thành vẫn mãi hướng về
quê hương và cha mẹ: Ba sẽ là cánh chim
cho con bay thật xa (...) Rồi mai đây khôn lớn bay đi khắp mọi miền, con đừng
quên con nhé ba mẹ là quê hương...
Cảm ơn Anh Vũ đã cho những cảm xúc đẹp, làm tôi nhớ tiếng hót vang vang nhẹ nhàng của những của những con chim chiền chiện trên ruộng đồng vùng núi trung du Nghệ-Tĩnh. Phải chi thiên nhiên, trời đất ghi âm lại được tiếng hót của loài chim đã bị tuyệt chủng này thi tôi sẽ sung sướng biết bao.
Trả lờiXóa