Nhân triển lãm CCRĐ đang diễn ra tại Hà Nội:
Về người bị "bắn thí điểm" trong CCRĐ
Lê Thọ Bình
Cho đến nay, Cải cách ruộng đất (CCRĐ) 1953-1956 vẫn là một trong những
giai đoạn bi thương nhất trong lịch sử phát triển của đất nước. Kết quả
là hàng trăm ngàn người bị bắt, giết, gia đình ly tán.
Người đầu tiên được “lựa chọn” để “xử bắn thí điểm” là bà Nguyễn Thị Năm. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, câu chuyện về bà Năm, từ khi bà bị bắn năm 1953 cho đến nay, vẫn là đề tài gây nhiều tranh cãi và còn không ít những uẩn khúc cần tiếp tục được giải mã.
CCRĐ - bi kịch của lịch sử dân tộc
Để chúng ta có thể hình dung lại, mức độ, quy mô và hậu quả của một trong những giai đoạn bi thương nhất của lịch sử dân tộc, chúng ta cùng nhau trở về thời kỳ 1953-1956.
Người đầu tiên được “lựa chọn” để “xử bắn thí điểm” là bà Nguyễn Thị Năm. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, câu chuyện về bà Năm, từ khi bà bị bắn năm 1953 cho đến nay, vẫn là đề tài gây nhiều tranh cãi và còn không ít những uẩn khúc cần tiếp tục được giải mã.
CCRĐ - bi kịch của lịch sử dân tộc
Để chúng ta có thể hình dung lại, mức độ, quy mô và hậu quả của một trong những giai đoạn bi thương nhất của lịch sử dân tộc, chúng ta cùng nhau trở về thời kỳ 1953-1956.
Tháng 11 năm 1953 Quốc hội VNDCCH nhóm họp và thông qua Dự luật CCRĐ
197/HL. Chủ tịch Hồ Chí Minh phê thuận và chính thức ban hành bộ luật
này vào ngày 19-12-1953 để kỷ niệm ngày Toàn quốc Kháng chiến, mang tên
"Luật Cải cách Ruộng đất". Đồng thời điểm này, Ủy ban Chấp hành Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam và Đại hội Toàn quốc Đảng Lao động Việt Nam
cũng họp và tổ chức chuẩn bị thi hành CCRĐ sâu rộng trên toàn lãnh thổ.
Ủy ban lãnh đạo chương trình CCRĐ và hoạch định tiến trình CCRĐ được
thành lập.
Hồ Chí Minh, Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước phát động và làm tư tưởng chiến dịch.
Trưởng ban chỉ đạo trực tiếp là ông Trường Chinh lúc bấy giờ là Tổng
bí thư Đảng. Trưởng ban chỉ đạo thí điểm khu vực Thái Nguyên là Hoàng
Quốc Việt, Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương đảng; Trưởng
ban chỉ đạo thí điểm vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh là Lê Văn Lương,
Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị và Giám đốc trực tiếp điều hành chiến
dịch là ông Hồ Viết Thắng, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương
đảng.
Chương trình CCRĐ được áp dụng qua bốn bước chính như sau:
1. Huấn luyện cán bộ
Các cán bộ tham gia CCRĐ được đưa đi học khóa Chỉnh huấn 1953 và một số được đưa đi huấn luyện tại Trung Quốc. Các chương trình học tập nhằm giúp cán bộ nắm vững đường lối của Đảng trong CCRĐ, quán triệt quan điểm: "Trí, phú, địa, hào đào tận gốc trốc tận rễ". Tổng số cán bộ được điều động vào công tác là gần 50.000 người.
2. Chiến dịch Giảm tô
Bước đầu, các đội cán bộ CCRĐ đi vào các làng xã và áp dụng chính sách "3 Cùng" (cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm) với các bần cố nông trong làng xã đó, kết nạp họ thành “rễ”, thành “cành” của Đội, sau đó triển khai chiến dịch từng bước như sau:
1. Huấn luyện cán bộ
Các cán bộ tham gia CCRĐ được đưa đi học khóa Chỉnh huấn 1953 và một số được đưa đi huấn luyện tại Trung Quốc. Các chương trình học tập nhằm giúp cán bộ nắm vững đường lối của Đảng trong CCRĐ, quán triệt quan điểm: "Trí, phú, địa, hào đào tận gốc trốc tận rễ". Tổng số cán bộ được điều động vào công tác là gần 50.000 người.
2. Chiến dịch Giảm tô
Bước đầu, các đội cán bộ CCRĐ đi vào các làng xã và áp dụng chính sách "3 Cùng" (cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm) với các bần cố nông trong làng xã đó, kết nạp họ thành “rễ”, thành “cành” của Đội, sau đó triển khai chiến dịch từng bước như sau:
- Phân định thành phần: Đội CCRĐ ra mắt làng xã, và tất cả các gia
đình trong xã được họ phân loại thành 5 thành phần: (a) địa chủ; (b) phú
nông; (c) trung nông cứng (sở hữu 1 con bò, 1 con heo, 1 đàn gà); (d)
trung nông vừa (sở hữu 1 con heo, 1 đàn gà); (e) trung nông yếu (sở hữu 1
đàn gà hay không có gì cả); (f) bần nông; (g) cố nông. Gia đình có 2
con heo đã có thể gọi là phú nông. Tỷ lệ địa chủ được quy định trước là
5,68% dân số nông thôn và các đoàn và đội cải cách đều cố truy bức để
đôn tỷ lệ địa chủ lên 5% như một quy định bắt buộc, gọi là “kích thành
phần”.
- Phân loại địa chủ: Tất cả các gia đình bị xếp vào thành phần địa
chủ như nói trên được đội cải cách phân loại thêm một lần nữa thành (a1)
Địa chủ gian ác; (a2) Địa chủ thường; (a3) Địa chủ có ủng hộ kháng
chiến. Thành phần địa chủ gian ác bị đội cải cách bắt ngay lập tức và
quản thúc.
- Áp dụng thoái tô: Đối với các gia đình có địa chủ bị bắt nói trên,
Đội cải cách thông báo với họ về các sắc lệnh giảm tô của Chính phủ, bao
gồm: Sắc lệnh giảm tô xuống còn 25% vào tháng 11-1945, Sắc lệnh số
87/SL năm 1952 và 149/SL năm 1953 giảm tô thêm 25%.
(Cần nói thêm rằng, tại miền Bắc, tô hay địa tô là tiền thuê ruộng mà
tá điền phải trả cho địa chủ sau mùa gặt, có thể trả bằng thóc. Căn cứ
theo đó, địa chủ nào chưa giảm tô cho nông dân thì bây giờ phải trả số
nợ đó - gọi là “thoái tô”. Nếu không trả đủ nợ thì tài sản bị tịch thu,
phân phát do nông dân).
(Sau bước này, hầu hết gia đình địa chủ lâm vào hoàn cảnh khánh kiệt, nhiều người đến chỗ tự sát).
- Học tập tố khổ, lùng bắt địa chủ: Các bần nông, cố nông, “gốc”,
"rễ" được Đội cải cách cho đi học lớp tố khổ do Đội mở, qua đó học viên
được nhận dạng các tội ác của địa chủ và được khuyến khích nhớ ra tội ác
của từng địa chủ đã bóc lột họ như thế nào.
- Công khai đấu tố: Ban đầu các buổi đấu tố được tổ chức, thông
thường vào ban đêm (do để tránh máy bay địch oanh tạc. Sau đó được tiến
hành vào ban ngày). Số lượng người tham gia đấu tố được huy động từ vài
trăm đến cả ngàn người. Thời gian đấu tố từ một đến ba đêm tùy theo mức
độ tội trạng của địa chủ. Trong đêm đấu tố, các bần nông bước ra kể tội
địa chủ đã bóc lột họ như thế nào. Tại các tỉnh có tổ chức cải cách
ruộng đất đều cho ra tờ báo lấy tên là Lá Rừng (ngụ ý tội ác địa chủ
nhiều như lá rừng) tường thuật chi tiết các vụ đấu tố. Sau khi bị đấu tố
các địa chủ được tạm giam trở lại để chờ tòa án nhân dân xét xử. Gia
đình và thân nhân người bị đấu tố bị cô lập và chịu nhiều sự phân biệt
đối xử thậm chí là nhục hình.
- Xử án địa chủ: Tại các huyện, một tòa án nhân dân đặc biệt được lập
ra và đi về các xã xét xử các địa chủ. Sau khi kết án, địa chủ bị xử
bắn trước công chúng do đội tự vệ xã hành quyết. Những người không được
xử bắn thì bị cô lập trong các làng xã.
Tổng cộng có tám đợt giảm tô từ 1953 đến 1956 tiến hành tại 1.875 xã.
3. Chiến dịch CCRĐ
Nhiều tháng sau khi Chiến dịch Giảm tô được triển khai, chương trình CCRĐ chính thức bắt đầu, với hình thức tương tự nhưng trên địa bàn rộng lớn hơn. Tổng cộng có 6 đợt CCRĐ từ 1953 đến 1956, được tiến hành tại 3.314 xã.
3. Chiến dịch CCRĐ
Nhiều tháng sau khi Chiến dịch Giảm tô được triển khai, chương trình CCRĐ chính thức bắt đầu, với hình thức tương tự nhưng trên địa bàn rộng lớn hơn. Tổng cộng có 6 đợt CCRĐ từ 1953 đến 1956, được tiến hành tại 3.314 xã.
Từ cuối năm 1954, dưới sức ép của cố vấn Trung Hoa, chiến dịch cải
cách ruộng đất bắt đầu được đẩy mạnh và nhanh, với cường độ lớn. Từ giữa
năm 1955 ở một số nơi đã xuất hiện hiện tượng đấu tố tràn lan, mất kiểm
soát. Từ đó đến cuối năm 1955, cảnh đấu tố địa chủ xảy ra tràn lan,
nhiều lúc chỉ đơn thuần bằng một lời tố giác đơn giản, những thành viên
trong tòa án nhân dân cũng có thể xử tử hình hay tù khổ sai đối với
người bị tố giác. Đã xuất hiện tình trạng lạm dụng quyền hành của các
cán bộ đội viên đội công tác ruộng đất trong công tác đất đai. Số người
chết trong đợt này là rất lớn, trong đó số người chết oan chiếm tỷ lệ
cao. Quyết liệt nhất là ở Thái Bình, nơi có đến 294 xã được đưa vào cải
cách.
4. Chiến dịch Sửa sai
Do nhận định chiến dịch CCRĐ giết lầm nhiều người vô tội và gây ra chống đối mạnh trong dân chúng, Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ tiến hành các bước sửa sai.
4. Chiến dịch Sửa sai
Do nhận định chiến dịch CCRĐ giết lầm nhiều người vô tội và gây ra chống đối mạnh trong dân chúng, Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ tiến hành các bước sửa sai.
Tháng 2 năm 1956, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 9 tuyên bố các sai
lầm trong CCRĐ. Tháng 3 năm 1956, Quốc hội họp lần thứ 4 tường trình
bản báo cáo các sai lầm và biện pháp sửa sai. Ngày 18- 8-1956, Chủ tịch
Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào và cán bộ nhìn nhận sai lầm và cho biết
Trung ương Đảng và Chính phủ đã nghiêm khắc kiểm điểm các sai lầm. Ngày
24-8-1956, báo Nhân Dân công bố có một số đảng viên trung kiên đã bị
hành quyết sai lầm trong chiến dịch CCRĐ. Tháng 9 năm 1956, Hội nghị lần
thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (họp từ 25-8 đến 24-9-1956) nhận
định các nguyên nhân đưa đến sai lầm và thi hành kỷ luật đối Ban lãnh
đạo chương trình CCRĐ. Kết quả là ông Trường Chinh từ chức Tổng Bí thư
Đảng, hai ông Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương ra khỏi Bộ Chính trị và
ông Hồ Viết Thắng ra khỏi Chấp hành Trung ương.
Ngày 29-10-1956, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người không tham gia trực
tiếp vào chương trình CCRĐ, thay mặt Chủ tịch nước đọc bản báo cáo của
Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại nhà hát lớn Hà
Nội, kê khai sai lầm và phát động chiến dịch sửa sai, phục hồi các chức
vụ tài sản cho cán bộ, bộ đội bị đấu tố.
Cũng cần phải nói thêm là chiến dịch sửa sai cũng gây thêm chết chóc
khi những người được phục hồi trả thù những người đã đấu tố họ oan ức,
hoặc chưa kịp trả thù thì bị thủ tiêu trước để tránh việc trả thù.
Phong trào trả thù bằng bạo động lan rộng khiến nhà chức trách phải
dùng quân đội trấn áp. Ở Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, có bản báo cáo ghi
nhận 20.000 nông dân mang gậy gộc chống lại quân đội khi chính quyền
dùng vũ lực để tái lập trật tự.
Tuy nhiên, theo nhiều nhân chứng mà tôi có dịp trao đổi thì việc sửa
sai chỉ đơn thuần là phục hồi đảng tịch, quy lại thành phần (từ địa chủ,
phú nông trở lại thành trung nông) chứ ít khi họ được trả lại tài sản,
nhà đất.
Thậm chí mãi đến năm 2004 (theo báo Hà Nội Mới) thì Ủy ban Nhân dân
thành phố Hà Nội mới ra quyết định trợ cấp cho một số trường hợp bị qui
sai thành phần và có tài sản bị trưng thu, trưng mua trong thời kì CCRĐ
với mức ba triệu đồng một trường hợp.
Nguyễn Thị Năm là ai?
Nguyễn Thị Năm là ai?
Khi cuộc CCRĐ được tiến hành và trớ trêu thay, người đầu tiên được
“lựa chọn” để bắn “thí điểm” là bà Nguyễn Thị Năm. Sau những cuộc đấu tố
với đủ các thứ tội ác được gán ghép, người phụ nữ mới 47 tuổi (sinh năm
1906) này đã bị đem ra xử bắn (năm 1953) và được báo chí đương thời coi
là phát súng hiệu cho một cuộc vận động “long trời lở đất”.
Vậy bà Nguyễn Thị Năm là ai?
Theo nhà sử học Dương Trung Quốc thì “Bà Nguyễn Thị Năm, hay còn gọi là Cát Hanh Long (tên hiệu trong buôn bán giao dịch của bà Năm, được ghép từ tên của hai người con trai của bà là Nguyễn Hanh và Nguyễn Cát-NV) sinh năm 1906 vốn là một phụ nữ giỏi làm ăn trên đất cảng Hải Phòng, từ nhiều nghề khác nhau trong đó có buôn bán sắt vụn, bà đã sớm thành đạt trên thương trường, xây nhà tậu ruộng như thói tục của người xưa vừa làm ăn nơi thành thị vừa bám sát với thôn quê, nhất là vào thời chiến tranh loạn lạc.
Vậy bà Nguyễn Thị Năm là ai?
Theo nhà sử học Dương Trung Quốc thì “Bà Nguyễn Thị Năm, hay còn gọi là Cát Hanh Long (tên hiệu trong buôn bán giao dịch của bà Năm, được ghép từ tên của hai người con trai của bà là Nguyễn Hanh và Nguyễn Cát-NV) sinh năm 1906 vốn là một phụ nữ giỏi làm ăn trên đất cảng Hải Phòng, từ nhiều nghề khác nhau trong đó có buôn bán sắt vụn, bà đã sớm thành đạt trên thương trường, xây nhà tậu ruộng như thói tục của người xưa vừa làm ăn nơi thành thị vừa bám sát với thôn quê, nhất là vào thời chiến tranh loạn lạc.
Người sớm giác ngộ nhà buôn trẻ tuổi Nguyễn Thị Năm chính là nhà văn
Nguyễn Đình Thi tham gia Mặt trận Việt Minh ở Hải Phòng rồi sau đó bà
gặp, công tác phục vụ, giúp đỡ nhiều cán bộ cách mạng. Sau này bà là
người đã che giấu và nuôi dưỡng nhiều cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng
như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Lê Thanh
Nghị, Lê Giản, Hoàng Hữu Nhân (Bí thư Thành uỷ Hải Phòng), Hoàng Tùng,
Vũ Quốc Uy, Hoàng Thế Thiện...
Khó kể hết những đóng góp của nhà tư sản ấy cho cách mạng. Từng ủng
hộ Việt Minh trước Cách mạng Tháng Tám 20.000 đồng bạc Đông Dương (tương
đương bảy trăm lạng vàng) rồi sau này là thóc gạo, vải vóc, nhà cửa. Bà
là một trong những người đóng góp tiêu biểu nhất của “Tuần lễ Vàng” ở
Hải Phòng với hơn một trăm lạng vàng.
Một sự kiện vô tiền khoáng hậu khi ấy đối với một phụ nữ chân yếu tay
mềm là bà đã ngồi trên chiếc xe ô tô riêng của gia đình mình, treo cờ
đỏ sao vàng, phóng từ Hải Phòng lên thẳng Chiến khu qua thành phố Thái
Nguyên, nơi quân Nhật còn chiếm đóng đến Đồng Bẩm, Đình Cả, Võ Nhai để
báo cho con trai và các đồng chí của mình tin Hà Nội đã giành được chính
quyền. Sau thời điểm kháng chiến toàn quốc, bà chính là người đã trao
chiếc búa cho đội tự vệ làm cái việc san bằng địa khu biệt thự Đồng Bẩm
thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến”.
Cũng vẫn theo nhà sử học Dương Trung Quốc “Hai con trai bà, ông
Nguyễn Công và ông Nguyễn Hanh đều theo Việt Minh từ trước 1945. Khi
CCRĐ được phát động, ông Nguyễn Hanh là Đại đội phó bộ đội thông tin.
Ông Hanh từng bị thương khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ ngay ở Cầu
Giấy - cửa ngõ Thủ đô. Còn ông Công từng tháp tùng đoàn đại biểu chính
phủ do các ông Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu... vào Huế tước ấn kiếm
vua Bảo Đại rồi sau này trở thành một Trung đoàn trưởng nổi tiếng của Sư
đoàn 351”.
Trong suốt thời gian kháng chiến chống Pháp, bà Năm tham gia các cấp
lãnh đạo của Hội Phụ nữ của tỉnh Thái Nguyên và Liên khu Việt Bắc...
Nhiều cán bộ cách mạng, nhiều đơn vị bộ đội thường tá túc trong đồn điền
của bà cho đến khi bà bị đưa ra đấu tố và bị bắn “thí điểm”.
Vì sao lại là bà Năm?
Trong Hồi ký của mình ông Đoàn Duy Thành, từng là Bí thư Thành ủy Hải Phòng, sau này là Bộ trưởng Bộ Ngoại thương và tiếp theo là Phó Chủ tịch HĐBT có kể: "Sau này khi sửa sai CCRĐ xong, tôi được nghe nhiều cán bộ cao cấp nói lại: “Khi chuẩn bị bắn Nguyễn Thị Năm, Bác Hồ đã can thiệp và nói đại ý: ‘Chẳng lẽ CCRĐ không tìm được một tên địa chủ, cường hào gian ác là nam giới mà mở đầu đã phải bắn một phụ nữ địa chủ hay sao?”. Nhưng cán bộ thừa hành báo cáo là đã hỏi cố vấn Trung Quốc và được trả lời là: “Hổ đực hay hổ cái, đều ăn thịt người cả!”. Thế là đem hành hình Nguyễn Thị Năm!"
Vì sao lại là bà Năm?
Trong Hồi ký của mình ông Đoàn Duy Thành, từng là Bí thư Thành ủy Hải Phòng, sau này là Bộ trưởng Bộ Ngoại thương và tiếp theo là Phó Chủ tịch HĐBT có kể: "Sau này khi sửa sai CCRĐ xong, tôi được nghe nhiều cán bộ cao cấp nói lại: “Khi chuẩn bị bắn Nguyễn Thị Năm, Bác Hồ đã can thiệp và nói đại ý: ‘Chẳng lẽ CCRĐ không tìm được một tên địa chủ, cường hào gian ác là nam giới mà mở đầu đã phải bắn một phụ nữ địa chủ hay sao?”. Nhưng cán bộ thừa hành báo cáo là đã hỏi cố vấn Trung Quốc và được trả lời là: “Hổ đực hay hổ cái, đều ăn thịt người cả!”. Thế là đem hành hình Nguyễn Thị Năm!"
Thủa sinh thời, trong một lần trò chuyện với ông Hoàng Tùng, Trưởng
Ban tuyên giáo Trung ương, người từng nhiều năm “điếu đóm” cho Cụ Hồ
(ông tự nhận thế) có kể lại rằng (1): "Chọn địa chủ Nguyễn Thị Năm để
làm trước là do có người mách cho cố vấn Trung Quốc. Họp Bộ Chính trị
Bác nói: “Tôi đồng ý người có tội thì phải xử thôi, nhưng tôi cho là
không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào một người đàn bà, mà
người ấy lại cũng giúp đỡ cho cách mạng, người Pháp nói không nên đánh
vào đàn bà, dù chỉ là đánh bằng một cành hoa”. Sau cố vấn Trung Quốc là
Lê Quý Ba đề nghị mãi, Bác nói: “Tôi theo đa số, chứ tôi vẫn cứ cho là
không phải”. Và họ cứ thế làm".
Khi còn sống Giáo sư Trần Quốc Vượng có lần kể lại với tôi rằng theo
lập luận của đội CCRĐ thì “Việc con mụ Năm đã làm chỉ là giả dối nhằm
chui sâu, leo cao vào hàng ngũ cách mạng để phá hoại. Bản chất của giai
cấp địa chủ là rất ngoan cố xảo quyệt và tàn bạo, chúng không từ thủ
đoạn nào để chống phá cách mạng. Nông dân phải luôn luôn sáng suốt dù
chúng giở thủ đoạn nào”.
Ông Bùi Tín còn kể: “Ông Hoàng Quốc có lần Việt kể lại rằng hồi ấy
ông chạy về Hà Nội, báo cáo việc hệ trọng này với cụ Hồ Chí Minh. Cụ
chăm chú nghe rồi phát biểu: Không ổn! Không thể mở đầu chiến dịch bằng
cách nổ súng vào một phụ nữ, và lại là một người từng nuôi cán bộ cộng
sản và mẹ một chính uỷ trung đoàn Quân đội Nhân dân đang tại chức. Ông
hẹn sẽ can thiệp, sẽ nói với Trường Chinh về chuyện hệ trọng và cấp bách
này. Thế nhưng không có gì biến chuyển cả”.
Còn tác giả của “Màu tím hoa sim” Hữu Loan thì nói với tôi rằng, việc
lựa chọn bà Năm có các nguyên do sau: Thứ nhất, phương châm chính trong
CCRĐ là “thà giết lầm 10 người vô tội, còn hơn để thoát một kẻ thù”.
CCRĐ là một cuộc đấu tranh giai cấp giữa bần cố nông và địa chủ (nông
dân có ruộng). Do đó địa chủ không thể được lọt lưới, được bỏ sót. Bà
Năm lại có đến 2,789 mẫu đất, là một đại địa chủ. Thứ nhì, phát súng đầu
tiên bắn vào một phụ nữ để xác định CCRĐ là một cuộc đấu tranh giai cấp
và trong đấu tranh giai cấp không phân biệt địa chủ phong kiến là phụ
nữ hay đàn ông. Thứ ba, ảnh hưởng kinh tế và chính trị của bà, và của
các địa chủ khác, cần phải được thủ tiêu để mở đường xây dựng chế độ
mới.
Vấn đề được đặt ra ở đây là, người đứng đầu Đảng LĐVN lúc đó có thực
sự “bất lực” trước sức ép của cố vấn Trung Quốc mà buộc phải đồng ý cho
xử bắn bà Nguyễn Thị Năm không?
Điểm qua như thế để chúng ta thấy được rằng vụ án Nguyễn Thị Năm nói
riêng và CCRĐ nói chung còn rất nhiều uẩn khúc. Những uẩn khúc này không
phải chỉ liên quan đến các nạn nhân hay gia đình nạn nhân CCRĐ. Nó còn
in đậm nét trong tâm trí của những người đã một thời tin vào chủ nghĩa
cộng sản, vào lý tưởng cộng sản, trong đó có những người từng trực tiếp
tham gia CCRĐ. Những uẩn khúc này cần phải tiếp tục được làm sáng tỏ.
Bà Năm bị đấu tố và xử bắn như thế nào?
Tôi đã nhiều lần có dịp lên Đồng Bẩm (Thái Nguyên) để tìm hiểu và nghe lại những vị cao niên ở đây kể về vụ án bà Nguyễn Thị Năm, nhưng tiếc rằng, kết quả thu được không nhiều. Năm 2007, tình cờ tôi có đọc được bài viết trên “Người Làng Trà” Nhà báo Nguyễn Thông đã đưa một số chi tiết có liên quan đến bà Nguyễn Thị Năm. Tôi có tìm đến cụ Vãn mà anh Thông nói tới, người được cho là người ở trong nhà bà Năm. Tuy nhiên cụ Vãn đã khước từ kể nhớ lại chuyện cũ.
Bà Năm bị đấu tố và xử bắn như thế nào?
Tôi đã nhiều lần có dịp lên Đồng Bẩm (Thái Nguyên) để tìm hiểu và nghe lại những vị cao niên ở đây kể về vụ án bà Nguyễn Thị Năm, nhưng tiếc rằng, kết quả thu được không nhiều. Năm 2007, tình cờ tôi có đọc được bài viết trên “Người Làng Trà” Nhà báo Nguyễn Thông đã đưa một số chi tiết có liên quan đến bà Nguyễn Thị Năm. Tôi có tìm đến cụ Vãn mà anh Thông nói tới, người được cho là người ở trong nhà bà Năm. Tuy nhiên cụ Vãn đã khước từ kể nhớ lại chuyện cũ.
Theo cuốn “Trần Huy Liệu – Cõi đời” của Trần Chiến, Nhà xuất bản Kim
Đồng 2009, thì ông Trần Huy Liệu, lúc đó là uỷ viên Thường trực Quốc
hội, thanh tra Cải cách Ruộng đất tại hai xã Đồng Bẩm, Dân Chủ (Thái
Nguyên). Ông dự cả hai buổi xử Nguyễn Văn Bính (ngày 18-5-1953) và bà
Nguyễn Thị Năm (22-5-1953).thì phiên xét xử bà NGuyễn Thị Năm diễn ra
như sau:
“Hôm ấy là ngày 22/5/1953, trời nắng chói chang. Để tránh cái nắng
nóng nhiều người đã lấy cành cây che đầu, nhưng vì làm như thế thì người
ngồi sau sẽ bị che khuất nên Chủ tịch đoàn đã yêu cầu mọi người vứt lá
đi. Phiên tòa hôm ấy khoảng 1 vạn người. Cũng như ngày trước, Chủ tịch
đoàn lại ra lệnh cho quần chúng hễ thấy địa chủ vào là đả đảo kịch liệt.
Khi bà Nguyễn Thị Năm và hai con Hanh, Công (2) cùng đầy tớ là đội Hàm,
Chính, Chiêu được Đội dân quân dẫn vào các bần cố nông đã bật dậy hô đả
đảo vang trời. Có người còn đòi “bọn địa chủ gian ác” phải đứng lên cao
và quay mặt tứ phía cho ai nấy đều trông thấy mặt để đả đảo.
Chủ tịch đoàn giới thiệu từng tên “địa chủ ác ôn” và ngắc ngứ đọc lý
lịch, nhưng không nêu tội ác cụ thể. Cứ sau mỗi lần như vậy những người
tham dự phiên tòa lại hô vang 3 lần: “Đã đảo, đã đảo, đã đảo!”.
Đám đông đã tỏ ra hết sức phẩn nộ trước thái độ của đội Hàm. Đôi mắt anh này cứ gườm gườm đầy thách thức. Nhiều người đã hét lên yêu cầu lính gác phiên tòa “tát cho nó nảy đom đóm mắt ra để nó cúi gằm mặt xuống mà nhận tội”.Rút kinh nghiệm lần trước, Chủ tịch đoàn tuyên bố đề nghị quần chúng phải giữ vững trật tự và không cần đánh đập tội nhân hay bắt quỳ, bò”.
Vẫn theo Trần Huy Liệu: bà Năm, tham gia phiên tòa hôm ấy kể lại
rằng: bà Năm cùng đầy tớ là đội Hàm, Chính được cho ngồi trên một cái
bục dưới gốc cây. Quần chúng lần lượt vào đấu tố.
Những tiếng hò hét “Mày có biết tao là ai không?”, “Mày dựa vào thế
lực nào?”, “Mày cho tao ăn cơm của chó, mèo thế à?”… vang lên rầm rầm.
Bầu không khí hờn căm ngùn ngụt ngút trời xanh! Rút kinh nghiệm của lần
đấu trước đó là cứ sau mỗi lần hô như vậy là kèm theo một cái tát vào
mặt kẻ bị đấu tố, lần này Chủ tịch đoàn yêu cầu: “chỉ đấu tố, không được
tát kẻ thù!”
Những người tố được quần chúng cảm động và tán thưởng nhiều nhất là
bà Sâm, chị Đăng và anh Cò. Bà Sâm, với một giọng gợi cảm, kể lể vì Thị
Năm mà mình phải suốt đời cô độc, có người rơi nước mắt. Nhưng sự thực,
nội dung câu chuyện không có gì.
Chị Đăng (3), một người ở của gia đình bà Năm lâu năm, tố lên rất
nhiều sự việc bí mật và chi tiết. Nhưng, tiếc là với một giọng quá lưu
loát quen thuộc như một người “tố nghề” được huấn luyện nên ít làm cho
ai cảm động.
Cũng có những người lên tố, nhưng do trình độ, học vấn không có nên
nói không đạt ý, không rõ việc. Không ai hiểu họ nói gì. Một bà tên là
Minh nói việc chẩn bần tại đồn điền Đồng Bẩm năm 1945 đã làm bao nhiêu
người chết đói, rồi kết luận bằng những câu: “Mày đừng nhận là chủ đồn
điền có được không?”, “Mày chỉ có hình thức thôi” và “Mày nói nhân nghĩa
mà mày không nhân nghĩa gì cả” khiến người nghe không hiểu tội bà Năm ở
đâu.
Còn một ông tên là Giồng tố cáo bà Năm đã cướp gánh cỏ của ông ta để
cho ngựa của bà ăn và cướp cả giỏ củ mài làm cho cả nhà ông ta phải nhịn
đói.
(Câu chuyện tuy hết sức phi lý và hài hước của ông này, nhưng thật kỳ
lạ là sau đó đã được một văn nghệ sĩ làm thành hẳn một bài thơ tràng
thiên rất cảm động-NV).
Con gái ông Giồng, hơn mười tuổi, đáng nhẽ cứ kể rành rọt cảnh đói
rét của nhà mình phải chịu vì sự bóc lột của bà Năm, nhưng nó lại nói
bằng một giọng “bà cự” nên nhiều người không cảm động, mà lại phát ghét.
Hài hước hơn cả là trường hợp của một chị có tên là Lý. Chị Lý tố cáo
rằng, chị ta là con nuôi của bà Năm, được bà Năm trang điểm cho để định
gả cho một võ quan Nhật. Nhưng sau khi biết chị chỉ là thân phận tôi
đòi, không có tiền của gì thì tên Nhật lại không lấy và chị lại bị bà
Năm bắt lột trả lại quần áo, trở lại thân tàn ma dại như trước. Nội dung
tố cáo chỉ là thế, nhưng vì chị ta vừa nói vừa khóc nên không ai rõ chị
ta nói gì.
Tuy vậy, trong đám người tố, vẫn còn sót lại một ít những phong thái
cũ. Câu hỏi “Mày có biết tao là ai không?” đã được chủ tịch đoàn ngắt đi
bằng câu: “Cứ việc tố không cần bắt nó trả lời”. Một vài cái tát vẫn
còn diễn ra. Một người ở Phúc Trừu tố cáo Thị Năm về tội chiếm đoạt
ruộng đất khẩn hoang của nông dân và cơi thùng thóc lên để thu thóc, rồi
kết luận “Như thế mày có xứng đáng là địa chủ không?”. Một người khác
tố Thị Năm, đội Hàm và Lý Nguyên Lập bảo an đoàn ở Phúc Trừu bắt nông
dân gác và đánh đập tàn nhẫn, cũng để đi tới kết luận: “Mày là con chó!
Chứ không phải địa chủ?”.
Một tá điền tố Thị Năm lấy ruộng của mình đương làm bán cho người
khác vì mình không có tiền mua, bằng câu: “Lấy tiền ở mả bố mày mà mua
à?”. Nhiều người vẫn gắn vào hai chữ “tiến bộ”: “Mày nói mày tiến bộ mà
như thế à?” Đi xa hơn nữa, có người nói Thị Năm lập quán Bông Lau ở thị
xã Thái Nguyên để đón gián điệp trong khi ai cũng biết đó là cơ quan
sinh lợi của hội Phụ nữ liên hiệp tỉnh Thái Nguyên”.
Địa chủ ác ghê
Chỉ một ngay sau khi bắn bà Năm, ngày 21-7-1953, báo Nhân dân đăng bài “Địa chủ ác ghê”. Sau đây là toàn văn bài báo:
Địa chủ ác ghê
Thánh hiền dạy rằng: "Vi phú bất nhân". Ai cũng biết rằng địa chủ thì ác: như bóc lột nhân dân, tô cao lãi nặng, chây lười thuế khoá - thế thôi. Nào ngờ có bọn địa chủ giết người không nháy mắt. Đây là một thí dụ:
Mụ địa chủ Cát-hanh-Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la đã:
Thánh hiền dạy rằng: "Vi phú bất nhân". Ai cũng biết rằng địa chủ thì ác: như bóc lột nhân dân, tô cao lãi nặng, chây lười thuế khoá - thế thôi. Nào ngờ có bọn địa chủ giết người không nháy mắt. Đây là một thí dụ:
Mụ địa chủ Cát-hanh-Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la đã:
- Giết chết 14 nông dân.
- Tra tấn đánh đập hằng chục nông dân, nay còn tàn tật.
- Làm chết 32 gia đình gồm có 200 người - năm 1944, chúng đưa 37 gia đình về đồn điền phá rừng khai ruộng cho chúng. Chúng bắt làm nhiều và cho ăn đói. Ít tháng sau, vì cực khổ quá, 32 gia đình đã chết hết, không còn một người.
- Chúng đã hãm chết hơn 30 nông dân - Năm 1945, chúng đưa 65 nông dân bị nạn đói ở Thái Bình về làm đồn điền. Cũng vì chúng cho ăn đói bắt làm nhiều. Ít hôm sau, hơn 30 người đã chết ở xóm Chùa Hang.
- Năm 1944-45, chúng đưa 20 trẻ em mồ côi về nuôi. Chúng bắt các em ở dưới hầm, cho ăn đói mặc rách, bắt làm quá sức lại đánh đập không ngớt. Chỉ mấy tháng, 15 em đã bỏ mạng.
Thế là ba mẹ con địa chủ Cát-hanh-Long, đã trực tiếp, gián tiếp giết ngót 260 đồng bào !
Còn những cảnh chúng tra tấn nông dân thiếu tô thiếu nợ, thì tàn nhẫn không kém gì thực dân Pháp. Thí dụ:
- Trời rét, chúng bắt nông dân cởi trần, rồi dội nước lạnh vào người. Hoặc bắt đội thùng nước lạnh có lỗ thủng, nước rỏ từng giọt vào đầu, vào vai, đau buốt tận óc tận ruột.
- Chúng trói chặt nông dân, treo lên xà nhà, kéo lên kéo xuống.
- Chúng đóng gióng trâu vào mồm nông dân, làm cho gẫy răng hộc máu. Bơm nước vào bụng, rồi giẫm lên bụng cho hộc nước ra.
- Chúng đổ nước cà, nước mắm vào mũi nông dân, làm cho nôn sặc lên.
- Chúng lấy nến đốt vào mình nông dân, làm cho cháy da bỏng thịt.
- Đó là chưa kể tội phản cách mạng của chúng. Trước kia mẹ con chúng đã thông đồng với Pháp và Nhật để bắt bớ cán bộ. Sau Cách mạng tháng Tám, chúng đã thông đồng với giặc Pháp và Việt gian bù nhìn để phá hoại kháng chiến.
Trong cuộc phát động quần chúng, đồng bào địa phương đã đưa đủ chứng cớ rõ ràng ra tố cáo. Mẹ con Cát-hanh-Long không thể chối cãi, đã thú nhận thật cả những tội ác hại nước hại dân. Thật là:
Viết không hết tội, dù chẻ hết tre rừng,
Rửa không sạch ác, dù tát cạn nước bể!
(21-7-1953)
C.B.
Tác giả bài báo được ghi là: C.B.
Nhà tan cửa nát
Theo nhà báo Xuân Ba thì ngay sau khi bà Năm bị bắt, Đội cải cách đã nhiều lần khám xét, lục lọi mọi hang cùng ngõ hẻm ngôi nhà, khu vườn của gia đình bà Năm và đem đi tất cả những gí, kể cả dao cùn, giẻ rách,có thể mang đi được. Theo lời cô dâu cả bà Năm thì trước khi bị bắt đưa đi bà Năm còn ném lại cho cô một cái túi đựng đầy kim cương. Trong một đợt khám xét Đội cải cách đã phát hiện ra cái túi kim cương ấy và ra lệnh tịch thu! Tịch thu nhưng không hề có biên bản, giấy biên nhận mà là thu trắng tài sản của bọn tư sản địa chủ cường hào gian ác. “Không biết cái túi của cụ nhà tôi mà đội cải cách tịch thu ngày ấy có mang sung vào công quỹ hay là mang đi làm của riêng?” - Cô con dâu bà Năm sau này mỗi lần nhắc lại việc này đều băn khoăn với một câu hỏi như vậy.
Những người con của bà Nguyễn Thị Năm sau này có một cuojc sống hết
sức long đong. Theo nhà báo Xuân Ba thì ông Cát qua đời năm 1989, ở tuổi
64, trong một tai nạn giao thông thảm khốc. Còn ông Hanh, sau khi Đảng
sửa sai CCRĐ, quyết định đưa gia đình con cháu rời Thái Nguyên, mảnh đất
đã chứng kiến cảnh nhà tan cửa nát, nơi mà dẫu những gào thét “địa chủ
ác nghê”đã dịu đi đôi chút, nhưng còn đầy thù hận và khổ đau. Ông đưa vợ
con, cháu về Hà Nội. Vài người bạn thân hoặc quen biết từng nhờ cậy gia
đình ông trước đây cho ở nhờ, Nay đây mai đó. Mãi sau này ông mới tậu
được một căn phòng nhỏ ở 117 Hàng Bạc và tá túc tại đó cho tới ngày nay,
khi cả hai ông bà đã ở tuổi 90.
Năm 1998 ông Nguyễn Hanh và ông Nguyễn Cát hai con trai của bà Năm đã
được công nhận là cán bộ hoạt đông lâu năm, cán bộ tiền khởi nghĩa. Còn
người con dâu Đỗ Thị Diệp, sớm hơn năm 1980 đã được xác nhận danh hiệu
cán bộ hoạt động lâu năm.
Còn riêng đối với bà Nguyễn Thị Năm thì người ta mới có động thái duy
nhất là hạ thành phần cho cụ từ tư sản địa chủ cường hào gian ác xuống
tư sản địa chủ kháng chiến!
P/S: Tôi biết, trong cuộc CCRĐ còn nhiều người bị bắn oan, nhà tan
cửa nát, con cháu cũng long đong, lận đận, cơ cực thậm chí còn hơn cả
gia đình bà Nguyễn Thị Năm và cho đến nay họ vẫn chưa được viết một dòng
nào về số phận của họ, con cháu họ. Tôi muốn dành bài viết này như một
nén hương dành cho bà Nguyễn Thị Năm và những nạn nhân như bà để chúng
ta, mà không chỉ chúng ta, không bao giờ quên một trong những giai đoạn
bi thương nhất của lịch sử dân tộc!
Ghi chú:
Ghi chú:
(1) Sau này trong Hồi ký của mình và trong nhiều bài trừ lời phỏng vấn báo chí Ông Hoàng Tùng vẫn khẳng định lại lời nói này.
(2) Theo một số nhà nghiên cứu khác thì lúc này hai con bà Nguyễn Thị Năm là ông Hanh và ông Công không có mặt trong phiên tòa này.
(3) Chưa xác định được chị Đăng trong phiên tòa này và cụ Vãn mà nhà báo Nguyễn Thông nói trong “Làng Trà” có phải là một không.
(2) Theo một số nhà nghiên cứu khác thì lúc này hai con bà Nguyễn Thị Năm là ông Hanh và ông Công không có mặt trong phiên tòa này.
(3) Chưa xác định được chị Đăng trong phiên tòa này và cụ Vãn mà nhà báo Nguyễn Thông nói trong “Làng Trà” có phải là một không.
Buồn quá các bạn ạ, tôi chợt nhớ "Anh phải sống - Trương Nghệ Mưu".
Trả lờiXóaCó lẽ cần phải có "HỒI KÝ CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT" bao gồm những nạn nhân và cả những ai đã mắc sai lầm, thậm chí là tội ác khi đem người vô tội ra mà đấu tố, mà bắn. Nếu không công khai ra, không nói hết ra, tôi e rằng, nhiều người khi chết cũng không nhắm được mắt và nhiều người sẽ hoảng loạn khi sắp chết vì sẽ phải gặp lại những nạn nhân của họ nơi chín suối!
Trả lờiXóaHãy nói ra! Hãy rũ bỏ quá khứ đau thương bằng hồi ký chân thật!
Hỡi những ai là nạn nhân, là nhân chứng của CCRĐ...hãy đứng lên tố cáo tội ác man rợ, trời không dung, đất không tha này...
Trả lờiXóaLàng quê nào của đất mẹ Việt Nam những ngày u tối đó
Trả lờiXóaCũng diễn ra những cảnh đấu tố hãy hùng và tang thương như vậy
Bao án oan, bao người bị xử tử, bao người tự tử, cả ngày lẫn đêm, mọi lúc mọi nơi
Vẻ vang thay chính sách Đoàn Kết Kháng Chiến mà như thế này sao
Nghe Tàu khựa " Nồi da nấu thịt" đồng bào, đồng chí
Vậy có còn mặt mũi nào với Lịch sử VN hỡi Lãnh tu anh minh và Đảng quang vinh ?
Trời cao, đất dày có thấu ?
Nghe giọng lưỡi bao biện của ông Dương Trung Quốc khi trả lời phỏng vấn của kênh thông tấn BBC về việc triển lảm hình ảnh tư liệu về cải cách ruộng đất cũng như bối cảnh diễn ra vào thời điểm này(1953-1956) mà tôi phát...tởm!!!
Trả lờiXóaThế mà vẫn tự cho mình là nhà...viết sử!? Thật đáng khinh bỉ! Hèn chi học sinh bây giờ không thèm học sử thì phải!? Chỉ vì những sử...gia(giả thì đúng hơn) này!?
Ông Quốc cũng giống như ông sử...giả đã nhào nặn ra nhân vật Lê Văn Tám vậy!?
Một sự điếm thối về nhân cách qua vỏ bọc của kẻ có học thức!
Những người bao biện và không lên án tội ác cũng là những người đồng lõa.
XóaÔi tôi chán mấy con điếm chính trị lắm rồi!
XóaSử gia - Giả sư - Sư giả - đại loại vậy...
XóaSử nô
XóaCũng lại bàn tay cuả thằng Tàu nhúng vào nưã sao ????
Trả lờiXóaTự nhiên bày ra triển lãm để dân tình được đọc mấy bài ăn theo CCRĐ . Hay ! Cảm ơn tác giả và bác Nguyễn Xuân Diện .
Trả lờiXóaBà Năm chỉ là một trong hàng ngàn nạn nhân trong cuộc CCRĐ long trời lở đất của HCM và đảng CS mà thôi.
Trả lờiXóaSự kiện cuộc cách mạng 'Long trời lở đất' đã xảy ra hơn 60 năm nhưng tôi ngỡ như vừa xảy ra mới ngày hôm qua. Bởi lẽ, thông tin đầy đủ về nó được 'đảng ta' tài tình giấu nhẹm cho den ngay hom nay. Thời gian đã đủ độ lùi , các nhà sử học phải thể hiện lương tâm và trách nhiệm của mình, ghi chép đầy đủ , phản ánh trung thực với nhân dân .
Trả lờiXóaThì ra cái vết thương quá sâu CCRĐ cũng chỉ tạm khép miệng nay lại được chính NCQ khơi lại . Vết hằn năm tháng dài không thể quên được . Dân tộc còn phải mang nó cho tới khi những oan hồn được rửa tiếng oan và những kẻ gây ra tội ác phải chịu tội trước Dân Tộc và Nhân Loại . Hàng triệu sinh linh đã chết vì đói năm Ất Dậu 1945, hàng triệu sinh linh khác chết vì hai cuộc chiến tranh mà nhiều người chưa có mồ cao mả dài . Hàng vạn người chết vì cuộc CCRĐ . Vi ai gây dựng cho nên nỗi này ? Dân tộc vẫn lầm lũi bước đi vai mang cái bị thê lương của quá khứ chưa ngẩng đầu lên được !
Trả lờiXóaVề các bước CCRĐ, bài nêu thiếu một bước là :sau bước CCRĐ lần đầu sau lại còn bước" phúc tra CCRĐ'', đợt gọi là ''phúc tra "(kiểm tra lại) này mới tố điêu nhiều hơn để nâng nhiều phú nông , và trung nông lớp trên trong đợt trước nâng lên thành địa chủ , và những người từng tham gia cướp chính quyền cm tháng 8 bị vu là V.N Quốc Dân Đảng . Chính vụ này mới bị oan khuất nhiều .
Trả lờiXóaNhững người bị vu cho là QDĐ đều bị bắn . Một chi tiết nữa ở trong bài là vô lí : Bà Năm bị tử hình
vào tháng 5-1953, lúc bấy giờ còn đang K.C , Cụ Hồ ở V.B . Sao có chi tiết ông Hoàng Quốc Việt
về Hà Nội (nơi Pháp đang chiếm) để hỏi ý kiến Cụ Hồ ? Phịa lộ liễu thế là cùng ! .
Các vị lúc nào cũng nhận là anh minh sáng suốt , sao lại đổ lỗi cho bọn chuyên gia T.Q về cái hành vi
Trả lờiXóavong ân bội nghĩa đối với bà Năm ,một ân nhân của các vị , của CM ? Thế chẳng hóa ra thừa nhận
các vị là tay sai của TQ còn chối làm sao được?
Vong ơn bội nghĩa!
Trả lờiXóaquá chuẩn ....
XóaBác và Đảng nghe lời Tàu giết dân ta thì nhẹ tội hơn tự ý giết dân ta?
Trả lờiXóaNgười ta bắn Bà Năm năm 1953, khi đó Chính phủ còn ở trên rừng, sao lại có chi tiết : "Ông Bùi Tín còn kể: “Ông Hoàng Quốc có lần Việt kể lại rằng hồi ấy ông chạy về Hà Nội, báo cáo việc hệ trọng này với cụ Hồ Chí Minh."
Trả lờiXóaAnh Diện thử kiểm tra lại xem thế nào giúp cái. Chả có lẽ Bùi Tín nhầm? Hay Hoàng Quốc Việt nhầm?
Thật kinh hoàng .Cũng may sửa sai chứ cứ nghe cố vấn Trung Quốc thì có lẽ sự việc sảy ra có thể sẽ như bọn Pôn Pốt ở CamPuChia sau này nhỉ .
Trả lờiXóa