Chủ Nhật, 24 tháng 4, 2016

HÁT Ả ĐÀO, CUỘC GẶP GỠ CỦA THI CA VÀ ÂM NHẠC


Vào 14h30 chiều thứ bảy 23/04//2016, tại Salon Văn hóa quán Cà phê Thứ Bảy, 3A, Ngô Quyền, Hoàn Kiếm, Hà Nội đã diễn ra buổi thuyết trình của TS Nguyễn Xuân Diện về Chủ đề: “HÁT Ả ĐÀO – CUỘC GẶP GỠ GIỮA THI CA VÀ ÂM NHẠC”. Chương trình do Giáo sư Chu Hảo chủ trì.

Trong không khí ấm cúng của một biệt thự cũ, treo nhiều tranh của các họa sĩ nổi tiếng, người đến dự chật toàn bộ tầng 2. Đông đảo các nhà trí thức, các nhà hoạt động nghệ thuật đã đến dự: Các giáo sư Nguyễn Thụy Loan, Mạc Văn Trang, Phạm Khiêm Ích, Nguyễn Văn Trọng, các nhà văn Trần Nhương, Vũ Ngọc Tiến, các tiến sĩ Hoàng Quý Thân, Tạ Đình Thính, nhà nghiên cứu mỹ thuật Nguyễn Đức Bình, nhà nghiên cứu Hán Nôm Trần Kim Anh, đạo diễn Lý Thu Hà, các nhiếp ảnh gia Nguyễn Á, Nguyễn Tuấn Thành (Thành Nikon)...

Sau môt giờ thuyết trình của diễn giả với nhiều hình ảnh sinh động về lịch sử và nghệ thuật ca trù, về mối quan hệ giữa văn nhân và ả đào là đến phần thưởng thức nghệ thuật ả đào.

Chầu hát do các nghệ sĩ nổi tiếng trình diễn: Đào nương Thanh Bình (NSUT) – Kép đàn Xuân Hoạch (NSND), Quan viên: Vũ Ngọc (NSUT) - Đàm Quang Minh. Đặc biệt Giáo sư Chu Hảo đã đĩnh đạc cầm chầu thưởng thức tiết mục đầu tiên của chương trình, bài Hồng Hồng Tuyết Tuyết.

Chương trình biểu diễn gồm 4 bài:

- Hồng Hồng Tuyết Tuyết - thơ Dương Khuê. Thể cách: Hát nói.
- Gửi thư. Lời cổ. Thể cách: Gửi thư.
- Thơ tặng người xa xứ - Thơ Nguyễn Duy. Thể cách: Chừ khi, Bắc phản (Hát mở), Dựng huỳnh, Hát nói, do Đàm Quang Minh và Xuân Hoạch xếp nhạc.
- Tỳ Bà hành. Thơ: Bạch Cư Dị. Lời dịch tiếng Việt: Phan Huy Vịnh. Thể cách: Tỳ bà hành.

Giám đốc chương trình: Nhạc sĩ Dương Thụ từ Sài Gòn ra dự chương trình, cảm ơn người chủ trì, diễn giả và các nghệ sĩ. Và ông mong có nhiều dịp được đón các nhà chuyên môn, các văn nghê sĩ tới không gian này để chia sẻ cùng mọi người mỗi chiều thứ bảy.

Một vài hình ảnh của cuộc gặp gỡ và thưởng thức nghệ thuật Hát Ả đào, chùm ảnh của Nguyễn Đức Bình, Nguyễn Tuấn Thành và Nguyễn Xuân Diện:

Mọi người chăm chú lắng nghe trong suốt chương trình dài 2 giờ 
.






Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thụy Loan và diễn giả Nguyễn Xuân Diện

Nghệ sĩ Nhân dân Xuân Hoạch và cây đàn Đáy 99 năm tuổi, do Cụ Đinh Khắc Ban trao lại.



Từ trái sang: NSND Xuân Hoạch, GS Chu Hảo, NSUT Thanh Bình, NSUT Vũ Ngọc.

Ngoài cùng bên phải: Quan viên Đàm Quang Minh 


Giáo sư Chu Hảo cầm chầu bài Hồng Hồng Tuyết Tuyết, do Đào nương Thanh Bình hát.






Khách nghe thả thẻ (Trù) xuống chậu đồng để thưởng cho đào, kép theo lối ngày xưa.
Mỗi thẻ quy định 50.000 đ.

Đào Kép so dây, thử giọng trước khi vào biểu diễn chính thức

Từ phải sang: PGS. TS Nguyễn Thụy Loan, Nhạc sĩ Dương Thụ và Nguyễn Xuân Diện.




 Dưới đây là một phần nội dung của buổi thuyết trình:

Văn nhân và ả đào

Nguyễn Xuân Diện
 .
....Và trong những đêm hát, đào nương hiện ra như từ trong mộng: Mặt tròn thu nguyệt. Mắt sắc dao cau. Vào - duyên khuê các. Ra - vẻ hồng lâu. Lời ấy gấm - Miệng ấy thêu - Tài lỗi lạc chẳng thua nàng Ban - Tạ. Dịu như mai - Trong như tuyết - nét phong lưu chi kém bạn Vân - Kiều. Ta lại cùng nhớ đến chút duyên xưa giữa văn nhân và ả đào, mối quan hệ quan trọng nhất của lối thưởng thức ca trù. Bởi quá trình tham gia sinh hoạt ca trù là quá trình văn nhân sáng tạo, thưởng thức, thể nghiệm các tác phẩm của mình.

1.
Văn nhân, trí thức xưa luôn gắn bó với các sinh hoạt làng xã, trong đó có việc soạn thảo các thư tịch để phục vụ sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng. Những thư tịch ấy đã có một đời sống riêng trong dòng chảy của văn hóa Việt, trở thành thông điệp trao chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác mang tâm hồn và căn cước Việt Nam. 


500 năm về trước, tại đình làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm (Hà Nội) đã diễn ra lễ hội đầu xuân cầu phúc trong không khí đại lễ trang nghiêm, hào hùng. Một văn nhân hay chữ trong làng là Lê Đức Mao (1462- 1529) thay mặt 8 giáp viết 9 bài thơ để các giáp đọc và khen thưởng cho các cô đào. Đó là bài Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn soạn trước năm 1505, tức là khoảng cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI. Đây chính là tư liệu sớm nhất mang hai chữ “ca trù”. Đây cũng là bài thơ cổ nhất hiện biết có hai chữ ‘ca trù’ lần đầu tiên có mặt trong văn học viết, là tư liệu sớm nhất để khẳng định ca trù đã có mặt trong văn hóa Việt Nam từ thế kỷ XV.

Trải qua nhiều thế kỷ, tục hát thờ thần ở đình Đông Ngạc vẫn được duy trì và tạo thêm nhiều yếu tố văn hóa đặc sắc, trong đó có lệ thưởng đào thị yến trở thành một nét đẹp về sự trân trọng của cộng đồng đối với nghệ thuật và nghệ sỹ.

Ngày hội làng, các ả đào đứng trước điện thờ, tay cầm lá phách hát các bài hát thờ như Thét nhạc, Bắc phản, Hát Giai, Độc phú... Giáo phường nhất định sẽ hỏi cho bằng được tên huý của các vị thành hoàng để khi hát đến những chữ ấy thì tránh đi. Các cô đầu hát đến những câu có chữ ấy thì hát thật nhỏ, và hát chệch đi. Nếu cô đầu không nhớ, cứ thế hát thẳng không kiêng thì người cầm chầu sẽ gõ liên hồi vào tang trống và cho ngừng cuộc hát. Khi ấy quản giáp của giáo phường phải đến nói khó với các cụ trong làng để xin cho làm lễ tạ với thánh và xin các cụ chiếu cố cho. Khi ấy, người đào nương sẽ biện cơi trầu, đến trước điện làm lễ tạ lỗi với Thánh và các quan viên.

Người được làng tín nhiệm cầm chầu phải là người am hiểu về văn chương và âm luật. Thưởng công minh làng mới phục, vì nếu thưởng “rộng” thì làng tốn tiền, thưởng “hẹp” thì đào nương chê là ky bo, không biết nghe hát nghe đàn. Có khi người cầm chầu mà không biết thưởng thức, gặp cô đào đanh đá hát một câu khiến người cầm chầu phải xấu hổ bỏ roi chầu mà về. Làng tôi năm xưa đã xảy ra chuyện ấy, khiến cho cô đào giễu rằng: “Nào những ông nghè ông cống ở đâu/ Để cho ông lão móm ngồi câu con trạch vàng”. Ông lão móm ấy đã phải bỏ cuộc. Vì thế dân gian vẫn bảo: “Ở đời có bốn thứ ngu/ Làm mai, Lãnh nợ, Gác cu, Cầm chầu”. 

.
2.
Ngày xưa, có cô đào họ Nguyễn đã có công giúp tiền của để chàng thư sinh nghèo Vũ Khâm Lân đỗ Tiến sĩ. Vũ Khâm Lân, quê xã Ngọc Lặc, huyện Tứ Kỳ (Hải Dương) là một anh học trò nghèo thông minh chăm chỉ, vì dì ghẻ độc ác hà hiếp nên phải bỏ nhà lang thang xin ăn độ nhật. Khi đến làng Dịch Vọng (Từ Liêm) xin ăn ở trường ông Hương cống thì được thương và chu cấp cho ăn học. Trong khoảng hai năm việc học đã ngày chàng tiến tới, trong trường không còn ai là đối thủ nữa.

Mùa xuân năm ấy, làng Dịch Vọng vào đám rước thần. Mấy người bạn học rủ ông đi xem hội. Trai gái cả làng đều ăn mặc đẹp, chen chúc nhau xem hát. Riêng ông thì mặc áo bông cũ bẩn, dựa cột lén xem như chỉ sợ người khác thấy mình.

Giáo phường đến hát có một cô đào hát tuổi chừng mười bảy, mười tám nhan sắc xinh đẹp, đoan trang; mỗi lần nàng cất tiếng hát thì tiền và lụa thưởng cho nàng ném đầy xuống mảnh chiếu hoa nàng ngồi hát. Lúc cô đang múa, ánh đuốc lớn ngoài sân chiếu qua góc đình, khiến cô nhìn thấy ông, chăm chú một hồi lâu, bần thần như đánh mất một vật gì, không sao hát được nữa. Người làng đang xem cho là cô bị trúng phong đột ngột, ai nấy đều không vui. Người cầm chầu phải xin dừng đêm hát. Vũ Khâm Lân cũng theo mọi người ra về. Hôm sau vào lúc xế trưa, thấy có người con gái đến thẳng chỗ ông, an ủi và tặng ông 10 quan tiền cùng các thứ đồ ăn mặc, rồi trân trọng từ biệt.

Từ đó, cứ dăm ba tháng một lần cô lại đến chỗ ông ở, may vá, nấu nướng cho ông. Lúc mới gặp cô gái, ông rất xúc động và kính trọng cô. Lâu ngày thành quen, biết cô gái yêu mình, ông bỗng dưng nảy sinh lòng tà vạy, lẻn tới chỗ cô con gái xin ngủ cùng. Cô gái nghiêm khắc cự tuyệt. Ông lấy làm hổ thẹn xin lỗi nàng, và từ đó càng thêm niềm kính yêu, trân trọng.

Hai năm sau, gặp kỳ thị Hội, ông sửa soạn về quê để đăng ký thi theo hộ tịch ở quê nhà. Cô gái đến tiễn, đưa tặng rất hậu. Lúc sắp chia tay, ông cầm tay cô gái xin được biết quê quán, họ tên để sau này biết chốn tìm nhau. Cô gái không cho ông biết gì về thân thế, gia cảnh. Mùa thu, ông về thi ở huyện ở phủ đều đỗ đầu. Thi Hương, thi tỉnh cũng nhất. Cha ông bàn việc chuyện hôn nhân, định hỏi con nhà thế gia cho ông. Ông cố chối từ và thành thực kể lại chuyện riêng, xin được lấy người con gái ấy. Cha ông nổi giận quyết không cho lấy cô đào kia và mắng ông rất nhiều. Ông buộc phải nghe lời cha dạy.

Kỳ thi Hội năm sau, cô gái đem lễ tặng rất hậu và tới đợi Vũ Khâm Lân ở chỗ trọ tại kinh đô. Lân ngượng ngập, không biết nói gì. Cô gái nói với Lân: “Thiếp biết cả rồi, chẳng cần chàng nói. Tiền trình của chàng còn xa muôn dặm, thiếp hèn hạ không xứng hầu hạ khăn lược cho chàng. Đó là số phận của thiếp”. Từ đó ông không gặp lại cô đào trẻ đó nữa. Vũ Khâm Lân đỗ Tiến sĩ khoa thi năm Bảo Thái thứ 8 (1727).

Sau ông thi đỗ, vào làm việc trong viện Hàn lâm, đi sứ phương Bắc, làm quan trong kinh ngoài trấn trải hơn mười mấy năm. Ông còn được triều đình cử đi dẹp giặc giã. Dẹp xong giặc, ông được phong là Quận công, làm việc ở Ngự sử đài, rồi thăng Tể tướng, vẻ vang hiển hách không ai bằng. Mỗi khi kể chuyện đã qua, ông lại than thở buồn rầu tự trách mình. Ông đã sai người đi tìm chỗ ở của cô gái nhưng vẫn không tìm được.

Trong một tiệc hát ở nhà người bạn đồng liêu họ Đặng, thấy có người con gái đang gieo phách giữa chiếu hoa trông giống với người con gái ngày xưa. Hỏi ra thì đúng là nàng. Dẫu cho phong trần dầu dãi mà nét kiêu sa đằm thắm cùng tiếng phách tuyệt kỹ vẫn còn như xưa. Ông hỏi thăm về những ngày tháng đã qua của cô, thì biết mười năm trước cô lấy một viên quan võ ở trấn Thái Nguyên. Khi võ quan này chết, hai người chưa có con cái gì, nàng không biết đi đâu, chỉ còn một ít tư trang, mới lần về quê cũ. Gặp đứa em chẳng ra gì, phá tán sạch cơ nghiệp, cô đành dắt mẹ già lưu lạc trong thành Tràng An, dựa vào các nhà quyền thế, đàn hát qua ngày kiếm miếng ăn. Nghe câu chuyện của nàng, ông không sao nén nổi xót thương, bèn đón cả hai mẹ con nàng về một nơi ở riêng, chu cấp đầy đủ. Hơn một năm sau, mẹ cô mất. Ông lo chôn cất chu đáo. Tang ma cho mẹ xong, cô gái lại từ biệt ra đi, có lẽ lại dấn thân vào chốn ca trường đầy bất trắc. Ông giữ lại không được, hậu tặng cô rất nhiều tiền bạc, cô cũng không nhận. Ông cố ép thì cô nói: “Thiếp không có phúc được làm vợ tướng công, thì những thứ tiền bạc này đâu có phúc để tiêu mà nhận. Rồi nàng lén bỏ ra đi. Ông cho người nhà đuổi theo mà không kịp, không rõ đi đâu. Về sau, biết nàng là người huyện Chương Đức xứ Sơn Nam (nay là huyện Chương Mỹ, Hà Tây).

3.
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, người Pháp đã đặt xong nền đô hộ tại Đông Dương. Nhiều tỉnh lỵ, huyện lỵ được mọc lên bên cạnh những trục đường giao thông lớn nhỏ. Một số giáo phường ca trù ở nông thôn đã di chuyển ra tỉnh và bám theo dọc các trục đường giao thông để mở nhà hát (ca quán).

Trước kia người hát đến nhà người nghe hát. Kể từ khi có ca quán, người nghe hát đến ca quán để nghe hát. Từ đó nảy nở mối tình giữa văn nhân và đào nương. Đó là một mối quan hệ khá thắm thiết, gần gũi giữa Nguyễn Khuyến và cô đào Sen người làng Thi Liệu, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định; giữa Dương Khuê với cô Hồng, cô Tuyết, cô đầu Hai, cô đầu Phẩm, cô đầu Cúc, cô đầu Oanh, cô đầu Cần. Là Dương Tự Nhu với cô đầu Khanh, cô đầu Văn, cô đầu Phú, cô đầu Kim…Và nhà nho tài tử Nguyễn Danh Kế đã gặp gỡ đào nương tài sắc Nhữ Thị Nghiêm trong một ca quán ở phố Hàng Thao, thành Nam Định. Yêu vì tài, cảm vì tình rồi họ kết duyên chồng vợ. Cuộc hôn nhân này đã sinh ra Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu - một thi sĩ tài hoa đa tình. Ngay em gái của Tản Đà là cô Trang cũng là một đào nương: Có phải cô Trang em ấm Hiếu/ Người xinh xinh yểu điệu dáng con nhà (Tặng cô đầu Trang - Trần Tán Bình).

Khắp các nơi phố thị ca quán ca trù mọc lên như nấm sau mưa. ở miền Trung thì Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, tỉnh nào cũng có nhà hát cô đầu. ở miền Bắc những thành phố lớn đều có nhà hát, ở Nam Định trước cô đầu mở nhà hát ở phố Hàng Thao, sau thiên xuống Ngã Sáu. Theo phóng sự điều tra của ký giả Hồng Lam trên báo Trung Bắc chủ nhật số 129, năm 1942 thì riêng năm 1938, ngoại ô Hà Nội có 216 nhà hát và gần 2000 cô đầu tập trung trước thì ở Hàng Giấy, ấp Thái Hà, sau đến Khâm Thiên, Ngã Tư Sở, Vạn Thái, Chùa Mới, Cầu Giấy, Kim Mã, Văn Điển, Gia Quất.

Trong các khu phố có các ca quán ả đào, Khâm Thiên và Ngã Tư Sở là những địa chỉ nổi tiếng vì sự gắn bó với các nhà văn nhà thơ nổi tiếng: Tản Đà, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Hoài Điệp Thứ Lang, Vũ Hoàng Chương.

Khâm Thiên là nơi nhộn nhịp nhất của làng cầm ca thưở ấy. Nơi đây có nhà hát 24 gian, có những người quản lý giỏi giang, khiến cho cả khu phố quanh năm đỏ đèn. Nhà văn Vũ Bằng gọi xóm Khâm Thiên là “cái nôi văn nghệ của Hà Nội”. Ông cho biết: “tôi chưa thấy có nhà văn nhà báo đất Bắc nào mà lại không ra vào nhà hát cô đầu”, và các xóm cô đầu “quả là cái lò đúc ra văn nghệ sĩ”. Và ông kể về việc làm báo ở những tòa báo “lúc đó ở những con đường Nhà thương Phủ Doãn nhưng thật tình chỉ có một anh quản lý và một người tùy phái ở đây thường trực mà thôi. Còn bao nhiêu nhân viên tòa soạn thiết lập đại bản doanh ở Khâm Thiên, Vạn Thái ... Đại bản doanh lưu động, nay ở nhà này mai ở nhà khác. Chúng tôi viết bài, sửa bài ở nhà hát rồi gói tròn cả lại để vào một chỗ nhất định. Sáng ra người tùy phái đạp xe cọc cà, cọc cạch xuống lấy bài, đem về cho nhà in xếp chữ. Mỗi tuần lễ một lần, tôi lại hạ san từ xóm về nhà in để “mi” và vét tiền két chi nhà hát”.

Phải nói rằng văn hóa ả đào, văn hóa ca trù đã thấm đẫm trong sáng tạo của thi sĩ, văn sĩ trước 1945. Cũng tại Khâm Thiên, Nguyễn Tuân đã sống và tích lũy vốn liếng cho các tác phẩm về ca trù như Đới roi, Chùa Đàn. Trần Huyền Trân đã sống ở ngõ Cống Trắng, Khâm Thiên. Chàng thi sĩ tài hoa của xứ sở “Rau tần” này đã tặng danh ca Quách Thị Hồ những dòng thơ chứa chan niềm ưu tư: Tự cổ sầu chung kiếp xướng ca/ Mênh mông trời đất vẫn không nhà/ Người ơi mưa đấy ? Hay sênh phách/ Tay yếu gieo lòng xuống chiếu hoa. … Thôi khóc chi ai kiếp đọa đầy/ Tỳ bà tâm sự rót nhau say/ Thơ ta gửi tặng người ngâm nhé/ Cho vút giọng sầu tan bóng mây. Năm ấy Quách Thị Hồ tròn 30 tuổi.

Thế Lữ, Vũ Hoàng Chương, Xuân Diệu, Nguyễn Bính cũng có nhiều bài thơ gửi gắm tâm hồn đồng điệu với các đào nương đem tài sắc tuổi thanh xuân dâng tặng tri âm. Với Thế Lữ là “Bên sông đưa khách”, với Vũ Hoàng Chương là “Nghe hát” nắn nót câu chữ như ai nắn phím tơ: Phách ngọt, đàn say, nệm khói êm/ Tiếng ca buồn nổi giữa chừng đêm/ “Canh khuya đưa khách…”. Lời gieo ngọc/ Mơ gái Tầm Dương thoảng áo xiêm. Với Xuân Diệu là “Lời kỹ nữ”, mà theo Hoài Thanh thì “Người kỹ nữ của Xuân Diệu cũng bơ vơ như người Tỳ bà phụ. Nhưng nàng không lặng lẽ buồn mà ta thấy nàng run lên vì đau khổ: Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo;/ Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da”… 

Lại có câu chuyện rằng có một đào nương tài sắc vẹn toàn, từng làm mê mẩn bao quan viên và tao nhân mặc khách. Một đêm mưa gió, nàng đi hát ở làng bên trở về thì bị cảm lạnh và qua đời ngay bên cầu Trò (Sơn Tây). Dân làng và các quan viên thương cảm nàng đã chôn cất và lập miếu thờ nàng ngay bên cầu. Câu chuyện ấy khiến bao người xót thương cho thân phận tài hoa bạc mệnh, ‘nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương’ của người ca nữ nọ. Nhà thơ Vũ Đình Liên nghe chuyện, cảm động mà viết bài Cảm tạ với hai câu kết: Tạ lòng nào biết nên chi được/ Phách ngọc dồn thêm một nhịp vàng. Sau khi nghe chuyện và đọc bài thơ của Vũ Đình Liên, chung với mối đồng cảm ấy, họa sĩ Bùi Xuân Phái đã ký họa lại hình ảnh của người ca nữ qua tưởng tượng. Những nét vẽ gầy guộc mảnh mai của ông như thấu được cả cái thân phận tài hoa nhưng mệnh bạc.

4.
Thưởng thức ca trù gọi là “nghe hát”, chứ không phải là “xem hát”. Đào nương ca trù chỉ ngồi yên gần như bất động trong suốt cuộc hát trên một mảnh chiếu cạp điều, với vẻ mặt bình thản, đoan trang. Đào nương chỉ có một cỗ phách tre đặt trước mặt và “đối thoại” với khách nghe chỉ bằng giọng hát và tiếng phách của mình. ấy vậy mà nghệ thuật này đã góp cho văn chương hàng nghìn bài thơ viết bằng chữ Nôm chứa đựng rất nhiều tâm trạng, rất nhiều biến thái vi tế của tâm hồn Việt Nam qua nhiều thế kỷ với các tên tuổi tiêu biểu như: Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê, Dương Tự Nhu, Nguyễn Hàm Ninh, Chu Mạnh Trinh, Vũ Phạm Hàm, Nguyễn Thượng Hiền, Phan Bội Châu, Bùi Kỷ, Tản Đà ...

Trong kho tàng văn chương ca trù, các bài hay nhất vẫn là những bài ghi lại kỷ niệm giữa văn nhân và ả đào. Mỗi bài hát là một câu chuyện riêng tư thi vị, mà rất nhiều trong số này lại là những sáng tác ngẫu hứng, ngay trong chiếu hát, ngay trong tiệc rượu.

Xưa nay, đến với ca trù là những tâm hồn yêu tiếng hát, tiếng thơ, tiếng tơ, nhịp phách ca trù, để sẻ chia tâm sự, để hoà mình vào thế giới nội tâm sâu thẳm của những tri âm, để hào hứng dốc sạch túi tiền vào cuộc hát mà thưởng cho một ngón nghề tài hoa.

Và văn nhân và ca nữ vẫn là một mối quan hệ mà dường như chỉ có tạo hóa mới ban tặng được. Có phải vì thế mà mối tình giữa văn nhân và ca nữ luôn ở trong trí nhớ người đời? Có phải vì thế mà những mối tình này được lưu giữ trong văn chương rất thi vị cho dù nó hiện diện và tồn tại một cách rất mong manh? 

N.X.D 

13 nhận xét :

  1. Tài, Sắc và Tâm

    Thưa bác Diện,
    Tôi đọc bài liền một mạch và nghĩ: Ngày Xuân phải đọc những bài như thế này! Cũng nhớ mới đọc trên FB về „cái Bình – Văn hóa Việt Nam“ thì cũng muốn được chia sẻ đôi điều.

    *
    Tạo dựng văn hóa là bản năng người, và „căn cước (đặc thù) văn hóa“ khác nhau của các cộng đồng cũng là điều các nhà khoa học đã lý giải được (Diamont: Va chạm giữa các nền văn hóa). Người Tàu nặng về xâm lăng và bành trướng nên lu mờ trí tuệ mà không hiểu điều này; Tai họa cho lân bang, nhưng cũng là do sự ngu-tối của họ. Xa, có thể thấy chuyện Mã Viện „phát hiện“ Việt luật có tới 10 điều khác Hán luật. Gần, có thể ngẫm chuyện cụ Tú Xương dùng „đất“ Tàu là chữ nho để tải hồn Việt khi ngợi ca bà Tú: „Nuôi đủ năm con với một chồng.“ – „Tam tòng, tứ đức“ không là gì trong suy tư của „kẻ sỹ“ Việt!
    Cho nên người Việt vinh danh công đức người Nữ Việt bằng những lời giản dị:
    Phúc, Đức tại Mẫu.
    Tiền bạc của mẹ, của cha,
    Cái nghiên, cái bút thực là của em.
    Võng anh đi trước, võng nàng đi sau.


    *
    Bàn về thơ, phú có thể thống nhất nguyên lý chung là „văn thơ nói CHÍ con người“; Người Tàu định nghĩa „thơ là lời nói trong chùa“ (詩). Sự thực, nhà chùa dùng nhiều hình thức thơ (Kinh, Kệ) cũng chỉ là cách „vận dụng để đi vào lòng người“ thôi.
    Ngay trong chuyện „thơ“ này, Việt, Tàu cũng khác nhau xa: Thơ „Sáu-Tám“ (lục-bát) là đặc trưng Việt lấy điệu âm làm căn bản và sự liên kết toàn bài làm mục đích và tiêu chuẩn. „Điệu âm“, xét sâu có thể thấy bắt nguồn từ nhịp đập con tim mà con người nào, trước khi ra đời, cũng nhận hưởng từ trái tim Người Mẹ. Nguyễn Du viết „Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ TÀI“ cũng là nghĩa thế chăng?
    Người Việt Nam gọi „Tổ Quốc“ là „Mẹ Hiền“ thật sâu sắc và ý nghĩa!


    Thân kính.

    Trả lờiXóa
  2. Mỗi lần đọc lại những bài này thì lại càng thêm yêu mến quý trọng gia tài văn hóa sâu sắc và rất đẹp mà cha ông để lại cho chúng ta. Trong cuộc sống chộn rộn tất bật này, mỗi lần đọc lại, tôi chỉ dám chọn một điểm, một chi tiết làm điểm dừng mà suy ngẫm.

    Nhân hôm Giao thừa xem đĩa Thúy Nga, có tiết mục ngắn diễn tích Lưu Bình - Dương Lễ, hôm nay đọc lại chuyện cô đào họ Nguyễn giúp thư sinh nghèo Vũ Khâm Lân ăn học, tôi thán phục biết bao đức tính hiếu học và cái nhìn rất thoáng, rất cởi mở về quan hệ nam nữ của tiền nhân ta.

    Thân phụ của Vũ tiến sĩ có thể xem như đại diện của lối nhìn "thanh giáo" hẹp hòi, cái tính xấu độc tài gia trưởng và "sỉ diện" khá quen thuộc của người Việt mình. Xưa cụ không bảo bọc được con trước sự ích kỷ độc ác của người vợ kế, thế mà giờ cụ lại ngăn cản con không cho lấy một ả "xướng ca vô loài", không môn đăng hộ đối với cụ! Giữa một xã hội vẫn còn bị tù hãm trong những quan niệm hà khắc như thế mà vẫn xuất hiện một lớp 'văn nghệ sĩ' tuyệt vời như các nhà văn nhà thơ tài hoa yêu tinh thần tự do và nhân bản; lớp 'phường trù' có ý thức cao về đạo đức cũng như sứ mệnh của nghề nghiệp mình; và nhất là một lớp 'cô đầu' mà nhìn lại kỹ - ít là những cô đầu nổi tiếng nhất - thì ta không chê vào đâu được về khả năng cảm thụ văn hóa và sự tận tụy góp tài năng tâm huyết của mình vào gia tài văn hóa chung của cộng đồng.

    Một cô đào mới tuổi mười bảy mười tám mà chỉ qua một thoáng gặp tình cờ, đã có thể nhận ra chàng trai dưới lớp áo nghèo khổ, người mà mình sẽ tự nguyện suốt đời hết lòng 'phù trợ'! Tôi tự hỏi nền văn hóa văn nghệ nào của thời hiện đại có thể sản sinh ra một nữ nghệ sĩ có một linh cảm vô cùng nhạy bén về con người đến thế, và đức quảng đại tuyệt vời dâng hiến cả đời cho một tình yêu thanh khiết cao thượng đến thế? Ca trù quả là "Nghệ Thuật" chân chính, đúng với cái nghĩa cao đẹp của nó là giúp con người hữu hạn được nâng lên khỏi những giới hạn eo sèo của cuộc đời mà đến gần hơn với Chân, với Thiện và với Mỹ.

    (còn tiếp)

    Trả lờiXóa
  3. (tiếp theo)

    Một điểm đẹp hiếm có nữa trong nền văn hóa của tiền nhân, là sự mặc nhiên chấp nhận sự yêu thương đùm bọc đầy 'nữ tính' và đầy 'mẫu tính' của những cô gái đem hết tấm lòng cùng sự tần tảo của mình để giúp sức cho các chàng trai trên đường lập thân gian nan. Nào chúng ta có thấy cái luật khắt khe "nam nữ thụ thụ bất thân" như những lời chê bai tiền nhân là cổ hủ mà ta thường nghe? Châu Long, vợ của Dương Lễ, đã đến căn lều trọ học của chàng thư sinh Lưu Bình, thực sự "nâng khắn sửa túi" cho chàng, biến chàng từ một người trẻ ham chơi và mất hướng trở thành một nhân tài vừa thỏa nguyện bình sinh vừa hữu dụng hữu ích cho cộng đồng. Suốt ba năm như thế mà không "lỗi đạo lý"! Mà nói thực, dù có "lỗi đạo lý" đi nữa thì chắc chắn Dương Lễ cũng không vì hẹp hòi mà trách cứ, và người sau như chúng ta khi đọc lại câu chuyện đó cũng không nỡ trách cứ cái cảnh 'lửa gần rơm'. Ấy thế mà theo câu chuyện thì Châu Long đã không hề để cho Lưu Bình 'lỗi đạo'. Tôi nghĩ rằng Châu Long (giả như) có giữ mình như thế, không phải vì "đạo đức, luân lý" theo cái nghĩa thanh giáo, mà vì "đạo lý của tình nghĩa", đạo lý của tình bạn giữa Dương Lễ và Lưu Bình; và còn vì "nghĩa lớn", vì ý thức sự cần thiết phải 'kiêng khem' trong thời gian Lưu Bình cần tập trung cho việc học!

    Cứ ngỡ chuyện Lưu Bình - Dương Lễ chỉ là cổ tích hư cấu, thì đây, chuyện của cô đào họ Nguyễn và chàng thư sinh Vũ Khâm Lân là có thật, đã ghi lại trong thư sách rành rành! Liệu xã hội của chúng ta ngày nay có dám tin vào lớp trẻ mười tám đôi mươi mà để cho họ được gần nhau, hỗ trợ nhau với tất cả tình bạn và tình yêu trong sáng hay không nhỉ?

    Cái bầu văn hóa tuyệt vời đó của cha ông đã tạo nên một lớp nữ giới cũng tuyệt vời như Châu Long, như nàng đào nương họ Nguyễn! Và một lớp nữ giới tuyệt vời như thế: tấm lòng bao la như trời biển, vô cùng đức hạnh mà cũng vô cùng phóng khoáng tự do như thế, chẳng phải chính là Vườn Ươm thiêng liêng cho cả một thế hệ tinh hoa mai này sao?

    Thánh Gandhi xứ Ấn Độ từng nói: "Giáo dục các em gái nhỏ tức là giáo dục cả đất nước". Tôi nghĩ thánh Gandhi chắc sẽ rất ngưỡng mộ khi biết chuyện nàng nghệ sĩ trẻ tuổi họ Nguyễn của làng Ca trù Việt Nam!

    Trả lờiXóa
  4. Xin góp thêm ý

    Đọc câu của bác Ha Lê:
    Một cô đào mới tuổi mười bảy mười tám mà chỉ qua một thoáng gặp tình cờ, đã có thể nhận ra chàng trai dưới lớp áo nghèo khổ, người mà mình sẽ tự nguyện suốt đời hết lòng 'phù trợ'! Tôi tự hỏi nền văn hóa văn nghệ nào của thời hiện đại có thể sản sinh ra một nữ nghệ sĩ có một linh cảm vô cùng nhạy bén về con người đến thế, và đức quảng đại tuyệt vời dâng hiến cả đời cho một tình yêu thanh khiết cao thượng đến thế? ...
    làm tôi nhớ đến hai chi tiết:
    + Dân ca Quan Họ có lời hay:
    Đừng thấy em lắm bạn mà ngờ; Tuy rằng em đây lắm bạn, em vẫn chờ (là chờ) người ngoan. ...
    + Truyện Kiều cũng có câu: “Anh hùng đoán giữa trần ai mới già.

    Thân mến.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Hay quá! Em xin cám ơn hai 'dẫn chứng' tuyệt vời của bác Văn Đức.

      Xóa
  5. Mục 2, câu cuối của đoạn đầu anh Tễu viết "việc học ngày chàng tiến tới" ở đây đọc thấy lạ lạ, anh Tễu cố ý để vậy chăng?

    Trả lờiXóa
  6. Câu chuyện tình của Nguyễn công Trứ với cô đào Hiệu Thư cũng rất thú vị .

    Trả lờiXóa
  7. Mình thì khoái nhất bài ...thơ tình của cụ Tú Xương tặng bạn hát ả đào:
    "Ai về ai có nhớ không
    Trời mưa một mảnh áo bông che đầu,
    Nào ai có tiếc ai đâu
    Áo bông ai ướt, khăn đầu ai khô?
    Người đi Tam Đảo, Ngũ Hồ
    Kẻ về khóc Trúc than Ngô một mình;
    Non non, nước nước, tình tình
    Ai đi ngơ ngẩn cho mình ngẩn ngơ!"
    Đó! Ai bảo cụ Tú là chỉ làm thơ trào phúng - dù thơ trào phúng của cụ quả là "tuyệt cú mèo"

    Trả lờiXóa
  8. Giang sơn một gánh giữa đồng
    Truyền quyên ứ hự anh hùng nhớ chăng?

    Trả lờiXóa
  9. Ôi ! Tiếc thay, chỉ còn là trong ký ức !
    Thời ấy nay còn đâu ?!

    Trả lờiXóa
  10. Chúc mừng Nguyễn Xuân Diện và tất cả các bác, các anh chị có cuộc sinh hoạt vừa là khoa học, vừa là thưởng thức nghệ thuật và chia sẻ tâm tư, tình cảm. Đào Tiến Thi vì có một hội thảo của cơ quan không thể vắng nên không tham gia được, thật đáng tiếc. Nhất là chưa bao giờ được trực tiếp nghe "Hồng Hồng Tuyết Tuyết". Rất mong bao giờ vào thu mong có một cuộc tương tự.

    Trả lờiXóa
  11. Trân Trọng cám ơn Tác Giả N.X.D cho bài viết và những tài liệu quí giá (liên quan đến văn hóa dân tộc), hy vọng sẽ được đọc nhiều bài hơn trong tương lai về di sản văn hóa dân tộc! và cũng hy vọng (nếu có thể) T.S N.X.D thu lại và cho đăng để bà con vn (ở xa tổ quốc) cũng có cơ hội được thưởng thức...! một lần nữa, xin cám ơn!

    Trả lờiXóa
  12. Xin cho biết Quý vị có bán CD không? Nếu không ghi vào CD đế phổ biến rộng rãi thì thật đáng tiếc. Địa chỉ email của tôi: kdphan@aol.com

    Trả lờiXóa