Thứ Hai, 19 tháng 4, 2021

PHỦ QUỐC


PHỦ QUỐC
 

Phan Cẩm Thượng
 
Tôi sống ở xã Cấn Hữu, Quốc Oai, Hà Tây trong hai năm sơ tán 1966, 1967, trở lại Quốc Oai trong năm 1972 , từ đó thi thoảng đi qua mà thôi. Tôi không hình dung được cảnh vật xưa đã thay đổi như thế nào, chắc chắn nó thay đổi, như biết bao vùng miền mà tôi từng qua, nhưng nơi này giống như quê hương thứ hai, nơi hình thành cái gốc rễ văn hóa cổ trong tôi không bao giờ thay đổi. 

Làng tôi sống , không biết có phải là vùng Bương Cấn , được nhắc đến trong thơ Quang Dũng. Câu thơ rằng : Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn / Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng / Sông Đáy chậm nguồn qua phủ Quốc / Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng . Nỗi nhớ này , ai qua đây một lần thì biết , đó là nơi có cái gì rất đặc trưng của đời sống Việt cổ xưa . Ở làng , người ta không gọi nhau bằng tên , mà gọi tên con cho bố mẹ . Nếu bạn có con gái đầu lòng tên là Hạnh , người ta sẽ gọi bạn là anh Đĩ Hạnh . Nếu bạn có con trai đầu lòng tên là Ba , bạn sẽ được gọi là chị Bòi Ba .Đĩ và Bòi vốn hai từ chỉ bộ phận sinh dục nữ và nam , trong từ cổ Việt Nam , cũng là hai từ chỉ giống cái và giống đực . Để nhớ danh phận người làng , người ta đặt một bài vè dài có tên và tính cách của mọi người . Ví dụ : De dái bà Nủa / Lắm của bà Oanh / Lắm chanh ông Thót / Hay hót bà Yên … Như vậy qua bài vè ta thấy bà Oanh là người giầu có , ông Thót có vườn chanh to , bà Yên thì hay đưa chuyện . Còn de dái là gì , từ để chỉ một người đã già nhưng nhanh nhẹn , hoạt bát .Tôi bèn tìm gặp bà Nủa . May quá thấy bà trong một đám ma . Cho đến giờ , tôi chưa từng gặp lại một đám ma nào trang trọng và phức tạp như vậy . Màn đêm buông xuống , kèn trống bập bùng , màn múa Thập ân bắt đầu . Một đứa bé ăn mặc áo đen nẹp đỏ , đội mũ có ngù , tay cầm sinh tiền vừa múa vừa rung theo điệu nhạc và các pháp sư thì hát bài kể mười ân nghĩa của cha mẹ nuôi con . Sáng sớm hôm sau , dẫn đầu đoàn ma là một ông sư tay cầm cành phan , hai mươi bà cụ căng một cầu lụa trắng dài tới 40m đưa vong linh sang suối vàng , bà Nủa rất nhanh nhẹn , chạy quanh cầu lụa tay cầm tù và thỉnh thoảng rúc một hồi dài vang vọng . Chiều về ở rệ đê , người ta đem một chiếc chõng ra đốt cháy đùng đùng . Như vậy trước khi chết , người qua cố sẽ được chuyển qua nằm chiếc chõng tre , sau khi chết sẽ hỏa táng , chiếc gường còn tốt nên để dùng cho người sống. Dần dần tôi cảm nhận những tập tục sâu sắc của Cấn Hữu, tôi không hiểu nó hay hay dở, nhưng nó gắn với dân tộc này, mảnh đất này , như một thứ tâm linh huyền ảo .

Tập tục đa thê trong làng vẫn còn phổ biến, tất nhiên là di sản của xã hội cũ. Thoạt tiên , tôi sống trong một gia đình chủ nhà có hai vợ. Hai bà vợ ở hai căn nhà tách biệt cách nhau khoảng sân rộng , người chồng sinh hoạt với cô vợ bé nhiều hơn. Chị em tôi ở nhà bà vợ cả . Chuyện đánh ghen cũng thi thoảng xẩy ra và cảnh tượng giống y như bức tranh dân gian Đánh ghen Đông Hồ . Lũ trẻ con gọi hai bà vợ này là mẹ già và mẹ dì. Khi mất con gà , bà mẹ già này chửi như một bài hát có vần điệu. Bài chửi được hướng tới nhà hàng xóm mà bà nghi ngờ : Con gà ở nhà tao là con công con phượng, sang nhà mày là con cú con quạ. Cờ xanh cắm ngõ , cờ đỏ cắm nhà, bắt lấy tên, biên lấy tuổi, lên trình Nam tào, sao Bắc đẩu …Bài ca này dài lắm , không thể nhớ hết , véo von trong hai hôm liền , thì con gà bỗng trở về chuồng cũ . Đêm ấy con lợn sề của gia chủ đẻ liền 20 con , lợn mẹ chỉ có 12 vú , nên ông chủ quyết định loại tám con yếu , đem cho các bác sơ tán làm thịt . Bấy lâu mấy vị sơ tán chỉ có cơm độn sắn , rau còn thiếu , huống chi thịt , nên mở một bữa đại tiệc . Họ dúi cả tám con lợn sữa còn chưa mở mắt vào sô nước , cắt từng con thành lát mỏng kể cả gan ruột , rồi cho vào chảo mỡ sôi . Bữa tiệc kéo đến nửa đêm , râm ran tin thời sự chống Mỹ . Nhưng đối với tôi việc này kinh khủng quá , cứ nhìn thấy thịt là thấy ghê ghê .

Một thời gian thì chúng tôi chuyển sang gia đình khác . Bà chủ nhà mới nom như một người Mường , bà cạo đầu trọc , mặc áo ngắn , váy dài , quấn ruột tượng xanh quanh cạp váy . Bà bị phong thấp nên đêm thường rên hừ hừ , nhiều khi đau quá khóc i ỉ . Tôi cũng ít ngủ , thường ra động viên bà và đọc Kiều cho bà nghe . Thực ra tôi cũng chỉ thuộc Kiều lõm bõm và gặp ngay một cao thủ , bà nhắc liền nhưng đoạn tôi không thuộc . Và từ đó hằng đêm bà ngâm liên miên các chuyện thơ Trương Chi , Nhị độ mai , Phan Trần , Tống Trân Cúc Hoa , Phạm Tải Ngọc Hoa . Người thầy văn chương của tôi thời thơ ấu hóa ra là một người hoàn toàn mù chữ . Nhưng đối với tôi , bà giống như một bảo tàng dân tộc học sống động , từ y phục , cách ăn ở , đến những hiểu biết về ca dao dân ca.

Cấn Hữu là một xã gồm ba làng Cấn Thượng, Cấn Trung và Cấn Hạ nằm ven con đê, cũng là con đường, nối từ huyện lỵ Quốc Oai chạy sang đường số 6 . Đi về phía Tây , có thể vào chân núi Ba Vì cao ngất . Người dân Cấn Hữu thường vào núi hái củi . Công việc này rất vất vả , một thanh niên khỏe mạnh ,dậy rõ sớm đi chừng 25 km mới đến nơi kiếm củi , mang theo mo cơm , hái xong bó củi sậy , rồi gánh về đén làng là vừa tối . Chiến tranh , thanh niên khỏe đi hết . Thi thoảng anh tôi từ đại học về , vào núi lấy củi cho chúng tôi . Không thì phải mua cũng đắt . Có lần tôi đi vào núi chơi , thoạt tiên qua một dòng sông nhỏ , có cầu tre cao lênh khênh , đến một rừng tùng yên lặng như thời thái cổ . Đi chừng 20 km , thì gặp những bản Mường nhỏ với mươi nóc nhà sàn nằm giữa những rừng mơ không khí trong xanh như ngọc . Một bà cán bộ Mường hỏi han rất kỹ , rồi dẫn tôi về nhà nấu cơm cho ăn , bà lấy cá khô gần như đã mục ở một chum sành , chưng lên , ăn với cơm trắng vô cùng ngon , sau đó thì được tráng miệng bằng một đĩa mơ xanh . Tôi thấy người Mường dáng thanh thoát , bận váy rất cao , áo thì rất ngắn , đầu vấn khăn , những bà già thường đeo một giỏ trầu chính giữa đít . Từ đó hễ có cơ hội , tôi thường đến chơi bản Muờng .Dân làng Cấn lại bận những chiếc váy vuông đen , chít khăn mỏ quạ , và áo cánh nâu . Đi xa thì đội nón thúng , mưa lạnh thì khoác áo tơi và cầm theo bùi nhùi . Sau này tôi thường vẽ những người phụ nữ nông thôn theo trí nhớ như vậy .

Con đường xuyên qua ba làng rất nhiều đền đình chùa . Một cái miếu ven đường , mái rất thấp đến nỗi chúng tôi thường đứng ở rệ đê , rút ngói , đẽo cái chơi đáo . Chỉ một thời gian ngắn , mái miếu hở hoác ra , tôi cũng thấy lo lo , bèn nói với một người lớn trong làng , ông đáp : Cứ tiếp tục đánh đáo . Nay mai cũng phải dỡ cái của mê tín dị đoan ấy đi .Tối về tôi kể với bà chủ nhà , bà rền lên : Phải tội chết cháu ạ .Cha tôi và ông chủ nằm nói chuyện về sấm Trạng Trình . Hình như câu chuyện hướng đến sự phá hoại của chúng tôi .Nguyễn Công Trứ không tin vào mê tín , bèn phá đền thờ Trạng Trình . Phá đến hậu cung bỗng hiện ra tấm bia đề : Minh Mệnh thập tứ / Thượng Trứ phá đền / Phá đền rồi lại làm đền / Nào ai cướp nước tranh quyền của ai .Một chuyện khác : Trạng Trình sắp mất bèn để cho con cháu một phong thư , dặn khi nào đói nghèo thì mang thư lại quan phủ . Con cháu ông nghèo thật bèn đến quan , viên quan đang nằm nghe nói có thư của Trạng Trình rất ngạc nhiên vì trạng đã chết từ lâu sao còn thư từ được , ông bèn ra ngoài , vừa bước đi cái xà nhà bỗng sập xuống , quan thoát chết . Mở phong thư chỉ có hai câu rằng : Ngã cứu nhĩ thượng lương chi ách / Nhĩ cứu ngã tử tôn chi bần – Ta cứu ngươi khỏi ách xà nhà / Vậy ngươi hãy cứu sự đói nghèo của con cháu ta . Cha tôi bảo có câu sấm này theo trò chơi ô ăn quan của trẻ con : Hết quan , tàn dân, thu quân , bán đất , hiện mới đúng một nửa , chẳng biết nửa sau thế nào . Đêm nào cũng vậy , tâm hồn thơ dại của tôi ngày một đầy ắp những chuyện nửa hoang đường , nửa nhân tình thế thái ngày xưa .

Hôm sau , một đoàn bộ đội ghé qua làng . Một chú bộ đội , có lẽ chỉ gấp đôi tuổi tôi , mắc võng giữa hai cành bưởi , thấy tôi bèn mời lên ngồi cùng võng . Không ngờ tôi khá nặng , cành bưởi gẫy toác . Ngay tôi hôm đó ông đại đội trưởng , cùng người lính trẻ đến chủ nhà xin lỗi . Bà chủ cứ đứng khóc xụt xịt , làm ông lính già luống cuống , quát nhặng tay lính trẻ của mình . Bà chủ bèn nói : Tôi có tiếc cây bưởi đâu , tôi thương mấy anh mặt mũi non trẻ thế kia vào nơi bom đạn có về được không . Trong tâm trí tôi , những anh lính lúc đó thật hào sảng .

Lớp học của tôi nằm trong một ngôi đền nhỏ , kề liền đình làng , phía trước là sân đình rất rộng , phía sau là vườn cây . Thầy giáo tôi thường cuốc và tưới rau xong , đập chân mấy cái , rồi mới rút quyển sách từ cạp quần ra dậy học . Khi thầy mải tăng ra thì chúng tôi chỉ được học rất ít . Chữ đực chữ cái , tôi thường nán lại xem ông thủ từ viết chữ Nho . Ông dậy tôi bện chổi và bện vài cái chổi nhỏ , sách xô nước ra sân đình tập viết chữ bằng chổi . Tôi không hiểu nghĩa chữ , nhưng thuộc mặt chữ khá nhanh và viết bằng chổi khá tốt , nên ông thủ từ rất quý . Tôi bèn mò đi đình chùa khắp ba làng xem chữ Nho . Ở làng Cấn Trung có ngôi đình liền chùa , gọi là tiền đình hậu tự . Đình có sàn gỗ , nên chùa cũng có sàn như một sân khấu . Bọn trẻ con bảo trong chùa có ông nhịn ăn để mặc , và ông nhịn mặc để ăn , sau naỳ mới biết đó là tượng Phật Tuyết Sơn và Di Lặc . Chúng tôi thường xỏ vào những đôi hia gỗ , rút đao kiếm từ giá hộ bộ ra choảng nhau , làm gẫy khá nhiều đồ thờ . Về sau đi nghiên cứu đình chùa tôi không còn thấy ngôi đình liền chùa nào đẹp như vậy .

Giữa đồng Bương Cấn có một ngôi miếu hoang nằm chơ vơ . Trẻ chăn trâu thường thả trâu , rồi tụ ở đó đánh đáo , chúng thách tôi ném vỡ ông mặt nhật đỏ rực có đôi rồng chầu mà không bị thánh vật . Tôi vừa lia lên đó một hòn gạch , bỗng trên giời một đàn máy bay bay tới quần thảo . Lũ trẻ nằm nép vào bờ ruộng giữa cánh đồng , nhìn lên trời bốn năm chiếc F4 và hai chiếc Mic17 đang rượt nhau .Cảnh tượng thật là ngoạn mục . Chiếc Mic17 cắt thùng dầu phụ , giống như quả bom lao xuống đất , nổ tóe lửa dữ dội . Đàn trâu hoảng sợ lồng lên trên cánh đồng , chúng phi ào ào qua người chúng tôi . Đám dân quân nấp trong bụi tre tưởng chúng tôi không bị thương cũng bị trâu xéo , bèn chạy ra , nhưng không ai làm sao . Hôm đó một máy bay Mỹ rơi , viên phi công bị bắt ngay làng gần đó , và giam ở chợ giữa các làng . Sáng sớm hôm sau chúng tôi tụ tập đi xem phi công Mỹ . Hàng ngàn người hua đòn gánh reo hò , đòi dân quân dẫn tên phi công Mỹ ra . Tên này hoảng sợ , người rất cao to và mặc chiếc áo liền quần . Một bà già lao thẳng vào hắn , nếu không có người dân quân chắc tên phi công đã ăn mấy đòn gánh . Một lúc sau có xe của nhà nước đến chở đi.

 Phan Cẩm Thượng tiếp khách tại Bảo tàng Văn hóa Mường, Hòa Bình. Ngày 24.10.2012

Chị tôi chuyển lên trường cấp ba Quốc Oai học , tôi đi theo và trọ ngay sau động Hoàng Xá . Thầy giáo tôi rất dữ đòn , học sinh không thuộc bài thầy lập tức rút song cửa sổ quất ba roi .Tôi mới đi học một tuần đã thấy cửa sổ gần bàn thầy không còn cái song nào , do đó ai học cũng tốt . Học sinh vùng này chơi nhẩy ngựa hàng ngày , trò chơi cũng nguy hiểm , chia làm hai bè nam nữ lẫn lộn , một bè ôm đít nhau làm ngựa , một bè nhẩy , rồi cùng ngã lăn chiêng ra đất . Tôi bị gẫy tay ngay lần chơi đầu tiên . Bà lang trong làng bó lá gì đó cho tôi , và bắt tập đi hàng ngày , tay đau vô cùng , nhưng ghê nhất bà bắt uống hai bát nước cua sống mỗi ngày . Nước cua giã lờm lợm , tanh tanh , mằn mặn , chỉ chực nôn ọe . Nhưng kết quả thật bất ngờ , hết năm 1967 , tôi cao to hẳn lên , quần áo thành ngắn cũn .Tôi nghe nói đồng bằng phủ Quốc có 99 quả núi đá , giống như 99 con voi chầu về một hướng , còn một quả chạy về hướng khác . Người xưa không coi cái gì là toàn thiện , chín là số trời rồi . Quanh Sài Sơn hình như có 16 quả , còn những quả ở xa đến tận núi Tử trầm . Tôi leo lên đỉnh núi Thầy , đếm núi , nhưng chẳng thể đếm chính xác , bèn đi từng quả một . Tôi đi được chừng mươi quả , thấy hầu hết trên núi đều có đền chùa . Núi này chỉ có một phương đình chơ vơ trên tận đỉnh , hóng gió bốn phương . Núi kia là cả một hệ thống đền chùa , có tam quan chân núi , điện Phật lưng chừng ẩn sau lum cây và hậu đường trong một khe động . Núi nào cũng có suối nhỏ , am động , lên xuống ngoắt ngéo , kỳ thú vô cùng . Lớp học của chị tôi nằm trong một am nhỏ trên một quả núi gần đê rất thanh tịnh . Sau này , các quả núi dần bị nung vôi , không biết đến nay còn bao nhiêu . Tôi để ý các quả núi bị đánh hết đều không có chân , đào sâu một hai mét là hết sạch , như vậy các núi đá Sài Sơn giống như được giời quẳng đến trong một cuộc khai thiên lập địa nào đó .

Thời gian sau, chúng tôi lại chuyển về làng Ngọc Than cách huyện lỵ chừng 2km ở . Tôi còn nhớ rõ chữ Ngọc Than môn ghi rất ngay ngắn ở cổng làng , nhớ đình Ngọc Than to không kém gì đình Bảng , có sàn cao và mái cong duyên dáng . Làng Ngọc Than rất đẹp và văn minh hiếm có ở Bắc bộ . Mùa thu , chị tôi mua cho tôi những con rối đung đưa , bằng giấy hình các quan tướng ngày xưa ở chợ Quốc Oai . Đây có nghề làm hàng mã tinh khéo sau này không thấy nữa. Từ Ngọc Than , tôi theo con đường đất đỏ lần mò lên Thạch Thất . Con đường này rất bẩn , mùa hè thì bụi mù , mùa đông thì lầy lội , đi mất ba tiếng mới đến chùa Tây Phương . Mọi người lúc đó phần nhiều đi đất , vì không thể đi dép trên con đường này được . Mùa đông , đi vài giờ các ngón chân lạnh cóng không còn cảm giác gì . Nhà nông chế ra loại dép cao su chỉ có một quai nhỏ xỏ một ngón chân , và một quai lớn giữ bàn chân . Một bà cụ nhờ tôi dắt lên núi , rồi cho tôi ăn khoai , bà dặn lên chùa xem nhưng chớ trèo leo nghịch tượng . Lúc đó tôi cũng chưa biết xem tượng , tôi thấy các chùa tượng đều giống nhau , nhưng cũng thấy tượng Phật chùa Tây Phương vừa to vừa giống người đời . Tôi ngồi trên núi Câu Lậu nhìn mái cong hai tầng như cái đuôi phượng . Cơ quan cha tôi chuyển về Quảng Oai , nên tôi cũng có dịp theo con đường đất đỏ này đến đình Tây Đằng và chùa Mía cổ kính . Tất cả chỉ là tò mò , vì tôi thích những nơi lạ , vắng vẻ , lại đẹp . Đình chùa lúc đó rất hoang vu , tha hồ lấy thứ gì mình muốn và đập phá , dần dần biến thành kho để phân đạm và thóc , nơi cho dân sơ tán ở , nơi thành xưởng thủ công , nơi thành lớp học . Tôi chưa biết từ văn hóa , nhưng có cảm giác lờ mờ về một đời sống xa xưa đang bị thoải mái hủy hoại .

Năm 1972, tôi quay lại học cấp 3 Quốc Oai , lớp học nằm ở xã Liệp Tuyết . Bắt đầu ở tuổi phải đi gánh nước , tôi để ý đến cái giếng làng . có giếng khơi cho cả làng tắm giặt và có giếng rất sâu chuyên để lấy nước ăn . Chiều đến cả làng , nam phụ lão ấu ra giếng khơi tắm giặt chuyện trò râm ran và những cô gái thon thả đung đưa cái đòn gánh với hai thùng nước từ giếng sâu về nhà . Giếng khơi hình tròn có tường bao xung quanh , và mở hai lối xuống , cho một bên nam một bên nữ , trên lối là nhà tắm nhỏ , nhưng đàn ông thường cứ tắm ngay thành giếng . Làng quê quả thực là một môi sinh văn hóa , dường như chứa đựng đầy đủ cái gì đó gọi là Việt Nam . Tôi không hề ý thức rằng chỉ hai năm lên chín , lên mười tôi đã được học xong một trường đại học mà nền tảng kiến thức để dùng đến tận bây giờ , mà tất cả những năm tháng đi học sau đó chỉ giống như đổ nước lã xuống sông mà thôi . Từ đấy , tôi không quay về làng quê này nữa , trừ thỉnh thoảng đi nghiên cứu chùa Thầy và chùa Tây Phương . Tôi không biết huyện Quốc Oai đã đổi thay thế nào , những người thầy của tôi ai còn ai mất , và cả những gia đình nông dân đã từng đùm bọc những người dân sơ tán chúng tôi , những bạn bè thủa thơ ấu ra sao? Tôi giữ lại toàn là hình ảnh của hơn 40 năm trước, để thấy rằng Phủ Quốc như một đất nước thu nhỏ, trong một Việt Nam. Ở đấy có sông có núi, đồng ruộng tươi tốt kề bên nương dâu bãi mía, có những mái đình duyên dáng, những ngôi chùa thâm nghiêm, những tập tục ngàn đời và những người nông dân thật chất phác, nhân hậu .

Phan Cẩm Thượng
2007

18 nhận xét :

  1. Đọc Phủ quốc của PCT như được trở về quê, về tuổi niên thiếu hồn nhiên dân dã.Chiều nay về phải rẽ vào hiệu sách tìm mua cuốn sách Văn minh vật chất của người Việt- cảm ơn blog NXD

    Trả lờiXóa
  2. Bài rất hay, cảm ơn hoạ sĩ Phan Cẩm Thượng và chủ nhân blog Nguyễn Xuân Diện.
    Một người con làng Cấn đang sống tại Paris

    Trả lờiXóa
  3. nhung bai viet nhu the nay giu lai qua khu cho dan toc / van phan cam thuong rat hay /hay o nhung chi tiet /

    Trả lờiXóa
  4. Ôi quê tôi -sài sơn đó bác PCT à,năm 1972 nhà tôi là đại bản doanh của viện quân y 108,cả làng tôi nhà nào cũng vậy ,toàn cán bộ quân y sỹ của 108.đến bây giờ g/đ tôi vẫn duy trì quan hệ với 2 người 1 là y tá và 1 là cấp dưỡng.thời ấy ..xa rồi..!
    Sài Sơn bây giờ thay đổi nhiều ,dự án Tuần Châu Hà Tây lấy hết đất lúa -có lẽ nhạc sỹ Lê Minh Sơn với bài Ôi Quê Tôi -đất bán hết rồi ...đàn trâu về đâu .là nói về quê tôi đó chăng?
    làm ăn ở quê tôi không sợ bị xù nợ đâu .có vài đơn vị chỉ thích đi làm kinh tế bằng đồ chơi tàu ,nhật.bạn chi khoảng 10% số nợ khó đòi là ok...ôi quê tôi....!

    Trả lờiXóa
  5. Da co mot thoi gian luc 19-20 gi do toi co mot khoang thoi gian ngan theo ban be duoc Anh Phan Cam Thuong day vo , moi the ma da 20 may nam , thi thoang van gap Anh ngoai bo ho Hoan Kiem , toi rat thich nhung bai viet cua Anh , no nhu nhung ban nhac dong que nhe nhang sau lang , goi nho ve mot tuoi tho ...
    Cam on Anh ! sang day doc bai viet cua anh thay tam hon nhe nhang , thu thai hon nhieu , chuc Anh manh khoe , va co nhieu hon nua nhung bai viet hay .

    Trả lờiXóa
  6. Bài viết quá hay - hồn quê Việt Nam đâu rồi?
    Làng quê Việt Nam bây giờ thế nào ấy, bê tông hoá, nhà cửa vụn vặt, lô nhô, ao chuôm, cây đa, giếng làng và nhiều thứ nữa đâu rồi?
    Lòng người chật hẹp, nhỏ nhặt, ti tiện. Làng quê vô hồn. Ôi quê tôi?

    Trả lờiXóa
  7. Cảm ơn một bài viết hay đưa tôi về với tuổi thơ. Tôi ở Ngọc Than.

    Trả lờiXóa
  8. Hóa ra anh PCT viết cái gì cũng hay cả, bài này từ 2007 mà sao rưng rưng xúc cảm đến thế. Tâm hồn PCT trong treo và nhạy cảm vô cùng trong bài viết này của anh.

    Trả lờiXóa
  9. ôi chú viết bolg hay quá,cháu là con người của xã cấn hữu ,bgio xã cấn hưu thay đổi nhiểu lắm chú ak

    Trả lờiXóa
  10. " Sau này những quả núi dân bị nung vôi " . Đọc tới đây tôi chọt nhớ Nàng Tô Thị ở Đồng Đăng ( Lạng Sơn ) . Cách nay khoảng 10 năm tôi có dịp đi thăm nàng . Thương ôi, nàng chỉ còn là một pho tượng chẳng ra hình người bằng cốt thép, da thịt bằng xi măng. Còn nàng Tô Thị từ ngàn xưa đã bị bóc xuống nung vôi mất rồi . Tôi ôm nàng mà khóc, đọc câu thơ : " Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa / Có nàng Tô Thị, có Chùa Tam Thanh " mà lòng tôi chợt thấy bối hồi . Nay nàng còn đâu . Mà nơi nàng Tô Thị có thiếu gì đá để nung vôi, cớ sao người ta lại cố tình giết nàng ? Lên mấy bậc đá nữa là tới Thành Nhà Mạc , mấy trăm năm rêu phong vẫn còn bền vững ! Tiếc cho những giá trị văn hóa ngàn năm bỗng chốc biến thành cục vôi nho nhỏ !

    Trả lờiXóa
  11. Bài viết không những rất hay mà còn như một tài liệu vô cùng quí giá của một nhân chứng: "Tôi không hề ý thức rằng chỉ hai năm lên chín, lên mười tôi đã được học xong một trường đại học mà nền tảng kiến thức để dùng đến tận bây giờ, mà tất cả những năm tháng đi học sau đó chỉ giống như đổ nước lã xuống sông mà thôi."

    Cám ơn bác Phan Cẩm Thượng đã chia sẻ lại "hai năm đại học" của bác. Không có bài viết này, những người chưa hề được thăm miền Bắc bao giờ như tôi có thể tìm được ở đâu những chi tiết sống động như thế về một làng quê còn rất đậm nét Việt cổ xưa?

    Trả lờiXóa
  12. Ngồi co chân lên ghế
    nó cách chức bác sỹ bây giờ.

    Trả lờiXóa
  13. Bài viết quá hay làm cho mình tưởng nhớ tới thuở ấu thơ của mình ở một vùng quê miền Trung thanh bình.Mong PCT tiếp tục cho ra tiếp những bài viết mới.Cảm ơn!

    Trả lờiXóa
  14. Đính chính chút :
    Xã Cấn hữu có tổng số 5 thôn trong đó có hai thôn Cấn thượng và Cấn hạ nhưng không có thôn Cấn trung.
    Có lẽ tác giả sơ tán ở Cẫn hữu từ khi còn nhỏ nên nhớ nhầm.

    Trả lờiXóa
  15. Mai an Nguyễn Anh Tuấnlúc 18:11 17 tháng 4, 2018

    Cảm ơn PCT, em trai của người bạn gái cùng học với tôi ở Đông Yên hồi sơ tán. Đây cũng là Quê ngoại tôi; mẹ tôi là em út của hai người bác nhạc sĩ Lê Yên & Lê Lôi... bài viết của PCT đã gợi cho tôi nhiều cảm xúc và chất liệu để làm phim về quê Mẹ mà tôi đang ấp ủ.

    Trả lờiXóa
  16. Quê ngoại tôi ở xã Nghĩa Hương, huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, nên những năm thời thơ ấu tôi thường về đây. Tôi đã từng đi bộ từ Thạch Thất xuống Quốc Oai, nhưng đi bằng đường phía trong, khi ấy tôi còn rất nhỏ, chỉ khỏang 8 tuổi hay nhỏ hơn, vì đang có chiến tranh giữa Việt Minh và Pháp nên không dám đi trên tỉnh lộ, đường lát đá từ Thạch Thất xuống Quốc Oai nên phải đi chui ở đường phía trong là vậy. Đó là những năm 1948 hay 1949. Làng Ngọc Than tôi cũng đi qua ở bên ngoài, trên con đường đê dẫn thuỷ nhập điền, nên nhìn thấy đình làng Ngọc Than. Tôi không thấy đình Ngọc Than có gì đẹp và to cả như tác giả khen ngợi. Sau này lớn lên có dịp đi khắp nước, tôi khám phá ra, giọng người Quốc Oai nói rất khó hiểu so với những vùng khác.Tôi cũng có chứng kiến một đám ma ở vùng này. Tôi thấy có người phải nằm lăn tròn trên đường qua tài đi qua, điều này tôi không thấy ở vùng khác!

    Trả lờiXóa
  17. Bài viết hay quá. Đất nước thật đẹp. Tác giả có một tuổi thơ cũng thật đẹp.

    Trả lờiXóa
  18. Bài viết rất chân mộc mà đọc lại cuốn hút vô cùng. Cám ơn tác giả PCT, người đã ghi lại những nét văn hóa vùng quê một thời. Cám ơn TỄU- BLOG đã đem về bài tản văn quý giá này

    Trả lờiXóa