Hiển thị các bài đăng có nhãn Vũ Thế Long. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Vũ Thế Long. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 3 tháng 6, 2022

TẾT ĐOAN NGỌ, RƯNG RƯNG NHỚ NGƯỜI XƯA, CHUYỆN XƯA

Toàn dân giết sâu bọ

Vũ Thế Long

Thời ông bà cụ kị tôi còn sống, cứ đến những ngày này, khi thấy bà nội tôi đong gạo nếp, mua men rượu, rửa thúng, chặt lá chuối, lá sen chuẩn bị làm rượu nếp là cả lũ hân hoan reo mừng chờ đợi ngày giết sâu bọ sắp đến.
.
Sáng sớm hôm ấy, gà gáy sáng, mắt nhắm mắt mở vừa lồm ngồm bò ra khỏi giường, xỏ chân vào đôi guốc mộc là Bà nội đã giục cả lũ mau mau ra súc miệng rồi còn kịp giết sâu bọ. Bà bảo “Sâu bọ phải giết vào buổi sáng thì mới công hiệu”. Mấy chị em tôi hí hửng vội vã múc gáo nước súc miệng qua loa rồi vào nhận phần. Bà chia cho mỗi dứa một bát rượu nếp thơm lừng vừa ngọt dịu lại có vị cay của rượu. Dùng đôi đũa tăm nhỏ xíu cẩn thận gắp  cơm rượu bỏ mồm nhai từng hạt mọng nước men mà thấy ngất ngây. Một cảm giác say say lạ lùng không thể nào diễn tả được. Bà chia cho mỗi đứa mấy quả mận chua. Bọn tôi chấm muối nhai rồm rộp chảy nước dãi.

Bà bảo: “Các cháu ăn như thế thì sâu bọ sẽ chết hết. Trong người ai cũng có con sâu con bọ. Ngày hôm nay là mồng năm, ngày đầu hè nên không giết thì sâu bọ nó sinh sôi nảy nở”…Bà dạy thế thì biết thế chứ tôi cũng chẳng hiểu sâu bọ trong bụng người nó ra làm sao. Thấy bà cho ăn rượu nếp, ăn mận chua là khóai rồi. Lũ trẻ chúng tôi chỉ sợ lỡ ra nuốt phải cái hột mận thì khốn. Người ta dọa: nếu nuốt phải hột mận thì sẽ bị mọc cây trên đầu. Nghe mà hãi.

Đọc tiếp...

Chủ Nhật, 25 tháng 8, 2019

Ẩm thực cuối tuần: RƯƠI


Ẩm thực Rươi 
Vũ Thế Long

Tặng Khôi để nhớ ông bạn Thanh Bẩn người Hải Dương
đã cho chúng mình thưởng thức mắm rươi tuyệt diệu ngày nào.

Thưở nhỏ mỗi khi trở trời, Hà Nội oi nồng và lất phất mấy hạt mưa, ông tôi nằm trở mình lại bảo “lại sắp có rươi rồi đây!”. Quả nhiên, sớm dậy có bà bán rươi gánh hai thúng rươi rao ngay đầu phố “Ai mua rươi ra mua” Cái tiếng rao trầm bổng thật đặc trưng mà nếu ta không ghi âm lại để giữ cho con cho cháu thì liệu sau này còn ai biết nữa không? Cái thời buổi điện tử số hóa này, đến rao thuốc chuột, bán báo người ta cũng dùng loa ắc quy cho quay đi quay lại tòan những câu thơ vần vui vui:

“Chuột lớn chuột bé, chuột mẹ chuột con
Chuột nga la tư, chuột thổ nhĩ kì
Chuột gỉ chuột gi
Chuột gì cũng chết”
 
hay:

“Còn thừa tiền lẻ làm chi
Mua liều thuốc chuột phòng khi chán đời”…

Đọc tiếp...

Thứ Năm, 23 tháng 11, 2017

Ngày Di sản: MỘT CÔNG DÂN TRẢ BẰNG KHEN TẠI LỄ TRAO TẶNG

 Ông Quách Văn Địch phát biểu trả lại bằng khen cho Sở Văn hóa Thể thao Hà Nội.
Ảnh cắt từ video clip trên trang FB Vũ Thế Long.

TS Vũ Thế Long
23-11-2017

Trả lại bằng khen

Sáng hôm nay, 23-11-2017 tại Bảo Tàng Hà Nôi, có kỉ niệm Ngày Di sản. Ông bạn tôi là ông Quách Văn Địch, ở Bồ Đề Gia Lâm có hiến tặng cho Bảo tàng Hà Nội hai chiếc mỏ neo vô cùng hiếm qúy vớt được đưới đáy sông Hồng khu vực gần cầu Chương Dương. Ông Địch đã bỏ ra một số tiền lớn để sưu tầm hiện vật này. 

Tôi đã cùng một số học giả Úc, Mỹ nghiên cứu rất nghiêm chỉnh hai hiện vật này để xác định giá trị của nó. Đây là chứng tích của Hà Nội ngàn năm văn hiến, nơi đã có giao thương sầm uất từ mấy trăm năm nay....

Đọc tiếp...

Thứ Tư, 31 tháng 5, 2017

Vũ Thế Long: HỌP HÀNH


Họp Hành

Vũ Thế Long

Họp là gì ? Họp có từ bao giờ ?

Trong tiếng Việt, người ta thường hay dùng từ ghép. Mỗi cụm từ thường được tổ hợp một từ Hán đi kèm với một từ Việt. Hai từ này đứng riêng có cùng một nghĩa nhưng ghép vào nhau, cũng vẫn nghĩa ấy nhưng nghe có vẻ uyển chuyển hơn. Ví dụ từ xe cộ. Xe có gốc Hán (xa), cộ là phương tiện vận chuyển vùng nông thôn không có bánh mà có hai thanh quệt được trâu kéo lê ngoài ruộng hay trên đất bùn có gốc Việt. Tiếng Việt có cụm từ thông dụng là hội họp. Hội cũng có gốc Hán (Hui, tức là họp) và từ họp có lẽ có gốc Việt. Như vậy, việc họp hành nó vốn có ở Việt Nam từ rất lâu đời. Từ điển Tiếng Việt thì giải thích một cách ngắn gọn “ Họp.-Đg. nhóm lại một chỗ để làm việc gì: họp hội nghị; họp chợ.” 
Đọc tiếp...

Thứ Hai, 6 tháng 6, 2016

TS. Vũ Thế Long: NHỮNG BÃI BIỂN HOANG VẮNG DỌC MIỀN TRUNG


Phải làm gì bây giờ?
06.06.2016

Cửa Tùng, Xuân Thành, Cửa Lò những ngày này đều vắng như "Chùa Bà Đanh".

Đi đến đâu cũng thấy ngư dân, bà con làm dịch vụ cá, buôn bán, du lịch và dân chúng than thở.

Họ không biết sẽ sống bằng cách nào.

Người đánh cá nghèo ngàn đời chỉ đánh bắt quanh quẩn trong vùng biển gần bờ lấy đâu tàu thuyền mà đi khơi xa ngoài 20 hải lí.

Đọc tiếp...

Thứ Sáu, 2 tháng 12, 2011

TIN BUỒN

Nguyễn Thị Kim (1917 - 2011)
Được tin Cụ NGUYỄN THỊ KIM
(Cụ bà Phạm Văn Đôn)
Nghệ sỹ điêu khắc, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II
đã từ trần  tại nhà riêng vào hồi 14h ngày  01-12-2011, hưởng thọ 95 tuổi.

Lễ viếng bắt đầu từ 7h30 ngày thứ Ba, 06-12-2011 
tại nhà tang lễ Bộ Quốc phòng, số 5 Trần Thánh Tông  Hà Nội.

Lễ truy điệu và đưa tang lúc 9h30 cùng ngày 
và an táng tại nghĩa trang Thanh Tước Hà nội.

Gia đình chúng tôi xin gửi đến Họa sĩ Phạm Mai Châu,
(mà tôi có lần ghé thăm xưởng vẽ tại phố Núi Trúc, Giảng Võ),
Tiến sĩ Vũ Thế Long và phu nhân (con rể và con gái cụ Nguyễn Thị Kim) 
cùng toàn thể tang quyến lời chia buồn sâu sắc.

Xin cầu nguyện Đức Phật A Di đà cùng chư Phật 
tiếp dẫn hương hồn Cụ Nguyễn  Thị Kim vãng sinh miền tịnh thổ.

Nguyễn Xuân Diện & Trang Thanh Hiền
.
Tiểu sử Nữ điêu khắc gia Nguyễn Thị Kim:
Nghệ sĩ Nguyễn Thị Kim sinh năm 1917 tại Hà Nội. Cha bà là Nguyễn Văn Khải, cũng là một hoạ sĩ. Lớn lên bà theo học tại Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương khoá 1939 - 1944, cùng khoá với Phạm Văn Đôn. Sau này khi tốt nghiệp, hai người kết hôn với nhau.

Từ năm 1945 đến 1946, bà giảng dạy tại Trường Mỹ thuật Việt Nam. Bà còn là thành viên Ban chấp hành Hội hữu nghị Việt Pháp. Tháng 5 năm 1946, bà cùng Nguyễn Đỗ Cung và Tô Ngọc Vân được cử vào Bắc Bộ Phủ vẽ và nặng tượng chân dung chủ tịch Hồ Chí Minh. Bức tượng Chân dung Hồ Chủ tịch ra đời trong thời gian này đã nhận giải thưởng Mỹ thuật toàn quốc năm 1946.

Từ năm 1947 - 1953, bà là giảng viên Trường Thiếu sinh quân liên khu IV, Trường Văn hoá kháng chiến ở liên khu IV. Là thành viên Ban chấp hành của Hội Phụ nữ Việt Nam. Ngoài ra bà còn làm trang trí sân khấu, hoá trang cho Đoàn kịch Giải Phóng của Phạm Văn Đôn, Thế Lữ.

Năm 1954, bà trở về Hà Nội, giảng dạy tại Trường Mỹ thuật Việt Nam.
Năm 1959 đến 1961, làm nghiên cứu sinh tại Viện Hàn lâm Mỹ thuật Leningrad (St. Petersburg) ở Liên Xô.
Năm 1970 đến 1980, thành viên Ban chấp hành Hội Mỹ thuật Việt Nam.
Năm 1983 đến 1984, đi sáng tác và giảng dạy tại Lào và Campuchia.
Năm 1988, cùng với Phạm Văn Đôn tổ chức triển lãm mỹ thuật ở Ba Lan, Tiệp Khắc và Đức. Năm 1993, cùng Phạm Văn Đôn mở triển lãm tại l'Alliance Franchise ở Hà Nội. Và Thái Lan

Nhiều tác phẩm của Nguyễn Thị Kim được trưng bày và bảo quản tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Bảo tàng Việt Bắc và một số bảo tàng ở Nga, Ba Lan, Pháp... Một số tác phẩm của bà đã được sưu tập ở Việt Nam và nước ngoài.

Bà cũng từng là thành viên Hội Văn Nghệ Việt Nam, Hội Mỹ thuật Việt Nam, Phó chủ tich Hội Văn nghệ Hà Nội, thành viên Uỷ ban Hoà bình Thành phố Hà Nội.

Giải thưởng: Giải thưởng Mỹ thuật năm 1943, giải thưởng tại Triển lãm mùa thu (1946); Giải thưởng tại Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc (1958); Giải thưởng tại Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc (1995); Giải thưởng Triển lãm Mỹ thuật Hà Nội; Giải thưởng Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc dành cho tác giả nữ; Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II chuyên ngành mỹ thuật (2001).

Các tác phẩm tiêu biểu về tượng và phù điêu: Chân dung Hồ Chủ tịch; Bác Hồ viết Tuyên ngôn Độc lập; Nữ du kích; Thiếu nữ Đức; Công nhân mỏ; Cô xã viên; Nữ du kích miền Nam; Mười một cô gái thành phố Huế; Hạnh phúc,...
Ngoài ra bà còn vẽ tranh trên chất liệu sơn mài và lụa. Bức sơn mài Hai Bà Trưng đã được giải thưởng Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1995.

Nguồn: Thanh tra VN. (Nguyễn Xuân Diện có sửa lại 1 số chi tiết theo đính chính của gia đình Nghệ sĩ Nguyễn Thị Kim)
CÁO PHÓ CỦA HỘI MỸ THUẬT VIỆT NAM VÀ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
.

Đọc tiếp...