MẤY ĐIỀU HỎI LẠI GIÁO SƯ TRẦN NGỌC VƯƠNG Đào Tiến Thi
Tôi từng đọc một vài công trình của PGS.TS Trần Ngọc Vương, từng tiếp thu được một số tư liệu và nhận định; về con người, tôi cũng từng gặp đôi lần và vẫn kính cẩn gọi bằng thầy, coi ông như một người thầy đáng kính.
Nhưng tôi thấy trong bài viết Giới trí thức tinh hoa trong lịch sử Việt Nam trên tạp chí Tia sáng ngày 9-9-2010, được blog Nguyễn Xuân Diện đăng lại ngày 17-12-2011, thì có nhiều điều nghe khó lọt. Bài của PGS.TS Trần Ngọc Vương có 3 phần:
- Trí thức Nho học Việt Nam, hay trí thức Việt Nam thời phong kiến
- Trí thức Tây học Việt Nam, hay trí thức Việt Nam thời Pháp thuộc
- Trí thức mới Việt Nam, hay trí thức Việt Nam thời XHCN
Tôi xin chỉ nói về hai vấn đề đầu.
1. Phần thứ nhất, theo tác giả thì trí thức Nho giáo ở ta có một lịch sử lâu đời nhưng đóng góp cho tư tưởng học thuật thì không đáng kể, thua hẳn trí thức Nho giáo Trung Hoa và thua trí thức Phật giáo Việt Nam. Theo cảm nhận của tôi, điều này có lẽ đúng và hình như cũng có người nói rồi. Tuy nhiên chỗ này cũng nên tìm rõ cội nguồn. Không nên vội kết luận “Không có ai có hứng thú đi vào những tư tưởng triết học”. Nói như thế thì hóa ra trí thức Nho giáo Việt Nam hoặc lười biếng hoặc mang căn tính nô lệ, chỉ biết học của Tàu hay sao?
Theo tôi có hai nguyên nhân khiến trí thức Nho giáo Việt Nam khó có thể chuyên tâm đi vào học thuật.
Thứ nhất, với nền sản xuất tiểu nông là chủ đạo, con người phải vật lộn với nhu cầu mưu sinh đầy khó khăn, chúng ta khó mà có được những nhà tư tưởng thuần túy, chỉ biết có học thuật. Trí thức Nho học luôn gắn sự tồn tại bản thân với nghiệp làm quan, nếu có lui về ẩn dật thì lại gắn với ruộng vườn. Trước dư luận xã hội, cả hai trạng thái trên đều cần có danh phận (đỗ đạt, chức tước, bổng lộc của triều đình). Dư luận xã hội không khuyến khích những người “tử vì đạo” (theo nghĩa say mê một học thuyết, không quan tâm nhu cầu mưu sinh cũng như dư luận xã hội). Trong bối cảnh ấy khó có cá nhân nào đủ bản lĩnh đi ngược đám đông. Hoài Thanh từng cay đắng thốt lên điều này:
“Quang cảnh học giới nước ta tiêu điều làm sao! Dễ thường thế giới không có nước nào mà những người tự nhận là học giả lại lạnh lùng với việc học như ở nước mình. Người mình vẫn được tiếng là hiếu học nhưng đúng ra chỉ hiếu lợi và hiếu danh. Khi sự học không đưa đến cho mình lợi và danh thì ít ai còn màng đến nó nữa”[i] Thứ hai, cũng có những lúc có tài năng lớn xuất thiện, nhưng lại gặp lúc vận nước nghiêng ngả nên họ phải đặt việc cứu nước cứu đời lên trên hết. Đấy là trường hợp của Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu và nhiều sỹ phu cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Nếu cho phép đặt ra chữ “nếu”, vâng, nếu không phải bôn ba cứu nước thì thiết nghĩ thay vì nhà cách mạng Phan Bội Châu, chúng ta có sẽ có nhà tư tưởng Phan Bội Châu. Tôi dám “nếu” điều này vì đọc thấy ngay trong thơ văn tuyên truyền cách mạng của Cụ, thứ trước tác vốn phải làm gấp, không trau chuốt, lại phải đại chúng hóa, mà luôn chứa những tư tưởng lớn của thời đại. Và chỉ trong 15 năm cuối đời bị an trí ở Huế, với tuổi già sức yếu, sự bó buộc, và đặc biệt là nỗi đau buồn về đất nước, Cụ vẫn còn viết được hai tác phẩm triết học đồ sộ: Chu dịch diễn giải và Khổng học đăng (hai tác phẩm nay in ở Phan Bội Châu toàn tập, tập 9 và 10, khoảng 1500 trang khổ 16 x 24). Trong lời giới thiệu Chu dịch diễn giải, nhà sử học Chương Thâu viết: “Như là một học giả uyên bác, Cụ đã dồn hết sức lực và tâm huyết để nghiên cứu thêm, giải thích lại một số thành tựu vĩ đại của văn hóa Phương Đông dành cho các thế hệ con cháu mai sau”[ii]. Ở Khổng học đăng, tư tưởng chủ quan của người khảo cứu càng lớn hơn. Chương Thâu đánh giá: “Bộ sách này đủ cho ta thấy rõ tư tưởng học thuật và đời sống tinh thần của cụ Sào Nam. Cụ không viết theo lối nghiên cứu khách quan của học giả, mà Cụ viết theo sự tâm đắc của bản thân mình. Bởi thế nên Cụ có rất nhiều tư tưởng chủ quan của mình. Nhưng cũng vì thế mà ta thấy rõ được những ý kiến để bồi bổ cho linh hồn và để nuôi dưỡng cái hoài bão cao đẹp của mình”[iii]. 2. Phần thứ hai của bài, nói về trí thức thời Pháp cai trị, PGS.TS. Trần Ngọc Vương càng có xu hướng hạ thấp một cách phi lịch sử:
“Gia nhập xã hội hiện đại theo con đường bị cưỡng bức, không hề được chuẩn bị đầy đủ về mọi phương diện để thích nghi, thiếu nghiêm trọng những kinh nghiệm và thực tế tương ứng được với xã hội hiện đại từ truyền thống, tóm lại, với tính nhược tiểu thể hiện khá “hoàn hảo”, giới trí thức Việt Nam khi trở thành “tầng lớp trí thức bản xứ” thêm một lần nữa bị chủ nghĩa thực dân vày vò, ép ướp hoàn toàn có chủ đích chỉ nhằm biến đổi họ thành đám vong quốc nô có chữ nghĩa. Lịch sử còn lưu lại vô số bằng chứng cả trực tiếp cả gián tiếp chứng minh cho đường lối chính trị, chính sách trí thức thuộc địa này của thực dân Pháp”.
Ở đây có hai khía cạnh đáng nói:
- Tác giả sai lầm về phương pháp.
- Tác giả bất chấp sự thật lịch sử.
Tác giả viết: “Lịch sử còn lưu lại vô số bằng chứng…” thế nhưng lại không đưa ra bằng chứng nào mà chỉ gói gọn trong một câu ở chú thích:
“Các bộ lịch sử, lịch sử tư tưởng Việt Nam của cả các tác giả người Việt lẫn người Pháp đều cung cấp nhiều tài liệu liên quan đến điều này”.
Trong khoa học không cho phép lối chứng minh như thế, bởi vì:
Thứ nhất, luận điểm mà không có luận chứng (dẫn chứng, lý lẽ) thì luận điểm ấy là áp đặt, không có sức thuyết phục; còn nếu bỏ lửng, bắt người đọc tìm đọc thì có khác nào đánh đố, và còn thể hiện không tôn trọng người đọc.
Thứ hai, quan trọng hơn điều thứ nhất, sự thật lịch sử không chỉ tìm ở mỗi trong các bộ sử, lại càng không thể ở trong các sách lịch sử tư tưởng, bởi ở đấy rất có thể lịch sử đã bị cắt xén, giải thích theo ý người viết. Thực ra tìm sự thật lịch sử trong trường hợp này không khó, vì nó là trước tác, hãy còn rành rành trên giấy trắng mực đen. Sao PGS.TS. Trần Ngọc Vương không tìm ở trong chính trước tác của các nhà trí thức thời bấy giờ cùng không khí học thuật của thời đó để từ đó phán xét tư tưởng của họ mà lại tìm qua sự phán xét của người khác?
Và thực tế như mọi người đã biết, biết bao nhận định sai lầm, oan uổng kéo dài mấy chục năm đối với rất nhiều học giả, nhà văn lớn, như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Trọng Kim,... Nhận định của các học giả Pháp cũng không phải bao giờ cũng khách quan, chính xác. (Mà cũng lạ, biết bao lời ca ngợi của các học giả Pháp dành cho Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Mạnh Tường,… thì PGS.TS. Trần Ngọc Vương lại không biết?)
Đi xa hơn, PGS.TS. Trần Ngọc Vương còn muốn xóa sổ tầng lớp trí thức Tây học trước Cách mạng tháng Tám:
“Hệ quả cuối cùng của chính sách thực dân, dù những chính sách cụ thể trong từng thời kỳ nhất định có đổi thay theo hướng xoa dịu sự phản ứng của một cư dân bản địa dù sao cũng có hàng nghìn năm lịch sử đồng thời trên từng bình diện nhất định phải đáp ứng những đòi hỏi của tình hình khó khăn mà “mẫu quốc” lâm vào, vẫn cứ là một tầng lớp trí thức bản xứ với rất ít cá nhân thực sự đạt tới trình độ tinh hoa, đội ngũ chuyên gia tuy có số lượng khá hơn nhưng không toàn diện, gắn bó quá trực tiếp với sự điều tiết từ chính quốc chứ không phải gắn bó với xã hội và nền kinh tế tại chỗ, và một lượng đông đảo nhất những trí thức cấp thấp. Chất lượng của một tầng lớp trí thức như vậy, xét trên tương quan của một sự so sánh lịch đại, nghĩa là so sánh về khả năng đáp ứng những nhu cầu phát triển từng thời điểm lịch sử khác nhau, chắn chắn là còn kém hơn thời kỳ tiền thực dân”.
Gộp cả ý của hai đoạn ta thấy, PGS.TS. Trần Ngọc Vương gần như phủ định hoàn toàn tầng lớp trí thức Tây học trước Cách mạng:
Một, họ là con đẻ của chủ nghĩa thực dân.
Hai, họ không đáp ứng được nhu cầu lịch sử.
Ba, kết luận lại, lớp trí thức Tây học còn “kém hơn thời kỳ tiền thực dân” (tức trí thức Nho học nửa sau thế kỷ XIX – ĐTT).
1. Nhận định thứ nhất thực ra không mới. Nó là một định kiến đã lâu. Tuy nhiên, trong vài thập niên gần đây, dư luận xã hội đã phải nghĩ lại, đã phải cải chính rất nhiều, không hiểu sao PGS.TS. Trần Ngọc Vương vẫn bám lấy định kiến đó. Một phép suy luận đơn giản cũng cho thấy: với âm mưu của thực dân “nhằm biến đổi họ (trí thức bản xứ - ĐTT) thành đám vong quốc nô có chữ nghĩa” hay âm mưu “xoa dịu sự phản ứng của một cư dân bản địa” không bao giờ lại có thể đẻ ra một lớp trí thức tài năng, có lòng yêu nước, tự tôn dân tộc cao. Còn thực tế thì đã quá rõ ràng. Nguyễn Khánh Toàn, Đặng Thai Mai, Đào Duy Anh, Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Thái Học, Trần Huy Liệu, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Xuân Hãn, Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Tôn Thất Tùng, Trần Hữu Tước, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tuân, Phạm Ngọc Thạch, Đặng Văn Ngữ, Lương Định Của, Nguyễn Xiển,… toàn những trí thức do trường Tây đào tạo, những trí thức này hoặc đã tham gia các phong trào cách mạng trước năm 1945, hoặc từ năm 1945 một lòng đi theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tham gia suốt hai cuộc kháng chiến, chính họ là lực lượng rường cột cho nền văn hóa, khoa học mới, và cả rường cột cho giai đoạn non trẻ của chế độ mới.
Ở đây cần nói thêm để không đến quá “oán” cũng như không quá “ơn” chính sách khai thác thuộc địa của chủ nghĩa thực dân. Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, ngoài ý muốn của họ, đã khách quan mang lại những điều kiện thuận lợi cho sự tiến bộ của xã hội Việt Nam nói chung, của đời sống học thuật nói riêng. Thực dân Pháp (cũng như bất cứ thứ thực dân nào) không có mục đích “khai hóa” nhưng để khai thác được thuộc địa, họ buộc phải đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật và khoa học. Người Pháp ngay khi chưa chinh phục xong Việt Nam, họ đã làm đường sắt, xây cầu, trạm bưu điện, khí tượng, rồi sau đó mở trường đại học, viện nghiên cứu, bảo tàng,… Tầng lớp trí thức ra đời một cách “vô tư” như thế. Mặt khác, do lòng yêu nước, tự tôn dân tộc, lớp trí thức mới nắm ngay lấy công cụ tri thức mà nhà trường thực dân trang bị để làm vũ khí đấu tranh, để xúc tiến công cuộc tiến bộ cho xứ sở mình. Nhiều nhà Nho chủ trương cho con đi học trường Tây để sau này đánh lại Tây là như vậy. Ngoài ra cũng phải kể đến một số quan toàn quyền, một số chính khách, nhà khoa học Pháp có đầu óc tiến bộ, họ đã có những chính sách tích cực nhất định, góp phần thúc đẩy xã hội Việt Nam theo chiều hướng tích cực.
2. Về nhận định thứ hai, chúng tôi không hiểu thế nào mới là “đáp ứng những nhu cầu phát triển từng thời điểm lịch sử khác nhau”?
Thử hỏi, làm thế nào để đưa chữ Quốc ngữ trở thành văn tự quốc gia ngay từ cuối những năm hai mươi, để từ đó tiếp thu văn hóa nhân loại, giúp đất nước nhanh chóng thoát khỏi “đêm trường trung cổ”, nếu không phải là những hoạt động đầy hăng hái bắt đầu từ lớp sỹ phu đầu thế kỷ XX, tiếp theo là các nhà báo, nhà văn chuyên về hoạt động văn hóa như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Hữu Đang và các trí thức trong nhóm Tri tân, Thanh nghị,…? Ai đã làm nên cuộc cách mạng trong văn học những năm ba mươi, bốn mươi nếu không phải là những nhà văn xuất thân trường Tây (Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Nam Cao,…) để trong vòng chưa đầy mười lăm năm, văn học Việt Nam tiến những bước khổng lồ, bắt kịp vào thế giới hiện đại? Ai đã dấy lên rầm rộ phong trào đòi thả cụ Phan Bội Châu và để tang cụ Phan Châu Trinh những năm 1925 – 1926, rồi phong trào Dân chủ những năm ba mươi, và cả Văn hóa cứu quốc những năm chuẩn bị Tổng khởi nghĩa? Nếu không có lớp trí thức ra đời ngay trong lòng chế độ thuộc địa sẽ không có gì cả.
3. Không biết PGS.TS. Trần Ngọc Vương đặt ra tiêu chí nào của giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX để kết luận tầng lớp trí thức giai đoạn này không đáp ứng được vai trò lịch sử, lại còn “chắn chắn là còn kém hơn thời kỳ tiền thực dân”?
Tôi không hiểu lớp trí thức nửa đầu thế kỷ XX kém cái gì so với lớp tiền bối của họ (lớp nhà Nho nửa sau thế kỷ XIX). Tài năng? Nhân cách, Sự đóng góp vào sự phát triển của lịch sử? Hay là tất cả?
Những nhà Nho tích cực nhất của nửa sau thế kỷ XIX có hai loại: loại chỉ bằng ngòi bút với những kiến nghị, điều trần như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch; loại trực tiếp đánh giặc theo tư tưởng tôn quân với đường lối chiến lược, chiến thuật cũ kĩ như Thủ khoa Huân, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Quang Bích, Phan Đình Phùng,… Cả hai loại nhà Nho đó, tuy ta kính phục họ về nhiệt tình yêu nước, về tài đánh giặc nhưng phải nói, so với yêu cầu lịch sử, họ là lạc hậu. Chính họ nhiều khi cũng nhận ra điều đó. Nhiều người đánh giặc biết chắc thất bại, đánh giặc chỉ vì cái nghĩa đáng làm mà thôi. Còn lớp trí thức đầu thế kỷ XX (xuất thân Nho học nhưng tiếp thu Tân học) tìm đường giải phóng dân tộc theo xu hướng cách mạng tư sản dân quyền thì đã thực sự tiến kịp thời đại. Chỉ riêng về văn hóa, họ đề cao khoa học, kỹ nghệ, đề cao thực học, đề cao nếp sống văn minh, phê phán kịch liệt lối hư văn, bài trừ óc mê tín, thói hủ lậu,… cũng là bước tiến kịp thời đại đáng nể, thậm chí còn hơn chúng ta ngày nay với bao trò mê tín, đồng bóng cùng lối sống thực dụng đến thảm hại. Các lớp trí thức sau lớp sỹ phu, tuy không làm cách mạng giải phóng dân tộc mạnh mẽ nhưng tiếp tục hoạt động rất tích cực về văn hóa, văn học, đã đưa văn hóa, văn học nước nhà phát triển theo chiều sâu, nhờ thế nước ta bắt đầu thoát khỏi “đêm trường trung cổ, hội nhập vào thế giới hiện đại từ cuối những năm hai mươi của thế kỷ XX. Giả sử lớp trí thức nửa đầu thế kỷ XX vẫn tiếp tục con đường của Nguyễn Trường Tộ, Phan Đình Phùng,… thì lịch sử nước ta đi lên hay tụt lùi?
Mặt khác, theo quan điểm duy vật lịch sử, đánh giá mỗi nhân vật lịch sử không phải là xem họ làm được gì so với yêu cầu của thời đại mà là họ đã làm gì so với người đi trước đó. Ở đây chúng ta dễ dàng nhận thấy lớp trí thức đầu tiên của thế kỷ XX mà tiêu biểu là hai cụ Phan tuy vẫn là trí thức Nho học nhưng họ đã vượt rất xa những trí thức Nho học cuối thế kỷ XIX, cả về tầm vóc tư tưởng, tri thức văn hóa lẫn tinh thần dấn thân. Còn lớp trí thức những năm ba mươi trở đi thì thì thực sự đã là những trí thức hiện đại, ngang hàng các trí thức Phương Tây. Đọc những sự kiện hội đàm giữa phái đoàn ta với phái đoàn Pháp những năm 1945 – 1946, các trí thức của ta có tư thế thật đáng tự hào. Trong khoảng vài thập kỷ, lịch sử dân tộc tăng tốc một cách đáng ngạc nhiên nhờ sự đóng góp quan trọng của tầng lớp trí thức này.
Cũng cần nói thêm rằng lớp trí thức khoa học lẫn trí thức văn nghệ sỹ Tây học cho đến 1945 còn rất trẻ, thường chỉ trên dưới ba mươi hoặc chỉ ngoài hai mươi, cứ như bây giờ thì nhiều người hãy còn ở tuổi ăn bám gia đình, thế mà họ đã làm được khối việc như ta đã biết. Nhưng sự nghiệp của họ không nên chỉ tính mấy năm trước Cách mạng, mà còn phải tính giai đoạn sau Cách mạng nữa. Tuy nhiên sau 1945, do dân tộc phải lao vào hai cuộc chiến, rồi do những sai lầm, phiến diện trong quan niệm, mà giới trí thức Tây học trước 1945 (thường gọi là trí thức cũ) người thì được phát huy, người thì bị thui chột, nhiều người còn mắc nạn. Cùng theo Bác Hồ từ Pháp về, tài chế tạo vũ khí của ông Trần Đại Nghĩa có đất dụng võ, danh tiếng ông trở nên lẫy lừng, trong khi đó tài triết học của ông Trần Đức Thảo trở thành tai họa cho chính ông, khiến ông bị đặt ra ngoài lề cuộc sống, suốt đời sống trong nghèo khổ và sợ hãi, đến mức gần như bị bệnh hoang tưởng, tâm thần. Trong số nhà văn, cũng có người sở trường còn phù hợp, cũng có người không. Không ít nhà văn Tiến chiến (Phan Khôi, Trương Tửu, Văn Cao,…) dính vào vụ Nhân văn giai phẩm đầy nghiệt ngã.
Tóm lại, dù đứng ở góc độ nào để đánh giá thì lớp trí thức Tây học trước Cách mạng đã có những cống hiến xuất sắc. Nhiều người gọi đây là “thế hệ vàng”, quả là không ngoa. Không biết bao giờ nước nhà mới lại có một thế hệ như thế.
Bài viết này chưa phải là bài tranh luận, càng chưa phải là bài nghiên cứu. Nếu tranh luận hay nghiên cứu cần bàn một cách toàn diện và có cứ liệu đầy đủ hơn. Mà chỉ vì thấy những nhận định của PGS.TS. Trần Ngọc Vương có nhiều “gợn” quá nên tôi mạn phép đặt ra một số câu hỏi và nêu một số cảm nhận như trên.
[i] Hoài Thanh: Vấn đề học thuật ở nước ta chỉ là một vấn đề tâm lý và luân lý, Sông Hương, Huế, 1936, in lại trong Hoài Thanh toàn tập, tập 4, NXB Văn học, 1999). [ii] Phan Bội Châu toàn tập, tập 9, NXB Thuận Hóa, 2000. [iii] Phan Bội Châu toàn tập, tập 10, NXB Thuận Hóa, 2000.
*Bài do tác giả gửi trực tiếp cho NXD-Blog.
Xin chân thành cám ơn!