Hiển thị các bài đăng có nhãn Trần Ngọc Vương. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Trần Ngọc Vương. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 22 tháng 4, 2020

GS.Trần Ngọc Vương: AI SẼ CHỊU TRÁCH NHIỆM TRƯỚC LỊCH SỬ



Trần Ngọc Vương
21.04.2020

KHÔNG BÀN ĐẾN TRÁCH NHIỆM LỊCH SỬ ĐƯƠNG NHIÊN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ CHÍNH THỂ HIỆN TỒN TRƯỚC HIỂM HOẠ CẤP BÁCH, TRƯỚC TỘI ÁC THÔN TÍNH BIỂN ĐÔNG CỦA TRUNG QUỐC CỘNG SẢN

Tôi chỉ nghĩ bàn về trách nhiệm của các cơ quan chức năng. 

Đảng cộng sản Việt Nam cần yêu cầu làm rõ thành tựu và trách nhiệm của các cơ quan sau đây, xếp theo thứ tự: 

1. Ban đối ngoại Trung ương
2. Bộ Ngoại giao, đặc biệt là ban biên giới ( nay là Uỷ ban biên giới chính phủ) 3. Bộ phận đối ngoại của Bộ quốc phòng
4. Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam
5. Viện Hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam
6. Hội Khoa học lịch sử Việt Nam

Đọc tiếp...

Thứ Ba, 25 tháng 2, 2020

CẢNH BÁO TỪ GIÁO SƯ TRẦN NGỌC VƯƠNG

Bệnh nhân nghi ngờ nhiễm nCoV chờ để xét nghiệm tại Phòng khám sàng lọc
thuộc Trung tâm y tế Daegu. Ảnh: Yonhap.

Trần Ngọc Vương
CẢNH BÁO !

Tôi vừa có cuộc điện đàm với đôi vợ chồng tiến sĩ Nguyễn Ngọc Quế, chuyên gia song ngữ tại trường ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ SEOUL HÀN QUỐC.

Hiện nay tình hình dịch bệnh COVID- 19 trên toàn 17 đơn vị tỉnh thành của Hàn Quốc đều báo động đỏ. 

Giáo phái TÂN THIÊN ĐỊA là một giáo phái bí mật, không rõ số lượng tín đồ bao nhiêu, nhưng nếu không phải “ đồng đạo” thì dù cha con vợ chồng hay anh em cũng không được biết nhau. Giáo phái ấy tuyên truyền về một ngày tận thế đang đến gần một cách hân. hoan, tập trung cùng nhau tại nhà thờ của giáo phái, chủ động làm lây lan sang nhau rồi chia nhau sang tham gia trà trộn vào đám đông đặc biệt là nhà thờ của các giáo phái khác, với mục đích thúc đẩy được càng nhiều người nhiễm bệnh càng tốt! Vì không có dấu hiệu nhận biết đặc trưng và không xác định chính xác số lượng tín đồ (nhà chức trách ước tính con số đến ngót hàng trăm nghìn)! 
Đọc tiếp...

Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2019

14h30 HÔM NAY: GẶP GỠ & ĐỐI THOẠI VỚI GS. TRẦN NGỌC VƯƠNG


CHƯƠNG TRÌNH CÀ PHÊ GẶP GỠ & ĐỐI THOẠI
Chuyên đề: ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HÓA PHÁP ĐỐI VỚI VIỆC HÌNH THÀNH NỀN VĂN HÓA MỚI CỦA VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ 20

Cà phê với GS.TS Văn học TRẦN NGỌC VƯƠNG

Chủ đề: “Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX trong sự tiếp biến với văn học nghệ thuật Pháp.”

Chủ trì: Nhà phê bình văn học PHẠM XUÂN NGUYÊN

Vào lúc 14:30 Chiều thứ 7, ngày 29/06/2019
Quán CÀ PHÊ THỨ BẢY, 03 Ngô Quyền, Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Đọc tiếp...

Thứ Bảy, 2 tháng 6, 2018

GS. Trần Ngọc Vương: HÃY CHẶN ĐỨNG SỰ NGU DẠI KHỔNG LỒ NÀY !!!

Giáo sư Trần Ngọc Vương. Ảnh: Internet.

CHO THUÊ ĐẤT ĐẶC KHU 99 NĂM?

GS Trần Ngọc Vương
26-5-2018


Ngoài kia là Hoàng Sa, quần đảo đã bị cướp trắng và đang bị kẻ cướp biến thành căn cứ quân sự hùng mạnh.

Xa hơn là Trường Sa, từ chỗ kẻ thù không một tấc đảo cắm sào, ba mươi năm qua chúng lộng giả thành chân với sự tiếp tay của một nhóm Việt gian tiếm quyền "hùng mạnh", đã kịp đảo hoá những rạn san hô và đá ngầm thành một tổ hợp quân sự khổng lồ khác.

Đọc tiếp...

Thứ Tư, 23 tháng 5, 2018

GS. TRẦN NGỌC VƯƠNG NỬA ĐÊM GỌI QUỐC HỘI ĐẾN LẠC GIỌNG


Trần Ngọc Vương

QUỐC HỘI ƠI!


Nhân kỳ họp quốc hội, Trung Quốc lại tiếp tục xâm phạm nghiêm trọng và trắng trợn chủ quyền quốc gia, tôi đề nghị cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước ra một nghị quyết bày tỏ ở mức đích đáng sự phản đối những hành động đó.

Không việc gì đáng làm cấp bách hơn việc đó vào lúc này! 

Đọc tiếp...

Thứ Hai, 16 tháng 4, 2018

PHÁT HIỆN KINH NGẠC VỀ NHÀ THƠ BÚT TRE


CHƯA BAO GIỜ

Dẫu yêu mến ông và dòng thơ do ông tạo dựng, chưa bao giờ tôi nghĩ BÚT TRE lại thành nhà tiên tri thế hệ mới ( hiện đại) của nước nhà! Gần đây, ngồi đọc lại và tự mình hệ thống hoá những ý ngọc lời vàng của giới cầm quyền, về mục tiêu chính trị - xã hội, về đường lối kinh tế, về cách thức lãnh đạp đến quản lý điều hành...bức tranh chung mà BÚT TRE vẽ ra thật chính xác đến bất ngờ và sự hiền minh thật không thể chê trách vào đâu được!

Đọc tiếp...

Chủ Nhật, 4 tháng 2, 2018

GS. Trần Ngọc Vương: MA BỀ TRÊN, MẢ CỤ LỚN


Trần Ngọc Vương

LẨN THẨN NÓI CHƠI

Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, trong một bài Nhàn đàm, có nói đến việc một ông quan đương thời vẫn được gọi là lớn, bỏ tiền nhà ra xây một cái sinh phần, xây cất hoàng tráng ( so với thời bấy giờ), khánh thành rình rang ( cũng là so với thời bấy giờ), bằng những lời mỉa mai cười cợt khá là cay độc. Mình nhớ nhất câu " Bao nhiêu người xưa nay, lúc sống đã ăn hại của thế gian, đến lúc chết vẫn không chừa đất cho người ta sống tiếp. Ngẫm xưa nay cái lời tôn xưng CỤ LỚN thì vẫn thấy, mà chưa hề thấy ai được gọi là CỤ LỚN MẢ".

Đọc tiếp...

Thứ Hai, 8 tháng 1, 2018

PHẢN ỨNG TỨC THÌ CỦA DƯ LUẬN KHI ÔNG HẢI TỪ CHỨC


VỖ TAY CHO ĐOÀN NGỌC HẢI

Ông Đoàn Ngọc Hải, Phó Chủ tịch UBND quận 1, TP HCM từ chức (bản tin trên báo Người Lao Động).

Dù bất đồng với phương cách thô bạo trong “chiến cuộc vỉa hè” của ông. Nhưng việc giữ lời hứa “không làm được sẽ cởi áo về vườn” của ông Hải đáng để trân phục.

Quan chức Việt, hiếm ai có được lòng tự trọng và nghĩa khí như ông. Nó khiến ta liên tưởng đến tuyên bố “không từ chức, không thoái thác bất cứ nhiệm vụ nào khi đảng và nhà nước giao phó” của ông Nguyễn Tấn Dũng trước quốc hội, lúc còn đương nhiệm Thủ tướng.

Đọc tiếp...

Chủ Nhật, 5 tháng 11, 2017

BỎ MẠNG FACEBOOK, GOOGLE ĐỂ NGÃ VÀO LÒNG TRUNG QUỐC?

Trung Quốc hầu như không tồn tại các trang mạng xã hội phổ biến thế giới. 
Ảnh: Melisa MacKay.

Trần Ngọc Vương: Lâu nay nhiều bạn bè vẫn thắc mắc về "vạn lý tường lửa" của an ninh mạng TQ, đối với cả người sử dụng internet nội địa lẫn người ở nước ngoài. Cần có một sự giải thích rõ ràng hơn để nhiều người khỏi lầm lẫn.

Theo dõi sự phát triển của lĩnh vực CNTT TQ trên những thành tựu tổng thể, có thể khái quát như thế này: họ đã thiết định nên những công cụ và phương tiện kỹ thuật thông tin bắt kịp, gần như thay thế hoàn hảo các tính năng tiên tiến nhất mà các công cụ của các hãng hàng đầu trên thế giới đã tạo ra được. Với số dân 1/5 thế giới, thị trường CNTT của họ dư sức nuôi lớn các tập đoàn CNTT hàng đầu. Cực giỏi bắt chước -với chất lượng không thua kém bao nhiêu- lại có truyền thống làm những đồ tinh xảo và những thiết kế bí mật, bảo mật, bộ phận tinh hoa nhất của CNTT TQ mà điển hình là Hwavei ( Hoa Vi) đã phát triển cực kỳ nhanh chóng, thậm chí hiện được coi là tập đoàn đào tạo gián điệp và đội quân tác chiến mạng bậc nhất trên thế giới. Đọc một số bài nói bài viết của Nhiệm Chính Phi, TGĐ của tập đoàn này, không khỏi cảm giác vừa khâm phục vừa ... rùng mình ớn lạnh. 

Đọc tiếp...

Thứ Năm, 27 tháng 7, 2017

Trần Đình Sử: GS NGÔ BẢO CHÂU CÓ XÚC PHẠM HỒ CHỦ TỊCH KHÔNG?

GS. Ngô Bảo Châu. Ảnh: Internet.

Trần Đình Sử

GIÁO SƯ NGÔ BẢO CHÂU 
CÓ XÚC PHẠM HỒ CHỦ TỊCH KHÔNG?
 
Ông Nguyễn Trọng Bình phân tích: "Năm2016, nhân dịp kỷ niệm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên trang cá nhân, GS Châu có nói rằng: “Có quý mến ai thì mong họ thoát khỏi vòng luân hồi, đừng bắt họ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”.

Đọc tiếp...

Thứ Tư, 9 tháng 11, 2016

BÌNH LUẬN NÓNG VỀ VIỆC D.TRUMP ĐẮC CỬ VÀ CỤC DIỆN THẾ GIỚI



Nguyễn Đăng Hưng

DONALD TRUMP ĐẮC CỬ TỔNG THỐNG MỸ

Rất bất ngờ nhưng Donald Trump đã thắng rất thuyết phục, Hoa Kỳ sẽ phải chờ nhiều năm nữa mới có nữ tổng thống.

Dân Mỹ đã chọn lựa, quyền lợi của dân Mỹ sẽ là trên hết và Hoa Kỳ từ hôm nay sẽ đổi khác sau tám năm dưới sự cầm quyền của đảng dân chủ.

Đọc tiếp...

Thứ Bảy, 28 tháng 5, 2016

VÌ SAO ÔNG OBAMA NHẮC TỚI TƯ TƯỞNG PHAN CHU TRINH?

Nhà chí sĩ yêu nước, nhà tư tưởng Phan Chu Trinh

Vì sao Obama nhắc tới Phan Châu Trinh
trong bài phát biểu “chạm trái tim”?

VietNamnet
28/05/2016 13:23 GMT+7

Vì sao một Tổng thống Mỹ như ông Obama lại nhắc tới Phan Châu Trinh chứ không phải một nhà Duy Tân nào khác và điều đó gợi mở cho chúng ta điều gì trong bối cảnh hiện nay?

Đọc tiếp...

Thứ Năm, 2 tháng 7, 2015

GS. Trần Ngọc Vương: 'TRUNG QUỐC MỘNG" VÀ CĂN TÍNH SÓI

.
GS. Trần Ngọc Vương: 
“Trung Quốc mộng” và căn tính sói

Báo Người đô thị
29/05/2014 - 23:50 PM

GS. Trần Ngọc Vương từng có thời gian giảng dạy tại đại học Bắc Kinh và đang tổ chức nhiều hoạt động nghiên cứu và tìm hiểu văn hoá Trung Quốc. Học giả này đã có cuộc trò chuyện thẳng thắn và cởi mở với Người Đô Thị.

Đọc tiếp...

Thứ Sáu, 6 tháng 6, 2014

GS. Trần Ngọc Vương: THOÁT TRUNG LÀ THOÁT NHỮNG GÌ?

GS. TS Trần Ngọc Vương phát biểu tại Tọa đàm "Làm sao để Thoát Trung"
do Quỹ Văn hóa Phan Chu Trinh tổ chức tại 53 Nguyễn Du 
14h- 16h00 ngày 5.6.2014 

Trả lời câu hỏi “Thoát Trung là thoát những gì”. Tôi trả lời thẳng:

1-Lệ thuộc và ràng buộc vào TQ không phải là định mệnh lịch sử của Dân tộc VN. Tâm lý nô lệ TQ vẫn rất đậm trong tất cả các tầng lớp.

Nhật bản, Hàn quốc cũng trong vùng văn hóa Hán nhưng đã thoát ra một cách ngoạn mục cho nên người Việt làm được.


2-Thoát Trung là thoát cái gì. 

Trung Quốc có vô vàn cái hay cái đẹp, chúng ta không thoát, chúng ta phải đọc, thưởng lãm, nhâm nhi nó. 

Thoát thứ 1: THOÁT KHỎI DÃ TÂM CỦA NHÀ CẦM QUYỀN TRUNG QUỐC TỒN TẠI HƠN 2000 năm chưa bao giờ giới cầm quyền TQ muốn có bên mình một VN mạnh.

Khẳng định THOÁT KHỎI DÃ TÂM CỦA NGƯỜI CẦM QUYỀN TQ. 

Đọc tiếp...

Thứ Năm, 5 tháng 6, 2014

14h HÔM NAY: TỌA ĐÀM "LÀM SAO ĐỂ THOÁT TRUNG?"

 

Tọa đàm:

LÀM SAO ĐỂ THOÁT TRUNG ?

Thời gian: 14:00 – 16 :30, thứ Năm, ngày 05 tháng 06 năm 2014 
Địa điểm: Hội trường tấng 3, Liên hiệp các hội Khoa học kĩ thuật Việt Nam,  
53 Nguyễn Du, Hà Nội 

****** 

Việc Trung Quốc hạt đặt giàn khoan HD-981 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam đã bộc lộ rõ hơn nguy cơ về sự đe dọa từ TQ đến toàn vẹn chủ quyền của Việt Nam. Tuy nhiên, đó chỉ là bể nổi của tảng băng chìm. Thực tế, đe dọa của TQ đối với sự độc lập của Việt Nam không chỉ ở vấn đề chủ quyền, mà sâu xa và toàn diện hơn rất nhiều, ở mọi góc cạnh: kinh tế, văn hóa, thể chế, ý thức hệ… Riêng về kinh tế, thống kê cho thấy có đến 90% các dự án tổng thầu rơi vào tay TQ. 

Theo cách nhìn đó, Việt Nam đang dần trở thành một dạng thuộc địa mới của TQ trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa và tư tưởng. Đây chính là chiếc cùm vô hình của Việt Nam trong suốt hàng nghìn năm qua, không cho Việt Nam bứt phá để phát triển nhanh hơn và hội nhập sâu rộng hơn với thế giới văn minh. 

Vậy làm sao để thoát Trung? Làm sao để phát triển? Làm sao để tự giải phóng mình, hầu tự bảo vệ mình và kiến tạo một thời kỳ phát triển mới? Đâu là những trụ cột của một xã hội văn minh mà Việt Nam cần xây dựng? Mỗi cá nhân cần phải làm gì, các chính sách lớn cần phải điều chỉnh theo hướng nào trong bối cảnh mới này? 

Các câu hỏi trên đây sẽ được thảo luận và trả lời phần nào trong cuộc tọa đàm này.
Đọc tiếp...

Thứ Tư, 22 tháng 5, 2013

THÀNH KÍNH CHIA BUỒN CÙNG PGS.TS TRẦN NGỌC VƯƠNG


.

Được tin Phu nhân PGS.TS Trần Ngọc Vương,
(Khoa Văn học, ĐH KHXH và Nhân văn HN)

Bà TRẦN THÚY MAI
nguyên cán bộ Đài truyền hình Việt Nam
đã qua đời sáng 22.5.2013 (nhằm này 13.4 Quý Tỵ),
hưởng dương 59 tuổi.

Lễ viếng được tổ chức vào lúc 10h00 ngày 24.5.2013
 tại Nhà tang lễ BV Quân đội 108, số 5 Trần Thánh Tông, HN

Lễ truy điệu 11h30 cùng ngày
An táng tại Nghĩa trang Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ.
Gia đình chúng tôi thành kính dâng lời cầu nguyện hương hồn Bà Trần Thúy Mai thanh thản về cõi vĩnh hằng. Và gửi lời chia buồn sâu sắc tới Giáo sư Trần Ngọc Vương cùng toàn thể gia quyến.

Đọc tiếp...

Thứ Ba, 20 tháng 12, 2011

MẤY ĐIỀU HỎI LẠI GIÁO SƯ TRẦN NGỌC VƯƠNG

 

MẤY ĐIỀU HỎI LẠI GIÁO SƯ TRẦN NGỌC VƯƠNG
Đào Tiến Thi

Tôi từng đọc một vài công trình của PGS.TS Trần Ngọc Vương, từng tiếp thu được một số tư liệu và nhận định; về con người, tôi cũng từng gặp đôi lần và vẫn kính cẩn gọi bằng thầy, coi ông như một người thầy đáng kính.

Nhưng tôi thấy trong bài viết Giới trí thức tinh hoa trong lịch sử Việt Nam trên tạp chí Tia sáng ngày 9-9-2010, được blog Nguyễn Xuân Diện đăng lại ngày 17-12-2011, thì có nhiều điều nghe khó lọt.
Bài của PGS.TS Trần Ngọc Vương có 3 phần:
- Trí thức Nho học Việt Nam, hay trí thức Việt Nam thời phong kiến
-  Trí thức Tây học Việt Nam, hay trí thức Việt Nam thời Pháp thuộc
- Trí thức mới Việt Nam, hay trí thức Việt Nam thời XHCN
Tôi xin chỉ nói về hai vấn đề đầu.
1. Phần thứ nhất, theo tác giả thì trí thức Nho giáo ở ta có một lịch sử lâu đời nhưng đóng góp cho tư tưởng học thuật thì không đáng kể, thua hẳn trí thức Nho giáo Trung Hoa và thua trí thức Phật giáo Việt Nam. Theo cảm nhận của tôi, điều này có lẽ đúng và hình như cũng có người nói rồi. Tuy nhiên chỗ này cũng nên tìm rõ cội nguồn. Không nên vội kết luận Không có ai có hứng thú đi vào những tư tưởng triết học”. Nói như thế thì hóa ra trí thức Nho giáo Việt Nam hoặc lười biếng hoặc mang căn tính nô lệ, chỉ biết học của Tàu hay sao?
Theo tôi có hai nguyên nhân khiến trí thức Nho giáo Việt Nam khó có thể chuyên tâm đi vào học thuật.
Thứ nhất, với nền sản xuất tiểu nông là chủ đạo, con người phải vật lộn với nhu cầu mưu sinh đầy khó khăn, chúng ta khó mà có được những nhà tư tưởng thuần túy, chỉ biết có học thuật. Trí thức Nho học luôn gắn sự tồn tại bản thân với nghiệp làm quan, nếu có lui về ẩn dật thì lại gắn với ruộng vườn. Trước dư luận xã hội, cả hai trạng thái trên đều cần có danh phận (đỗ đạt, chức tước, bổng lộc của triều đình). Dư luận xã hội không khuyến khích những người “tử vì đạo” (theo nghĩa say mê một học thuyết, không quan tâm nhu cầu mưu sinh cũng như dư luận xã hội). Trong bối cảnh ấy khó có cá nhân nào đủ bản lĩnh đi ngược đám đông. Hoài Thanh từng cay đắng thốt lên điều này:
“Quang cảnh học giới nước ta tiêu điều làm sao! Dễ thường thế giới không có nước nào mà những người tự nhận là học giả lại lạnh lùng với việc học như ở nước mình. Người mình vẫn được tiếng là hiếu học nhưng đúng ra chỉ hiếu lợi và hiếu danh. Khi sự học không đưa đến cho mình lợi và danh thì ít ai còn màng đến nó nữa”[i]
Thứ hai, cũng có những lúc có tài năng lớn xuất thiện, nhưng lại gặp lúc vận nước nghiêng ngả nên họ phải đặt việc cứu nước cứu đời lên trên hết. Đấy là trường hợp của Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu và nhiều sỹ phu cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Nếu cho phép đặt ra chữ “nếu”, vâng, nếu không phải bôn ba cứu nước thì thiết nghĩ thay vì nhà cách mạng Phan Bội Châu, chúng ta có sẽ có nhà tư tưởng Phan Bội Châu. Tôi dám “nếu” điều này vì đọc thấy ngay trong thơ văn tuyên truyền cách mạng của Cụ, thứ trước tác vốn phải làm gấp, không trau chuốt, lại phải đại chúng hóa, mà luôn chứa những tư tưởng lớn của thời đại. Và chỉ trong 15 năm cuối đời bị an trí ở Huế, với tuổi già sức yếu, sự bó buộc, và đặc biệt là nỗi đau buồn về đất nước, Cụ  vẫn còn viết được hai tác phẩm triết học đồ sộ: Chu dịch diễn giảiKhổng học đăng (hai tác phẩm nay in ở Phan Bội Châu toàn tập, tập 9 và 10, khoảng 1500 trang khổ 16 x 24). Trong lời giới thiệu Chu dịch diễn giải, nhà sử học Chương Thâu viết: “Như là một học giả uyên bác, Cụ đã dồn hết sức lực và tâm huyết để nghiên cứu thêm, giải thích lại một số thành tựu vĩ đại của văn hóa Phương Đông dành cho các thế hệ con cháu mai sau”[ii].Khổng học đăng, tư tưởng chủ quan của người khảo cứu càng lớn hơn. Chương Thâu đánh giá: “Bộ sách này đủ cho ta thấy rõ tư tưởng học thuật và đời sống tinh thần của cụ Sào Nam. Cụ không viết theo lối nghiên cứu khách quan của học giả, mà Cụ viết theo sự tâm đắc của bản thân mình. Bởi thế nên Cụ có rất nhiều tư tưởng chủ quan của mình. Nhưng cũng vì thế mà ta thấy rõ được những ý kiến để bồi bổ cho linh hồn và để nuôi dưỡng cái hoài bão cao đẹp của mình”[iii].
2. Phần thứ hai của bài, nói về trí thức thời Pháp cai trị, PGS.TS. Trần Ngọc Vương  càng có xu hướng hạ thấp một cách phi lịch sử:
“Gia nhập xã hội hiện đại theo con đường bị cưỡng bức, không hề được chuẩn bị đầy đủ về mọi phương diện để thích nghi, thiếu nghiêm trọng những kinh nghiệm và thực tế tương ứng được với xã hội hiện đại từ truyền thống, tóm lại, với tính nhược tiểu thể hiện khá “hoàn hảo”, giới trí thức Việt Nam khi trở thành “tầng lớp trí thức bản xứ” thêm một lần nữa bị chủ nghĩa thực dân vày vò, ép ướp hoàn toàn có chủ đích chỉ nhằm biến đổi họ thành đám vong quốc nô có chữ nghĩa. Lịch sử còn lưu lại vô số bằng chứng cả trực tiếp cả gián tiếp chứng minh cho đường lối chính trị, chính sách trí thức thuộc địa này của thực dân Pháp”.
Ở đây có hai khía cạnh đáng nói:
- Tác giả sai lầm về phương pháp.
- Tác giả bất chấp sự thật lịch sử.
Tác giả viết: Lịch sử còn lưu lại vô số bằng chứng…” thế nhưng lại không đưa ra bằng chứng nào mà chỉ gói gọn trong một câu ở chú thích:  
“Các bộ lịch sử, lịch sử tư tưởng Việt Nam của cả các tác giả người Việt lẫn người Pháp đều cung cấp nhiều tài liệu liên quan đến điều này”.
Trong khoa học không cho phép lối chứng minh như thế, bởi vì:
Thứ nhất, luận điểm mà không có luận chứng (dẫn chứng, lý lẽ) thì luận điểm ấy là áp đặt, không có sức thuyết phục; còn nếu bỏ lửng, bắt người đọc tìm đọc thì có khác nào đánh đố, và còn thể hiện không tôn trọng người đọc.
Thứ hai, quan trọng hơn điều thứ nhất, sự thật lịch sử không chỉ tìm ở mỗi trong các bộ sử, lại càng không thể ở trong các sách lịch sử tư tưởng, bởi ở đấy rất có thể lịch sử đã bị cắt xén, giải thích theo ý người viết. Thực ra tìm sự thật lịch sử trong trường hợp này không khó, vì nó là trước tác, hãy còn rành rành trên giấy trắng mực đen. Sao PGS.TS. Trần Ngọc Vương không tìm ở trong chính trước tác của các nhà trí thức thời bấy giờ cùng không khí học thuật của thời đó để từ đó phán xét tư tưởng của họ mà lại tìm qua sự phán xét của người khác?
Và thực tế như mọi người đã biết, biết bao nhận định sai lầm, oan uổng kéo dài mấy chục năm đối với rất nhiều học giả, nhà văn lớn, như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Trọng Kim,... Nhận định của các học giả Pháp cũng không phải bao giờ cũng khách quan, chính xác. (Mà cũng lạ, biết bao lời ca ngợi của các học giả Pháp dành cho Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Mạnh Tường,… thì PGS.TS. Trần Ngọc Vương lại không biết?)
Đi xa hơn, PGS.TS. Trần Ngọc Vương còn muốn xóa sổ tầng lớp trí thức Tây học trước Cách mạng tháng Tám:
“Hệ quả cuối cùng của chính sách thực dân, dù những chính sách cụ thể trong từng thời kỳ nhất định có đổi thay theo hướng xoa dịu sự phản ứng của một cư dân bản địa dù sao cũng có hàng nghìn năm lịch sử đồng thời trên từng bình diện nhất định phải đáp ứng những đòi hỏi của tình hình khó khăn mà “mẫu quốc” lâm vào, vẫn cứ là một tầng lớp trí thức bản xứ với rất ít cá nhân thực sự đạt tới trình độ tinh hoa, đội ngũ chuyên gia tuy có số lượng khá hơn nhưng không toàn diện, gắn bó quá trực tiếp với sự điều tiết từ chính quốc chứ không phải gắn bó với xã hội và nền kinh tế tại chỗ, và một lượng đông đảo nhất những trí thức cấp thấp. Chất lượng của một tầng lớp trí thức như vậy, xét trên tương quan của một sự so sánh lịch đại, nghĩa là so sánh về khả năng đáp ứng những nhu cầu phát triển từng thời điểm lịch sử khác nhau, chắn chắn là còn kém hơn thời kỳ tiền thực dân”. 
Gộp cả ý của hai đoạn ta thấy, PGS.TS. Trần Ngọc Vương gần như phủ định hoàn toàn tầng lớp trí thức Tây học trước Cách mạng:
Một, họ là con đẻ của chủ nghĩa thực dân.
Hai, họ không đáp ứng được nhu cầu lịch sử.
Ba, kết luận lại, lớp trí thức Tây học còn kém hơn thời kỳ tiền thực dân” (tức trí thức Nho học nửa sau thế kỷ XIX – ĐTT).
1. Nhận định thứ nhất thực ra không mới. Nó là một định kiến đã lâu. Tuy nhiên, trong vài thập niên gần đây, dư luận xã hội đã phải nghĩ lại, đã phải cải chính rất nhiều, không hiểu sao PGS.TS. Trần Ngọc Vương vẫn bám lấy định kiến đó. Một phép suy luận đơn giản cũng cho thấy: với âm mưu của thực dân “nhằm biến đổi họ (trí thức bản xứ - ĐTT) thành đám vong quốc nô có chữ nghĩa” hay âm mưuxoa dịu sự phản ứng của một cư dân bản địa” không bao giờ lại có thể đẻ ra một lớp trí thức tài năng, có lòng yêu nước, tự tôn dân tộc cao. Còn thực tế thì đã quá rõ ràng. Nguyễn Khánh Toàn, Đặng Thai Mai, Đào Duy Anh, Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Thái Học, Trần Huy Liệu, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Xuân Hãn, Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Tôn Thất Tùng, Trần Hữu Tước, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tuân, Phạm Ngọc Thạch, Đặng Văn Ngữ, Lương Định Của, Nguyễn Xiển,… toàn những trí thức do trường Tây đào tạo, những trí thức này hoặc đã tham gia các  phong trào cách mạng trước năm 1945, hoặc từ năm 1945 một lòng đi theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tham gia suốt hai cuộc kháng chiến, chính họ là lực lượng rường cột cho nền văn hóa, khoa học mới, và cả rường cột cho giai đoạn non trẻ của chế độ mới.   
Ở đây cần nói thêm để không đến quá “oán” cũng như không quá “ơn” chính sách khai thác thuộc địa của chủ nghĩa thực dân. Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, ngoài ý muốn của họ, đã khách quan mang lại những điều kiện thuận lợi cho sự tiến bộ của xã hội Việt Nam nói chung, của đời sống học thuật nói riêng. Thực dân Pháp (cũng như bất cứ thứ thực dân nào) không có mục đích “khai hóa” nhưng để khai thác được thuộc địa, họ buộc phải đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật và khoa học. Người Pháp ngay khi chưa chinh phục xong Việt Nam, họ đã làm đường sắt, xây cầu, trạm bưu điện, khí tượng, rồi sau đó mở trường đại học, viện nghiên cứu, bảo tàng,… Tầng lớp trí thức ra đời một cách “vô tư” như thế. Mặt khác, do lòng yêu nước, tự tôn dân tộc, lớp trí thức mới nắm ngay lấy công cụ tri thức mà nhà trường thực dân trang bị để làm vũ khí đấu tranh, để xúc tiến công cuộc tiến bộ cho xứ sở mình. Nhiều nhà Nho chủ trương cho con đi học trường Tây để sau này đánh lại Tây là như vậy. Ngoài ra cũng phải kể đến một số quan toàn quyền, một số chính khách, nhà khoa học Pháp có đầu óc tiến bộ, họ đã có những chính sách tích cực nhất định, góp phần thúc đẩy xã hội Việt Nam theo chiều hướng tích cực.
2. Về nhận định thứ hai, chúng tôi không hiểu thế nào mới là “đáp ứng những nhu cầu phát triển từng thời điểm lịch sử khác nhau”?
Thử hỏi, làm thế nào để đưa chữ Quốc ngữ trở thành văn tự quốc gia ngay từ cuối những năm hai mươi, để từ đó tiếp thu văn hóa nhân loại, giúp đất nước nhanh chóng thoát khỏi “đêm trường trung cổ”, nếu không phải là những hoạt động đầy hăng hái bắt đầu từ lớp sỹ phu đầu thế kỷ XX, tiếp theo là các nhà báo, nhà văn chuyên về hoạt động văn hóa như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Hữu Đang và các trí thức trong nhóm Tri tân, Thanh nghị,…? Ai đã làm nên cuộc cách mạng trong văn học những năm ba mươi, bốn mươi nếu không phải là những nhà văn xuất thân trường Tây (Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Nam Cao,…) để trong vòng chưa đầy mười lăm năm, văn học Việt Nam tiến những bước khổng lồ, bắt kịp vào thế giới hiện đại? Ai đã dấy lên rầm rộ phong trào đòi thả cụ Phan Bội Châu và để tang cụ Phan Châu Trinh những năm 1925 – 1926, rồi phong trào Dân chủ những năm ba mươi, và cả Văn hóa cứu quốc những năm chuẩn bị Tổng khởi nghĩa? Nếu không có lớp trí thức ra đời ngay trong lòng chế độ thuộc địa sẽ không có gì cả.
3. Không biết PGS.TS. Trần Ngọc Vương đặt ra tiêu chí nào của giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX để kết luận tầng lớp trí thức giai đoạn này không đáp ứng được vai trò lịch sử, lại còn “chắn chắn là còn kém hơn thời kỳ tiền thực dân”?
Tôi không hiểu lớp trí thức nửa đầu thế kỷ XX kém cái gì so với lớp tiền bối của họ (lớp nhà Nho nửa sau thế kỷ XIX). Tài năng? Nhân cách, Sự đóng góp vào sự phát triển của lịch sử? Hay là tất cả?
Những nhà Nho tích cực nhất của nửa sau thế kỷ XIX có hai loại: loại chỉ bằng ngòi bút với những kiến nghị, điều trần như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch; loại trực tiếp đánh giặc theo tư tưởng tôn quân với đường lối chiến lược, chiến thuật cũ kĩ như Thủ khoa Huân, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Quang Bích, Phan Đình Phùng,… Cả hai loại nhà Nho đó, tuy ta kính phục họ về nhiệt tình yêu nước, về tài đánh giặc nhưng phải nói, so với yêu cầu lịch sử, họ là lạc hậu. Chính họ nhiều khi cũng nhận ra điều đó. Nhiều người đánh giặc biết chắc thất bại, đánh giặc chỉ vì cái nghĩa đáng làm mà thôi. Còn lớp trí thức đầu thế kỷ XX (xuất thân Nho học nhưng tiếp thu Tân học) tìm đường giải phóng dân tộc theo xu hướng cách mạng tư sản dân quyền thì đã thực sự tiến kịp thời đại. Chỉ riêng về văn hóa, họ đề cao khoa học, kỹ nghệ, đề cao thực học, đề cao nếp sống văn minh, phê phán kịch liệt lối hư văn, bài trừ óc mê tín, thói hủ lậu,… cũng là bước tiến kịp thời đại đáng nể, thậm chí còn hơn chúng ta ngày nay với bao trò mê tín, đồng bóng cùng lối sống thực dụng đến thảm hại. Các lớp trí thức sau lớp sỹ phu, tuy không làm cách mạng giải phóng dân tộc mạnh mẽ nhưng tiếp tục hoạt động rất tích cực về văn hóa, văn học, đã đưa văn hóa, văn học nước nhà phát triển theo chiều sâu, nhờ thế nước ta bắt đầu thoát khỏi “đêm trường trung cổ, hội nhập vào thế giới hiện đại từ cuối những năm hai mươi của thế kỷ XX. Giả sử lớp trí thức nửa đầu thế kỷ XX vẫn tiếp tục con đường của Nguyễn Trường Tộ, Phan Đình Phùng,… thì lịch sử nước ta đi lên hay tụt lùi?
Mặt khác, theo quan điểm duy vật lịch sử, đánh giá mỗi nhân vật lịch sử không phải là xem họ làm được gì so với yêu cầu của thời đại mà là họ đã làm gì so với người đi trước đó. Ở đây chúng ta dễ dàng nhận thấy lớp trí thức đầu tiên của thế kỷ XX mà tiêu biểu là hai cụ Phan tuy vẫn là trí thức Nho học nhưng họ đã vượt rất xa những trí thức Nho học cuối thế kỷ XIX, cả về tầm vóc tư tưởng, tri thức văn hóa lẫn tinh thần dấn thân. Còn lớp trí thức những năm ba mươi trở đi thì thì thực sự đã là những trí thức hiện đại, ngang hàng các trí thức Phương Tây. Đọc những sự kiện hội đàm giữa phái đoàn ta với phái  đoàn Pháp những năm 1945 – 1946, các trí thức của ta có tư thế thật đáng tự hào. Trong khoảng vài thập kỷ, lịch sử dân tộc tăng tốc một cách đáng ngạc nhiên nhờ sự đóng góp quan trọng của tầng lớp trí thức này.
Cũng cần nói thêm rằng lớp trí thức khoa học lẫn trí thức văn nghệ sỹ Tây học cho đến 1945 còn rất trẻ, thường chỉ trên dưới ba mươi hoặc chỉ ngoài hai mươi, cứ như bây giờ thì nhiều người hãy còn ở tuổi ăn bám gia đình, thế mà họ đã làm được khối việc như ta đã biết. Nhưng sự nghiệp của họ không nên chỉ tính mấy năm trước Cách mạng, mà còn phải tính giai đoạn sau Cách mạng nữa. Tuy nhiên sau 1945, do dân tộc phải lao vào hai cuộc chiến, rồi do những sai lầm, phiến diện trong quan niệm, mà giới trí thức Tây học trước 1945 (thường gọi là trí thức cũ) người thì được phát huy, người thì bị thui chột, nhiều người còn mắc nạn. Cùng theo Bác Hồ từ Pháp về, tài chế tạo vũ khí của ông Trần Đại Nghĩa có đất dụng võ, danh tiếng ông trở nên lẫy lừng, trong khi đó tài triết học của ông Trần Đức Thảo trở thành tai họa cho chính ông, khiến ông bị đặt ra ngoài lề cuộc sống, suốt đời sống trong nghèo khổ và sợ hãi, đến mức gần như bị bệnh hoang tưởng, tâm thần. Trong số nhà văn, cũng có người sở trường còn phù hợp, cũng có người không. Không ít nhà văn Tiến chiến (Phan Khôi, Trương Tửu, Văn Cao,…) dính vào vụ Nhân văn giai phẩm đầy nghiệt ngã.
Tóm lại, dù đứng ở góc độ nào để đánh giá thì lớp trí thức Tây học trước Cách mạng đã có những cống hiến xuất sắc. Nhiều người gọi đây là “thế hệ vàng”, quả là không ngoa. Không biết bao giờ nước nhà mới lại có một thế hệ như thế.
Bài viết này chưa phải là bài tranh luận, càng chưa phải là bài nghiên cứu. Nếu tranh luận hay nghiên cứu cần bàn một cách toàn diện và có cứ liệu đầy đủ hơn. Mà chỉ vì thấy những nhận định của PGS.TS. Trần Ngọc Vương có nhiều “gợn” quá nên tôi mạn phép đặt ra một số câu hỏi và nêu một số cảm nhận như trên. 



[i] Hoài Thanh: Vấn đề học thuật ở nước ta chỉ là một vấn đề tâm lý và luân lý, Sông Hương, Huế, 1936, in lại trong Hoài Thanh toàn tập, tập 4, NXB Văn học, 1999).
[ii] Phan Bội Châu toàn tập, tập 9, NXB Thuận Hóa, 2000.
[iii] Phan Bội Châu toàn tập, tập 10, NXB Thuận Hóa, 2000.

*Bài do tác giả gửi trực tiếp cho NXD-Blog.
Xin chân thành cám ơn!

Đọc tiếp...

Thứ Hai, 19 tháng 12, 2011

PHẢN HỒI BÀI VIẾT CỦA TRẦN NGỌC VƯƠNG VỀ "GIỚI TRÍ THỨC TINH HOA"

Một số suy nghĩ sau khi đọc "Giới trí thức tinh hoa trong lịch sử Việt Nam"
của Trần Ngọc Vương
Nguyễn Vinh Anh

Xin kính chào tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện và các quý vị,

Bài viết vừa lên rất đáng chú ý, nhưng vì chủ đề quá lớn, nên tôi  chỉ dám lạm bàn một vài điểm, mà tôi thấy ngay là rất đáng suy nghĩ. 

Tiếp nối một số luận điểm ở phần đầu bài, chủ yếu dựa trên các đúc kết của học giả Trần Đình Hượu về những giới hạn của giới Nho sĩ, tác giả đi đến nhiều nhận định tổng quát về giới chuyên gia, trí thức thời thuộc Pháp, và giai đoạn sau Cách mạng, trước và sau "các đấu tố" 1960-1970. 

Các nhận xét về sự bất lực của giới nhà nho cựu học trong việc hiện đại hóa đất nước là điều có lẽ không còn cần phải bàn cãi, vì điều này đã được nhà cải cách Phan Chu Trinh phê phán một cách rất triệt để, và nhiều học giả trước 1945 cũng đã tiếp tục hướng này.

Về trí thức, giới chuyên môn trước 1945:

Vấn đề vẫn đang còn dở dang chính là  nhóm những người mà tác giả gọi là “tầng lớp trí thức bản xứ”. Đây là tầng lớp mà di sản để lại rất đa dạng, mà hiện nay sự hiểu biểu về họ chắc chắn còn rất thiếu, trong tình trạng tư liệu tản mát và các nghiên cứu về giai đoạn này nhìn chung chưa thực sự phát triển.

Chính ở đây, khái quát mà tác giả đưa ra rất cần phải được xem xét lại, cả trên phương diện tư liệu, cũng như về các thao tác nhận thức. Khi tác giả viết: "Chất lượng của một tầng lớp trí thức như vậy (tức tầng lớp trí thức bản xứ), xét trên tương quan của một sự so sánh lịch đại, nghĩa là so sánh về khả năng đáp ứng những nhu cầu phát triển từng thời điểm lịch sử khác nhau, chắn chắn là còn kém hơn thời kỳ tiền thực dân.", thì chắc chắn cần phải làm rõ xem, dựa trên những thao tác so sánh nào mà tác giả rút ra nhận định xác quyết này?

Về trí thức, giới chuyên môn sau 1945:

Từ chỗ phê phán toàn bộ giới nhà nho, lướt qua giai đoạn trước 1945 coi như không có gì thực sự đáng nói, tác giả đi thắng đến kết luận dưới đây (kết luận này tạm hiểu ngầm là dành cho giai đoạn hiện tại, nếu không phải là cho toàn bộ lịch sử Việt Nam): 

"Có thể nói, ở ta mới có những người trí thức lớn,- không đông lắm mà nói thực thì cũng chưa được “lớn” lắm - nhưng chưa thể nói rằng đã có giới trí thức tinh hoa. Mà chừng nào trí thức tinh hoa chưa thành một giới, nôm na là núi không có đỉnh, thì khó lòng bàn đến “tầm” trí tuệ Việt Nam, tuy đó là điều không hiếm người thành tâm khao khát khẳng định".

Đây là một nhận định, nghe vẻ ngoài thì rất có vẻ có lý, vì nó được suy ra từ những cái không đáng kể của những giai đoạn trước (mà tác giả vừa trình bày), để luận về hiện tại, hoặc về toàn thể. Điểm tích cực của quan điểm này là nó dội một gáo nước lạnh vào những người vẫn còn sống trong trạng thái hoang tưởng của chủ nghĩa tự tôn dân tộc mù quáng. Tuy nhiên, tôi thiết nghĩ, những kẻ đã bị rơi vào hoang tưởng rồi thì khó có gì có thể đưa họ ra nổi, ngoại trừ thực tế phũ phàng.

Còn đối với độc giả bình thường thì sao?

Những người mà tác giả gọi là “thành tâm khao khát” thì thuộc loại nào đây, hoang tưởng hay bình thường?

Có lẽ bài viết này sẽ dễ dàng thuyết phục được những ai chỉ biết đến có một loại "núi", một loại "đỉnh". Từ chỗ nói rằng "núi" ở Việt Nam không có đỉnh , tác giả kết luận không thể bàn đến "tầm" (cao của) trí tuệ Việt Nam.

Cá nhân tôi, khi đọc đến đến đây, tôi có cảm giác tác giả đã đẩy lô gíc của sự ngụy biện đi đến một cái "đỉnh". Vậy mục đích của sự ngụy biện này là gì?

Theo tôi, thực tế mà nói, đã có "núi" là ít nhiều có "đỉnh", đỉnh thấp hay cao mà thôi. Và, không thể vì cho rằng, những trí thức lớn không đông, mà không đủ tạo thành một giới. Phủ nhận những cái đỉnh cao tương đối đó, phủ nhận một giới trí thức tinh hoa nhất định, dù số lượng hết sức ít ỏi ấy, chính là phủ nhận một cách hết sức tinh vi khả năng vượt lên của "trí tuệ Việt Nam", của văn hóa Việt Nam (bao gồm cả những người gốc Việt, sống ở khắp nơi trên thế giới, vẫn tự coi là người Việt Nam).

Phải chăng bản chất của thái độ, một mặt, tích cực đối thoại với những kẻ hoang tưởng, tin tưởng một cách thành tâm vào một tầm trí tuệ Việt Nam siêu việt không có thật (những kẻ này thường thuộc nhóm nắm quyền lực), và mặt khác, phủ nhận sự tồn tại của những đỉnh cao trí tuệ tương đối dù còn rất ít ỏi trong xã hội Việt Nam (thường thuộc vào nhóm mang tư tưởng cải cách), không gì khác hơn chính là để biện minh một cách tinh vi cho sự khoanh tay ngoảnh mặt của nhiều nhóm người, ngầm hoặc công khai tự coi là "trí thức", trước các vấn đề trọng yếu của xã hội, mà người trí thức đích thực phải coi như là các thách thức đối với chính bản thân mình ?

Phải chăng một thái độ như vậy chính là để biện minh cho sự vắng mặt của những khát vọng vượt lên bản thân, vươn lên tầm nhân loại ở trong chính con người họ? một thái độ như thế chính là để củng cố một tâm lý "hòa cả làng"? một tâm lý khuất phục cúi đầu? …  

Còn nhiều câu hỏi đặt ra từ đây, nhưng theo tôi hiểu, các bài viết mà tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện đưa ra cùng lúc với bài viết này, có thể đã chính là những phản biện gián tiếp trước thái độ ngụy biện đáng sợ trong bài viết này.  

N.V.A
*Bài do tác giả gửi trực tiếp cho NXD-Blog.
Xin chân thành cám ơn tác giả!

Đọc tiếp...

Thứ Bảy, 17 tháng 12, 2011

GIỚI TRÍ THỨC TINH HOA TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM

Giới trí thức tinh hoa trong lịch sử Việt Nam 
Trần Ngọc Vương
.
Để xây dựng kinh tế tri thức trở thành chủ đạo của nền kinh tế quốc dân, chúng ta cần có một lực lượng lao động tương ứng là lao động có kiến thức cao, nói khác đi đòi hỏi mọi thành viên tham gia nền kinh tế này phải là người lao động trí tuệ hoặc sử dụng trí tuệ như công cụ lao động chủ yếu, đặc biệt là phải hình thành một giới trí thức tinh hoa.

Chỉ từ những điều sở tri sở kiến của mình, chúng tôi muốn góp bàn về việc nhận diện thực trạng của giới tinh hoa trong lịch sử Việt Nam và những đặc điểm của giới đó có thể trở thành chướng ngại mà chúng ta cần khắc phục trong việc hướng tới hình thành giới tinh hoa mới trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay.

Trong lịch sử Việt Nam cho đến tận đầu thế kỷ XX, mẫu hình trí thức tồn tại lâu dài nhất, có tác động lớn nhất đến đời sống tinh thần xã hội là nhà Nho. Tinh thần văn hóa Nho giáo thấm sâu vào thành truyền thống, thậm chí thành bản sắc của nền văn hóa dân tộc. Về mặt diện mạo tổng thể, nền văn hóa Việt Nam từ thế kỷ XIV đến hết thế kỷ XIX là nền văn hóa Nho giáo. Nếu lưu ý đến “đặc điểm lớn nhất của xã hội Việt Nam thời đại ngày nay” là sự phát triển bỏ qua (hay ít nhất là cho đến nay cũng chưa thành một phương thức sản xuất/một hình thái kinh tế - xã hội hoàn chỉnh) đối với hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, thì phải đồng ý với nhiều nhà khoa học (1) rằng Việt Nam đi từ Nho giáo lên chủ nghĩa cộng sản.

Trước khi có nền học vấn Âu hóa của thời hiện đại, và cả khi nền học vấn đó đã, đang trở thành xu thế chủ đạo thì quán tính của nền học vấn truyền thống vẫn chi phối từng bước đi của lịch sử một cách mạnh mẽ, khá vô hình nhưng vẫn khá quyết liệt. La mort saisit le vif, - cái chết đang túm lấy cái sống. Sự “túm lấy” này, tuy không hoàn toàn chỉ mang nghĩa tiêu cực, nhưng những tác động tiêu cực của nó là điều không thể xem thường.

Trong vòng bảy, tám thế kỷ, đội ngũ trí thức - nhà Nho ở Việt Nam đã dần thay thế và cuối cùng là thay thế hẳn đội ngũ trí thức Phật giáo, tạo ra một nền học vấn kiểu nhà Nho, và vì thế, ngả theo mô hình của nền học vấn Trung Hoa. Nhưng khác với các trí thức Trung Hoa nói chung, tầng lớp nhà Nho Trung Hoa nói riêng, chưa bao giờ tầng lớp nhà Nho Việt Nam thực sự có được sự độc lập tương đối về chính trị, nhất là trong quan hệ với chế độ chuyên chế, để có thể có được những thành tựu độc lập trong sáng tạo tri thức và những giá trị tinh thần đủ để vinh danh chỉ riêng tầng lớp của mình.

Vào đầu thế kỷ XX, khi tự tỉnh và lay tỉnh quốc dân, nhằm “khai dân trí, chấn dân khí”, các nhà Nho duy tân đã đọc to lên tình trạng nghiệp dư quá quắt của tầng lớp mình:

Khỏi làng mắt chửa thấy xa
Lại toan mai mỉa hai nhà Khang, Lương
Ở nhà chân chửa ra đường
Lại toan ngang dọc bốn phương giang hồ
Hỏi: “Ông tu những đường mô?
Ông rằng: “Tu những làng nho đã thừa”
Hỏi: “Ông mộ những gì ư?
Ông rằng: “Mộ những người xưa là thầy”….
- Hỏi rằng: “Dây thép sao mau?”
Ông rằng: “Khí học cũng màu mà thôi”
Kìa như dây sắt, roi lôi
Nào ai bày đặt mọi ngôi cho đành?
Hỏi rằng: “Xe khí sao nhanh?”
Ông rằng: “nghề máy cũng lành mà thôi”
Kìa như lửa ống, nước nồi
Nào ai bày xét đến nơi nhiệm màu?
Năm châu tên gọi hay đâu
Lại chê người rợ mà gào ta hoa
Mắt nhìn chính học không ra
Lại chê người bá mà nhà ta vương” (4)
-“Hỏi cụ việc thực
Thì cụ làm thinh
Hỏi trận pháp binh thư thì cụ ù ù cạc cạc
Hỏi địa dư quan chế thì cụ u u minh minh;
Cụ chẳng biết kèn sao kêu, súng sao nổ?
Cụ không hay xe sao chóng, tàu sao lanh?
-“Khí học làm sao? Hóa học làm sao? Cụ dẫn Dịch tượng Thư trù chi Cổ đế
Cơ khí là thế, điện khí là thế, cụ rằng mộc ngưu lưu mã chi Khổng Minh
Cụ phải đeo thẻ đóng sưu, cụ muốn nước Nhật, nước Tàu sang bảo hộ
Cự mà ngâm thơ đọc phú, cụ mong ông Chèm, ông Gióng chi phục sinh
Ai nói chuyện tân học tân văn, cụ ghét hơn người đầu thuốc độc
Ai dâng câu cổ thi cổ họa, cụ mừng hơn trẻ được cái đinh” (5)
Lý luận Nho giáo không được khái quát lên từ thực tế Việt Nam, mà lý luận đó chỉ phù hợp nên có thể vận dụng được trên thực tế Việt Nam ở những thời gian lịch sử nhất định, dù quãng thời gian lịch sử ấy có thể và trên thực tế đã kéo dài, thậm chí đã quá dài. Theo cách nhìn nhận cá nhân, tôi cho rằng tuy Phật giáo ở Việt Nam chỉ thật thịnh trong một khoảng thời gian không dài, nhưng lại có những thành tựu về sáng tạo tinh thần đột xuất và có những gương mặt trí tuệ đỉnh cao, khả dĩ vinh danh và đại diện cho trí tuệ Việt hơn cả những đóng góp mà nhà Nho tạo nên trong một thời kỳ lịch sử dài hơn nhiều.

Nhìn vào những sản phẩm đỉnh cao cuối cùng theo cách nhìn cấu trúc đồng đại hóa, sẽ thấy trong đội ngũ trí thức nhà Nho Việt Nam thiếu một cách nghiêm trọng những trí tuệ lý thuyết, những xung năng sáng tạo lớn. Các tác giả Trần Văn Giàu, Trần Đình Hượu, Hà Văn Tấn đã nhiều lần lưu ý đến sự thiếu hụt ấy. Nói thiếu vắng hoàn toàn thì không phải, nhưng chắc chắn đội ngũ những người như vậy trong lịch sử Việt Nam khá thưa thớt, có những thế kỷ hầu như không tìm thấy được(2). Điều đáng cảm thán không chỉ là “ôi thương sao những thế kỷ vắng anh hùng” như Chế Lan Viên từng thốt lên, mà cũng cả “Ôi thương sao những thế kỷ vắng thiên tài”! Nhận xét tỷ mỷ hơn cả về điều này là ý kiến của cố học giả Trần Đình Hượu:

a) Không có ai có hứng thú đi vào những tư tưởng triết học. Chưa có tác phẩm, tác giả chuyên về tư tưởng triết học. Những người mà ta phải tính là các nhà tư tưởng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Ngô Thời Nhậm, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… đều là như vậy.

Loại hình chính là những nhà hoạt động yêu nước, những người làm văn học, học thuật (chủ yếu là sử học), và thông qua hoạt động chính trị, học thuật hay nghệ thuật của mình mà đề cập đến những vấn đề tư tưởng. Những ông thầy khi giảng kinh, sử cũng bàn những vấn đề tư tưởng, mà nhiều khi chính những ông thầy đó lại nói tư tưởng nhiều hơn, nói nhiều nhưng là nói lại, có hay không sửa chữa chút ít.

b) Ở đây chưa hình thành mối quan hệ tương hỗ giữa khoa học kỹ thuật và triết học, tức là triết học làm cơ sở lý luận cho khoa học và phát triển theo sự phát triển của khoa học… Có thay đổi thì cũng chỉ là lấy, bỏ, thêm, bớt từ những cái có sẵn trong và ngoài từng hệ thống…

Nhìn chung, tư duy lý luận không phát triển. Những vấn đề nhận thức, logic, phương pháp không được bàn bạc. Ở đây phát triển một cách tư duy thực tiễn nhằm không phải vào sự chính xác mà sự hợp lý (phải khoảng). Cái ngự trị ở trong nhiều phạm vi là một cái lí - lẽ phải thông thường. Triết học không tách khỏi tôn giáo, học thuật. “Về căn bản, trong lịch sử chưa xảy ra một sự thay đổi nền móng sản xuất, tổ chức xã hội, văn hóa, học thuật. Tôi nói cả văn hóa, học thuật vì khi còn học theo, bắt chước, nói lại thì chưa gây ra tác động sâu từ khoa học sang triết học, không tạo ra cách mạng trong tư tưởng” (3).

Nền học vấn truyền thống theo Nho giáo ấy rốt cuộc ở lớp trên cùng chỉ đẻ ra được nhà Nho – ông quan (đường quan hay học quan, võ quan có học hay văn quan, kể cả loại “văn võ kiêm bị” đi nữa thì nói gọn lại, cũng chỉ là quan). Các loại hình trí thức then chốt của một xã hội trí thức, một kết cấu của tầng lớp trí thức thực thụ như nhà kỹ thuật, nhà khoa học (hay học giả), nhà nghệ sĩ, tiếp đến là nhà tư tưởng – nhà triết học loại thì xuất hiện thưa thớt, mở nhạt, loại thì hoàn toàn vắng bóng.

Học giả lừng danh nhất trong lịch sử Việt Nam trước thế kỷ XX là Lê Quý Đôn, người mà với tất cả sự ngưỡng mộ và lòng kính trọng cũng không thể gán cho là tác giả của bất cứ định lý, định luật hay nguyên lý, quy tắc nào, ý tưởng nào thực thụ mang tính đột phá tri thức, nên có lẽ danh xưng xứng đáng nhất trong việc phân loại chuyên gia khoa học thời hiện đại thì đúng nhất là xếp vào dạng nhà sưu tầm, nhà biên khảo hay nhà thư tịch học. Thật đau lòng khi phải nói lên điều này.

Nhà Nho thuộc loại hình trí thức nguyên hợp. Đó là loại trí thức điển hình cho một hình thái kinh tế-xã hội khi mà lao động trí óc chỉ mới là đặc quyền của một thiểu số rất nhỏ. Tuy so với loại quý tộc, loại người có được những đặc quyền chỉ nhờ quan hệ huyết thống với người hay dòng họ cầm quyền thì sự xuất hiện và phát huy tác động trong xã hội của trí thức nhà Nho là một bước tiến bộ, nhưng đến lượt họ, khi đã tự khẳng định và được khẳng định địa vị trong xã hội, trong cơ chế thì nhà Nho cũng từng bước một kiến tạo đặc quyền theo lối huyết thống hóa, tạo ra không phải những cá nhân người trí thức sáng tạo, mà những “thế gia, vọng tộc, cự môn”, vừa theo mô hình quý tộc hóa, vừa theo lối đẳng cấp giữ những chức năng đặc thù. Họ không ngần ngại gì mà không khẳng định “vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu độc thư cao”, tự coi là người bề trên tự nhiên (và cũng thường được thừa nhận) là người đỡ đầu trực tiếp của các tầng lớp cư dân khác.

Với tôn chỉ “Nhất nghệ bất tri nho giả sở sỉ” (một nghề nào đó mà không biết thì kẻ làm nhà Nho tự thấy xấu hổ), họ thường kiêm luôn công việc của nhiều loại “chuyên gia” trong nhiều lĩnh vực khác nhau, thậm chí khá xa lạ đối với nhau. Người dân gọi họ là “thầy”, và ở nông thôn xưa thì nhà Nho làm tất tật công việc của các thứ thầy như vậy: thầy đồ dạy học (nho), thầy thuốc chữa bệnh (y), thầy địa lý lo chuyện phong thủy (lý), thầy bói xem tướng số (số), cả chuyện làm…thầy dùi, “tư vấn” cho các bên tham gia vào các vụ kiện tụng.

Bộ phận hiển nho - các nhà Nho hữu danh và thành đạt – cũng hầu như không có ai đủ căn đảm để chỉ “đi đến cùng một con đường đã chọn” có lẽ trừ Hải Thượng Lãn Ông. Ngay Hải Thượng Lãn Ông cũng chọn con đường trở thành một danh y vào lúc tuổi đời không còn trẻ và tình huống cơ hồ không thể khác. Nói tổng quát, mẫu trí thức nhà Nho ở ta chuyên môn hóa khá muộn màng và không trở nên là đội ngũ chuyên gia thực thụ, ở hầu như bất cứ bình diện nào của lao động sáng tạo tinh thần. Trong các hoạt động nghệ thuật, chỉ thơ là có thành tựu nổi bật, nhưng không có ai, kể cả nhà thơ vĩ đại nhất trong lịch sử văn học dân tộc là Nguyễn Du, cũng không trở thành nhà thơ “chuyên nghiêp”.

Một khi họat động sáng tạo tinh thần, lao động trí óc chưa được chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa, thì mọi hoạt động lao động khác gắn liền với các hệ thống tri thức chuyên nghiệp sẽ chỉ trở thành các loại lao động thủ công, nghiệp dư. Tình trạng đó là phổ biến từ các loại làng nghề gắn bó xa gần với hoạt động nghệ thuật cho chí các loại làng nghề sản xuất ra các sản phẩm thuần túy mang tính thương mại. “

Công tượng”, gọi nôm na là thợ, xếp loại ba, sau nông dân, còn được an ủi là xếp trên loại người tiêu thụ sản phẩm cho họ, tức thương nhân, tầng lớp “dưới đáy”, bị gọi miệt thị là loại “con buôn”. Giữ gìn phương tiện mưu sinh: theo ý tôi trong cách hành xử ấy còn tiềm ẩn cả tâm trạng ẩn ức, cả sự chống đối theo kiểu tiêu cực, cả niềm kiêu hãnh về những phẩm tính và kỹ năng ưu việt không được thừa nhận.

***
Gia nhập xã hội hiện đại theo con đường bị cưỡng bức, không hề được chuẩn bị đầy đủ về mọi phương diện để thích nghi, thiếu nghiêm trọng những kinh nghiệm và thực tế tương ứng được với xã hội hiện đại từ truyền thống, tóm lại, với tính nhược tiểu thể hiện khá “hoàn hảo”, giới trí thức Việt Nam khi trở thành “tầng lớp trí thức bản xứ” thêm một lần nữa bị chủ nghĩa thực dân vày vò, ép ướp hoàn toàn có chủ đích chỉ nhằm biến đổi họ thành đám vong quốc nô có chữ nghĩa. Lịch sử còn lưu lại vô số bằng chứng cả trực tiếp cả gián tiếp chứng minh cho đường lối chính trị, chính sách trí thức thuộc địa này của thực dân Pháp(6). 

Hệ quả cuối cùng của chính sách thực dân, dù những chính sách cụ thể trong từng thời kỳ nhất định có đổi thay theo hướng xoa dịu sự phản ứng của một cư dân bản địa dù sao cũng có hàng nghìn năm lịch sử đồng thời trên từng bình diện nhất định phải đáp ứng những đòi hỏi của tình hình khó khăn mà “mẫu quốc” lâm vào, vẫn cứ là một tầng lớp trí thức bản xứ với rất ít cá nhân thực sự đạt tới trình độ tinh hoa, đội ngũ chuyên gia tuy có số lượng khá hơn nhưng không toàn diện, gắn bó quá trực tiếp với sự điều tiết từ chính quốc chứ không phải gắn bó với xã hội và nền kinh tế tại chỗ, và một lượng đông đảo nhất những trí thức cấp thấp. Chất lượng của một tầng lớp trí thức như vậy, xét trên tương quan của một sự so sánh lịch đại, nghĩa là so sánh về khả năng đáp ứng những nhu cầu phát triển từng thời điểm lịch sử khác nhau, chắn chắn là còn kém hơn thời kỳ tiền thực dân. 

Từ sau Cách mạng tháng Tám, thân phận con người, thân phận công dân của người trí thức được đổi thay về chất. Đại đa số những trí thức trong xã hội cũ vì thế hăng hái tham gia bằng sở học của mình vào các công việc của xã hội mới. Thời gian kháng chiến chống Pháp, tuy có quá nhiều khó khăn khách quan, một thế hệ trí thức mới đã xuất hiện, trưởng thành. Đội ngũ này, tuy về số lượng không thật đông đảo, nhưng lại đặc biệt có chất lượng. Đa số những tên tuổi lớn trong các lĩnh vực khoa học - kỹ thuật và nghệ thuật thời gian qua ở ta là thuộc về hoặc cơ bản là thuộc về thế hệ này. Phần lớn họ là những người ra đời trong khoảng từ 1920-1932. 

Không phải ngẫu nhiên tôi chọn những mốc này: cho đến khi Cách mạng tháng Tám nổ ra, hầu hết họ đều đã có một thời kỳ học phổ thông và có được một “lưng vốn” tri thức nói chung, tiếng Pháp hay một ngoại ngữ nói riêng đủ để tự đọc sách và tự học tiếp tục. Những người sinh trước năm 1920 nếu thành danh thì đã thành danh trước Cách mạng, mà những người sinh sau năm 1932 thì “không kịp” có điều kiện như vừa tính tới. 

Nhưng cũng từ sau Cách mạng tháng Tám xã hội Việt Nam trải qua hơn 30 năm là xã hội thời chiến hoặc bị chi phối mạnh mẽ bởi một hoàn cảnh thời chiến. Trừ một vài lĩnh vực đặc biệt, chiến tranh không phải là điều kiện dương tính cho sự phát triển của lĩnh vực lao động tri thức. Không quá khó khăn để chỉ ra các lĩnh vực đặc biệt ấy. Dù muốn dù không, tính phục vụ trực tiếp, tính ứng dụng là những yêu cầu được đặt lên hành đầu đối với lao động của người trí thức trong hoàn cảnh ấy. Cũng khó mà tạo ra những diện mạo trí thức, những tên tuổi lớn theo lối hàng loạt trong điều kiện như vậy. Xét cho cùng, sức sản xuất các giá trị tinh thần – cả trong khoa học xã hội lẫn khoa học nhân văn, cả trong nghệ thuật, trong văn hóa đều tùy thuộc vào nền sản xuất vật chất của xã hội. Ngay cả việc phản ứng lại một thực tiễn lớn cũng đòi hỏi tiền đề là sự tồn tại của cái thực tiễn ấy đã. 

Mặt khác, kể từ sau Cách mạng tháng Tám, nền khoa học non trẻ của Việt Nam nhận được sự bổ sung về nguồn tri thức từ các nước xã hội chủ nghĩa có nền khoa học tiên tiến, chủ yếu là từ Liên Xô, và mức độ khác, từ Trung Quốc. Nhưng chỉ chưa hết một khóa học (đại học) từ sau năm 1954 thì giữa Liên Xô và Trung Quốc đã nổ ra những bất đồng. Vừa bối rối vì vấn đề phân liệt giữa các đảng cộng sản lớn cầm quyền, hết chống tệ sùng bái cá nhân lại rơi vào tình trạng phải đối phó với chủ nghĩa xét lại, người trí thức mới trẻ tuổi vừa còn phải “tuân thủ mọi yêu cầu của tổ chức, mọi nhiệm vụ được phân công” mà không phải lúc nào những yêu cầu ấy, những sự phân công ấy cũng được kế hoạch hóa, duy lý hóa. 

Tiếp theo đó là Đại Cách mạng văn hóa vô sản, tuy diễn ra và tác động tai hại trước hết và chủ yếu là ở Trung Quốc, nhưng không thể nói Việt Nam nằm ngoài vòng ảnh hưởng của biến cố kinh hoàng này. Một trong những đặc điểm nổi bật của cái gọi là cuộc Đại Cách mạng văn hóa này lại chính là ở tính chất phản văn hóa, phản tri thức của nó. 

Chắc chắn rằng những cuộc “đấu tố” diễn ra trong giới khoa học Việt Nam những năm 1967 – 1970 với nhiều nạn nhân bị quy kết là chuyên môn thuần túy, thiên tài chủ nghĩa mà nhiều người trong họ hiện vẫn tại thế, không những thế, dù sao một số khá đông trong họ vẫn còn kịp có những cống hiến khoa học xuất sắc, kịp được nhận những giải thưởng khoa học cao quý như giải thưởng Hồ Chí Minh hay giải thưởng Nhà nước, những cuộc “đấu tố” như vậy há chẳng là sự “cộng hưởng”, sự đồng vọng của cách mạng văn hóa sao? 

Giới trí thức tinh hoa ở mọi dân tộc đều là báu vật, nói như ngôn từ được làm sống lại gần đây đối với những ý tưởng truyền thống, thì họ là “hiền tài”, là “nguyên khí quốc gia”. Vậy những nạn “chảy máu chất xám” đã là điều nguy hại, mà nạn “lãng phí chất xám”, thậm chí còn khó nhận dạng hơn và khó khắc phục hơn, theo thiển ý, cũng cần nêu lên thành vấn đề lớn hiện nay. 

Có thể nói, ở ta mới có những người trí thức lớn,- không đông lắm mà nói thực thì cũng chưa được “lớn” lắm - nhưng chưa thể nói rằng đã có giới trí thức tinh hoa. Mà chừng nào trí thức tinh hoa chưa thành một giới, nôm na là núi không có đỉnh, thì khó lòng bàn đến “tầm” trí tuệ Việt Nam, tuy đó là điều không hiếm người thành tâm khao khát khẳng định.
---
(1) Tham khảo, chẳng hạn: - Trần Đình Hượu Đến hiện đại từ truyền thống. Nxb Văn hóa và Thông tin 1996. - Le contact colonial franco – vietnamien le premier demi – siècle (1858 – 1911) Nxb Universitè de Provence (PUP), 1999. - Trịnh Văn Thảo Vietnam du confucianisme au communisme. Nxb Presse Universitaire Francaise (PUF) 1992. (2) Tham khảo những tài liệu liên quan đến cuộc thảo luận về việc viết lịch sử tư tưởng Việt Nam. Viện Triết học, 1984. (3) Trần Đình Hượu, Sđd (4) Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX (1900 -1930) Nxb Văn học Hà Nội 1976. (5) Các bộ lịch sử, lịch sử tư tưởng Việt Nam của cả các tác giả người Việt lẫn người Pháp đều cung cấp nhiều tài liệu liên quan đến điều này.

Nguồn: TIA SÁNG
Đọc tiếp...