Thứ Năm, 11 tháng 2, 2016

Thảo Lê: TƯ LIỆU VỀ HÌNH ẢNH CON KHỈ TRONG DI SẢN VĂN HÓA


TƯ LIỆU VỀ HÌNH ẢNH CON KHỈ TRONG DI SẢN VĂN HÓA

Thảo Lê

Nhân dịp năm Thân sắp đến, xin gửi gia đình Face một số tư liệu về hình ảnh con khỉ trong Di sản văn hóa đọc cho vui.

Trong văn hóa các nước Á Đông, khỉ xếp thứ 9 trong 12 con giáp, kết hợp với "Thân" trong 12 địa chi. Chắc hẳn điều này không phải là một sự ngẫu nhiên, bở 9 là con số thiêng, có ý nghĩa biểu trưng. Số 9 là số lẻ, mang yếu tố dương, tượng cho sự chuyển động, sinh sôi, phát triển. 9 lại là con số lớn nhất của các con số dương, tượng trưng cho sự sung mãn, tột đỉnh. Trong tiếng Hán, 9 là cửu (九), đồng âm với từ cửu (久) có nghĩa lâu dài. Chính vì vậy, số 9 và các bội số của 9 rất được người dân Á Đông ưa thích.



Trong tư tưởng phương Đông cổ đại, con khỉ đã sớm có vai trò nổi bật. Theo truyền thuyết Tây Tạng, người dân Tây Tạng là hậu duệ của một con khỉ. Dân tộc Miêu phía Nam Trung Quốc có truyền thuyết về sự xuất hiện loài người: Thời xa xưa, lúc đầu con người chưa xuất hiện, một ngày nọ, một đàn khỉ khi đi chơi trong hang động thì gặp rồng thần. Rồng thần đã thổi trên những con khỉ hơi thở thần thánh của mình, làm cho chúng biến đổi thành con người hiện đại. Đạo giáo cho rằng sự lưu thông và hấp thụ "khí" trong cơ thể có thể dẫn đến tuổi thọ hoặc thậm chí bất tử. Động vật có tay, chân dài như khỉ, vượn được cho là bẩm sinh giỏi việc hấp tụ khí, do đó có được những quyền năng huyền bí, trong đó có khả năng giả hình dạng của con người và có khả năng kéo dài tuổi thọ cho đến vài trăm năm. Chính vì vậy, hình ảnh khỉ, vượn trong văn hóa Trung Hoa nhiều khi cũng tượng trưng cho sự siêu việt, bất tử. Thần khỉ còn được biết đến như một vị thần toàn năng, vì vậy hình ảnh con khỉ có thể được nhìn thấy ở nhiều môi trường truyền thống như một lá bùa bảo vệ. Ở vùng nông thôn Sơn Tây, Thiểm Tây và Nội Mông, một con khỉ đá với hình một sợi chỉ đỏ chạm khắc trên đuôi thường được để trên giường của trẻ sơ sinh để lấy phước, với mong ước những đứa trẻ này sẽ trở nên thông minh, tràn đầy sinh lực khi lớn lên. Và hầu như mỗi làng đều có những cột để buộc ngựa với đầu cột khắc hình con khỉ. Người ta nói rằng hình con khỉ này như một thứ bùa bảo vệ những con ngựa khỏi bệnh tật và chết , . Điều này cũng tương đồng trong văn hóa Nhật Bản, người Nhật cho rằng khỉ chính là vị thần giám hộ ngựa – một con vật có vai trò quan trọng trong đời sống vật chất và tinh thần của người Nhật. Niềm tin này lại được củng cố thêm bởi những nghi thức thực hành tín ngưỡng liên quan: Các samurai thường bọc ống tên của họ bằng da khỉ để khai thác sức mạnh bảo vệ của những con khỉ trên ngựa, và hình ảnh khỉ kéo ngựa rất phổ biến trên các ema (mảnh gỗ ghi lại những hình ảnh thể hiện ước nguyện của con người đến thần linh, được treo tại các đền thờ Thần Đạo).
.
Ở một nền chung rộng lớn hơn của tín ngưỡng Nhật Bản, khỉ đóng vai trò là thần bảo hộ và là trung gian giữa thần linh và con người. Trong nông nghiệp, khỉ được tin là có thể xua đuổi sâu bệnh, và người nông dân ở miền nam Nhật Bản thường cho khỉ ăn để mong khỉ bảo vệ đồng ruộng của họ. Shogun đầu tiên của Mạc phủ Tokugawa là Tokugawa Ieyasu (1603-1605) đã suy tôn Thần Khỉ là vị thần bảo vệ sự yên bình của đất nước . Là một đất nước thường xuyên xảy ra động đất, núi lửa, sóng thần, Nhật Bản có nhiều truyền thuyết giải thích nguồn gốc thiên tai. Người Nhật cho rằng, ở phía Đông lục địa châu Á có con thủy quái với kích thước rất dài: đầu ở phương Bắc châu Á (giáp châu Bắc Cực), mình ở bên Nhật Bản, đuôi kéo dài đến tận Việt Nam. Mỗi lần thủy quái trở mình, cả lục địa châu Á rung chuyển. Nhưng đồng thời người Nhật cũng sáng tạo ra nhiều vị thần có khả năng trấn áp con thủy quái đó, trong đó có thần khỉ. Niềm tin này khiến chúng ta liên tưởng ngay đến một công trình mang đậm phong cách Nhật Bản ở Hội An (Quản Nam): Lai Viễn Kiều (hay còn gọi là chùa Cầu, chùa Nhật Bản). Theo con mắt phong thủy, ngôi chùa Cầu như một thanh kiếm trấn yểm sông Hoài, ngăn không cho thủy quái gây lụt lội. Trong chùa, ngoài thờ Bắc Đế Trấn Võ – thần trị thủy, ở hai đầu cầu còn bắt gặp 2 đôi tượng khỉ và tượng chó, được suy tôn là Linh Hầu và Linh Cẩu - hai vị thần bảo hộ trong quan niệm của người Nhật . Chúng ta cũng bắt gặp ý niệm này tại nhiều bến đò trên sông Hoàng Hà, người ta đặt tượng khỉ như một vị thần bảo vệ cho những chuyến đi và chúc phúc cho những người qua đò. 
.
Nhìn sang văn hóa Ấn Độ, vua khỉ Hanuman là một nhân vật của thần thoại Hindu được kể lại trong bộ sử thi lừng danh Ramayana. Hanuman là thuộc hạ thân tín của vua Rama (hóa thân của thần Vishnu). Có truyền thuyết cho rằng Hanuman là con của Shiva, thần Nọc Lửa (Pillar of Fire), có truyền thuyết lại cho rằng Hanuman là con của Vayu - Thần Gió. Chính vì vậy, Hanuman có sức mạnh vô biên, đặc biệt là tài di sơn đảo hải, có tinh thần nghĩa hiệp, cầm đầu một đội quân khỉ hùng mạnh tấn công vào đảo Lanka, giết quỷ vương Ravana và cứu được người đẹp Sita là vợ của vua Rama. Thần khỉ Hanuman rất sùng bái vua Rama và cũng được Rama thương yêu nhất. Trong nhiều hình vẽ của Ấn Độ giáo, Hanuman được thể hiện với hình Rama trên ngực. Vì vậy, thần khỉ Hanuman đã trở thành biểu tượng của sức mạnh và lòng trung thành. Hình tượng Hanuman còn xuất hiện nhiều trong các bản anh hùng ca của các dân tộc có ảnh hưởng của Ấn Giáo, ví như Xỉn Xay của Lào, Ramakiêng của Thái Lan, hay trường ca Riêm Kê của Campuchia.

Một số ý kiến cho rằng khi du nhập vào nước ta, Ramayana đã được hóa thân vào truyện Thạch Sanh với motif người anh hùng có sức mạnh vô song đánh bại chằn tinh để cứu công chúa Quỳnh Nga. Rõ nét hơn, trong Lĩnh Nam chích quái biên soạn vào thời nhà Trần có truyện Dạ Xoa, kể rằng: Thời thượng cổ, ở ngoài nước Nam Việt Âu Lạc có nước Diệu Nghiêm, vua nước ấy hiệu là Dạ Xoa. Phía Bắc nước ấy giáp nước Hồ Tôn Tinh, thái tử nước Hồ Tôn Tinh tên là Vi Tư, có người vợ tên là Bạch Tịnh, nhan sắc tuyệt trần, trên đời ít ai có được. Vua Dạ Xoa nghe tin rất thích, bèn đem quân vây đánh nước Hồ Tôn Tinh, cướp được nàng Bạch Tịnh đem về nước. Vi Tư cả giận, liền đem quân khỉ (di hầu) phá núi lấp biển thành ra đất bằng, đánh phá nước Diệu Nghiêm, giết vua Dạ Xoa, rồi đem nàng Bạch Tịnh về nước . Rất dễ nhận ra đây là một biến thể tóm tắt trường ca Ramayana của Ấn giáo, đã trở thành một phần của văn hóa Việt Nam qua đồng bào Chăm.

Trong các di tích khảo cổ của văn hóa Chăm bắt gặp khá nhiều hình ảnh khỉ ở nhiều vị trí khác nhau, như một đoàn khỉ 16 con với nhiều tư thế được chạm khắc trên diềm trang trí trên mặt bên Đài thờ Trà Kiệu (Bảo tàng Điêu khắc Chăm, Đà Nẵng); hình khỉ ở chân tháp Khương Mỹ (Quảng Nam)... Đáng chú ý là, năm 1992, một số cán bộ của Cục Di sản văn hóa và Bảo tàng Bình Định đã phát hiện nhiều phiến đá có chạm khắc nằm rải rác xung quanh Tháp Đôi, trong đó có một tấm phù điêu sa thạch khắc hình con khỉ đang vọt ra từ miệng rắn. Chú khỉ hai tay dang ra, hai chân đang phóng về phía trước, đầu ngoảnh lại phía sau nhìn rắn, chiếc đuôi chưa lọt ra khỏi miệng rắn. Mồm rắn há rộng, nhe hai hàm răng và đang trong tư thế tấn công khỉ trông rất dữ tợn. Với hình tượng trên, chúng ta có thể nhận biết đề tài thể hiện là cuộc giao chiến ác liệt giữa khỉ Hanuman với rắn Surasa trong sử thi Ramayana . Đây là tác phẩm duy nhất hiện được biết tới thể hiện với đề tài này.

Khi Phật giáo xuất hiện, khỉ được coi là tiền kiếp của Đức Phật với trí thông minh, lanh lẹ và khả năng nhìn rõ mọi việc . Khỉ cũng là đệ tử rất thành tâm với Đức Phật, đã dâng lên Đức Phật mật ong và nhiều loại hoa quả khi ngài tu luyện trên núi Tuyết. Đoàn quân khỉ cũng chính là lực lượng giúp sức để Đức Phật chiến thắng kẻ ác. Vì vậy, trong Phật giáo nguyên thủy, mặc dù người tu hành được phép ăn những thứ thịt thanh tịnh, nhưng khỉ là một trong số những con vật người tu hành không được phép ăn . Hình ảnh con khỉ trong triết lý Phật giáo mang hàm ý sâu xa. Khỉ hay gần với nó là vượn tượng trưng cho tâm con người. Loài vượn, khỉ vốn tinh nghịch, hay nhảy nhót, không chịu yên. Tâm của con người cũng thường như vậy. Phật ví tâm người như loài khỉ, vượn nên gọi là tâm viên (con vượn lòng). Cùng với tâm viên là ý mã (ngựa ý), ý rong ruổi như ngựa không ở một chỗ. Giữa cho tâm ý yên tĩnh, tập trung tư tưởng vào một việc là chuyện không dễ.

 .
Chúng tôi được biết rằng, tại Nhật Bản, trong đền thờ Thần Đạo Toshogu ở vùng Nikko (cách Tokyo khoảng 140 cây số về hướng Bắc) hiện nay còn lưu giữ một bức điêu khắc bằng gỗ, niên đại thế kỷ XVII có hình ba con khỉ tên là Kikazaru, Mizaru và Iwazaru: bịt tai, bịt mắt và bịt miệng. Vì từ “zaru” gần âm với “saru” có nghĩa là con khỉ, nên người ta khắc hình ba con khỉ bịt miệng, bịt mắt, bịt tai với vẻ mặt ngộ nghĩnh, đây là sự nhân cách hóa con khỉ, để biểu đạt triết lý sâu xa: xa lánh trần tục - cách ứng xử của con người trong cái bấp bênh tiêu cực của tâm hồn xã hội; hay biểu đạt lời răn dạy: không nhìn điều xấu, không nghe điều xấu, không nói điều xấu; hay có thể hiểu: muốn nhận thức rõ mọi sự việc trong trần gian cần bịt mắt để dùng tâm mà nhìn, bịt tai để dùng tâm mà nghe, bịt miệng để dùng tâm mà nói. Khi tâm ở trạng thái "tịnh", không bị quấy rầy bởi những điều xấu, thì từ tâm mới phát sinh những điều "thiện". Ở đây ta thấy mối liên hệ của tư tưởng này với tư tưởng của phái Nho gia, khi Nhan Uyên hỏi về đức nhân và những điều gì cần phải làm, Khổng Tử đã đáp: “Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động” (không nhìn điều trái với phép tắc, không nghe điều trái với phép tắc, không nói điều trái với phép tắc, không làm điều trái với phép tắc). Motif khỉ trong bộ "tam không" này được bắt gặp khá nhiều trong các di sản văn hóa liên quan đến Phật giáo ở các nước Á Đông, đặc biệt là Trung Quốc và Nhật Bản. 
.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng, sau chuyến đi sang Tây Trúc thỉnh kinh của Đường Tam Tạng, người Trung Quốc theo Phật giáo Đại thừa đã lấy cảm hứng từ vua khỉ Hanuman để tạo ra nhân vật Tôn Ngộ Không của mình. Tôn Ngộ Không vốn đã có mặt trong truyện dân gian từ thời nhà Đường, sau đó được đưa vào tiểu thuyết Tây Du Ký, tương truyền là của Ngô Thừa Ân thời Minh. Tên gọi Tôn Ngộ Không mang ý nghĩa triết lý của đạo Phật. Tôn là đề cao, Ngộ là khai mở tâm thức, làm cho không còn mê muội (tỉnh ngộ, giác ngộ). Không là bản thể, cốt lõi chung/cùng của muôn loài, muôn vật theo đạo Phật (sắc tức thị không, không tức thị sắc). Lấy con khỉ để biểu đạt triết lý sâu xa này là bởi con khỉ ứng xử mọi việc hồn nhiên như cái thường hằng của đất trời. Tôn Ngộ Không được sinh ra từ một hòn đá (chất thiêng mang tính uyên nguyên mà con người gặp được), không có cha mẹ, vợ con, tài sản, ngay cả giới tính cũng không xác định, không có bất kỳ kinh nghiệm nào của con người và không có nhiều quan niệm của người thường. Tôn Ngộ Không hội tụ sức mạnh vô song của vũ trụ: 72 phép thần thông biến hóa (Thực chất 72 là con số phiếm chỉ, là bội số của 9, có nghĩa là rất nhiều. Đồng thời số 72 cũng xuất phát từ tư tưởng Ngũ Hành, gắn với quan niệm về số lượng của người dân ). Tôn Ngộ Không lại được luyện trong lò Bát Quái của Thái Thượng Lão Quân trên Thiên đình nên có hỏa nhãn kim tinh, có khả năng nhìn xuyên thấu, nhận biết mọi loại yêu ma dù chúng có biến hóa thế nào (biểu tượng cho việc đã đạt được thiên nhãn thông, là con mắt của trí tuệ, có thể thông tỏ mọi sự). Trên hành trình đi Tây Trúc thỉnh kinh, Tôn Ngộ Không một lòng kiên định, không hề do dự về cuộc hành trình gian nan này, không oán trách, giận giữ, hay đau buồn trước mọi biến cố (không hề mang chấp trước về danh, lợi, tình). Cuối cùng, Tôn Ngộ Không đã thành chính quả, và được Phật Tổ phong làm “Đấu Chiến Thắng Phật”.

Trở lại với Việt Nam, trước khi tiếp xúc mạnh mẽ với văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa, hình ảnh con khỉ đã xuất hiện trong tín ngưỡng cổ đại của nhiều tộc người với tư cách là vật tổ (tô tem) hay yếu tố trợ giúp cho cuộc sống của con người. Trong truyện kể dân gian của một số tộc người như Xtiêng, Raglai, Mơ Nông có motif người học khỉ đỡ đẻ (trước phải mổ bụng mẹ lấy con, mẹ chết vị bị mổ bụng, con chết vì không được bú sữa mẹ, sau đó, người chồng học được cách khỉ đỡ đẻ về làm cho vợ, làm cho cả vợ và con đều được sống ). Khỉ còn dạy người trồng dây bầu lấy quả khô đựng nước dùng trong sinh hoạt... Chính vì vậy, nhiều dòng họ, dân tộc ít người thờ thần khỉ (Muq Kara – bà khỉ, dân tộc Raglai ), kiêng ăn thịt khỉ và trả ơn loài khỉ với tục không xua bắt khỉ đến phá rẫy. Trong truyện kể dân gian người Việt, hình ảnh con khỉ hiện lên với sự thông minh, dí dỏm: Truyện Chú khỉ tinh khôn kể Hổ đòi ăn thị Khỉ, nhưng khỉ nhanh trí nghĩ ra một kế để lừa Jổ. Nó nói: Bác Hổ ạ, bác ăn thịt cháu cũng được thôi, nhưng phiền một nỗi là toàn thể loài vật vừa bầu cháu làm vua rồi. Bác từ nay cũng phải coi cháu là vua. Nếu bác không tin bác cứ thử đi với cháu mà xem. Chắc hơn hết bác cứ để cháu ngồi lên lưng, ta đi dạo một vòng, nếu không đúng là các loài sợ oai vua của cháu thì bác cứ việc ăn thịt. Hổ ngờ nghệch bằng lòng cõng Khỉ đi một vòng rừng, đi đến đâu trăm loài đều sợ sệt bỏ chạy. Họ chạy vì Hổ mà Hổ cứ tưởng họ sợ oai Khỉ thật. Lúc ấy Khỉ mới ra oai quát hổ rằng: Nhà ngươi thấy chưa! Trăm loài trong rừng đều sợ ta. Thế mà nhà ngươi còn dám láo với ta. Lần này thì ta tha, vì nhà ngươi chưa biết oai của ta là vua của núi rừng, lần sau ta sẽ trị tội nghe không!. Hổ sợ quá đành vâng lời .

Khi văn hóa Ấn Độ và văn hóa Trung Hoa lan tỏa ảnh hưởng đến Việt Nam, hình ảnh con khỉ phần nhiều chịu ảnh hưởng của hai nền văn hóa này. Tuy nhiên cần nói rằng, những ảnh hưởng đó chỉ như là nguyên liệu (cốt truyện hay đề tài) mà người Việt sử dụng để chế biến thành những món ăn tinh thần, tư tưởng đậm chất Việt Nam, vô cùng sinh động và sáng tạo.

Trong tiếng Hán, con khỉ có âm gọi là "hầu" (猴) đồng âm với từ "hầu" (侯, tước hầu – tước thứ hai trong năm tước: công, hầu, bá, tử, nam) cho nên hay được dùng trong lối chơi chữ.

Truyện kể rằng: vào thời Trịnh Khải, 1783, thế lực Chúa Trịnh đang suy tàn, nhưng vẫn còn kẻ nịnh bợ. Đặng Kim đã làm đến tước hầu, mà còn xin làm con nuôi nhà Chúa, đổi tên là Trịnh An. Một hôm, trên tường vôi nhà Hầu, có người đến vẽ một cây cổ thụ đang xiêu đổ, lá cành trơ trụi, gốc rễ ngả nghiêng. Trên chạc có con khỉ đang nằm ngủ, bên cạnh câu thơ Nôm: Khỉ ơi tỉnh dậy đi thôi/ Đừng chờ cây đổ, đi đời nhà mi. Hầu tỉnh ngộ, từ quan, lấy lại tên cũ. Về sau, khi Trịnh Khải đổ, ông tránh khỏi nạn cháy nhà vạ lây.

Trong nghệ thuật tạo hình chịu ảnh hưởng của Nho giáo, hình ảnh con khỉ thường gắn liền với giới quý tộc, với ý nghĩa cát tường: 

.
Hình con khỉ và con ong: tượng trưng cho sự thăng tiến (phong hầu)

Tiếng Hán gọi con ong là “phong” (蜂)cũng phát âm tương tự như từ “phong” (封)với nghĩa ban chức, phong tước hiệu. Như vậy, đồ án một con ong và một con khỉ hàm ý được phong tặng tước Hầu. Ta bắt gặp đề tài này trên một ô lá đề mặt bên phải nhang án đá Từ chỉ họ Đặng (huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh, niên đại 1675) chạm nổi hình con khỉ và con ong với chữ khắc phong (ong), hầu (khỉ), nói lên ước vọng về thăng quan tiến chức. Ý nghĩa này thống nhất với hình ảnh trong ô lá đề ở mặt đối xứng bên trái của nhang án: một con chim nhỏ đang bay xuống, phía dưới là một con hươu đang nằm quay đầu lại hướng về phía con chim, nói lên ước vọng về tước (chim), lộc (hươu), được khẳng định bởi hai chữ lộc, tước khắc chìm trên nền của đề tài.


Hình con khỉ và con chim: tượng cho tước vị cao quý

Do từ chim trong tiếng Hán là tước (雀) đồng âm với tước (爵) là danh vị phong cho quý tộc hoặc công thần (ngôi tước, chức tước), nên hình con khỉ và con chim biểu thị mong ước đạt được tước vị quyền quý, cao sang. Hình ảnh này được bắt gặp ở diềm bia bia đề danh tiến sĩ khoa Quý Mùi niên hiệu Phúc Thái năm thứ 1 (1643), xen giữa hoa lá cách điệu là các hình khỉ và chim xen kẽ ở nhiều tư thế, động tác rất sinh động.


Hình con khỉ ôm trái đào: tượng trưng cho sự trường thọ

Theo truyền thuyết Trung Hoa, trong hoa viên của Tây Vương Mẫu có trồng đào tiên, 8 ngàn năm nở hoa, 8 ngàn năm kết trái, 1 lần ăn 1 miếng có thể tăng 600 tuổi thọ. Khi vườn đào chín, Tây Vương Mẫu mở tiệc bàn đào mời các thần tiên đến thưởng thức, vì một miếng đào có thể tăng đến 600 tuổi thọ, nên loài người gọi là “thọ đào". Nhiều đồ gốm sứ và chạm khắc đá, gỗ có hình con khỉ ôm trái đào tức là "linh hầu hiến đào" mang ý nghĩa trường thọ. Trên cầu đá và lan can đá ở chùa Bút Tháp (Bắc Ninh, giữa thế kỷ XVII) có một ô diễn tả hai chú khỉ, chú khỉ bên trái đang chơi đùa, đuổi bắt hai con ong, chú khỉ bên phải ngồi dưới gốc cây, tay đang ôm một trái đào. Bức chạm này mang ý nghĩa phong hầu và trường thọ. Motif này còn được thấy ở bức chạm phía góc phải trên bức cốn đình Phú Mỹ, xã Tự Lập, huyện Mê Linh, TP. Hà Nội. Bức chạm thể hiện đề tài "Tam đa" (Phúc, Lộc, Thọ) tượng trưng là một con khỉ đang nhảy nhót, tay cầm quả đào (Thọ); một con dơi đang bay (Phúc); một con hươu đủng đỉnh đi, đầu ngoái lại (Lộc).

Hình con khỉ cưỡi trên lưng ngựa: tượng trưng cho sự thăng tiến nhanh chóng 
(mã thượng phong hầu). 

Hình tượng Mã thượng phong Hầu (Khỉ ngồi trên lưng Ngựa) kết hợp ý nghĩa của cả hai linh vật “Khỉ và ngựa” với mong ước cho việc thăng tiến trong công việc, thăng quan tiến chức. Cặp từ “Phong hầu” có nghĩa là thăng chức, lên chức, thăng tiến. Còn chữ “Mã thượng” mang ý nghĩa là ngay lập tức.

Đây là đề tài ít nhiều chịu ảnh hưởng của Trung Hoa nhưng được thể hiện khá nhiều trong tranh in dân gian của người Việt. Ở chùa Đại Mỗ (Từ Liêm, Hà Nội) ngày nay vẫn còn ván in khắc hình con khỉ cầm quạt ngồi trên đuôi ngựa mang ý nghĩa về việc thăng quan tiến chức một cách nhanh chóng. Ý nghĩa này được xác thực thêm ở hai chữ "mã hầu" ngay ở trên hình khắc.

Cùng với ý nghĩa về việc đạt được chức vị còn có motif hình con khỉ treo ấn trên cây phong (tượng cho sự thăng tiến lên một vị trí cao với một con dấu chính thức - đeo ấn phong hầu) hay hình hai con khỉ ngồi trên cây tùng hoặc một con khỉ cưỡi lên lưng con khỉ khác (tượng cho việc duy trì một chức quan cao từ đời này sang đời khác - bối bối phong hầu). Motif này được bắt gặp nhiều trên gốm sứ và hội họa Trung Hoa hơn là trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam.

Từ những ví dụ trên cho thấy mặc dù sử dụng những chủ đề mang ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, nhưng phương tiện và phương cách biểu đạt chủ đề đó lại đậm chất Việt Nam với sự vui tươi, hóm hỉnh, gần gũi với đời sống dân dã. Bên cạnh những hình ảnh theo chủ đề của Nho giáo, con khỉ cũng xuất hiện nhiều trên các công trình đình, đền, chùa với một tinh thần phóng khoáng, cởi mở, hòa đồng. Trong nghệ thuật tạo hình của người Việt, thời Lý đã xuất hiện khá nhiều tượng khỉ bằng đá tại tháp Chương Sơn (Ý Yên, Nam Định) với các tư thế khác nhau. Trên cửa đình Xám (Nam Trực, Nam Định) cũng chạm hàng chục con khỉ xen lẫn trong hình chạm rồng ổ, nai, chim, rắn. Hình ảnh con khỉ tinh nghịch túm râu rồng xuất hiện ở mảng chạm vì tiền đình An Cố (Thái Thụy, Thái Bình), hay hình khỉ túm râu con lân và một con thú khác ở chân diềm bia chùa Bút Tháp (Bắc Ninh, niên đại 1647). Ở xà góc của gian bên phải đình Lũng Xuyên (Duy Tiên, Hà Nam) chạm hình ba con khỉ đang đánh đu, vắt vẻo trên cành cây, hái quả và trêu đùa nhau. Đôi khi, khỉ như được nhân cách hóa để thể hiện những cử chỉ, động tác mang tình cảm của con người. Tại bia Tiền triều Đinh Tiên Hoàng đế công đức tằng tu điện miếu bia ký ở đền vua Đinh (Hoa Lư, Ninh Bình) khắc năm Chính Hòa thứ 17 (1696), trên diềm bia bên phải khắc một đôi khỉ đang âu yếm nhau, bên kia khắc một con khỉ lớn cõng trên lưng một con khỉ con, thể hiện tình mẫu tử.

Trong kho tàng di sản văn hóa phi vật thể, hình ảnh con khỉ được thể hiện sống động, gần gũi với sinh hoạt dân dã. Con khỉ xuất hiện trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, trong những câu tục ngữ, thành ngữ như: khỉ ho cò gáy; rung cây nhát khỉ; nuôi ong tay áo, nuôi cáo khỉ dòm nhà; khỉ gió; khỉ khô; khỉ mốc; khỉ lại là khỉ, mèo lại hoàn mèo. Người dân Nam Bộ cũng dùng con khỉ làm chủ đề chính trong một điệu lý của mình (Lý con khỉ). Trong nghệ thuật diễn xướng kịch hát Dukê của người Khmer Nam Bộ diễn tả con khỉ với 12 động tác: cười, lạy, gãi, khóc, nhảy, âu yếm, đau khổ... Tại Tĩnh Gia (Thanh Hóa) có một số làng, mỗi khi Tết đến xuân về đều tổ chức hội thổi cơm thi, trong đó có một tốp người đóng giả làm khỉ tinh nghịch, quấy rối, gây khó khăn cho các đội thổi cơm, tạo nên một không khí vui nhộn cho ngày hội.

Những hình ảnh con khỉ trong di sản văn hóa Việt Nam trên đây khi đối chiếu với hình ảnh con khỉ trong văn hóa Trung Hoa, Nhật Bản khiến chúng tôi nhớ tới nhận định của nhà nghiên cứu văn hóa Trần Lâm Biền: Trải qua nhiều thời kì, giai đoạn lịch sử, văn hóa Việt Nam có giao thoa, học tập nhiều nét từ văn hóa nước ngoài song về cơ bản, linh vật của Việt Nam luôn giữ nét hiền hòa, cân bằng tạo cảm giác yên bình chứ không có tính chất áp chế, đe dọa như linh vật nước ngoài…

Trên đây là một số tư liệu chúng tôi thu thập được trong tư duy liên tưởng về những ý nghĩa văn hóa tốt đẹp gắn với con khỉ, để gửi tới bạn đọc lời chúc năm Thân mọi sự tốt lành./.



.

Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét