Nguyệt Quỳnh
SV Hồng Kông cúi đầu cám ơn sự hỗ trợ của người dân sau cuộc đàm phán.
Cuộc
Cách mạng đang diễn ra ở Hồng Kông là cuộc cách mạng mang đến cho thế
giới nhiều xúc động nhất. Hình ảnh các sinh viên quỳ dọc theo đường ga
xe lửa trên tay cầm tấm bảng với nội dung xin lỗi người dân vì những bất
tiện gây ra bởi cuộc biểu tình, hình ảnh các sinh viên đồng loạt đứng
giơ hai tay lên trời khi bị nhóm côn đồ theo lệnh Bắc Kinh trà trộn vào
hành hung, và hình ảnh 5 sinh viên cúi đầu cám ơn những hỗ trợ dành cho
phong trào sau buổi đàm phán với Chính phủ, là những hình ảnh cảm động,
đẹp nhất, và khó quên nhất. Nhìn các em, người ta thấy ngay một thế hệ
người Hồng Kông đáng kính, những bậc cha mẹ phía sau họ. Đằng sau các
sinh viên này, có lẽ không có những cấm đoán dữ dội, không có những lời
khuyên răn kiểu như: “hãy mau trở về nhà, hãy im lặng để được
sống an thân, hãy sống bàng quan, chuyện đất nước không phải là trách
nhiệm của thế hệ cac con, các cháu”.
Phía sau họ là những bậc cha mẹ can đảm!
Trả
lời với đại diện chính quyền Hồng Kông về yêu cầu phải giải tán đám
đông biểu tình, Alex Chow, lãnh tụ sinh viên đã xác định điều này, anh
nói với họ: “Nếu đi ra các khu biểu tình, quý vị sẽ thấy nhiều thế hệ
dân HK ở đó. Chỉ chính phủ mới có thể làm cho họ đi về nhà, bằng cách
trả lời các yêu cầu của dân chúng, cho họ thấy một lộ trình và một thời
biểu để đạt đến các mục tiêu dân chủ”.
Sinh
viên Hồng Kông học bài, làm bài tập, ngủ trên đường phố từ ngày này sang
ngày khác, sẵn sàng chịu bị còng tay, sẵn sàng hứng hơi cay… Và cha mẹ
họ cũng sẵn sàng chịu hứng hơi cay với họ.
Cách
đây nửa thế kỷ, tại Hungary đã có một cuộc cách mạng của những người trẻ
dũng cảm, và những bậc cha mẹ dũng cảm. Nhắc về những người trẻ này là
nhắc về huyền thoại của “những chàng trai Pest” trên các đường phố của Hungary năm 1956. Những ai đã từng sống với chủ nghĩa cộng sản đều biết rằng phía sau những “những chàng trai Pest”
này là những bậc cha mẹ can đảm! Đây là biến cố chấn động đầu tiên
trong khối các nước Xã hội chủ nghĩa ở Ðông Âu; vì đây là một cuộc đấu
tranh chống lại chủ nghĩa cộng sản, chống quân xâm lược Liên Xô, đòi dân
chủ và độc lập dân tộc.
Nhưng trước khi nói
đến cuộc cách mạng năm 1956, tưởng cũng nên nhắc lại linh hồn của những
cuộc cách mạng Hungary – Thi Sĩ Petőfi Sándor.
Ngày
15 tháng 3 năm 1848 trước Bảo tàng Quốc gia Hungary, một người thanh
niên trẻ, lúc đó chỉ mới 24 tuổi, thi sĩ Petőfi Sándor, đã dõng dạc đọc
bài thơ Bài ca dân tộc do chính ông sáng tác. Bài thơ có những câu: “Hỡi thánh thần của người Hung / Chúng con xin thề / Sẽ không bao giờ chịu kiếp nô lệ!…” Đây
là một khúc tráng ca, hào hùng như tiếng kèn xung trận. Thi phẩm này
được coi như linh hồn của cuộc cách mạng dân chủ Hung năm 1848, và
Petőfi trở thành một thủ lĩnh tinh thần, một thi hào vĩ đại nhất của
Hungary ở thế kỷ 19. Khi liên minh Áo-Sa hoàng ào ạt đổ quân vào
Hungary, mặc dù bạn hữu can ngăn, nhưng Petőfi vẫn nhất quyết đầu quân
ra chiến trường. Rồi như một định mệnh, với cái ước mơ được hiến dâng
đời mình nơi chiến địa, ông gục ngã như hai câu thơ ông viết: “Ðể lũ ngựa ầm ầm phóng qua xác tôi / Mau kịp đến với lẫy lừng chiến thắng...”
Cái
chết của người con ái quốc Hungary, thi sĩ Petőfi Sándor, đã không bao
giờ được chấp nhận. Nhiều năm sau này, dân tộc Hung vẫn đi tìm tung tích
của ông. Nhiều huyền thoại đã được truyền tụng, rằng Petőfi chưa chết,
ông chỉ bị thương nặng, bị bắt rồi bị đày đi ở chốn Siberia xa xăm.
Petőfi Sándor của Hungary hay Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu, Phó Đức
Chính của Việt Nam; cái họ để lại là phong cách của một con dân ái quốc
trước quân xâm lược, trước cái chết tất yếu phải đối mặt. Họ đã truyền
lại cho đời sau một sức mạnh có tác động mãnh liệt, mà chính họ cũng
không thể ngờ tới; sức mạnh có thể làm xoay chuyển vận mệnh của cả một
dân tộc.
Tuy cuộc cách mạng năm 1848 sụp đổ,
nhưng thừa hưởng một tình yêu thắm thiết và lãng mạn dành cho Tổ quốc
của thi sĩ Petőfi để lại, những thanh thiếu niên Hungary đã lao vào cuộc
cách mạng chống lại quân xâm lược Nga giành độc lập năm 1956. Cuộc cách
mạng này đã hội tụ được đông đảo thanh thiếu niên Hung quả cảm và can
trường. Theo tường thuật lại, ở tại Corvin nơi xảy ra chiến sự ác liệt
nhất, hơn 80% chiến binh chỉ ở độ tuổi 20, nhiều thiếu niên chỉ ở ngưỡng
cửa tuổi 16 hoặc trẻ hơn. Họ là học sinh, sinh viên và những công nhân ở
độ tuổi dưới 25. Những thiếu niên này đã đi vào lịch sử Hung với cái
tên gọi đầy thương mến “những chàng trai Pest”. Nhiều thập niên sau này, người dân Hungary vẫn lưu truyền một câu nói cảm động, mang đầy tính tự hào: “Tại sao quân Liên Xô chỉ toàn tấn công vào sáng sớm? Là vì khi đó bọn trẻ vẫn đang ngủ!”.
Đọc
về cuộc cách mạng Hung 1956, chúng ta biết tuổi trẻ Hungary đã được các
thế hệ cha anh dẫn dắt, trân trọng và nuôi lớn bằng lịch sử, bằng ý
thức quốc gia, và bằng niềm tự hào dân tộc. Tuổi trẻ Việt Nam cũng đã
từng được nuôi lớn bằng những chất liệu như thế. Gần đây nhất là thế hệ
của Nguyễn Thái Học và đồng đội của anh. Tác giả Louis Roubaud đã từng
viết về nỗi xúc động của ông khi chứng kiến 13 lời hô “Việt Nam muôn
năm!” trước máy chém tại pháp trường Yên Bái. Hàng ngàn thanh niên trẻ
của VNQDĐ đã đem sinh mạng mình hiến dâng cho Tổ quốc. Có người không
muốn bị giặc làm nhục phải tự sát đến ba lần như Nguyễn Khắc Nhu, hàng
trăm người khác bị thực dân xử tử và hàng trăm người khác nữa bị lưu đày
biệt xứ.
Cả một thế hệ thanh niên sát vai nhau,
cùng dấn thân để đánh đuổi ngoại xâm, cùng đồng tâm với cái quan niệm
“không thành công cũng thành nhân”, cùng thản nhiên bước lên đoạn đầu
đài với lời từ biệt gởi lại như một lời nhắn: “Việt Nam muôn năm”. Điều
gì đã tạo nên thế hệ thanh niên đó? Nếu không phải là cách nhìn của họ
về giá trị của một con người và về ý nghĩa của sự sống.
Họ
là hiện thân của những thế hệ Việt Nam đã đứng vững chân trên mảnh đất
nhiều sóng gió này. Hiện thân của trách nhiệm, của lòng ái quốc, của lý
tưởng trong sáng, của sự quyết tâm chấp nhận hy sinh. Họ còn thể hiện
một ý chí bất khuất lưu truyền tự ngàn đời: KHÔNG CHẤP NHẬN SỐNG KIẾP NÔ LỆ. Chính vì những điều cốt lõi đó mà pháp trường hay máy chém của thực dân bỗng trở thành bùn đất.
Nhưng
ngày nay, trước hiểm hoạ diệt vong, trước viễn ảnh mất nước, đâu rồi
nội lực của dân tộc? Đâu rồi cả một thế hệ trách nhiệm và dấn thân? Phải
chăng họ đã mất dấu sau gần 70 mươi năm dưới chủ nghĩa CS? Đâu rồi
những con người đã sống cùng chiến tranh, sống qua chiến tranh? Chỉ
những người nào đã đi qua chiến tranh mới biết được cái giá của độc lập
quý báu đến dường nào. Và cũng chính chúng ta, có người mà máu đồng đội
có lúc đã từng khô trên vai áo của mình; mới thực sự hiểu được giá trị
của hy sinh cùng niềm hãnh diện khi được sống hiên ngang làm người Việt
Nam.
Hỡi các bậc cha mẹ! xin chia niềm hãnh
diện đó với tuổi trẻ Việt Nam. Tôi tin chúng ta đang có thật nhiều những
bậc cha mẹ như chị Kim Liên – mẹ của Đinh Nguyên Kha, chị Nhung – mẹ
của Phương Uyên, bác Trần Văn Huỳnh – cha của anh Trần Huỳnh Duy Thức,…
Xin hãy cùng góp mặt trong cuộc tử sinh của dân tộc. Đừng để tuổi trẻ
Việt bơ vơ, mất phương hướng. Xin nắm tay họ bước theo điểm sáng của
lịch sử như quý vị đã từng được dẫn dắt.
N.Q.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét