Nguồn gốc Việt Nam của tên 12 con giáp
– Ngọ- Ngũ -ngựa (phần 13)
Nguyễn Cung Thông
Ngọ hay Ngũ 午 là chi thứ 7 trong thập nhị chi hay 12 con giáp. Biểu
tượng của Ngọ là con ngựa dùng chỉ thời gian như giờ Ngọ từ 11 giờ sáng
đến 1 giờ chiều (chính ngọ là đúng trưa, giữa trưa hay 12 giờ trưa),
tháng 5 … và xác định không gian như hướng Nam. Phần này không bàn về
khái niệm thời không gian hay Ngũ Hành/kinh Dịch của Ngọ mà chỉ chú
trọng vào các liên hệ ngữ âm của Ngọ và ngựa so với mã 馬 (tiếng Hán
Việt/HV cũng chỉ con ngựa). Phần sau sẽ cho thấy mã là tiếng Hán có gốc
Hán Tạng, khác hẳn với ngựa tiếng Việt – và liên hệ trực tiếp của Ngọ và
ngựa cho thấy tên chi này có nguồn gốc Việt (Nam) chứ không phải Trung Quốc/TQ cũng như tên gọi của 11 con giáp còn lại …
Ngựa tiếng Thái là maH ม้า, năm Ngọ là maH-mia มะเมีย hay bpee
mah-mia ปีมะเมีย. Điều này cho thấy ảnh hưởng trực tiếp của TQ (mã là
ngựa) cũng như dạng Ngọ HV của tiếng Việt. Tiếng Lào1 cũng có
dạng maH chỉ con ngựa cho thấy vay mượn từ TQ, sa-nga (ngựa) là một
dạng khác trong tiếng Lào có thể là tàn tích của một nhóm ngôn ngữ liên
hệ đến tiếng Ahom (shi-nga), tiếng Lanna (sa-nga)… Các dữ kiện như tiếng
Thái, Lào, Hán Việt … sẽ không có trích dẫn nguồn (vì rất dễ kiểm tra
lại) so với những bài viết hay tài liệu ngôn ngữ đặc biệt hơn.
Giọng Bắc Kinh/BK bây giờ được ghi bằng pinyin (bính âm) rất phổ
thông, so với các số sau vần chỉ thanh điệu như ma3 (mǎ BK) hay mẫu tự
như H (High, chỉ thanh điệu cao như tiếng Thái maH) – không nên lầm với
các số cho phần ghi chú thêm.
1. Giới thiệu tổng quát
Hình ảnh loài ngựa rất thường gặp trong văn hóa Á Đông, khắp nơi trên
thế giới vì các khả năng chuyên chở, săn bắn và chiến lược cũng như
loài ngựa khá dễ thuần hóa.
1.1 Ngựa trong văn hóa TQ
Lão kí phục lịch : chỉ người có chí lớn
Lão mã thức đồ : chỉ người thông minh lịch lãm
Long mã tinh thần : hàm ý có tinh thần phấn đấu vượt hiểm nguy
Thiên mã hành không : hàm ý ung dung tự tại phóng ngựa phi nhanh …
Mã đáo thành công, Mã đáo công thành : việc làm thành
công sớm – thời xưa khi quân đội xuất chinh thì thường chúc nhau là
đánh một lần thì thành công. Thành ngữ này xuất phát từ Nguyên khúc
tuyển, Sở Chiêu Công, chiết 1 … Thành ngữ này rất thông dụng ngay cả bây
giờ trong tiếng Việt
Thiên quân vạn mã : chỉ thanh thế mạnh mẽ (hùng mạnh)
Tái ông thất mã (ông già cửa ải mất ngựa) : hàm ý phúc họa không ai biết trước được hay trong điều xấu có thể có điều tốt …
Hồ mã Việt điểu : ngựa Hồ phương Bắc và chim Việt phương Nam khi ở Trung Quốc vẫn nhớ đến quê cũ
Mã cách quả thi : da ngựa bọc thây (trích từ Hậu Hán Thư, câu
nói của danh tướng Mã Viện trả lời Hán Quang Vũ về ý chí làm trai thà
chết nơi chiến trường).
Mã thượng khán hoa : cưỡi ngựa xem hoa, hàm ý chỉ xem qua loa mà thôi
Mã giác ô bạch (sừng ngựa quạ trắng), mã giác ô đầu
(sừng ngựa đầu quạ) … đều hàm ý chuyện không thể xẩy ra, không thể thực
hiện được (ngựa không có sừng, quạ không thể có màu trắng …)
Mã bất bội chủ : ngựa không phản lại chủ, hàm ý trung thành
Phi lư phi mã : chẳng phải lừa và chẳng phải ngựa, không giống con giáp nào cả …
Mã nhĩ đông phong (gió đông qua tai ngựa) : vào tai này ra tai kia, không chú ý hay tập trung, nước đổ đầu vịt …
Mã công Mai tốc (công phu như Mã và nhanh nhẹn như Mai) : mọi người đều có khả năng riêng
Mã mã hổ hổ : lè phè, làm việc không cẩn thận …
Mã ngưu khâm cư : trâu và ngựa mặt quần áo người, thiếu tư
cách … Cách trang điểm phải thích hợp – so với câu ‘cái răng cái tóc là
gốc con người’ trong văn hóa Việt Nam
Mã thượng bất tri mã hạ khổ : người đi ngựa không biết nỗi khổ của người đi bộ (hoàn cảnh khác nhau khó thông cảm)
Hại quần chi mã : con ngựa làm hại cả đàn, hàm ý một cá nhân làm hại cả tập thể …
Mã đằng vu tào, nhân huyên vu thất : ngựa chạy trong chuồng và người nói trong phòng – hàm ý một nơi (cơ sở) to lớn
Mã kháo an trang, nhân kháo y thường : cái yên làm nên con ngựa và quần áo làm nên con người – hay ‘người đẹp nhờ lụa, ngựa nhờ yên’2
Mã bất đình đề : ngựa chạy không nghỉ, hành trình không nghỉ …
Thiên lý mã : ngựa giỏi, nổi bật. Ngựa xích thổ của Quan Công
thời Tam Quốc có thể đi rất xa (nên còn gọi là thiên lý câu) nhịn ăn mà
chết theo chủ cho thấy tính trung thành của loài ngựa …
Án đồ sách kí : xem tranh để chọn ngựa
Hãn mã công lao : giải quyết thành công việc nước
Phong mã ngưu bất tương cập : ngựa và trâu có đuổi nhau cũng không gặp, hàm ý hai vật gì không có liên quan với nhau
Mã thủ thị chiêm : đầu làm gì đuôi theo nấy, khi đánh trận
phải xem hướng đầu ngựa của chủ Tướng chỉ huy (tới, lui hay ngừng …) hàm
ý vui vẻ hòa thuận và tuân lời chỉ huy
Đao thương nhập khố, mã phóng Nam Sơn : đao thương cất vào kho
và cho ngựa ăn cỏ ở núi Nam Sơn, thái độ tiêu cực không phòng bị dễ
thất bại (dễ bị kẻ địch phản công).
Mã đề đao biều lý thiết thái – trích thủy bất lậu : bần tiện như thái rau cải bằng móng ngựa – xài nhỏ giọt, keo kiệt …
Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã : người cùng bản tính thường tìm đến nhau …
Mã còn là một họ TQ, như Mã Viện (danh tướng đời Hán). Tổ tiên Mã Viện giỏi thuần ngựa nên có danh hiệu là Mã Phục Quân (người giỏi thuần ngựa).
…v.v…
Đúng ra ta cần cả một cuốn sách dầy2 viết về hình ảnh của
loài ngựa trong văn hóa TQ và VN, tuy nhiên phần này chỉ tóm tắt những
câu thường gặp cho thấy ảnh hưởng sâu xa của loài vật này qua thành ngữ
tục ngữ TQ.
1.2 Ngựa trong văn hóa Việt Nam
Loài ngựa đã gắn bó với loài người từ thời Thượng Cổ, không chỉ có ở
Việt Nam. Do đó ta cũng có nhiều ca dao, tục ngữ, khẩu ngữ có hình ảnh
loài ngựa – không những thế ngựa đã đóng góp trong quá trình giữ nước
qua truyện thánh Gióng3 hay Dóng, Đổng 董.
Truyện Kiều có ít nhất 24 câu ‘dính dáng’ đến loài ngựa như
Ngựa xe như nước áo quần như nêm (câu 48)
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi (câu 378)
Vó câu thẳng ruổi nước non quê người (câu 1602)
…v.v…
Một số ca dao thành ngữ Việt Nam cho thấy ảnh hưởng của TQ như ‘bóng
ngựa (câu) qua cửa sổ’ hàm ý thời gian qua nhanh, từ câu nói của Trang
Tử (Nhân sinh thiên địa chi gian, nhược bạch câu chi quá khích, hốt
nhiên chi dĩ) và
Bây giờ kẻ Bắc người Nam
Ngựa Hồ chim Việt biết làm sao đây
Và
Ngựa ai buộc ngõ ông Cai
Hoàn ai mà lại đeo tai bà Nghè
Ngựa ai buộc ngõ ông Nghè
Gà ai lại thả trước hè ông Cai
…v.v…
So với các thành ngữ tục ngữ khác như ngựa non (con) háu (sáo) đá,
lên xe xuống ngựa, ngựa quen (theo) dấu (đường) cũ, chạy như ngựa, được
đầu voi đòi đầu ngựa, mồm chó vó ngựa, như ngựa bất kham, một con ngựa
đau cả tàu chê cỏ, thẳng (như) ruột ngựa, thiếu voi phải dùng ngựa, thân
(kiếp) trâu ngựa, ngựa long-cong ngựa cũng đến bến – voi thủng-thỉnh
voi cũng đến đò, ngựa dập (xéo) voi giày …v.v…
Ảnh hưởng của loài ngựa rất sâu đậm trong văn hóa dân gian TQ và Việt
Nam như đã thấy bên trên; Thành ra để thấy rõ nguồn gốc chữ Ngọ từ nền
văn hóa cổ điển nào thì ta phải đi vào chi tiết của cách thành lập chữ
và âm Ngọ.
Nếu mã馬được dùng cho chi thứ 7 thay vì Ngọ thì không ai đặt vấn đề
nguồn gốc phi-Hán của tên 12 con giáp làm gì, nhưng khi xem kỹ lại nguồn
gốc thành lập chữ mã từ thời giáp cốt văn, kim văn, chữ triện … ta thấy
rõ ràng là chữ mã馬tượng hình con ngựa – xem thêm trang mạng của Richard
Sears (cập nhật 2008) http://www.chineseetymology.org/CharacterASP/CharacterEtymology.aspx?characterInput=%E9%A9%AC&submitButton1=Etymology
Còn chữ Ngọ午có nguồn gốc rất khác chữ mã; Xem hình thì ta có thể đoán là một cái chày giã gạo, liên hệ đến chữ (xử) 杵. Vì cách dùng đặc biệt của Ngọ là chi thứ 7 nên sau này chữ 杵 mới được tạo ra để chỉ cái chày – xem thêm trang mạng của Richard Sears (cập nhật 2008) http://www.chineseetymology.org/CharacterASP/CharacterEtymology.aspx?characterInput=%E9%A9%AC&submitButton1=Etymology
Nguồn gốc hình thành chữ Ngọ qua các thời kỳ giáp văn, kim văn, chữ
triện … như trên cho ta thấy ngay là Ngọ không có liên hệ gì đến con
ngựa như mã HV. Thêm vào đó là sự vắng bóng của loài vật này trong đời
sống tâm linh và tín ngưỡng của TQ cổ đại : như không có mặt trong nhóm
tứ linh (bốn con vật linh thiêng là long, ly, quy, phượng) hay tam sinh
(bốn con vật thường được dâng cúng là trâu, dê, lợn). Văn hóa du mục của
phương Bắc tận dụng loài ngựa nên ta không ngạc nhiên khi thấy chúng
xuất hiện nhiều trong các thành ngữ tục ngữ liên hệ đến chiến tranh,
ngay cả Thuyết Văn Giải Tự (Hứa Thận soạn thời Đông Hán) cũng gói ghém
tư tưởng này trong cách ghi ‘Mã, nộ dã, võ dã’!
Như vậy nếu Ngọ có nghĩa là ngựa thì chữ Ngọ đã được người Hán dùng
để ký âm một ‘tiếng ngoại quốc’ nào đó (so với chữ mã đã có sẵn) – các
tương quan ngữ âm phần sau sẽ cho ta thấy ‘tiếng ngoại quốc’ này chính
là tiếng Việt (Cổ).
2. Phụ âm đầu ng- của Ngọ/Ngũ
Thật ra âm Ngọ hay Ngũ 午 đã là âm Trung Cổ của âm wǔ BK bây giờ,
dạng Ngọ rất gần với các dạng của phương ngôn miền Nam TQ như Quảng
Đông, Hẹ, Phúc Kiến … Hiện nay giọng BK không còn phụ âm đầu ng- nữa.
Trích từ các tài liệu âm vận Trung Cổ của chữ Hán ta thấy cách đọc của
Ngọ là [唐韻】【集韻】【韻會】【正韻】疑古切,音五 [ Đường Vận ] [ Tập Vận ] [ Vận Hội ]
[Chánh Vận ] nghi cổ thiết , âm Ngũ – đều cho thấy phụ âm đầu là ng- (phụ âm vang gốc lưỡi). Các tác giả như Axel Schuessler4 (2007) và William Baxter5
(1992) đều phục hồi âm Ngọ Thượng Cổ với dạng *nga?, nhưng theo người
viết và dựa vào dạng *mangơơ của tiền Việt-Mường-Pakatan theo Michel
Ferlus4 thì âm Ngọ Thượng Cổ có thể là *ngwa hay *ngua. Dạng *ngwa đã cho ra âm ngựa tiếng Việt và Mường (Bi) bây giờ. Tiếng Việt không có các dạng ngua, ngụa, ngúa, ngủa …
3. Nguyên âm o và u của Ngọ/Ngũ
Ít người biết rằng Ngọ còn có thể đọc là Ngũ (xem phần 2 bên trên).
Chính vì vậy mà ta thường nghe nói đến Ngọ Nhật (ngày Ngọ) là ngày mồng
năm tháng năm âm lịch hay còn là tết Đoan Ngọ (Đoan Ngũ). Tương quan
giữa hai nguyên âm sau (back vowels) o, u khá rõ nét qua các cặp võ
vũ, trong trung, tòng tùng, tông tung, dong dung, thong (dong) thung
(dung), dõng dũng, khom khum, mồng mùng, xông xung …v.v…
Một cách khác để xem những âm đọc của Ngọ khi xưa ra sao là phân tích
các chữ Hán dùng chữ Ngọ làm âm phù. Cũng như các chữ Hán ký âm tên 12
con giáp, Ngọ cũng được dùng làm thành phần hài thanh/HT trong quá trình
cấu tạo chữ Hán suốt chiều dài lịch sử – ta hãy xem vài chữ Hán có
thành phần HT là Ngọ và các dạng biến âm trong tiếng HV, Việt :
3.1 Ngự viết là 馭 hay 御 (chữ này dựa vào bộ sách, làm mất đi các liên
hệ ngữ âm của ngự – ngựa). Nghĩa nguyên thủy của ngự là người cầm roi
hay cương ngựa để điều khiển (xem giáp văn, kim văn), sau mở rộng nghĩa
là phòng ngự (phòng ngừa). Ngừa chính là một dạng cổ của ngự. Có tác giả6
dựa vào chữ ngự (dây cương) này để liên kết Ngọ với ngựa trong hệ thống
ngữ âm thuần Hán, nhưng lý luận từ cụm từ dây cương dẫn đến danh từ
ngựa không hợp lý vì ngựa hiện diện trước dây cương (dụng cụ kiểm soát
ngựa, chế ngự) nên quá trình thành lập chữ phải là ngựa > dây cương.
Tương tự như vậy, tên 12 loài vật cụ thể phải có trước khi chúng được
dùng để chỉ khái niệm thời gian như năm sinh hay các khái niệm bói toán
trừu tượng hơn! Đây cũng là lý luận gà-hay-trứng-gà (chicken or the egg) giai đoạn nào có trước và rất dễ đi vào vòng lẩn quẩn …
3.2 Hứa viết là 許 còn đọc là hổ, hử theo Tập Vận, Vận Hội … Biến âm từ Ngũ Ngọ thành hứa có thể giải thích dựa vào vị trí phát âm cuối họng (yết hầu) của ng- và h- cũng như u/o thành -ưa
3.3 Ngỗ viết là 仵, 忤, 迕 … đều cho thấy âm Hán Cổ của thành phần hài thanh Ngọ Ngũ 午 … Ngỗ
忤 nghịch 逆 (không nghe lời) thường gặp trong tiếng Việt, cho thấy phần
nào nghĩa mở rộng từ các hoạt dộng điều khiển, kiềm chế (chế ngự) loài
ngựa. Quá trình mở rộng nghĩa từ cụ thể đến trừu tượng còn thấy trong
cách nói ‘thua ngựa một cái đuôi’ (hàm ý dâm dật, Đại Nam Quốc Âm Tự Vị – 1895); Bây giờ tiếng Việt vẫn còn dùng tiếng lóng (chửi tục) như ‘ngựa bà’ cùng một ý.
Từ phân tích ngữ âm trên : *Ngọ – ngự – ngừa, *Ngọ – hứa , Ngọ – ngựa … Ta có thể xác nhận tương quan giữa âm Ngọ Ngũ và ngựa tiếng Việt7.
Ngoài ra, tương quan u – ư – ưa còn thấy rất rõ nét khi nhìn rộng ra
cho hệ thống âm thanh HV qua các cặp từ HV và Việt sau đây :
Phù 符 bùa, phụ 婦 bụa (quả phụ – góa bụa), phô phố 鋪- búa (chợ búa),
phủ 斧 búa – bừa, vụ 務 mùa, vũ 舞 múa, vô mô 無 mựa (không), thâu thú 輸
thua, lư 驢 lừa (con lừa), lữ 侶 lứa (đôi lứa), trừ 除 chừa, trữ 貯 chứa, cự
距 cựa, cứ 鋸 cưa, sơ 疏 thưa, dũ (dữu, 庾) vựa, trú 晝 trưa ban ngày), tự 寺
chùa, chủ 主 chúa, chú 註 chua (chú sách), du 諛 dua (a dua, nịnh hót), tu
鬚 râu, tua tủa …v.v…
Chính vì sự vắng mặt của nguyên âm đôi -ua trong tiếng Hán mà tác giả
Paul Benedict còn đề nghị kỵ (kị) 騎 (qí BK) cũng có nguồn gốc phương
Nam – để ý tiếng Việt còn duy trì âm cổ là cưỡi hay cỡi, tiếng Thái cưỡi
ngựa là ขี่ม้า kèe máa (qí mǎ 騎馬 giọng BK – nhưng Axel Schuessler4 lại cho rằng kỵ đã nhập vào các ngôn ngữ ở Đông Nam Á).
Tóm lại, ta có cơ sở rất vững chắc để thành lập liên hệ Ngọ Ngũ 午 và
ngựa – tên gọi loài vật này trong tiếng Việt. Liên hệ này không hiện
diện trong tiếng Hán qua các thời đại hay các ngôn ngữ khác trong vùng8, giải thích được khả năng nguồn gốc tên con giáp Ngọ hay Ngũ này là từ tiếng Việt (Cổ).
Các tương quan ngữ âm Tý-chút-chuột, Mão-Mẹo-mèo, Hợi-gỏi-cúi,
Sửu-tlu/klu-trâu, Ngọ-Ngũ-ngựa … Tiếng Việt cho ta thấy ngay tương quan
mật thiết giữa các tên 12 con giáp và tên gọi các loài vật liên hệ. Điều
này không hiện diện rõ ràng như vậy khi phân tích tên 12 con giáp trong
tiếng Hán hay các ngôn ngữ khác ở Đông Nam Á – người Hán có lúc phải
dùng hai từ đi chung để hiểu nghĩa của chúng như丑牛Sửu ngưu, 卯兔 Mão thố,
亥豕Hợi thỉ, 午馬Ngọ mã … Nhờ vào các mối dây âm thanh mà dấu ấn vẫn còn rất
đậm trong tiếng Việt (khẩu ngữ) và sự chuyên cần ghi nhận của người TQ (qua các tài liệu cổ bằng chữ Hán) mà ta có thể cảm nhận được phần nào chủ đề của loạt bài viết này
Trăm năm bia đá thì mòn
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ
4. Phụ chú và phê bình thêm
Phần này không hoàn toàn theo cách ghi tài liệu (Bibliography) tham
khảo APA hay MLA vì bao gồm các phê bình thêm về đề tài, tài liệu và tác
giả để người đọc có thể tra cứu thêm chi tiết và chính xác. Loạt bài
“Nguồn gốc Việt (Nam) của tên gọi 12 con giáp” (cùng tác giả) đã có một
số đăng trong Kỉ Yếu Hội Thảo Ngôn Ngữ Học, Việt Nam Học và các trang
mạng văn hoá như vanchuongviet.org, khoahocnet.com, e-cadao.com ….v.v…
Giới (regnum): Animalia
Ngành (phylum): Chordata
Lớp (class): Mammalia
Bộ (ordo): Perissodactyla
Họ (familia): Equidae
Chi (genus): Equus – Chi này cho ra các loài lừa (ass/donkey) ngựa vằn (zebra), ngựa …v.v… Để ý : lư 驢 bộ mã + chữ lư hài thanh là con lừa
Loài (species): E. caballus
Các nghiên cứu về mitochondrial DNA (mtDNA) cho thấy ngựa thuần hoá
(domestic horse) có thể phát sinh từ nhiều nơi cùng lúc và dần dần thích
ứng với từng địa phương – còn gọi là thuyết Bốn Nguồn Gốc (Bắc, Nam Âu
Châu và Bắc, Tây Á Châu) của loài ngựa (Four Foundations Theory) – xem
thêm http://en.wikipedia.org/wiki/Horse
. Các khảo cứu ở TQ dựa vào kết quả phân tích mtDNA của các xương ngựa
hóa thạch cách đây hơn 2000 năm cho thấy nguồn gốc của chúng rất phức
tạp – xem bài báo cáo năm 2008 ‘Ancient DNA provides new insights into
the origin of the Chinese domestic horse’ trên mạng http://www.sciencedirect.com/science?_ob=ArticleURL&_udi=B6WH8-4TYYTCW-2&_user=10&_rdoc=1&_fmt=&_orig=search&_sort=d&view=c&_acct=C000050221&_version=1&_urlVersion=0&_userid=10&md5=367e08db895c39647aacde3261a9053d
. Trước đây, lịch sử thuần hoá loài vật thường là đề tài nghiên cứu của
các ngành Khảo Cổ hay Nhân Chủng Tiến Hoá Học (Evolutionary Archaology,
Anthropology) … Nhưng gần đây hơn, các tiến bộ về Di Truyền Học Phân Tử
(Molecular Genetics) đã đóng góp rất nhiều vào quá trình xác định nguồn
và thời gian thuần hoá. Tuy nhiên các kết quả cần phải kiểm nghiệm
chính xác cũng như phù hợp với các kết quả từ ngôn ngữ, lịch sử, khảo cổ
cũng như văn hoá dân gian – xem thêm bài viết tổng hợp Molecular Approaches to Understanding Animal Domestication:
…v.v… Một vài bài báo cáo như trên không đủ dữ kiện về nguồn gốc chính
xác cũng như tính phân bố thời không gian của loài ngựa. Tuy nhiên ta
cũng nên tham khảo thêm các kết quả cập nhật về Di Truyền Học để hỗ trợ
cho các kết quả dùng dữ kiện ngôn ngữ, khảo cổ, lịch sử … và để cho
thấy vấn đề tổng quát và thích hợp hơn.
1. Dạng sa-nga song tiết của tiếng Lào dùng cho chi thứ 7 Ngọ. Vấn đề
song tiết của tiếng Việt Cổ đã được nhiều học giả trong và ngoài nước
đề cập đến : như GS Nguyễn Quang Hồng trong bài ‘Những chứng tích chữ
Nôm xưa nhất hiện còn’ (Hội Nghị Nôm học, 11-12/4/2008 – ĐH Temple, Hoa
Kỳ), GS Lê Văn Quán trong bài viết cho Hội Nghị Quốc Tế về chữ Nôm (Hà
Nội 12-13/11/2004), Trần Uyên Thi và Nguyễn Hữu Vinh trong bài ‘Ai vẽ
được, ai xóa được – dấu vết âm Việt cổ : từ song tiết và phụ âm kép’
(Hội Nghị Quốc Tế về tiếng Việt, Viện Việt Học – California – 2007)…
cũng như các bài viết của Michel Ferlus ……. Thí dụ như các từ song tiết
bà ngựa (ngựa), la đá (đá), phá tán (rắn) …v.v… Một cách tóm tắt ta có
thể thấy các nhóm ngôn ngữ dùng dạng (a) Ngọ/ng-/wǔ (b) mã/mami/uma
(c) s(i/a)nga (song tiết). Chính vì các dạng song tiết (c) này mà
có tác giả như Li Fang-Kuei phục nguyên âm cổ của Ngọ là *zngagx để cho
ra các dạng sa-nga (Lào), Shi-nga (Ahom) … và William G. Boltz cũng ghi
nhận điều này trong bài viết ‘The Old Chinese Terrestrial Rames in Saek’
(đăng trong cuốn ‘Studies in the Historical Phonology of Asian
Languages’ Chủ biên William G. Boltz và Michael C. Shapiro, 1991). Jerry
Norman còn đề nghị tiền tố sa- của Thái có lẽ chỉ là dạng sáng tạo địa
phương trong bài viết “A note on the origin of the Chinese Duodenary
Cycle’. Tiền tố s- vẫn còn gặp trong các ngôn ngữ như slaq (tiếng Mường,
Kha… chỉ lá), snam (tiếng Palaung chỉ năm), sro (tiếng Mường chỉ lúa)…
Paul Benedict còn đi xa hơn và đề nghị chính mã có nguồn gốc từ Ngọ hay
ngựa của ngữ hệ Nam Thái (Austro-Thai) : ông đưa ra dạng ngà/ka (ngựa)
của tiếng Lê (thổ dân đảo Hải Nam, thuộc Bách Việt) trong cuốn
‘Austro-Thai, Language and Culture. With a Glossary of Roots’ New Havens
1975. Tác giả Paul Benedict là một trong số học giả hiếm hoi trên thế
giới từ trước tới nay lên tiếng khẳng định ảnh hưởng của văn hóa ngôn
ngữ phương Nam vào TQ thời Thượng Cổ, thí dụ như thập nhị chi, các từ
trà, dừa, chuối, nỏ hay ná … và các số đếm trên 100 …v.v… Nếu nhìn rộng
ra xem các tiếng chỉ ngựa trong những ngôn ngữ láng giềng, ta thấy dạng
aseh (tiếng Kơho), aseh/seh (GiaRai), asaih/atheh (Chàm – tiếng Chàm Cổ
là *?aseh),*ơseh (proto-Katuic), seh (Stiêng), ses (Khme)…Tác giả Paul
J. Sidwell phục nguyên dạng ngựa của tiếng South Bahnaric Cổ
(proto-South Bahnaric) là *?ơsơh (trong cuốn ‘Proto South Bahnaric’
Pacific Linguistics 2000 Đại Học Quốc Gia Úc/ANU). Tiếng Phạn (Sanskrit)
còn có dạng आश्््व [ âsva ] chỉ con ngựa, và tác giả Robert K. Headley
đã từng đề nghị tiếng Chàm asaih đã vay mượn từ tiếng Phạn (bài viết
‘Some sources of Chamic vocabulary’ 1976)…v.v… Đây là một chủ đề cần
được nghiên cứu sâu xa hơn để soi sáng mảng giao lưu ngôn ngữ rất phức
tạp thời Bách Việt ở khu vực Đông Nam Á
2. Có nhiều thành ngữ tục ngữ TQ liên hệ đến ngựa và rất xa lạ với
văn hóa Việt Nam – xem thêm các cuốn ‘Văn Hoá về 12 con giáp’ tác giả
Thường Tuấn – bản dịch tiếng Việt – NXB Tổng Hợp TP HCM (2005), hay tác
giả Trọng Hậu trong cuốn “12 con giáp và đời người” (NXB Hải Phòng –
2008), hay các cuốn chuyên khảo về thành ngữ TQ như Tân Hoa Thành Ngữ Tự
Điển (Bắc Kinh – 2004) …v.v…
3. Đổng hay Phù Đổng (Thiên Vương) theo truyền thuyết có công phá
giặc Ân vào thời Hùng Vương thứ 6. Theo người viết, Gióng hay Dóng là
các dạng ngạc cứng hóa (palatalised) của Đổng董 – xem thêm chi tiết trên
diễn đàn Viện Việt Học, phần Hán Việt chủ đề “kẻ dỏng – thánh dóng / gióng – phù đổng
?” đăng từ ngày 11/4/2007. Nếu hiểu được tương quan ngữ âm Đổng – Gióng
(Dóng) thì đỡ tốn bao nhiêu giấy mực viết về đề tài này – như ‘Tuyển
tập tác phẩm’ Cao Huy Đỉnh, NXB Lao Động (Hà Nội – 2004), ‘Lược khảo về
thần thoại VN và kho tàng truyện cổ tích VN’ Nguyễn Đổng Chi …
4. “ABC Etymological Dictionary of Old Chinese’ tác giả Axel Schuessler – NXB University of Hawai’i Press – Honolulu (2007)
5. “A Handbook of Old Chinese Phonology” tác giả William H. Baxter – NXB Mouton de Gruyter – Berlin, New York (1992)
Tranh của Hàn Cán 韓幹 (khoảng 706 -780) đời Đường – bài thơ viết trong tranh là của vua Càn Long vào năm 1746 đời Thanh -
xem thêm chi tiết trên mạng Han Gan – Wikipedia, the free encyclopedia
6. Bài viết ‘Chữ Ngọ, từ sợi dây cương đến con ngựa’ của tác giả An
Chi/AC, đăng trên tạp chí Kiến Thức Ngày Nay – số 413 xuân Nhâm Ngọ
2003. AC lại dựa vào sự phân tích của Quách Mạt Nhược về nguồn gốc chữ
Ngọ 午 là tượng hình dây cương, và từ đó mở rộng nghĩa để chỉ con ngựa.
AC đưa ra một chữ ngự 御 bộ sách (người viết thêm vào bộ sách ở đây để
phân biệt với một dạng khác của ngự là 馭 bộ mã) và ông lý luận ngự (điều
khiển ngựa, chế ngự) cho ra dạng ngựa qua trung gian của một chữ hiếm
午卩 (dị thể) của ngự viết bằng chữ Ngọ và chữ (bộ) tiết. Trong loạt bài
chứng minh nguồn gốc của tên 12 con giáp là từ TQ, đặc biệt là bài trên
của AC, ta thấy có vài điểm đáng chú ý như sau:
6.1 Quách Mạt Nhược là một trong số những học giả TQ hiếm hoi đặt vấn
đề về nguồn gốc (phi-Hán) của 12 con giáp (cùng với Lương Khải Siêu, và
Triệu Dực đời Thanh). Đa số các học giả từ xưa đến nay như Vương Sung
thời Đông Hán (trong Luận Hành), và Chu Hy đời Tống … đều ghi chép các
tên 12 con giáp hàm ý là có nguồn gốc từ TQ. Sự chuyên cần ghi nhận của
các học giả TQ theo dòng thời gian cho ta nhiều văn bản và dữ kiện ngôn
ngữ, tuy nhiên phải cẩn thận khi đưa ra các kết luận từ các tài liệu
này!
6.2 Như đã trình bày ở trên, nguồn gốc chữ Ngọ qua giáp văn, kim văn,
chữ triện cho thấy chữ này không dính líu gì đến ngựa – chính các tài
liệu TQ cũng cùng một nhận xét như cuốn ‘The Composition of Common
Chinese Characters – An Illustrated Account’ (Peking University Press –
1996), ‘Tìm về cội nguồn chữ Hán’ của Lý Lạc Nghị và Jim Waters (NXB Thế
Giới – Hà Nội – 1998) …v.v… Xem nguồn gốc của chữ ngự御bộ sách ta thấy
chữ này có mặt rất nhiều trong giáp văn, kim văn và chữ triện – xem
nhiều chi tiết trên http://www.chineseetymology.org/CharacterASP/CharacterEtymology.aspx?characterInput=%E5%BE%A1
Tại sao lại có rất nhiều vết tích của ngự bộ sách so với chỉ có một
dạng chữ triện của ngự bộ mã? Đầu tiên là chữ ngự bộ sách phải có từ
lâu, trước khi chữ ngự bộ mã ra đời! Điều này phù hợp với khuynh hướng
trung ương tập quyền (định chế, chế ngự …) của các nhóm cầm quyền từ
phương Bắc TQ cho tới thời Tần Thủy Hoàng còn cố gắng thống nhất chữ
viết – ông còn đốt sách, chôn học trò để đạt được các mục tiêu mà triều
đình đặt ra. Tuy nhiên khi đối diện với chữ ngự, có người hiểu là liên
hệ trực tiếp đến ngựa nên mới có dạng chữ triện bộ mã. Kiến thức này chỉ
hiện diện ở phương Nam (nguồn gốc Ngọ là ngựa) nên càng ngày càng bị
đào thải và chữ này trở nên ít dùng. Giả sử chữ ngự bộ mã có mặt rất
nhiều trên giáp văn, kim văn, chữ triện … thì tương quan ngữ âm của ngự
và ngựa có cơ sở và khó giải thích nguồn gốc phương Nam của Ngọ. Ngoài
ra dây cương có nhiều cách viết bằng chữ Hán như cương 韁 bộ cách hay 繮
bộ mịch hợp với chữ cương (cường) hài thanh, đích 靮 bộ cách, khống 鞚 bộ
cách, bí 轡 bộ xa … Có chữ nào mở rộng nghĩa để chỉ con ngựa đâu? Tiếng
Anh thuộc ngữ hệ Ấn Âu cũng có các danh từ harness (dây ghìm, dây cương,
áo giáp …) và rein (dây cương) – khi dùng làm động từ thì mang nghĩa mở
rộng là kiểm soát/ tận dụng chứ không mở rộng nghĩa để chỉ con ngựa
(horse, tiếng La Tinh là equus).
Nếu nhìn các quá trình mở rộng nghĩa của danh từ trong ngôn ngữ con
người, ta thường thấy là từ giai đoạn cụ thể tiến tới giai đoạn trừu
tượng, từ chi tiết đến tổng quát (tự nhiên) : thí dụ như hãi 駭 viết bằng
bộ mã hợp với chữ Hợi hài thanh chỉ dáng (hình ảnh cụ thể) con ngựa sợ
(hãi) – nếu lý luận là từ chữ hãi (sợ hãi, trạng thái tinh thần, trừu
tượng – như kinh 驚 ) ta sản xuất ra chữ ‘hãi’ ‘kinh’ là con ngựa (cụ
thể, vật chất) thì e rằng không hợp với tiến trình tự nhiên cho lắm! Đây
là một cái bẫy thường gặp trong lý luận về nguồn gốc : giai đoạn nào có
trước – trứng hay trứng gà?
7. Thanh ngã của Ngũ và nặng của Ngọ đáng chú ý : theo Từ Nguyên (trích Khang Hy) Ngọ đọc là nghi cổ thiết – thượng – mỗ (mụ 姥) vận – nghi
(疑). Các thanh ngã và nặng đều phù hợp với âm vực trầm (trọc) vì có phụ
âm đầu là ng- (hữu âm, trọc âm). Đa số các từ HV có thanh thứ 3 (third
tone, thượng thanh) đều có âm hỏi hay ngã tương ứng (tùy vào phụ âm
đầu). Thí dụ như chŭ (giọng BK bây giờ) là 楚 Sở (nước Sở), gŭ 古 cổ
(xưa), kǒu 口 khẩu (miệng), shǒu 守 thủ (giữ), rŭ 汝 Nhữ (sông Nhữ), lĕi 耒
lỗi (cái cầy), nŭ 弩 nỗ (cái nỏ, ná), wŭ 舞 vũ (múa), tŭ 土 đỗ, thổ, đổ
(đất), mŭ 母 mẫu (mẹ) …v.v… Nhưng trong trường hợp Ngũ hay Ngọ, ta lại
thường dùng thanh nặng hơn cho thấy liên hệ Ngọ và wǔ đã có từ xa xưa và
có thể là tàn tích của thanh nặng từ âm ngựa so với các âm ngừa và hứa.
Các thí dụ khác là mộ 墓 (mù giọng BK bây giờ) còn có các dạng khác là
mồ, mô và mả trong tiếng Việt; Ná hay nỏ liên hệ đến nỗ 弩 (nŭ giọng BK
bây giờ) … Các từ này đều cho thấy thanh điệu thuộc cả hai âm vực và do
đó mộ và nỗ (sau khi so sánh với các ngôn ngữ khác như Mường, Mnong,
Khme…) có khả năng là ngôn ngữ phương Nam nhập vào tiếng Hán vào thời
Tiên Tần như tên 12 con giáp. Một điểm đáng ghi nhận ở đây là Từ Nguyên
(Thương Vụ Ấn Thư Quán, Bắc Kinh – 2004) trong phần giải thích từ Ngọ
không ghi nhận một liên hệ gì đến loài ngựa; Nhưng Khang Hy có ghi ‘…
[Vận Hội] mã thuộc Ngọ…’. Trong Thi Kinh – Tiểu Nhã 詩經 -小雅 có viết “…Cát nhật Canh Ngọ , tức soa ngã mã吉日庚午,即差我馬 ….”
(ngày tốt là Canh Ngọ, phải tìm ngựa cho ta) có hàm ý rằng Ngọ liên hệ
đến ngựa. Đó chỉ là một mối dây liên hệ của Ngọ và ngựa từ thời Khổng Tử
tuy không có các ghi nhận rõ ràng và có hệ thống hơn như vậy! Đến thời
Đông Hán, Vương Sung trong Thiên Sinh Luận mới ghi nhận cả nhóm thập nhị
chi và biểu tượng 12 con giáp như TQ đang dùng hiện nay.
8. Tác giả Paul Schneider trong tầm nguyên tự điển ‘Dictionnaire
Historique des Ideogrammes Vietnamiens’ (Nice – 1992) cho rằng ngựa có
nguồn gốc (Hán) là Ngọ, cũng như tác giả An Chi … Tuy nhiên tác giả Lê
Ngọc Trụ lại không có ‘ý kiến’ như thế trong cuốn ‘Tầm Nguyên Tự Điển
Việt Nam’ (NXB Thành Phố HCM – 1993). Bài viết này cho thấy Ngọ có nguồn
gốc là ngựa chứ không phải ngược lại! Vấn đề oái ăm là danh từ ngựa
nhập vào tiếng Hán Cổ (thành Ngọ, từ Việt Hán) nhưng khi văn hóa
TQ khởi sắc (thời Tần, Hán … thời Đường Tống) thì Ngọ lại nhập ngược vào
tiếng Việt (và các nước chung quanh) cũng như đa số các từ Hán Việt khác, mà ít người nhận ra được nguồn gốc Việt (Cổ) của chúng. Đây là một động lực chính thúc đẩy người viết soạn ra loạt bài “Nguồn gốc Việt (Nam) của tên gọi 12 con giáp” để đặt lại vấn đề cho thêm phần chính xác.
Nguyễn Cung Thông
nguyencungthong@yahoo.com
Trong các quân cờ tướng có người gọi các quân cờ lần lượt là tướng, sĩ , tượng , xe , pháo , mã , tốt , nhưng dân Nam Bộ thường gọi là xe, pháo, ngựa. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng gọi là tịnh ( tượng, voi ) và ngựa thay vì mã :
Trả lờiXóaTHOẠT MỚI VÀO CHÀNG BÈN NHẢY NGỰA,
THIẾP VỘI VÀNG VÉN PHỨA TỊNH LÊN !
Ngọ và Ngựa gần gũi với VN hơn . Thường nói Ngọ thì ngừoi Việt nhớ tới giờ Ngọ ( trưa ) hay phương Nam ( Ngọ Môn ) hay Tết Đoan Ngọ ( 5 tháng 5 ÂL) nhưng nói về tuổi thì ai tuỏi Ngọ cũng đều hiểu là sinh vào năm con Ngựa . Con gái tuổi Ngựa thường hiểu là đời vất vả . Cho dù có giàu cũng vất vả . Con trai tuổi Ngựa thường có công danh chẳng lớn cũng nhỏ. Các cụ thường nói thế . Nghiệm lại không sai .