ĐẰNG SAU NHỮNG CUỘC CÔNG KÍCH MANG DANH “YÊU NƯỚC”
VÀO LỊCH SỬ, VĂN CHƯƠNG VÀ GIÁO DỤC
VÀO LỊCH SỬ, VĂN CHƯƠNG VÀ GIÁO DỤC
Bài: Nguyen Thanh Huy
Trong thời gian vừa qua, xã hội Việt Nam nổi lên hiện tượng công kích, chia rẽ trên không gian mạng hết sức nghiêm trọng. Mở đầu là cuộc công kích vào Vua Gia Long và Tả quân Lê Văn Duyệt. Những kẻ hậu nhân, học hành vừa phải, chuyên nghề câu view / like trên các nền tảng mạng xã hội, đã tỏ ra hung hăng, bất kính với các tiền nhân. Họ tự cho mình cái quyền xúc phạm bằng bất kể ngôn từ xấu xa nào. Họ không phải là những nhà nghiên cứu sử học hay văn hoá, nhưng lại phán xét lịch sử còn hơn cả chuyên gia. Chỉ được cái lợi dụng kênh đông và dạn mồm mà nói năng bất chấp.
Chưa cần bàn đến mục đích của họ là gì, nhưng chắc chắn rằng những điều họ nói chỉ là kết quả của một quá trình học lịch sử qua những trang sách cũ đầy định kiến, thiếu cái nhìn công tâm, khách quan.
Thế nhưng, họ biết tất, biết tuốt, và sẵn sàng thoá mạ bất cứ vị học giả hay bậc tri thức nào lên tiếng vì sự thật và đạo lý. Tồi tệ hơn, họ lợi dụng lực lượng fan cuồng – những người “cùng tần số” với họ – hùa nhau sỉ vả, văng tục, gào thét,… khiến cộng đồng trở nên ồn ào, điên đảo; làm cho bộ mặt giao tiếp, ứng xử của người Việt ngày càng xuống cấp trầm trọng. Nhìn chung, hết thảy những việc ấy gây nên một sự suy thoái, băng hoại các giá trị nền tảng của cộng đồng: đạo đức, văn hoá, giáo dục…
Về vua Gia Long, môn lịch sử trước kia có những đánh giá còn thiếu khách quan. Nhưng từ những năm 1990 trở lại đây, giới sử học đã có nhiều công trình nghiên cứu khách quan, tin cậy, cùng nhiều cuộc hội thảo uy tín được tổ chức, cho thấy quan điểm xã hội đã có nhiều cởi mở, tiến bộ; đồng thời giới nghiên cứu lịch sử cũng độc lập hơn, không còn viết theo những định hướng chỉ đạo cứng nhắc.
Dù đứng trên lập trường nào, thì không ai có thể bác bỏ vai trò thống nhất sơn hà của Vua Gia Long sau một thời gian dài đất nước bị chia cắt, phân tranh, loạn lạc (từ nửa sau thế kỷ XVI đến hết thế kỷ XVIII). Đó là một sự thật lịch sử, một thực tế khách quan đã diễn ra mà không ai có thể chối bỏ.
Về Tả quân Lê Văn Duyệt, ông là tướng tài, là bậc khai quốc công thần của triều Nguyễn. Đặc biệt, ông có công lớn với mảnh đất miền Nam: trấn giữ trị an, đắp đường, đào kênh, giúp dân sinh kế, lập nghiệp. Bởi thế, nhân dân biết ơn ông và thờ phụng ông. Có câu: “Nhân dân không thờ sai ai bao giờ.”
Nếu như hậu thế ngày nay luôn ngợi ca sự kiện thống nhất lịch sử năm 1975 – khi giang sơn thu về một mối, nhân dân được sống trong hoà bình – thì tại sao họ lại quên đi giá trị nhất thống của Gia Long trong buổi đương thời?
Như vậy, có phải là một sự bất công với tiền nhân và bất nhẫn với bách tính thuở ấy hay không?
Nếu vẫn cố chấp, không dám nhìn thẳng vào điều này, thì đó là một dạng tiêu chuẩn kép, hoặc chí ít cũng là sự mâu thuẫn trong nhận thức vấn đề.
Từ câu chuyện sử, tiếp tục lan sang câu chuyện văn, khi tác phẩm “Nỗi buồn chiến tranh” được vinh danh bởi Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, thì chính nhóm người ấy lại bắt đầu công kích. Lần này, họ tỏ ra hung hăng, bạo liệt và quá khích hơn. Họ công kích tất cả, không kiêng dè bất kì ai, bất kể vai vế ra sao, hễ ai đứng ra bảo vệ giá trị văn chương của tác phẩm này. Vốn sẵn bản tính lưu manh, côn đồ, nên khi công kích, chúng không chừa bất cứ ngôn ngữ, phương tiện nào.
Trong khi đó, sự vinh danh lần này có đích thân Phó Thủ tướng tham dự và trao tặng cho tác giả. Điều đó cho thấy sự ghi nhận giá trị tác phẩm hoàn toàn mang tính chính danh.
Thế mà những kẻ ấy vẫn công kích. Vậy họ đang làm việc cho ai? Và làm vì cái gì?
Hay, chẳng lẽ sự vinh danh ở cấp “nhà nước” lần này lại chưa có sự chỉ đạo nhất quán?
Một sự kiện vinh danh trang trọng, hoành tráng như vậy, chắc chắn phải được sự đồng ý của những cơ quan cấp cao. Do đó, càng phải đặt dấu hỏi lớn về lực lượng công kích này.
Từ chỗ tấn công tác phẩm, họ lại đánh phá sang những nhà văn, nhà thơ đang giữ các trọng trách quan trọng trong Hội Nhà văn. Rõ ràng, đây không thể là sự ngẫu nhiên, mà là một sự lựa chọn có chủ đích – một đường hướng công kích đã được vạch sẵn.
Chưa hết, họ mở rộng phạm vi, đánh phá vào Sách giáo khoa Ngữ văn, nơi có trích đoạn tác phẩm “Nỗi buồn chiến tranh”, trong khi những cuốn sách này được xây dựng theo Chương trình GDPT 2018.
Nghĩa là, tác phẩm đã được cho phép đưa vào giảng dạy cho học sinh từ mấy năm nay. Thế thì sao khi ấy họ không lên tiếng?
Từ sách giáo khoa, họ lại hung hăng hơn, ngáo quyền lực hơn, khi đánh thẳng vào ngành giáo dục; có kẻ còn yêu cầu Bộ trưởng phải giải trình hoặc từ chức.
Xâu chuỗi các sự kiện lại, tôi nhận thấy đặc điểm chung của nhóm người này là:
Họ gắn mác “yêu nước”, luôn mồm ra rả nói “yêu nước” để tấn công những quan điểm khách quan, tiến bộ. Thủ đoạn của chúng là lợi dụng sự khác biệt trong nhận thức và tri thức của cộng đồng, từ đó kích động “lòng yêu nước” của một bộ phận không nhỏ với cách nhìn ấu trĩ, định kiến về lịch sử, văn chương và giáo dục. Số đông này, thực chất là nạn nhân dưới âm mưu dẫn dắt của chúng: phần vì bị tuyên truyền, giáo dục quá lâu qua sách vở của những giai đoạn trước; phần vì bị truyền thông một chiều từ một số nền tảng ngày nay. Ở một nghĩa nào đó, họ đáng thương hơn đáng trách!
Trái lại, những người có tri thức đa chiều và nhận thức tiến bộ, chẳng ai nghe lọt tai bất cứ lời nào từ chúng. Hơn thế, chỉ cần nhìn hình hài, bộ dạng cũng đủ nhận ra. Có một kinh nghiệm rằng, những kẻ luôn mồm “yêu nước”, vỗ ngực “yêu nước”, thường là những tên bán nước cầu vinh, bỏ của chạy lấy người sớm nhất khi đất nước lâm nguy. Lòng yêu nước vốn thiêng liêng, cao quý, sâu kín, trầm lặng, nhưng cũng luôn sẵn sàng bùng cháy như một bản năng; chứ có đâu cái kiểu yêu nước bằng “lỗ mỗm” và phô trương như vậy.
Qua những sự việc này, tôi cố đi tìm câu trả lời cho các câu hỏi:
Vì sao họ ra sức bôi nhọ Vua Gia Long và Tả quân Lê Văn Duyệt, trong khi sử học mấy chục năm nay đã có những cách nhìn khác?
Phải chăng vì Vua Gia Long là người có công thống nhất sơn hà và đã khôi phục - xác lập lại chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa?
Và vì sao họ muốn công kích vào văn chương, Hội Nhà văn, Sách giáo khoa và ngành Giáo dục; mà rộng ra, đó chính là Văn hoá và Giáo dục - hai nền tảng tinh thần của một quốc gia?
Sau tất cả, dù họ là ai, phục vụ cho ai, thì mục tiêu tối hậu vẫn là gây mâu thuẫn, chia rẽ nhận thức cộng đồng; khoét sâu thêm thù hằn lịch sử, khác biệt văn hoá vùng miền…; từ đó làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc trước những nguy cơ và thách thức của thời đại.
⸻
Nha Trang, 18/12/2025
Nguyễn Thanh Huy

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét